Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó [Nội Dung + Nghệ Thuật + Phân Tích]

Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Giải Nghĩa Nhan Đề, Chia Sẻ Giá Trị Tác Phẩm, Bố Cục Bài Thơ.

Nội Dung Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó

Bài thơ Tức cảnh Pác Pó khắc họa lại cuộc sống sinh hoạt của Bác ở núi rừng Pác Pó và tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng.

Tức cảnh Pác Pó
Tác giả: Hồ Chí Minh

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang

Chia sẻ thêm tác phẩm ❤️️Lai Tân [Hồ Chí Minh] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ

Về Nhà Thơ Hồ Chí Minh

Tổng hợp một số thông tin quan trọng về nhà thơ Hồ Chí Minh:

  • Hồ Chí Minh (1890- 1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung
  • Quê quán: làng Kim Liên (làng Sen), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
  • Hồ Chí Minh là nhà chính trị, nhà cách mạng, nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới và cũng là vị lãnh tụ kính yêu của nước Việt Nam
  • Sau 30 năm bôn ba nước ngoài, Bác trở về trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước
  • Một số tác phẩm nổi bật: Tuyên ngôn độc lập (1945, văn chính luận); Đường Kách Mệnh (1927, tập hợp những bài giảng); Vi hành (truyện ngắn, 1923), Nhật kí trong tù (thơ, 1942 – 1943)…
  • Phong cách sáng tác: Thơ Bác hay viết về thiên nhiên đất nước với tình yêu tha thiết, niềm tự hào, lời thơ nhẹ nhàng, bay bổng lãng mạn.

Về Tác Phẩm Tức Cảnh Pác Bó

Về tác phẩm Tức Cảnh Pác Pó, bài thơ này thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nội dung chính của bài là thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó. Với Bác, làm cách mạng và sống hòa hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn.

Đừng nên bỏ lỡ phân tích tác phẩm 🌷Chiều Tối [Hồ Chí Minh] 🌷 đầy đủ nhất

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó

Bài thơ Tức cảnh Pác Pó được sáng tác trong hoàn cảnh nào? Cùng Thohay.vn tìm hiểu ngay sau đây.

Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2-1941 Bác Hồ trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở trong nước. Khi đó, Người sống và làm việc trong một điều kiện hết sức gian khổ nhưng Bác vẫn vui vẻ lạc quan. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này.

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó

Tìm hiểu ý nghĩa nhan đề bài thơ Tức cảnh Pác Pó ngay sau đây:

  • Tức cảnh: Từ một sự việc, một cảnh tượng cụ thể mà viết nên thơ
  • Pác Bó: Cốc Pó – nghĩa là đầu suối

=>Giải nghĩa nhan đề: Từ cảnh thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt nơi hang Pác Bó, Bác Hồ bày tỏ cảm nhận của mình về cuộc đời làm cách mạng.

Đón đọc thêm bài thơ 🌱 Từ Ấy [Tố Hữu]🌱Xem các mẫu phân tích

Bố Cục Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó

Bố cục bài thơ Tức cảnh Pác Pó được chia thành hai phần ngắn như sau:

  • Phần 1: 3 câu thơ đầu: Cảnh sinh hoạt và làm việc của Bác ở hang Pác Bó
  • Phần 2: câu thơ cuối: Cảm nhận của Bác về cuộc đời cách mạng

Giá Trị Tác Phẩm Tức Cảnh Pác Bó

Dưới đây là phần tổng kết giá trị tác phẩm Tức cảnh Pác Pó bạn cần lưu ý:

Giá trị nội dung

  • Hiện thực cảnh sinh hoạt bình dị, nề nếp, gian khổ, thiếu thốn nhưng hết sức lạc quan, tự tin, yêu đời, yêu thiên nhiên của người chiến sĩ cách mạng.
  • Vẻ đẹp tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của bác Hồ trong cuộc sống cách mạng gian lao ở Pác Bó.. Với người, làm cách mạng và sống hòa hợp với thiên niên là niềm vui lớn.

Giá trị nghệ thuật

  • Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
  • Giọng thơ trong sáng, sâu sắc, thể hiện sự lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn
  • Ngôn từ sử dụng giản dị, đời thường.

Chia sẻ cho bạn đọc 🌿Đây Thôn Vĩ Dạ🌿 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích

Dàn Ý Tức Cảnh Pác Bó

Gợi ý cách lập dàn ý phân tích tác phẩm Tức cảnh Pác Pó chi tiết:

I/ Mở bài

  • Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, chúng ta nhắc đến Người không phải chỉ với tư cách của một người đem đến ánh sáng độc lập, mà còn ngưỡng vọng Người trong vai trò là một nhà thơ, một người nghệ sĩ
  • Tức cảnh Pác Bó là bài thơ khắc họa bức chân dung lạc quan của người nghệ sĩ ấy

II/ Thân bài

1. Câu thơ đầu (câu khai)

– Câu thơ 7 chữ khắc họa rõ cuộc sống sinh hoạt thường nhật của vị lãnh tụ:

  • Nơi ở: trong hang
  • Nơi làm việc: suối
  • Thời gian: sáng- tối
  • Hoạt động: ra- vào

⇒ Sử dụng các cặp từ trái nghĩa, nhịp thơ linh hoạt, diễm tả lối sống đều đặn, quy củ của Bác, sự hòa hợp với thiên nhiên, với cuộc sống núi rừng

2. Câu tiếp (câu thừa)

– Câu thơ làm ta hiểu rõ hơn về cách ăn uống của Bác với những đồ ăn giản dị, đặc trưng của núi rừng: cháo bẹ, rau măng

  • Cháo nấu từ ngô, rau măng thì lấy từ cây măng rừng, của trúc tre trên rừng
  • Những thức ăn giản dị hằng ngày, mộc mạc, đơn sơ, dân dã ⇒ sự gian nan vất vả

⇒ Bác vẫn trong tư thế sẵn sàng, bất chấp khó khăn, gian khổ để đạt được mục đích là giải phóng dân tộc

3. Câu thứ ba (câu chuyển)

  • Điều kiện làm việc: bàn đá chông chênh ⇒ Khó khăn, thiếu thốn
  • Công việc Bác làm: dịch sử Đảng ⇒ Công việc vĩ đại, quan trọng

⇒ Phép đối làm nổi bật lên sự khó khăn, Bác yêu thiên nhiên, yêu công việc Cách mạng, luôn làm chủ được cuộc sống dù trong bất kì hoàn cảnh nào

4. Câu cuối (câu hợp)

– Cuộc đời cách mạng được nhấn mạnh, Bác hoạt động cách mạng, một công việc không hề dễ dàng và đơn giản, đặc biệt trong hoàn cảnh gian khổ như vậy, thế mà người nghệ sĩ, chiến sĩ vẫn cảm thấy “sang”:

  • “Sang”- sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng Bác luôn cảm thấy thoải mái, sang trong và vui thích
  • Chữ “sang” thể hiện niềm vui, niềm tự hào khi thực hiện được lí tưởng của Bác

⇒ Người có một phong thái ung dung, hiên ngang, chủ động, lạc quan và luôn yêu cuộc sống ⇒ đây chính là nhãn tự của bài thơ (từ quan trọng thể hiện, nổi bật chủ đề cả bài) và cũng chính là của cuộc đời Bác

III/ Kết bài

  • Khái quát những giá trị nội dung, nghệ thuật tiêu biểu của văn bản
  • Bài học về tinh thần lạc quan của Bác đối với mỗi người

Soạn Bài Tức Cảnh Pác Bó

Hướng dẫn cách soạn bài Tức cảnh Pác Pó theo các câu hỏi chi tiết trong sách giáo khoa:

👉Câu 1 (trang 29 sgk ngữ văn 8 tập 2) : Bài thơ thuộc thể thơ gì? Hãy kể tên một số bài thơ cùng thể thơ này mà em đã học.

Đáp án:

  • Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
  • Một số bài thơ cùng thể thơ mà em đã học: Nam quốc sơn hà, Cảnh khuya, Nguyên tiêu, Bánh trôi nước, Thiên trường vãn vọng, Tĩnh dạ tứ, Hồi hương ngẫu thư…

👉Câu 2 ( trang 29 sgk ngữ văn 8 tập 2): Nhận xét về giọng điệu chung của bài thơ. Tâm trạng của Bác Hồ ở Pác Bó được biểu hiện như thế nào qua bài thơ? Vì sao Bác lại cảm thấy cuộc sống gian khổ thật là sang?

Đáp án:

Giọng điệu chung của bài thơ: vui đùa, có chút hóm hỉnh.

  • Tâm trạng của Bác Hồ ở Pác Bó:Cuộc sống của Bác hòa hợp với tự nhiên: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”. Dù thiếu thốn, khó khăn nhưng vẫn lạc quan, sẵn sàng đối mặt: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng/Bàn đá chông chênh dịch sử đảng”. Không chỉ vậy, Bác còn cảm thấy cuộc sống gian khổ ấy thật là sang.
  • Bác cảm thấy cuộc sống gian khổ thật là sang vì: Bác luôn đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên đầu, được làm sự nghiệp cách mạng và sống hòa mình với thiên nhiên là một niềm vui lớn.

👉Câu 3 (trang 29 sgk Ngữ Văn 8 tập 2): Qua bài thơ, có thể thấy rõ Bác Hồ cảm thấy vui thích, thoải mái khi sống giữa thiên nhiên. Nguyễn Trãi cũng từng ca ngợi “thú lâm tuyền” (niềm vui thú được sống với rừng, suối) trong bài “ Côn Sơn ca” . Hãy cho biết “thú lâm tuyền” ở Nguyễn Trãi và ở Bác Hồ có gì giống và khác nhau.

Đáp án:

  • “Thú lâm tuyền” của Nguyễn Trãi ấy là cái thủ của bậc ẩn sĩ khi đang cảm thấy bất lực trước thực tại xã hội đương thời muốn “lánh đục về trong”, tự tìm đến cuộc sống “an bần lạc đạo”.
  • Còn với Hồ Chí Minh, cái “thú lâm tuyền” vẫn gắn với con người hành động, con người chiến sĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ tuy có dáng vẻ của một ẩn sĩ nhưng thực tế đó lại là một người chiến sĩ đang tận tâm, tận lực vì tự do độc lập của đất nước.

Sưu tầm văn mẫu phân tích 💌 Tràng Giang [Huy Cận] 💌 Hay, ý nghĩa

Giáo Án Tức Cảnh Pác Bó

Hy vọng mẫu giáo án Tức cảnh Pác Pó sau đây sẽ giúp các thầy cô giáo có được tiết dạy thành công.

I. Mục tiêu bài học

1. Kiến thức

  • HS hiểu được một đặc điểm của thơ Hồ Chí Minh: Sử dụng thể loại thơ tứ tuyệt để thể hiện tinh thần hiện đại của người chiến sĩ cách mạng.
  • Cuộc sống vật chất và tinh thần của Hồ Chí Minh trong những năm tháng hoạt động cách mạng đầy khó khăn gian khổ qua một bài thơ được sáng tác trong những ngày tháng cách mạng chưa thành công.

2. Kĩ năng

  • Đọc – hiểu thơ tứ tuyệt của Hồ Chí Minh.
  • Phân tích được những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu trong tác phẩm.

3. Thái độ: Giáo dục cho học sinh tình yêu vị lãnh tụ vĩ đại – người cha già của dân tộc hiẻu được tinh thần cách mạng cao cả của CT HCM.

II. Chuẩn bị tài liệu

1. Giáo viên: Soạn bài, nghiên cứu bài, nghiên cứu bài, đọc tài liệu tham khảo, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng.

2. Học sinh: Chuẩn bị bài, học bài cũ, sgk,nháp, vở ghi…

III. Tiến trình tổ chức dạy học

1. Ổn định tổ chức: Sĩ số

2. Kiểm tra: Đọc thuộc bài thơ Khi con tu hú nêu những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ?

3. Bài mới

GV: Ở lớp 7 các em đã học những bài thơ của Bác như :”Cảnh khuya”, “Nguyên tiêu”. Đó là những bài thơ nổi tiếng của Bác viết TKì đầu K/c ở Việt Bắc. Còn hôm nay các em lại găp lại Người ở Pác Bó (Cao bằng )vào mùa xuân 1941. để hiểu được tinh thần Cách Mạng của Người.

Hoạt động của GV và HSKiến thức cần đạt
HĐ1.HDHS đọc tìm hiểu luân chú thích:
– GV hướng dẫn đọc. HD học sinh đọc chính xác, ngắt nhịp đúng, giọng điệu thoải mái, thể hiện giọng điệu thoải mái.
– GV đọc mẫu:
H: Nêu những hiểu biết của em về tác giả HCM?
H: Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào?- Yêu cầu học sinh giải nghĩa các từ: sử Đảng, bẹ.
I. Đọc tìm hiểu luận chú thích:
1. Đọc:2.Chú thích:
a. Tác giả: HCM (1890-1969)
b. Tác phẩm:
– Bài thơ ra đời trong khi Bác sống và hoạt động cách mạng bí mật ở hang núi Pác Bó- Cao Bằng.
c. Từ khó:
HĐ2.HDHS đọc hiểu văn bản:
H: Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt của bài thơ?
II.Đọc- hiểu văn bản:
1.Thể thơ : Thất ngôn tứ tuyệt.
+ Phương thức :Tự sự
+ Biểu cảm (Chủ yếu biểu cảm)
H: Nêu bố cục của bài thơ tứ tuyệt?2. Bố cục:
– Bố cục: Bài thơ 4 câu(thất ngôn tứ tuyệt) hai câu đầu thường tả sự vật, sự việc.Câu thứ ba chuyển mạch, câu thứ 4 biểu thị tư tưởng.
H: Bài thơ có thể chia làm mấy ý lớn?– Bài thơ chia làm hai ý lớn:
+) Cảnh sinh hoạt & làm việc 1,2,3
+) Cảm nghĩ của Bác 4
H: Nhận xét về giọng điệu chung của bài thơ?– Giọng điệu : Tự nhiên bình dị, vui vẻ sảng khoái pha chút hóm hỉnh cho ta cảm giác vui thích→ ý tưởng bài thơ toát lên từ đó.
– Gọi hs đọc 3 câu thơ đầu:3. Phân tích
:a. Cảnh sinh hoạt và làm việc của Bác:
* Ba câu thơ đầu:
“ Sáng ra bờ suối… hang
Cháo bẹ…………….sẵn sàng
Bàn đá ……………….sử Đảng.
H: Câu thơ ngắt nhịp ntn? cách ngắt nhịp đó tạo nên hiệu quả nghệ thuật gì?Câu 1:“ Sáng ra bờ suối, tối vào hang “.
– Ngắt nhịp 4/3, đối: (thời gian: sáng tối, không gian:suối- hang, hoạt động : ra, vào)
H: Vậy cuộc sống sinh hoạt của Bác hiện lên ntn?⇒ Công việc và nếp sinh hoạt của Bác rất quy củ nề nếp.
H: Câu thơ cho em biết gì về bữa ăn thường nhật của Bác?
H: Em hiểu như thế nào về cấu tạo và nghĩa của từ “sẵn sàng”
Câu 2:“ Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”
– Bữa ăn đơn sơ, giản dị, lương thực thực phẩm đạm bạc sẵn có.
– Sẵn sàng: Từ láy mang giọng đùa vui thể hiện sự lạc quan, đồng thời thể hiện sự sẵn có, đầy đủ.
H: Em hiểu như thế nào là chông chênh? Câu thơ có mấy ?
H: Câu thơ cho em biết Bác làm việc trong điều kiện, hoàn cảnh như thế nào?
+ Câu 3:“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
– Chông chênh: Từ láy→không thăng bằng→ Hoàn cảnh làm việc khó khăn vất vả.
– Câu thơ tạo thành 2 vế đối. Dù khó khăn thiếu thốn nhưng Bác vẫn hăng say làm việc “dịch sử Đảng”
H: Nội dung ba câu thơ đầu cho em biết gì về công việc và sinh hoạt của Bác khi ở hang Pác Bó?
+ GV :Ba câu thơ giọng điệu đùa vui thoải mái, câu 1 nói về ở, câu 2 nói về ăn. Toát lên cảm giác thích thú, bằng lòng làm ta nhớ cảnh rừng VBắc 1947
– Cảnh rừng VBắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
⇒ Bác được sống giữa thiên nhiên, núi rừng. Gian khổ vẫn thư thái, vui tươi, lạc quan, yêu đời, hăng say làm cách mạng.
Đó là hình tượng người chiến sỹ được khắc hoạ chân thực vừa có tầm vóc lớn lao trong tư thế uy nghi giống như bức tượng đài vị lãnh tụ CM đang dịch lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô làm tài liệu đồng thời đang suy tư tìm cách xoay chuyển lịch sử Cách mạng Việt Nam chuẩn bị cao trào đấu tranh mới…
– Gọi HS đọc câu thơ 4
H: Mong ước lớn nhất của Bác là gì?
H: Bác làm cách mạng vì mục đích gì?
H: Bác nghĩ như thế nào về cuộc đời cách mạng ? Điều gì khiến Bác nghĩ như vậy?
H: Niềm vui trước cái “sang” của cuộc sống đầy gian khổ cho em hiểu thêm vẻ đẹp nào của Bác?
H: Hãy so sánh “thú lâm tuyền” ở bài “Côn sơn ca” và “thú lâm tuyền” của Bác Hồ ở bài thơ này có gì giống và khác nhau?
b. Tâm trạng của Bác:
“ Cuộc đời………..sang”
– Làm cách mạng vì nước vì dân, so với niềm vui ấy thì những gian khổ trong sinh hoạt kia không đáng gì với cái sang được làm cách mạng.
– Sự sang trọng giàu có về mặt tinh thần của cuộc đời làm CM, lấy lí tưởng cứu nước làm lẽ sống, không hề bị khó khăn, gian khổ thiếu thốn khuất phục. Lạc quan tin tưởng vào sự nghiệp CM.
* Tâm hồn hòa hợp với thiên nhiên, tinh thần CM kiên trì, lạc quan.
– Thú lâm tuyền của Nguyễn Trãi là niềm vui của người ẩn sĩ “ Lánh đục về trong”⇒ sự thanh cao nhưng lánh đời có phần tiêu cực.
– Thú lâm tuyền đối với Bác là sống hoà hợp với lâm tuyền nhưng vẫn nguyên vẹn cốt cách chiến sĩ ⇒ biểu hiện của cuộc đời cách mạng.
HĐ3.HDHS tổng kết:
H: Nêu ND và NT chính của bài thơ ?Tính chất cổ điển & hiện đại của bài thơ thể hiện như thế nào ?
+ Cổ điển :Thú lâm tuyền thơ thất ngôn, tứ tuyệt.
+ Hiện đại : Cuộc đời CM, lối sống Cm, lạc quan….
– GV gọi 1-2 hs đọc ghi nhớ sgk
– GV kết luận nội dung bài học, nhắc hs về học thuộc nd ghi nhớ
III. Tổng kết:
– Cổ điển: thú vui lâm tuyền, thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, hình ảnh, nhịp điệu, giọng điệu hóm hỉnh.
– Hiện đại: cuộc đời CM, lối sống CM, công việc CM, tinh thần lạc quan CM, ngôn từ giản dị, tự nhiên.
* Ghi nhớ: SGK – 30.
H: Qua phân tích bài thơ em có cảm nhận gì về lối sống , phong thái, bản lĩnh CM của Bác?IV. Luyện tập:
– Bác có lối sống giản dị , phong thái ung dung, có bản lĩnh CM kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh.

4. Củng cố, luyện tập

H: Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ?

5. Hướng dẫn học ở nhà: Học bài cũ ,chuẩn bị : “Câu cầu khiến”

Sơ Đồ Tư Duy Tức Cảnh Pác Bó

Các em học sinh nên tập làm quen với cách học bài qua sơ đồ tu duy. Dưới đây là các mẫu sơ đồ tư duy của bài thơ Tức cảnh Pác Pó.

Sơ Đồ Tư Duy Tức Cảnh Pác Bó Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Tức Cảnh Pác Bó Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Tức Cảnh Pác Bó Dễ Nhớ
Sơ Đồ Tư Duy Tức Cảnh Pác Bó Dễ Nhớ
Sơ Đồ Tư Duy Tức Cảnh Pác Bó Đơn Giản
Sơ Đồ Tư Duy Tức Cảnh Pác Bó Đơn Giản
Sơ Đồ Tư Duy Bài Tức Cảnh Pác Bó Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Bài Tức Cảnh Pác Bó Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Tức Cảnh Pác Bó
Sơ Đồ Tư Duy Tức Cảnh Pác Bó

Tuyển tập văn mẫu phân tích🌿Bài Thơ Nhớ Rừng [Thế Lữ] 🌿Hay nhất

5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Hay Nhất

Các em học sinh có thể tham khảo 5 mẫu phân tích bài thơ Tức Cảnh Pác Pó hay nhất sau đây.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Hay – Mẫu 1

Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ toàn tài của dân tộc Việt Nam. Suốt cả chặng đường dài ra đi tìm đường cứu nước, Người đã đi qua nhiều nơi, làm nhiều nghề khác nhau. Ba mươi năm sau, mùa xuân năm 1941, Người trở về quê hương và nơi đầu tiên Người đặt chân đến là Cao Bằng. Kể từ đấy, Người sống, làm việc tại hang Pác Bó (Cao Bằng), trực tiếp tham gia chỉ đạo kháng chiến. Cũng tại nơi đây, Người đã sáng tác ra nhiều tác phẩm đặc sắc và bài thơ “Tức cảnh Pác Pó” là một trong số những tác phẩm như thế.

Trước hết, ba câu thơ mở đầu bài thơ như đã vẽ lên trong lòng người đọc cuộc sống sinh hoạt và làm việc thường ngày của Bác nơi hang Pác Pó. Câu thơ đầu tiên đã khái quát một cách rõ nét về cuộc sống sinh hoạt thường nhật mỗi ngày của vị lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Với phép đối chuẩn chỉnh và độc đáo “sáng” – “tối”, “ra” – “vào” câu thơ đã cho thấy nhịp sống thường nhật, cứ thế đều đặn lặp đi lặp lại mỗi ngày của Bác trong những ngày sống ở hang Pác Pó. Cùng với đó, câu thơ cũng cho thấy nơi sống và làm việc chủ yếu của Bác mỗi ngày đó chính là “hang” và “bờ suối”. Mỗi ngày, cứ thế, Bác ra suối để làm việc và vào hang để nghỉ ngơi, sinh hoạt sau một ngày làm việc.

Như vậy, có thể thấy, câu thơ đầu tiên đã giúp chúng ta cảm nhận rõ cuộc sống hằng ngày của Bác, tuy có khó khăn, thiếu thốn song ở Bác, chúng ta vẫn thấy luôn hiện lên sự ung dung, quy củ và luôn hòa mình với thiên nhiên.

Không chỉ tái hiện lại cuộc sống thường nhật, câu thơ thứ hai còn thể hiện rõ nét chuyện ăn uống giản dị của Bác.

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

“Cháo bẹ”, “rau măng” là những món ăn chính trong bữa cơm hằng ngày của Bác. Dẫu bữa ăn chỉ có thế, đạm bạc và thiếu thốn nhưng tinh thần của Người thật khiến chúng ta ngưỡng mộ – “vẫn sẵn sàng”.

Dường như, với mình, Bác xem việc ăn những món ăn dân dã, đời thường ấy là một thú vui, là sự thích nghi và vượt lên trên sự khó khăn, thiếu thốn của hoàn cảnh. Nhưng có lẽ, hơn tất cả, ẩn sau đó chính là tư thế chủ động, tinh thần lạc quan, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ của Bác.

Và nếu như hai câu thơ mở đầu đã thể hiện rõ nét cuộc sống thường ngày của Bác thì câu thơ thứ ba cho người đọc thấy được những công việc hằng ngày Bác làm.

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Với từ láy “chông chênh” giàu sức gợi được đặt sau danh từ “bàn đá” đã cho thấy điều kiện làm việc tạm bợ, thiếu thốn của Bác. Không chỉ làm việc ở nơi bàn đá mà hơn thế còn là “bàn đá chông chênh” nó tạo cảm giác bấp bênh, không bằng phẳng, không vững vàng và vì vậy càng khắc sâu thêm sự khó khăn. Thế nhưng, dẫu khó khăn như thế nào đi nữa, Bác vẫn ngồi đấy, kiên trì với công việc “dịch sử Đảng” của mình – công việc với ý nghĩa to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Tất cả những điều đó đã cho thấy sự tập trung cao độ, sự kiên trì, nỗ lực không ngừng nghỉ của Bác vì sự nghiệp cách mạng, vì cuộc chiến vĩ đại của nhân dân ta.

Để rồi, sau tất cả, vị lãnh tụ toàn tài ấy có những cảm nhận thật sâu sắc về cuộc đời hoạt động cách mạng.

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác đã phải trải qua bao khó khăn, gian nan và vất vả nhưng có lẽ với Bác, được mang lại hạnh phúc, bình yên cho nhân dân, độc lập cho đất nước là niềm hạnh phúc lớn lao, thiêng liêng nhất. Phải chăng vì thế mà với Bác cuộc đời cách mạng ấy thật là “sang”, thật giàu có biết bao. Từ “sang” như nhãn tự của bài thơ, từ đó làm bật lên phong thái ung dung, tinh thần lạc quan và cả sự vững vàng, niềm tin vào cách mạng Việt Nam.

Tóm lại, bài thơ “Tức cảnh Pác Pó” với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cùng ngôn từ, hình ảnh thơ giản dị, tự nhiên và giọng thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh đã thể hiện một cách rõ nét phong thái ung dung, tinh thần lạc quan, tư thế của động của Bác trên con đường hoạt động cách mạng. Đối với Bác, được hoạt động cách mạng, được mang lại hạnh phúc, tự cho cho nhân dân, đất nước là niềm hạnh phúc lớn lao và là sự giàu có tuyệt vời nhất.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Ngắn Hay – Mẫu 2

Bác Hồ không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Bác còn là một đại thi gia của dân tộc. Những tác phẩm mà người để lại cho kho tàng văn học dân tộc tuy không cầu kì, chau chuốt nhưng đều là những viên dạ minh châu không thể thay thế, là niềm tự hào của nước nhà.

Một trong số những bài thơ như thế là “Tức cảnh Pác- bó” được viết vào tháng 2 năm 1941, tại hang Pác- bó(Cao Bằng), khi Người trở về Việt Nam hoạt động và làm việc sau hơn ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài.

Đến với bài thơ ta đã nhận thấy một sự vô tư từ ngay trong cách diễn đạt:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Nhịp thơ 3/3 với dấu phẩy ở giữa dòng chia câu thơ làm hai vế cân xứng như là một lời kể tự nhiên về nhịp sống thường ngày của Bác nơi núi rừng Pác- bó. Hoạt động và sinh sống ở nước ngoài nhiều năm, Bác vốn đã quen với một nếp sống có kỉ luật, ở tại hang Pác- bó cũng vậy, Bác sinh hoạt và làm việc điều độ theo thời gian phân bố. Sáng thì ra suối, để sinh hoạt, để làm việc rồi đến tối trở về hang để nghỉ ngơi. Bác sinh hoạt có nề nếp và đồng thời ăn uống cũng đạm bạc:

“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”

Hai từ “sẵn sàng” thốt lên nghe thì có vẻ như gợi ra một sự đủ đầy, muốn là có ngay mà không hề thiếu thốn một điều gì. Nhưng thực chất, bữa cơm hàng ngày của người chỉ có bẹ chuối và măng rừng, những thức rất đỗi là giản dị, nếu không muốn gọi là kham khổ.

Ở nơi núi rừng Pác- bó này không thể tìm đâu ra một thứ gì tốt hơn là cháo bẹ, là rau măng, điều này đã chứng tỏ Bác đang phải làm việc và sinh hoạt trong một hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, ăn uống chỉ có thể gọi là đủ no. Nhưng những khó khăn ấy lại được Hồ Chủ Tịch thốt lên bằng giọng nhẹ nhàng sảng khoái chứng tỏ, Bác đối với những khó khăn vật chất tầm thường đều không coi là quan trọng. Đối với Bác, việc quan trọng nhất lúc này là dân, là nước, là đánh đuổi quân xâm lược:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng quay về nước, Bác Hồ vẫn ngày ngày tiếp tục con đường tìm ánh sáng cho dân tộc. Trong cái lạnh của núi rừng, trong sự thiếu thốn của vật chất, trên một chiếc bàn đá không mấy chắc chắn, Người đang tỉ mẩn dịch lịch sử Đảng Cộng Sản Liên Xô làm tài liệu cho các chiến sĩ cách mạng học tập.

Hai hình ảnh đối lập, một bên là chiếc bàn đá “chông chênh” bấp bênh, không chắc chắn với một bên là công việc trọng đại mà Bác đang làm: mở đường cho tri thức cách mạng đến với những người chiến sĩ cách mạng. Điều này càng làm nổi bật lên sự thiếu thốn trong hoàn cảnh sống và làm việc của Bác đồng thời nổi bật được trọng trách to lớn mà Bác đang gồng gánh trên vai. Sau bao nhiêu những những khó khăn về vật chất, những điều quan trọng phải làm, Bác Hồ đã kết thúc bài thơ:

“Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Chỉ một từ “sang” làm cho tư tưởng bài thơ vụt sáng. Phải chăng người đọc thắc mắc vì sao Bác gọi cuộc đời cách mạng gian khổ là “sang”. Cái sang ở đây không phải là cái sang về vật chất mà mà giàu có về rất nhiều điều khác.

“Sang” là ở một cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, tuy không xa hoa nhưng giản dị, hòa hợp với thiên nhiên khiến cho tâm hồn tươi tắn thanh thản. “Sang” ở đây là một tấm lòng hạnh phúc khi được hoạt động và làm việc vì nhân dân, vì đất nước, làm công việc có ý nghĩa cho cuộc đời. “Sang” ở đây là tuy thiếu về vật chất nhưng tinh thần thì luôn tràn trề đủ đầy một niềm lạc quan vào ngày giải phóng dân tộc đang dần tới.

Với lời thơ giản dị, tự nhiên, giọng thơ sảng khoái mang đầy tinh thần lạc quan, Hồ Chủ Tịch đã cho ta thấy cái “thú lâm tuyền” của Người nhưng không phải là cái thú vui của Nguyễn Trãi, Nguyễn BỈnh Khiêm năm xưa “lánh đục về trong” mà là sự tạo nhã, hòa hợp với thiên nhiên ngay trong cuộc đời người lính. Ở Hồ Chí Minh, niềm vui hòa hợp với thiên nhiên vẫn gắn với cuộc đời cách mạng, cuộc đời hoạt động sôi nổi không ngừng nghỉ vì dân vì nước.

Bài thơ là sự diễn tả những hoạt động thường nhật của Bác Hồ trong những ngày hoạt động cách mạng ở hang Pác- bó, Cao Bằng. Qua bài thơ, hình ảnh Bác Hồ trong lòng người đọc càng thêm đẹp, thêm sáng lấp lánh trong sự giản dị, lạc quan, tình yêu thiên nhiên sâu sắc, tinh thần cách mạng và tài năng thơ ca tuyệt diệu. Nhân cách cao khiến của Người còn sáng mãi trong lòng mọi con dân nước Việt.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Hay Đặc Sắc – Mẫu 3

Tinh thần lạc quan, ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh sống là nét đặc điểm nổi bật trong tính cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần đó đã trở thành một vũ khí để chiến đấu và chiến thắng mọi gian khó và kẻ thù. Thơ tức là người, thơ Bác thể hiện rõ phẩm chất cách mạng cao quý của người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được sáng tác tháng 2 năm 1941 ở núi rừng Pác Bó là một trong rất nhiều bài thơ mang đậm phong cách ấy của Bác:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Thời gian này Bác về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện sống rất kham khổ: “Cháo bẹ rau măng”, làm việc thiếu thốn “bàn đá chông chênh”, bài thơ tràn ngập niềm vui và dí dỏm của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để hướng tới một mục tiêu cao cả, đó là sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Mở đầu bài thơ tứ tuyệt, Bác viết:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

Câu thơ gọn gàng, súc tích, chỉ có bảy chữ mà có cả thời gian, hành động. Thời gian là “sáng”, “tối”, không gian là “bờ suối”, “hang” và trên nền của thời gian, không gian ấy xuất hiện bóng dáng của một người đang miệt mài làm việc.

Cái từ ngữ chỉ hành động “sáng ra”, “tối vào” gợi cho ta sự liên tưởng ấy. Điểm sáng của câu thơ ở chỗ tác giả rất chú ý đến trật tự của hai vế câu. Nếu nói: “Tối vào hang, sáng ra bờ suối” thì trật tự này tạo nên giá trị biểu nghĩa khác. Chất lạc quan vốn là bản tính của con người gang thép ấy nên trật tự tất yếu của câu thơ phải là:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

Với trật tự này, cảnh như vận động, không đứng yên, theo quy luật tuần hoàn của thời gian. Vì vậy, ta không lấy làm lạ khi bắt gặp thái độ “vẫn sẵn sàng” của Bác ở câu thơ kế tiếp:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Thơ nói về một khí phách, một thái độ, một nhân sinh quan mà lời thơ vẫn dung dị như lời nói hàng ngày. Đặc điểm của thơ tứ tuyệt là câu, chữ hết sức tiết kiệm và một bài thơ hay đã bật lên được “chữ thần”. Cụm từ “vẫn sẵn sàng” là điểm sáng của bài thơ.

Câu thơ làm ta liên tưởng đến triết lí sống của người quân tử ngày xưa, “quân tử ăn chẳng cần no”. Bác sẵn sàng chấp nhận cuộc sống vật chất kham khổ với thái độ vui đùa, cười cợt. Bác coi thường cái gian khổ thậm chí cả những khi thân xác bị đọa đày đau xót, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn đùa cợt, dí dỏm. Những bài thơ “Pha trò”, “Ghẻ”, “Dây trói”… trong “Nhật kí trong tù” là thái độ ung dung tự tại trước những hoàn cảnh khắc nghiệt với lời thơ hóm hỉnh bất ngờ.

Khác với người xưa: “An bần lạc đạo”, Bác Hồ là con người lao động, luôn luôn hành động vì một lí tưởng cao cả:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn những tiện nghi cần thiết, mượn đá làm bàn, bàn đá lại “chông chênh”, chi tiết vui, ngộ và đó là một sự vật. Trong cách nhìn sự vật. Bác thường phát hiện những chi tiết ngộ nghĩnh, điều đó biểu hiện một tâm hồn lạc quan.

Bài thơ kết thúc:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Ngôn ngữ thơ bình dị mà ý thơ thì lớn lao. Nếu điểm sáng của hai câu thơ đầu là thái độ “vẫn sẵn sàng” thì sức nặng của bài thơ được dồn vào câu kết, đặc biệt với cụm từ “thật là sang!”. Đây cũng là một cách nói vui, nói quá lên, chất hài hước đó ta thường gặp trong thơ và trong cuộc sống đời thường của Bác. Chất hài hước này làm cho bài thơ gợi lên niềm lạc quan cách mạng sáng ngời.

Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” là một bài thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ thể hiện một đạo lí sống cao đẹp nhưng lời thơ tự nhiên, không một chút vẽ vời hoa mĩ. Giọng điệu thơ rất gần với cách nói hàng ngày, ta có cảm giác Bác không cố ý làm bài thơ nhưng nó cứ đọng lại mãi trong tâm trí ta, sức sống lâu bền của bài thơ chính là chỗ đó.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Chọn Lọc – Mẫu 4

Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, hàm súc nên muốn hiểu ý thơ, trước hết chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khỏe yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.

Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bác đặt tên là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.

Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi. Sự thật gần như chỉ có thế.

Thực ra chất thơ giấu trong âm điệu, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra… đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.

Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng… hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

hoặc:

Trúc biếc, nước trong ta sẵn đó
(Nguyễn Trãi)

Sự thiếu thốn đã được thi vị hóa thành phong lưu. Xưa là ước lệ, tượng trưng, nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị.

Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng cũng như Sáng ra, tối vào là nhịp điệu an nhiên, chan hòa bên trong. Ba chữ vẫn sẵn sàng nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào, nghĩa là an nhiên, tự tại ở mức cao hơn.

Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc đĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ.

Năm ấy, phe phát xít đang thắng ở khắp các mặt trận. Vậy mà trong cái thế chông chênh đó, Bác Hồ vẫn bình tĩnh dịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, viết bằng tiếng Nga) cho cán bộ ta nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm phong phú, quý báu để vận dụng vào thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc.

Việc làm này của Bác có tác dụng đặt nền móng về mặt lí luận cho cách mạng Việt Nam. Đấy là một điều hết sức cần thiết. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao.

Nhớ lại thời gian đó, cả thế giới đang đứng trước nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng ta lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) vẫn khẳng định rằng cách mạng trong nước sẽ thắng lợi. Đó chẳng phải là trong chông chênh tình thế mà Bác vẫn khẳng định thắng lợi chắc chắn của sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc hay sao? Đó là tầm nhìn chiến lược, tầm suy nghĩ sáng suốt của một lãnh tụ tài ba.

Lắng nghe giọng điệu câu thơ mới thấy thật rõ. Ở nhịp bốn (Bàn đá chông chênh) âm thanh tuy có phần trúc trắc (ba thanh bằng, một thanh trắc), gợi liên tưởng đến tình thế nguy hiểm; nhưng ở nhịp ba (dịch sử Đảng), trái lại, âm thanh rắn, khỏe, (ba thanh trắc) tỏ rõ ý chí kiên quyết chiến đấu và tin tưởng. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời.

Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Xưa, trong những ngày lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã thi vị hóa cuộc sống đạm bạc của mình:

Côn Sơn có suối nước trong,
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.
Côn Sơn có đá tần vần,
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi.
Nay, Bác Hồ làm việc trong cảnh:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Trong bóng dáng của vị tiên bên suối là cốt cách của một lãnh tụ cách mạng kiên cường.

Nếu ở ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ, tiết tấu và âm hưởng. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần. Bác đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn mở ra phía suối, tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hoà vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy.

Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang!Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.

Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.

Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Tiêu Biểu – Mẫu 5

Sau hơn 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường đi cho cách mạng nước nhà đến năm 1941 Bác Hồ trở về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Giữa lúc này tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển to lớn. Tại đây Người đã triệu tập cuộc họp bộ chính trị quan trọng để tính toán đường đi nước bước cho cách mạng. Nơi ở của Người là hang Pác Bó. Và bài thơ Tức cảnh Pác Bó cũng ra đời trong chính hoàn cảnh đó.

Hang Pác Bó hay còn có tên gọi khác là Cấn Bó nghĩa là đầu nguồn. Sau khi về nước Bác chủ yếu sinh sống và làm việc tại đây, nơi có điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn vất vả.

Kể lại những ngày tháng đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng có chia sẻ: “ Nơi ở đầu tiên của Người là hang Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng là nơi có địa thế tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và sâu trong rừng bên ngoài là những cành lau. Những khi trời mưa to rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng Người thức dậy thấy con rắn rất lớn nằm khoanh tròn cạnh người. Sức khỏe Người vì thế có phần giảm sút. Bệnh sốt rét diễn ra liên miên cũng không có thuốc trị chỉ có vài cành lá sắc theo mẹo của người dân địa phương.

Có thời gian chuyển sang vùng Mán Trắng gạo cũng chẳng có ăn Bác và các đồng chí phải ăn cháo bẹ cả tháng ròng rã. Thế nhưng dù ở bất cứ hoàn cảnh nào Bác cũng thích ứng rất nhanh chưa bao giờ kêu khó ngại khổ. Thậm chí còn thấy Bác vui hơn bao giờ hết vì cuối cùng sau bao nhiêu năm xa quê hưng Người đã được trở về sống với lí tưởng vĩ đại của dân tộc, với cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.

Chẳng vì thế mà bốn câu thơ trong bài Tức cảnh Pác Bó được viết với một tâm thế vui đùa hóm hỉnh, vui tươi. Ngoài việc nêu lên một hoàn cảnh sống vô cùng khó khăn khắc nghiệt đằng sau đó còn là cả một trạng hết sức thoải mái và lạc quan phơi phới.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa tạo thành hai vế sóng đôi toát lên sự nhịp nhàng nề nếp theo một quy luật nhất định. Sáng ra bờ suối tối lại vào. Thể hiện một giờ giấc sinh hoạt rất đều đặn của Người.

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Nếu câu thơ thứ nhất nói về quy luật sinh hoạt thì câu thơ thứ hai lại nói về bữa ăn của Bác. Chỉ có cháo bẹ và rau măng. Nếu hiểu theo nghĩa đơn giản thì thức ăn ở đây như cháo bẹ và rau măng lúc nào cũng sẵn sàng. Còn nếu muốn hiểu theo cách khác có thể hiểu là dù trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần cách mạng luôn luôn sẵn sàng. Tuy nhiên đối chiếu với nét vui đùa hóm hỉnh ở trên thì có lẽ cách hiểu thứ nhất có vẻ hợp lí hơn rất nhiều.

Câu thơ thứ nhất nói về sinh hoạt, thì câu thơ thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về công việc. Cả ba câu thơ đều là những câu thơ miêu tả cuộc sống chân thực tạo nên một sự hài hòa cho tứ thơ.

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

ở đây ta cần chú ý đến cách gieo vần độc đáo của Người. Gieo vần ang vừa khỏe khoắn lại vừa tạo được tiếng vang xa tạo nên một cảm giác vô cùng vững vàng và vững chắc. Từ láy chông chênh là từ láy duy nhất trong bài nhưng không hề tạo nên một thế khấp khểnh thiếu vững chắc mà ba chữ cuối “Dịch sử Đảng” với những âm chắc nịch khỏe khoắn và gân guốc như làm hài hòa cả ba câu thơ.

Đến câu thơ này ta cũng có thể đoán ra chủ thể của bài thơ là ai và làm công việc gì. Đó không phải là một vị khách lâm tuyền an nhàn mà là một chiến sĩ Cách mạng đang làm công việc trọng đại mang tính vận mệnh của quốc gia dân tộc. Chủ thể không hề bị chi phối bởi thiên nhiên mà thậm chí còn là trung tâm của tất cả. Hơn thế nữa nó còn tô đậm hình tượng người chiến sĩ Cách mạng giữa một khung cảnh đơn sơ giản dị cũng giống như sự nghiệp cách mạng vậy.

Bài thơ khép lại bằng hình ảnh:

“Cuộc đời Cách mạng thật là sang”

Chữ “sang” có thể coi là đắt giá nhất trong bài. Đó chính là cảm nhận xuất phát từ trái tim của người chiến sĩ cách mạng. Với Người dù bao khó khăn gian khổ cũng chẳng là gì bởi đã dấn thân vào con đường này thì không bao giờ biết sờn lòng nản chí. Cuộc sống của người chiến sĩ cách mạng nay đây mai đó nhưng vẫn luôn làm chủ hoàn cảnh và cuộc đời. Chữ sang cũng chính là chốt làm bừng sáng giá trị của toàn bài.

Có thể nói Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm vô cùng giản dị nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu ý nghĩa sâu sắc. Nó mang tính thời đại và vận mệnh lớn. Không hề xa hoa ở câu chữ nhưng lại mang đến cho người đọc một cảm nhận vô cùng độc đáo và thoải mái.

Đừng bỏ lỡ tác phẩm 🔰Muốn Làm Thằng Cuội 🔰Nội Dung, Nghệ Thuật

Viết một bình luận