Đây Thôn Vĩ Dạ: Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích

Đây Thôn Vĩ Dạ ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ ✅ Giới Thiệu Đến Bạn Đọc Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Ý Nghĩa Nhan Đề.

Nội Dung Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ

Nhắc tới nhà thơ Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. “Đậy thôn Vĩ Dạ” đã gắn chặt với thi sĩ họ Hàn như hình với bóng, vì đây là bài thơ vừa thể hiện cái tài, lại vừa thể hiện cái tình; cái tâm của Hàn Mạc Tử. Cùng đọc Nội Dung Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ đầy đủ bên dưới.

Đây thôn Vĩ Dạ
Tác giả: Hàn Mặc Tử

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?

Cập nhật thêm tác phẩm 💌 Tràng Giang [Huy Cận] 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ 

Về Nhà Thơ Hàn Mặc Tử

Sau đây là những thông tin chính Về Nhà Thơ Hàn Mặc Tử.

  • Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí.
  • Quê ở làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình) trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa.
  • Cha của ông mất sớm, Hàn Mặc Tử sống với mẹ ở Quy Nhơn và học trung học ở trường Pe-lơ-ranh ở Huế hai năm.
  • Sau đó ông về làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định, rồi vào Sài Gòn làm báo.
  • Năm 1936, Hàn Mặc Tử bị mắc bệnh phong, về ở tại Quy Nhơn chữa bệnh và mất tại trại phong Quy Hòa.
  • Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới.
  • Ông làm thơ từ năm 14, 15 tuổi với các bút danh như: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh… Ban đầu, ông sáng tác theo khuynh hướng thơ Đường cổ điển, sau đó thì chuyển hẳn sang khuynh hướng lãng mạn.
  • Hồn thơ Hàn Mặc Từ nổi bật với những tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế.
  • Các tác phẩm chính: Gái quê (1936, thơ), Thơ Điên (1938, sau đổi thành Đau thương), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ (kịch thơ, 1939)…

Tham khảo phân tích tác phẩm 🌸 Vội Vàng [Xuân Diệu] 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý

Về Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ

Về Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ, bài thơ lúc đầu có tên là Ở đây thôn Vĩ Dạ, sáng tác năm 1938 in trong tập Thơ Điên (về sau đổi thành Đau thương).

“Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ

Cùng tìm hiểu Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ sau đây.

Bài thơ lấy cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử dành cho người con gái xứ Huế: Trong thời gian làm việc tại sở Đạc Điền (tỉnh Quy Nhơn), ông đã đem lòng yêu cô con gái tên Hoàng Cúc, một thiếu nữ với vẻ đẹp kín đáo, chân quê.

Tuy nhiên, do bản tính nhút nhát, rụt rè mà Mặc Tử chỉ dám đứng từ xa nhìn cô gái và mối tình đơn phương đó đã dần phai nhạt khi Hoàng Cúc theo cha về thôn Vĩ Dạ (Huế). Khi biết được tình cảm của Mặc Tử dành cho nàng Cúc và biết được bệnh tình nghiêm trọng của Hàn Mặc Tử lúc đó, anh họ nàng đồng thời là bạn của thi sĩ họ Hàn – Hoàng Tùng Ngâm viết thư cho Hoàng Cúc để mong nàng viết thư động viên Hàn Mặc Tử.

Thay vì viết thư thăm hỏi đơn thuần, Hoàng Cúc đã gửi kèm một bức bưu ảnh có in hình phong cảnh thiên nhiên Vĩ Dạ. Chính từ bức ảnh và mối tình tha thiết với người con gái xứ Huế đã khơi gợi xúc cảm, trở thành nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử viết bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ này.

Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm🔻 Hầu Trời [Tản Đà] 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Hay 

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ

Chia sẻ cho các bạn Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ.

Đặt tên tác phẩm là Đây thôn Vĩ Dạ chứ không phải Thôn Vĩ Dạ vì Hàn Mặc Tử muốn người đọc tinh ý nhận ra dụng ý của từ đây. Nó như một lời giới thiệu đến người đọc về đất Vĩ Dạ đẹp nên thơ.

Từ “Đây” – nó mang ý nghĩa như một sự nhấn mạnh đối với một sự vật, sự việc nào đó. Đồng thời cũng cho thấy nhà thơ như đang đặt tay lên lồng ngực mình, gọi những tiếng thân thương: Vĩ Dạ, Vĩ Dạ ở Huế, Vĩ Dạ cũng ở “đây”, trong tim Hàn Mặc Tử.

Giá Trị Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ

Ngay sau đây là những Giá Trị Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ.

Giá trị nội dung

  • Cả bài thơ là một bức tranh thôn Vĩ vừa mang vẻ đẹp rất thực với tất cả nét trong sáng, tinh khôi, thơ mộng với những đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Nhưng dường như những hình ảnh ấy mơ hồ, mờ nhòe như thực, như ảo. Tất cả được tái hiện lại qua kí ức của người nghệ sĩ.
  • Ba khổ thơ với những hình ảnh dường như không liên quan nhưng sự thực chúng là những mảnh ghép kí ức của nhà thơ. Đồng thời cũng là nỗi đau đớn, quằn quại của Hàn Mặc Tử khi khao khát được sống, tha thiết với đời còn quá sâu nặng mà thời gian còn lại của đời người lại quá ngắn ngủi.

=> Bài thơ vừa là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước nhưng đồng thời cũng là khao khát sống đến cháy bỏng của nhà thơ.

Giá trị nghệ thuật

  • Mạch thơ đứt nối không theo tính liên tục của thời gian và duy nhất của không gian nhưng lại diễn tả mạch vận động nhất quán của dòng tâm tư
  • Hình ảnh độc đáo giàu sức gợi, ngôn ngữ cực tả trong sáng, súc tích khiến cho trường liên tưởng được mở rộng, khung cảnh thiên nhiên trở nên đẫy đà, giàu sức sống để nhấn mạnh hơn khao khát sống của người nghệ sĩ
  • Sử dụng hàng lọat câu hỏi tu từ, giọng điệu da diết khắc khoải khiến cho bài thơ đọng lại trong lòng người đọc là một nỗi băn khoăn, day dứt về cuộc đời.

Xem ngay về tác phẩm 🌻Lưu Biệt Khi Xuất Dương🌻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay

Bố Cục Đây Thôn Vĩ Dạ

Bố Cục Đây Thôn Vĩ Dạ gồm 3 phần chính như sau:

  • Phần 1. Khổ thơ thứ nhất: Khung cảnh thiên nhiên nơi thôn Vĩ.
  • Phần 2. Khổ thơ thứ hai: Khung cảnh sông nước đêm trăng, tâm trạng của nhà thơ.
  • Phần 3. Khổ thơ cuối cùng: Khát vọng tình yêu, cuộc sống của nhà thơ.

Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ

Cùng tham khảo thêm Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ nhé.

I. Mở bài:

– Hàn Mặc Tử là nhà thơ có dấu ấn cái tôi khác biệt trong phong trào Thơ mới. Điển hình là trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, con người ông được bộc lộ một cách rõ nét nhất.

II. Thân bài:

– Hàn Mặc Tử là con người yêu thiên nhiên, cuộc sống

  • “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa là câu hỏi, vừa là lời chào mời. Lời thơ nhẹ nhàng gợi nhắc đến bóng dáng xưa cũ, ở đó có người con gái Huế ông thương.
  • Bao nhiêu kỉ niệm ùa về với cảnh sắc thiên nhiên trữ tình.
  • “Nắng mới lên” là nắng mới, không quá gay gắt, ánh nắng nhẹ nhàng khiến mọi người đều cảm thấy dễ chịu.
  • Ấn tượng nhất là hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chữ “điền” ở đây có thể chỉ hình ảnh cánh cửa sổ ngôi nhà hay cũng chính là hình ảnh thấp thoáng của người con gái có gương mặt phúc hậu xứ Huế.

→ Dù không được trở lại thăm thôn Vĩ Dạ nhưng mọi hình ảnh nơi đây vẫn được nhà thơ Hàn Mặc Tử lưu giữ với niềm mến thương khôn xiết. Thôn Vĩ với ông là một niềm ước vọng lớn nhưng cũng đầy nên thơ và trữ tình.

– Hàn Mặc Tử là con người cô đơn

  • Khổ 2 của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tâm trạng đầy đau buồn, nhớ nhung của nhà thơ Hàn Mặc Tử: “Gió theo lối gió, mây đường mây … Có chở trăng về kịp tối nay”
  • Sử dụng biện pháp nhân hóa, dòng nước dường như cũng buồn thay cho tâm trạng của tác giả. Nhịp thơ 4/3 ngăn cách; không gian trong bài thơ cũng trở nên sâu lắng hơn.
  • “Gió theo lối gió, mây đường mây”, mọi thứ chia đôi ngả, gần mà xa xôi cách trở như chính câu chuyện của tác giả vậy.
  • “Thuyền ai” gợi cảm giác vừa quen, vừa lạ.

→ Hàn Mặc Tử như đã nhuộm màu tâm trạng cho khổ thơ, ở đó ông cũng khát khao được yêu, được chiếm lấy tình yêu nhưng không còn đủ thời gian nữa.

– Hàn Mặc Tử – con người đầy trăn trở, day dứt

  • Khổ 3 cũng là khổ cuối của bài thơ là tâm tình của tác giả với người con gái Huế: “Mơ khách đường xa, khách đường xa … Ai biết tình ai có đậm đà”.
  • Con người, cảnh vật giờ đây đang dần mờ nhạt và biến mất. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, mọi vật như đang được đan xen vào nhau, thật khó để phân biệt rạch ròi.
  • “Ai biết tình ai có đậm đà”, tác giả hoài niệm rồi lại bâng khuâng, hụt hẫng.

→ Hàn Mặc Tử trở về hiện tại, ông cảm nhận rõ hơn về sự xa xôi, hư ảo của hạnh phúc rồi lại tự mình thở dài, nhớ mong.

III. Kết bài:

– Hàn Mặc Tử là con người đầy ước vọng và đau buồn. Thơ ông khiến người đọc cảm thấy day dứt, ám ảnh một nỗi buồn không thể viết thành tên.

Giới thiệu đến bạn đọc 💚 Chí Phèo [Nam Cao] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất

Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ

Chia sẻ bạn đọc các Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ.

Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Đây Thôn Vĩ Dạ
Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Đây Thôn Vĩ Dạ
Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Bức Tranh Thiên Nhiên Đây Thôn Vĩ Dạ
Sơ Đồ Tư Duy Bức Tranh Thiên Nhiên Đây Thôn Vĩ Dạ
Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chọn Lọc
Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chọn Lọc

Có thể bạn quan tâm 🌿 Hạnh Phúc Của Một Tang Gia 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật 

5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất 

Tham khảo ngay 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất bên dưới.

Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Ấn Tượng – Mẫu 1

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ.

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu. Vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thẫn thờ. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây.

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực. Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu.

Gió theo lối gió mây đường mây
….
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang. Thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau. Không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Cỏ chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng chiếu xuống dòng sông. Làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh. Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh. Trăng biến thành vô lường, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu đên sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tôi nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình. Nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi. Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng. Đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn.

Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Chọn Lọc – Mẫu 2

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thì táo bạo ấn tượng, khi thì thanh trong thoát tục. Đặc biệt là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại nhiều tình cảm trong trẻo trong lòng người đọc.

Bài thơ bắt đầu với câu hỏi tu từ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Khi làm bài thơ này, Hàn Mạc Tử đang ở trại phong Tuy Hòa và nhận được bức ảnh của Hoàng Cúc về miền quê xứ Huế. Ông theo đó mà miêu tả những đường nét của xứ Huế qua trí nhớ mà bức ảnh gợi lại. Câu hỏi tu từ đã bộc lộ khao khát của nhà thơ mong muốn được trở về thôn Vĩ. Từ đó, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Trong tưởng tượng của người đọc, bức tranh tươi đẹp về thiên nhiên, con người xứ Huế được hiện lên nên thơ, yên bình. Màu sắc nổi bật là màu nắng tươi mới trên bầu trời cao xanh. Cùng với đó là từ “mướt” trong câu thơ gợi cho người đọc cảm giác xanh tươi lạ thường, có liên tưởng mảnh vườn nhỏ y như một viên ngọc thanh thoát mà đồng nội giữa cảnh sắc xứ Huế.

Đặc biệt, hình ảnh con người xứ Huế hiện lên hiền lành, đôn hậu với “khuôn mặt chữ điền” ấn lấp sau lá trúc, một biểu tượng cho sự thanh tao của người quân tử. Có thể đó là khuôn mặt dễ mến, đôn hậu của con người xứ Huế trong tâm thức nhà thơ cũng có thể là hình ảnh người con gái Huế thân thương dịu dàng.

Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ lại khắc họa bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…”

“Gió” và “mây” vốn là hai hiện tượng thân thiết nhưng ở câu thơ của Hàn Mạc Tử thì lại mỗi thứ một đường, tạo một sự chia xa khó tả. Không chỉ có vậy, sự êm đềm của dòng sông xứ Huế lại tạt vào lòng người cảm giác “buồn thiu”, những cánh hoa bắp “lay” cũng gợi sự mỏng manh yếu ớt khiến cho cả không gian nhuốm màu thê lương, buồn bã. Trong khung cảnh thiên nhiên đó, câu hỏi cất lên:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Câu hỏi nhẹ nhàng nhưng nặng trĩu sự lo lắng, sự thấp thỏm, không biết liệu rằng có còn kịp hay không? Kịp để nhìn thấy sự tươi đẹp của cuộc đời, của con người, có kịp làm điều mong ước, tất cả đều là sự khát khao giao cảm đến tột cùng khi con người ta phải xa với đời trong chốn cô đơn và ngày ngày chờ đến lời phán quyết cuối cùng của cuộc đời mình.

Ở đoạn thơ thứ ba, khát khoa này càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Điệp từ “khách đường xa” được lập lại như thể nhấn mạnh sự ước ao, sự lưu ý bao nhiêu ngày tháng. Màu trắng là màu sắc rất hay xuất hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử, luôn là biểu hiện của sự tinh khôi thanh khiết, giống y như nàng trinh nữ, lúc nào cũng trắng trong tuyệt vời.

Nhưng có lẽ do màu trắng tinh khôi của áo mà trong giấc mơ của mình, Hàn Mạc Tử đã không thể nhìn rõ cô gái, bởi sương khói mông lung đã làm mờ nhạt cả trí nhớ, chỉ còn lại sự thanh khiết không gì nhạt phai. Kết thúc bài thơ, một câu hỏi tu từ lại được thốt lên hết sức thiết tha: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Câu hỏi tu từ với đại từ phiếm chỉ “ai” như bộc lộ một niềm khao khát được sống, được yêu thương.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong số ít những bài thơ không mang những nét u buồn thất vọng về cuộc đời nhưng cũng không hẳn là mang âm hưởng vui tươi. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra những tình cảm hết sức sâu sắc, yêu đời, yêu đời và khát khao giao cảm.

Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Đặc Sắc – Mẫu 3

Nhà thơ Hàn Mặc Tử, một trong những thi sĩ nổi danh với trường thơ “điên” cùng những hồn thơ tha thiết, trong trẻo lại vừa quằn quại, đau đớn đến tột cùng. Mỗi tác phẩm của Hàn Mặc Tử đều để lại những dấu ấn khó quên trong lòng người đọc, tiêu biểu trong số đó là tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên xứ Huế trong trẻo, căng tràn nhựa sống mà qua đó còn thể hiện nỗi khao khát về tình đời, tình người trong tâm hồn thi sĩ.

Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với ngôn ngữ giản dị mà giàu giá trị biểu đạt, Hàn Mặc Tử đã cất tiếng nói của trái tim mình một cách đầy chân thành và tha thiết.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”

Câu hỏi tu từ vừa như trách móc lại vừa như mời gọi ấy khiến người đọc nhớ đến mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc – người con gái xứ Huế.

Phải chăng vì nuối tiếc những điều xưa cũ, những lời chưa kịp tỏ bày mà tác giả đang tự vấn chính mình trong nỗi khắc khoải khôn nguôi rằng sao không trở về thăm lại thôn Huế, vùng quê thanh bình mà yên ả mà mình từng gắn bó. Lời giục giã ẩn sau câu thơ bảy chữ cũng là tiếng lòng trách móc bản thân của nhân vật trữ tình.

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chọn “thôn Vĩ’ làm hình ảnh trung tâm, gợi thương gợi nhớ. Bởi nơi đây chứa chan những cảnh sắc thi vị, hài hòa, nơi mà thi nhân từng gắn bó, yêu thương. Một mảnh vườn thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt sau mớ ngôn từ được sắp đặt đầy chủ ý:

“Nhìn nắng hàng cau , nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Trong tâm hồn ấy, hẳn thôn Vĩ phải giữ một vị trí vô cùng đặc biệt, tác giả mới viết nên những vần thơ đẹp đến xao lòng như thế. Khu vườn thôn Vĩ xanh non, biếc rờn mơn mởn sự sống được gợi mở ra trước mắt người đọc. Đó là “nắng hàng cau” ánh nắng thanh khiết, ấm áp chứa hình ảnh quê nhà “hàng cau” đang “tắm” mình dưới ánh nắng ban mai.

“Xanh như ngọc” là cách so sánh độc đáo gợi tả vẻ đẹp xanh non, tươi tắn của cây lá trong khu vườn. Trong khung cảnh tươi đẹp, căng tràn sức sống của thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh người con xứ Huế xuất hiện sau hàng trúc. “Lá trúc chen ngang mặt chữ điền” gợi ra vẻ đẹp dịu dàng, phúc hậu của người con gái Huế.

Sự hài hòa giữa cảnh và người nơi thôn Vĩ làm cho bức tranh thơ trở nên bình yên và ngọt ngào quá đỗi. Thiên nhiên đẹp quá khiến lòng người thổn thức, thi nhân đang ở một nơi xa xôi mà nhớ về chốn cũ bằng cả lý trí, tâm hồn và trái tim mình. Đằng sau bức tranh cảnh thiên nhiên đẹp ấy phải chẳng là những vệt màu tâm trạng chôn giấu bấy lâu trong lòng người.

Đó là nỗi nhớ thương, là khát khao được trở về, là mong ngóng được gặp người, gặp cảnh, là thiết tha được tâm giao với người mình thương sau những tháng năm mòn mỏi đợi chờ. Nỗi nhớ hòa trong tình yêu, nỗi nhờ hòa trong hoài niệm, nỗi nhớ hòa trong tưởng tượng, tất cả đã vẽ nên một bức tranh thật buồn, thât đẹp và cũng thật nên thơ.

Bước sang khổ thơ thứ hai, nỗi khát khao tình người, tình đời của thi nhân càng rõ rệt, thấm trong từng hơi thở của ngôn từ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”

Cảnh vật chìa lìa đôi ngả, không gian nhuốm màu chia ly. Nhịp thơ 4/3 kết hợp cùng các hình ảnh tương phản, đối lập: “gió theo lối gió, mây đường mây” gợi lên nỗi buồn của sự chia xa. Mây gió vốn đi cùng nhau “gió thổi, mây bay” giờ đây lại như hai kẻ ngược dòng, ngược lối.

Còn gì đau đớn hơn khi một kẻ khát khao gặp gỡ, khát khao được giao cảm với con người, cuộc đời nhưng chỉ thấy sự đơn độc, chia li. Sự chia xa ấy, phải chăng còn là dự cảm về một sự chẳng lành trong tương lại khi tác giả phải chia lìa cõi trần gian trong cảnh bạo bệnh?

Không còn là những vần thơ mang màu sự sống như khổ thơ thứ nhất nữa, sang đến những dòng thơ hiện tại, Hàn Mặc Tử nhìn đâu cũng thấy nỗi buồn:

“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được tác giả tiếp tục sử dụng như một phương tiện bộc bạch tâm trạng, bởi vốn:

”Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Dòng sông buồn với những cánh hoa bắp lay nhẹ trong gió, hờ hững và tẹ nhạt. Phép nhân hóa “dòng nước buồn thiu”càng làm cho dòng sông thêm tâm trạng. “Dòng nước buồn thiu” là vì đâu? Vì gió, mây đôi ngả hay vì lòng ta đa mang?

Giữa dòng nước buồn thiu, giữa dòng đời buồn tênh ấy, nhân vật trữ tình mong mỏi được ai đó đến để kịp sẻ chia, kịp dốc bầu tâm sự:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?“

Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, không gian đêm tối tràn ngập ánh trăng. Kẻ cô đơn thường tìm đến trăng bầu bạn, xem trăng là tri kỉ, là bạn tâm giao. Hàn Mặc Tử cũng không nằm ngoài nỗi niềm ấy. Thi nhân đang khát trăng, mong cho thuyền chở trăng về “kịp”, bởi với một người cái chết đang cận kề trong gang tấc, thời gian nào có thể chờ đợi.

Ngày tháng còn lại quá ít ỏi, đếm vị thời gian mà lòng đau đớn khôn nguôi, chữ “kịp” cất lên nghe sao thật xót xa, đau đáu. Sự khắc khoải, chờ đợi, mong mỏi, hy vọng, khát khao mãnh liệt được giao cảm như dồn hết vào dòng thơ ấy.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?”

Nỗi khát khao càng lớn, tác giả càng muốn tìm về mộng tưởng để thỏa nỗi niềm nhung nhớ. Một giấc mơ có bóng hình người con gái xuất hiện. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với điệp ngữ “khách đường xa” cùng động từ “mơ” càng tô đậm nỗi ngóng trông da diết của nhân vật trữ tình.

Hình ảnh “đường xa” gợi khung cảnh về không gian, hình ảnh giấc mơ gợi khoảng cách về thời gian, tứ thơ gợi khoảng cách về lòng người. Liệu rằng tâm hồn này thương say đắm, yêu say đắm, chờ đợi da diết mà lòng ai có thấu, tình ai có tỏ hay không?

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hình ảnh “nhân ảnh” mờ trong “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” càng gợi nỗi bâng khuâng, hoài vọng của thi nhân. Nhưng sau tất cả, dường như chỉ nhận lại toàn những thất vọng, hụt hẫng, nuối tiếc mà thôi:

“Ai biết tình ai có đậm đà ?”

m hưởng bài thơ có nhớ thương, có buồn đau, có hy vọng cũng không ít hụt hẫng và đau đớn, nhưng sau những điều ấy là một trái tim tha thiết với cuộc đời, khát khao sống và được sống để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, được giao cảm với tình người, tình đời.

Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm xuất sắc trong làng thơ Mới với sự kết hợp hài hòa giữa cảnh và tình cùng những biện pháp nghệ thuật độc đáo. Hàn Mặc Tử không chỉ dùng ngôn ngữ nghệ thuật để bộc bạch tâm trạng mà còn dùng cả tiếng nói của con tim để giãi bày cùng nhân thế. Tác phẩm như một bông hoa dại trong vườn thơ của văn học nước nhà, không sắc thơm mà vẫn tỏa hương ngào ngạt.

Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Nổi Bật – Mẫu 4

Hàn Mặc Tử đã mang cả tiếng lòng quằn quại, đớn đau của mình vào trong thơ, để kiếm tìm sự đồng điệu của những điệu hồn. Đây Thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác của Hàn Mặc Tử mà ở đó người đọc dường như thấy một cái tôi đang đau đớn trong mặc cảm về sự chia lìa, đồng thời thấy được một hồn thơ với tình yêu đời, lòng khát sống mãnh liệt mà cũng đầy uẩn khúc, bế tắc của Hàn Mặc Tử.

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi, mà cũng như đã là một câu trả lời, hay một lời trách móc ý nhị, mà có chăng cũng là một lời mời đầy bất lực để tiếp đó dẫn người đọc vào bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi đẹp, giàu sức sống:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu hỏi mở đầu như đã phân tích ở trên, thực chất không phải là câu hỏi đề trả lời, nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc lộ tâm tình của một cái tôi cô độc, cô đơn đang khao khát được đồng cảm, gắn kết. Ba câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ tươi đẹp biết bao. Nắng hàng cau mới lên, gợi lên vẻ đẹp thanh khiết, tươi mới, trong trẻo.

Câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi, chỉ với vài từ ngữ giản dị, nhưng lại mở ra cho ta hiểu hơn rất nhiều về hồn thơ này, rằng Hàn Mặc Tử luôn khát vọng về một vẻ đẹp tinh khiết, trong ngần, tươi mới, đó không chỉ là ngưỡng vọng của một hồn thơ, mà còn là khát khao của một tín đồ.

Tiếp cái nắng trong trẻo, tươi xanh là hình ảnh “Xanh như ngọc”, vừa gợi sự sang trọng, quý giá, vừa gợi sức sống, nhựa sống căng tràn trên từng dòng thơ. Mướt gợi lên vẻ đẹp óng ả mà đầy xuân sắc, mảnh vườn bình dị bỗng chốc hiện lên đầy vẻ thanh tú cao sang mà cũng kiều diễm biết chừng nào.

Câu thơ cuối hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền, gợi sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, đồng thời cũng gợi nên vẻ đẹp cân đối hài hòa đầy hoàn hảo.

Nhưng cái dị, cái bất thường cái lạ để làm nên một hồn thơ điên chính là trong khổ thơ thứ hai này đây, khi đang trong khổ trên hình ảnh tươi mới, tràn đầy sự gắn kết, sự sống thì khổ thơ thứ hai lại mang màu sắc ảm đạm ngược lại:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình ảnh gió mây trong cuộc sống vốn là hai thứ không thể tách rời, mà luôn song hành với nhau, sự chia cắt trong thơ Hàn Mặc Tử của hai hình ảnh này vì thế gợi lên nhiều niềm ám ảnh cũng như đầy sức gợi. Đúng vậy, đây không còn là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm.

Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng như không thể chia lìa, không gian không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã bỏ buồn vào dòng sông “dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.

Dòng nước lững lờ, ngưng đọng, hay chính dòng đời mệt mỏi, cay đắng chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi buồn xa xăm.

Tất cả cảnh vật, sự vật trong hai câu thơ đầu đều nhuốm mình trong mặc cảm chia lìa đau thương của Hàn Mặc Tử, đến hai câu thơ cuối, phải chăng là sự níu giữ trong tuyệt vọng của hồn thơ đầy đau thương. Từ kịp gợi sự chấp chới, chơi vơi, vô định đồng thời cũng như khắc khoải đâu đây nỗi bất lực vô định.

“Có chở trăng về kịp tối nay?” Trăng dường như đã là một nơi nương tựa duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc. Chỉ trong hai câu thơ thôi mà dường như ta thấy được bao nhiêu dồn nén chất chứa của một hồn thơ điên, nhà thơ khát khao được sống dẫu biết lưỡi hái của thần chết đang đến gần, nên vội vàng chới với trong từng phút giây để được sống, và khao khát kiếm tìm sự đồng điệu để sẻ chia. Nhưng tiếc thay:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Cả “em”, cả thôn Vĩ tươi đẹp ấy đều đã vượt xa khỏi tầm với, đều là thế giới “ngoài kia” trong trẻo, tươi đẹp, tinh khôi. Đối lập hoàn toàn với thế giới tối tăm, đơn độc, lạnh lẽo trong này.

Tất cả chỉ còn là mờ nhân ảnh, tiếng lòng của hồn đau không ngừng hướng ra ngoại giới để kiếm tìm sự đồng vọng, nhưng càng khao khát thì hiện thực phũ phàng lại càng đánh bật lại những đòn giáng trớ trêu. Câu hỏi cuối vang lên đầy khắc khoải, bởi đó vừa như tiếng thở dài, hay cũng là lời cầu mong của một kẻ tha thiết gắn bó đến cháy lòng.

Thơ là sự lên tiếng của thân phận, trớ trêu thay định nghĩa ấy lại thật đúng với Hàn Mặc Tử, thơ ông là tiếng kêu xé lòng của một niềm đau, một hồn đau đầy cô độc, cất tiếng vọng hướng đến tìm kiếm sự đồng điệu, nhưng đáp trả mãi chỉ là những ảo ảnh thực tại đầy phũ phàng, nghiệt ngã. Đây thôn Vĩ Dạ vừa đẹp mà cũng vừa thật ám ảnh, chở đi biết bao nỗi niềm của Tử gửi vào hậu thế sau này.

Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Tiêu Biểu – Mẫu 5

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã để lại cho người đọc sâu sắc về một hồn thơ thật độc đáo.

Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên nơi thôn Vĩ tuyệt đẹp:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Bài thơ được bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi gợi cho người đọc hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo.

Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Đó cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này tuy khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.

Những câu thơ tiếp theo đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh đầu tiên hiện ra: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ánh nắng của buổi bình minh đã bao trùm khắp làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống.

Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Tiếp đến câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi tu từ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Cách so sánh “xanh như ngọc” khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”

(Thơ duyên)

Cuối cùng, nhà thơ khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong không gian thiên nhiên đó, con người chỉ thoáng xuất hiện. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc.

Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Dù là cách hiểu nào thì Hàn Mặc Tử cũng đều muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.

Đối lập với bức tranh thiên nhiên đầy tươi sáng nơi thôn Vĩ, là bức tranh sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Hai câu thơ mở đầu của khổ thơ thứ hai, tuy là tả cảnh nhưng khi đọc lên lại thấy nhuốm màu tâm trạng. Hình ảnh thiên nhiên gợi ra sự chia ly “gió theo lối gió, mây đường mây”. Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn là những sự vật luôn quấn quýt, gắn bó với nhau thì ở đây Hàn Mặc Tử lại để “mây và gió” chia cách đôi ngả. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người?

Và đến cả dòng nước – một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” – biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” – bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

Và bức tranh sông nước trong đêm trăng thì sao có thể thiếu mất đi ánh trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

“Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử thì ánh trăng xuất hiện rất nhiều. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như:

“Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”

(Bẽn lẽn)

Hay ánh trăng có lúc trở nên thật điên cuồng:

“Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra”

(Say trăng)

Còn ở “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” – gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”.

Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.

Khổ thơ cuối là dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách.

Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.

Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

Qua phân tích trên, người đọc có thể cảm nhận được một hồn thơ mãnh liệt, luôn khát khao giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khơi gợi được những cảm xúc trong sáng mà đầy sâu sắc.

Viết một bình luận