Hầu Trời của Tản Đà: Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ 

Hầu Trời [Tản Đà] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ ✅ Chia Sẻ Ý Nghĩa Nhan Đề, Hoàn Cảnh Sáng Tác, Sơ Đồ Tư Duy.

Nội Dung Bài Thơ Hầu Trời

Thơ của Tản Đà luôn tràn đầy cảm xúc lãng mạn lại rất đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều sáng tạo mới mẻ. Và bài thơ Hầu trời là một trong số đó. Bài thơ thể hiện cái tôi ngông của Tản Đà cũng như nỗi ngậm ngùi cho cảnh ngộ bản thân nói riêng và văn nghệ sĩ đương thời nói chung. Sau đây là Nội Dung Bài Thơ Hầu Trời.

Hầu Trời
Tác giả: Tản Đà

Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thế!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.

Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười tủm tỉm cùng nói rằng:

-“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”

Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Trời đã sai gọi thời phải lên.

Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!

Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dâ.y.
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.

Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc
Trời sai pha nước để nhấp giọng.
Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe!”
– “Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay,
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay.

– “Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chử biết con in ra mấy mươi?”

Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!”
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng! Tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chưa biết”.

– “Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu và Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.

Nghe xong Trời ngợ một lúc lâu
Sai bảo thiên tào lấy sổ xét.
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng đế trông
– “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”

Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

– “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi ngày cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều.
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo.”

Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”

Vâng nhời Trời dạy, lạy xin ra
Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn
Xe trời đã chực ngoài thiên môn
Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt.

Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi.
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai.

Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng
Trăng tà đưa lối về non Đoài.
Non Đoài đã tới quê trần giới,
Trông lên chư tiên không còn ai.

Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi
Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu Trời.

Tham khảo phân tích tác phẩm🌻Lưu Biệt Khi Xuất Dương🌻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay

Về Nhà Thơ Tản Đà

Cùng tìm hiểu những thông tin chính Về Nhà Thơ Tản Đà.

  • Tản Đà (1889 – 1939), tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu.
  • Quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội).
  • Ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu, nên con người ông, kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp đều mang dấu ấn của hai thế kỉ (Hoài Thanh).
  • Ông xuất thân là nhà Nho, từng hai lần lều chõng nhưng đều không đỗ đạt. Sau đó, Tản Đà chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm gây được tiếng vang lớn vào những năm 20 của thế kỷ XX.
  • Thơ của ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn lại rất đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều sáng tạo mới mẻ.
  • Ngoài thơ, Tản Đà cũng sáng tác văn xuôi với nhiều bài tản văn, tùy bút, tự truyện.
  • Một số tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917); Giấc mộng con I (tiểu thuyết, năm 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (Du ký, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932)…

Xem nội dung tác phẩm 💚 Chí Phèo [Nam Cao] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất

Về Tác Phẩm Hầu Trời

Về Tác Phẩm Hầu Trời, bài thơ Hầu trời được in trong tập “Còn chơi”. Tác phẩm được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, giọng điệu tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động, hóm hỉnh….

Sau khi đọc bài thơ chúng ta sẽ thấy được sự say mê trong đó, sự kết hợp của cảm hứng lãng mạn và hiện thực. Ba sự việc được trình bày một cách khá trật tự từ việc lý do lên trời đọc thơ, cảnh đọc thơ và thái độ ngợi ca tán thưởng của trời và chư tiên, và cuộc chia tay trong xúc động và lưu luyến.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Hầu Trời

Tiếp theo là Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Hầu Trời.

Bài thơ “Hầu trời” in trong tập “Còn chơi”, xuất bản lần đầu năm 1921. Trong tập thơ này còn có các tác phẩm như Còn chơi, Lo văn ế, Tống biệt…

Qua Hầu Trời tác giả đã mạnh dạn thể hiện cái tôi cá nhân, một cái tôi rất ngông, rất phóng túng, cái tôi tự ý thức về tài năng và giá trị đích thực của mình, đồng thời khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời.

Chia sẻ cho bạn đọc 🌿 Hạnh Phúc Của Một Tang Gia 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật 

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Hầu Trời

Chia sẻ cho bạn đọc Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Hầu Trời.

Bài thơ có nhan đề mới nghe qua có vẻ lạ, nhưng nếu biết tác giả là thi sĩ Tản Đà thì ta có thể hiểu được vì sao lại có cái nhan đề Hầu Trời ấy. Qua nhan đề Hầu Trời, dường như tác giả muốn thể hiện khát vọng muốn khẳng định chính mình giữa cuộc đời và vừa thể hiện lãng mạn, bay bổng vừa cái ngông của mình.

Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Hầu Trời

Sau đây là những Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Hầu Trời.

Giá trị nội dung

  • Bài thơ kể về việc Tản Đà được mời lên thiên đình đọc thơ cho trời và chư tiên cùng nghe, cuộc đọc thơ và đối thọai về trời.
  • Từ đó tác giả đã thể hiện cái tôi cá nhân ngông ngạo, phóng túng, tư ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khát vọng được khẳng định giữa cuộc đời

Giá trị nghệ thuật

  • Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do
  • Giọng điệu thoải mái tự nhiên
  • Ngôn từ bình dân

Xem nội dung tác phẩm✨Chữ Người Tử Tù✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Bố Cục Bài Thơ Hầu Trời

Bố Cục Bài Thơ Hầu Trời gồm có 4 phần chính như sau:

  • Phần 1 (khổ thơ đầu): Thi nhân nhớ lại cảm xúc đêm qua – đêm được lên tiên.
  • Phần 2 (6 khổ thơ tiếp): Tiếp diễn câu chuyện thi nhân theo 2 cô tiên lên gặp trời.
  • Phần 3 (12 khổ tiếp theo): Thi nhân được đọc thơ văn cho trời và các chư tiên cùng nghe.
  • Phần 4 (còn lại): Cảnh vật và xúc cảm trên đường về hạ giới, mong muốn đêm nào cũng được lên hầu trời.

Dàn Ý Hầu Trời

Chia sẻ cho bạn đọc Dàn Ý Hầu Trời đầy đủ ý nhất.

I. Mở bài:

– Giới thiệu bài thơ Hầu trời

Với phong cách thơ lãng mạn, phóng khoáng, ngông nghênh, thể hiện sự ứu ái và cảm thương của tác giả. Thơ văn của ông giữa hai giai đoạn trung đại và hiện đại nên những tác phẩm của ông mang một vẻ đẹp và sự độc đáo khác nhau. Một trong những tác phẩm đặc sắc và thể hiện rõ sự phóng khoáng của Tản Đà là tác phẩm Hầu trời. tác phẩm nói lên sự ngông nghênh của tác giả đối với trời, xem trời như là bạn của mình. Chúng ta cùng đi tìm hiểu cái ngông của Tản Đà.

II. Thân bài:

– Phân tích bài thơ hầu trời

1. Mở đầu bằng cách giới thiệu câu chuyện:

  • Câu chuyện xảy ra vào đem qua, một khoảnh khắc yên lặng, yên tĩnh
  • Câu chuyện kể về giấc mơ muốn lên cõi tiên của tác giả, thể hiện tâm trạng và cảm xúc của người thi nhân
  • Tâm trạng nữa thực nữa mơ của thi nhân

2. Thi nhân đọc thơ cho trờ và Chư tiên nghe

  • Đọc thơ một cách hào hứng
  • Thi nhân kể về cuộc sống và công việc của mình
  • Giọng thơ của thi nhân hóm hỉnh, ngông

3. Thái độ của người nghe:

  • Trời tỏ ra rất tâm đắc và khen ngợi thi nhân
  • Chư Tiên nghe thơ rất xúc động và tâm đắc

4. Thi nhân trò chuyện với trời:

  • Khẳng định cái tôi của mình
  • Cuộc sống nghèo khó nhưng thư thái của tác giả
  • Cảm hứng nghệ thuật bao trùm nguyên bài thơ

II. Kết bài:

– Nêu cảm nhận của em về bài thơ Hầu trời

Ví dụ:

Hầu trời là một bài thơ thể hiện sự ngông cuồng của tác giả, sự hóm hỉnh, vui đùa đã khiến hco bài thơ trở nên độc lạ và thú vị hơn.

Có thể bạn quan tâm 🌱 Hai Đứa Trẻ [Thạch Lam]🌱 Mẫu Phân Tích, Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Sơ Đồ Tư Duy Hầu Trời

Tiếp theo là các Sơ Đồ Tư Duy Hầu Trời.

Sơ Đồ Tư Duy Hầu Trời Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Hầu Trời Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Hầu Trời
Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Hầu Trời
Sơ Đồ Tư Duy Hầu Trời Viết Tay
Sơ Đồ Tư Duy Hầu Trời Viết Tay
Sơ Đồ Tư Duy Hầu Trời Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Hầu Trời Dễ Hiểu

Cùng khám phá nội dung 🌼Xin Lập Khoa Luật🌼 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích 

5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Hầu Trời Hay Nhất

Nhất định đừng bỏ qua 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Hầu Trời Hay Nhất sau đây.

Phân Tích Bài Thơ Hầu Trời Nổi Bật – Mẫu 1

Tản Đà mang tới là một hồn thơ lãng mạn, bay bổng mà vẫn đầy cảm thương, phong cách tài hoa, độc đáo mà vẫn giữ được cốt cách thơ ca dân tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho cái tôi trong thơ ấy là Hầu Trời. Thi phẩm được in trong tập Còn chơi xuất bản vào năm 1921 đã tạo nên ấn tượng đặc biệt và khẳng định tài năng của nhà thơ.

Được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên khá phóng khoáng, tự do, lại thêm cách thể hiện đậm chất tự sự với các yếu tố cốt truyện, tình huống, nhân vật, lời kể… đã tạo nên một cấu tứ rất đặc biệt của tác phẩm này. Đó là một câu chuyện “hầu Trời” của nhân vật chính là tác giả – một thi sĩ, hoàn toàn hư cấu, tưởng tượng, nhưng lại được kể với một giọng điệu say mê, tự nhiên và rất bình dị.

Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực, câu chuyện ấy có thể tóm tắt lại qua ba sự việc theo trật tự thời gian: trình bày lí do được lên Trời đọc thơ, cảnh đọc thơ hào hứng của tác giả và thái độ ngợi ca, tán thưởng của Trời và các chư tiên, và cuộc chia tay đầy lưu luyến, xúc động.

Chắc hẳn nhiều người vẫn còn quá ấn tượng với cách mở đầu câu chuyện này của thi sĩ Tản Đà:

“ Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng,”

Đây chỉ là một lời thông báo về sự việc “được lên tiên – sướng lạ lùng” vào đêm qua mà nhiều người chúng ta nghĩ là chuyện bịa. Nhưng cách dẫn dắt của thi nhân khiến người ta tin đó là thật, mà thật một cách đầy tự nhiên, chứ không hề gượng gạo.

Ông cũng đặt ra nghi vấn chẳng biết có hay không theo kiểu khoa học nhưng vẫn khẳng định rằng: không hoảng hốt, không mơ mòng và có đến bốn cái thật khiến người ta tin. Cách mở đầu câu chuyện vì thế mà đầy khéo léo và duyên dáng.

Ngay sau đó, thi sĩ trình bày lý do được lên tiên cũng đầy lạ lùng. Trong đêm khuya trăng sáng, lúc canh ba, nằm buồn một mình, tác giả ngồi dậy đun nước uống rồi ngâm nga văn thơ. Bỗng thấy hai cô tiên xuống, vì tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà khiến Trời không ngủ được nên Trời mời lên đọc để nghe qua.

Được đón tiếp nồng nhiệt, trang trọng, ngồi ghế bành như tuyết vân như mây, uống chè trời nhấp giọng, thi nhân bước vào một cuộc thể hiện tài năng, mà khán giả không ai khác là Trời và các chư tiên. Chỉ nghĩ đến đây thôi đã thấy quả là một câu chuyện hư cấu đầy thú vị, độc đáo chưa từng có.

Việc lên tiên, lên trời không phải là một đề tài xa lạ, ngay cả với bản thân thi sĩ Tản Đà, nhưng việc lên đó để ngâm văn, đọc thơ thì chắc chắn là chỉ có ông mà thôi. Bởi vậy với bút pháp lãng mạn, nhà thơ đã tái hiện lại cảnh đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe đầy hứng khởi, tự hào.

Phân Tích Bài Thơ Hầu Trời Hay Nhất – Mẫu 2

Tản Đà (1889 – 1939) là người có lối sống và sự nghiệp văn chương mang dấu ấn “người của hai thế kỉ”. Vào những năm 20 của thế kỉ XX, Tản Đà nổi được ví như một ngôi sao sáng trên thi đàn thơ văn Việt Nam,ông có những tác phẩm tiêu biểu như: “Thơ Tản Đà” (1925); “Giấc mộng lớn” (tự truyện – 1928); “Còn chơi” (thơ và văn xuôi – 1921)…

Hồn thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương. Hầu trời là một trong số bài thơ tiêu biểu trong tập “còn chơi” thể hiện rõ nét nhất tâm hồn phóng khoáng, đôi khi là nét ngông, và cũng góp phần khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của Tản Đà.

Cách vào đề của “Hầu trời” cũng rất độc đáo, gây ấn tượng người đọc với cách vào đề, dẫn dắt độc giả vào thế giới thơ một cách cuốn hút. Bằng những câu thơ, thủ thỉ tâm tình như đang kể cho độc giả một câu chuyện như vừa mới xảy ra vậy, câu chuyện đó bắt đầu từ một giấc mơ, nhưng tác giả lại không thể biết được đó là thật hay mộng, thực hay ảo.

Sự đối lập được nêu ra khi bốn từ “thật” được sử dụng trong 2 câu, chứng tả tác giả không hề mơ mộng mà nó thực chất là một giấc mơ, thế tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy. Nhưng dẫu sao thì nó vẫn mang lại cảm xúc thích thú vui sướng cho chính tác giả.

“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên “hầu trời” của mình, với những câu thơ đầy tính thuyết phục, với ngòi bút của mình, Tản Đà vẽ ra một câu chuyện như vừa mới xảy ra đây thôi:

“Nguyên lúc canh ba nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước
Uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn.
….

Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sài tiên nữ dắt lôi dậy
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy”.

Không gian thời gian của câu chuyện mặc dù là của một giấc mơ nhưng lại rất rõ ràng, tác giả giải thích lí do của buổi “hầu trời” là do “tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi “hầu trời” mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời do những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.

Câu chuyện của buổi “hầu trời” diễn ra rất tự nhiên và hợp lí, như chính tác giả vừa mới trở về từ chốn đó vậy: “Theo lệnh của Trời”, thi sĩ đọc văn và nhân văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.

“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Với niềm phấn khích và đầy hứng khởi của mình, sự say sưa trong giọng đọc thơ, cũng ẩn ý cho niềm say mê trong văn chương đã khiến cho tác giả rất tự tin, thể hiện niềm khát khao và đam mê của chính bản thân mình. Và qua những câu thơ, người ta cũng thấy được tài năng của ông khi biết được nhiều thể loại:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn”.

Mọi người sau khi được Tản Đà đọc thơ, lấy làm rất thích thú, ai cũng bộc lộ sự hân hoan tán thưởng, kể cả ông trời cũng phải buông ra những lời tán dương mà mới nghe cũng thấy sung sướng hạnh phúc.

Thái độ của người nghe được thể hiện ở nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: “Tâm như nở dạ”; “Cơ lè lưỡi”; “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng” và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: “Khói tình”, “Đài gương”, “Lên sáu”…Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn:

“Anh gánh lên đây bán chợ trời”.

Đoạn thơ tiếp theo thể hiện rõ ý thức về “cái tôi” cá nhân của tác giả rất cao:

“Trời lại phê cho: văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Những câu thơ góp phần thể hiện “Cái tôi” phóng khoáng, tác giả đã cố ý mượn lời của Trời để ca ngợi thơ văn của mình. Nó không những chứng tỏ Tản Đà rất có ý thức về tài năng văn chương vượt trội của bản thân mà còn như khẳng định chính Tản Đà là người khơi nguồn cho một cuộc cách mạng về thơ ca, đúng với cái tên “người của hai thế kỉ” mà Hoài Thanh đã gọi.

Cái hay, cái đẹp trong thơ ca của Tản Đà được tác giả đem so sánh với vẻ đẹp tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết…, qua đây cũng thấy được thái độ của tác giả tỏ ra rất tự hào, kiêu hãnh về tài năng văn chương của mình. Theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:

” – Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”

Trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại. Thiên tào tra sổ rồi bẩm báo:

” – Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

“- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có

Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo”

Khi được trời hỏi, sau một hồi đối đáp thì cũng lộ ra một điều rằng, vốn dĩ Tản Đà ở hạ giưới chỉ vì tội ngông. Đoạn thơ tái hiện bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, phản ánh đời sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ một cách chính xác và tình hình lộn xộn của thị trường văn chương thời ấy.

Cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọc thơ cho Trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại càng thể hiện tâm trạng ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. Giấc mơ “hầu trời” như sự biểu hiện khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. Dường như Trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên nhủ:

“Rằng: Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”

Những lời khuyên của trời dù ngắn ngủi nhưng lại vô cùng có giá trị, cuộc chia tay tiễn biệt giữa trời các chư tiên và tác giả cứ quyến luyến.

“Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai”

Mặc dù đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng vẫn lấy làm hối tiếc khi một năm có bao nhiêu ngày nhưng may mắn chỉ có 1 đêm để hầu trời. Điều này càng chứng tỏ, lòng khát khao muốn dùng thơ văn và niềm đam mê của mình để ai ai cũng biết tới, và những ai trân trọng nó.

Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu Trời”.

Từ một câu chuyện dường như không có thật, “hầu trời” đã phản ánh khá rõ tính cách của Tản Đà, ông đã mạnh dạn tự biểu hiện “cái tôi” cá nhân, một “cái tôi” ngông, phóng túng. Qua đó tác giả cũng ý thức rất rõ về tài năng, dám công khai cái tài văn chương hơn người của mình.

Bài thơ “Hầu trời” là một bài thơ hay và độc đáo, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà, một trong những tác phẩm tiêu biểu cho cả hồn thơ Tản Đà và cả phong trào thơ mới.

Phân Tích Bài Thơ Hầu Trời Tiêu Biểu – Mẫu 3

Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn và Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh).

Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn, một số tác phẩm tiêu biểu của ông là: “Thơ Tản Đà” (1925); “Giấc mộng lớn” (tự truyện – 1928); “Còn chơi” (thơ và văn xuôi – 1921)…

Thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương, chính vì vậy ông đã được nhà phê bình văn học Hoài Thanh xếp ở vị trí đầu tiên trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”.

Một bài thơ thể hiện khá rõ nét phong cách này của Tản Đà là bài “Hầu trời. Bài thơ được in trong tập “Còn chơi”, xuất bản năm 1921, thể hiện rõ nhất “cái tôi” cá nhân ngông nghênh, phóng túng và khao khát được khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của Tản Đà.

Bài thơ “Hầu trời” gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bằng cách vào đề, cách dẫn dắt khá bất ngờ và thú vị, cuốn hút người đọc vào câu chuyện mà tác giả sắp kể:

“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

Chính tác giả là chủ thể của giấc mơ cũng không dám khẳng định là giấc mơ đó có hay không, thực hay hư ảo. Nhưng ở các câu thơ tiếp theo với việc dùng ngữ điệu mãnh mẽ như để khẳng định yếu tố thực của giấc mơ. Từ “thật” được lặp lại bốn lần cũng như để nhấn mạnh sự thật của các chi tiết, hình ảnh trong giấc mơ.

Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên “hầu trời” của mình:

“Nguyên lúc canh ba nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước
Uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn.
….
Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy”.

Câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà giống như một câu chuyện có thật vì có đủ tình huống, không gian, thời gian diễn ra sự việc và tác giả là nhân vật chính.

Tác giả giải thích lí do của buổi “hầu trời” là do “tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi “hầu trời” mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời gắn liền với những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.

Khi đã đưa ra lí do, tác giả kể tiếp diễn biến của buổi “hầu trời”. Câu chuyện diễn ra rất tự nhiên và hợp lí. Theo lệnh của Trời, thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.

“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Đúng với niềm đam mê của mình, thi sĩ đọc với tất cả sự nhiệt tình và phấn khích. Có lẽ chưa bao giờ thi sĩ lại cảm thấy hứng thú và thăng hoa đến như thế này nên đọc liền một mạch:

Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”.

Thái độ của người nghe rất chăm chú và ai cũng tán thưởng, bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: “Tâm như nở dạ”; “Cơ lè lưỡi”; “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng” và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: “Khối tình”, “Đài gương”, “Lên sáu”…Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ trời”.

Phân Tích Bài Thơ Hầu Trời Đặc Sắc – Mẫu 4

Tản Đà dấu gạch nối, bản lề khép mở giữa hai giai đoạn văn học Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại. Tác phẩm của ông thể hiện cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng vừa ngông nghênh. Chính những yếu tố đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn Tản Đà. Hầu trời có thể coi là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của Tàn Đà.

Cách Tản Đà mở đầu tác phẩm của mình hết sức đặc biệt:

“Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.”

Câu thơ đầu tiên là nỗi băn khoăn hết sức chân thật, liệu đêm qua có là thực, hay chỉ là hư. Hỏi đấy rồi để câu thơ 2,3,4 ông đã tự trả lời cho chính những băn khoăn ấy:

Tản Đà khẳng định giấc mơ đêm qua bằng cách phủ định liên tiếp, từ “thật” được lặp lại bốn lần: thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc mà đêm qua chính ông đã được trải nghiệm, đó là nỗi “sướng lạ lùng”. Đây chính là cách Tản Đà dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng, vào giấc mơ đêm qua của ông.

Trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên ắng, tĩnh mịch, Tản Đà nằm buồn uống nước và ngâm văn thì bỗng thấy có hai cô tiên xuống đón ông lên trời.

Chuyện dường như hoàn toàn hư cấu, khó lòng có thể tin được nhưng bằng cách giải thích dí dỏm, hài hước, Tản Đà đã khiến cho lí do đó trở nên chân thực, đồng thời còn khẳng định được tài năng của bản thân: “Trời nghe hạ giới ai ngân nga/ Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà/ Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ hăng say thể hiện bản thân:

“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi”

Và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm lối”. Ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại.

Trước tài năng của Tản Đà ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc: Trời “lấy làm hay” “bật buồn cười”. Các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương), ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. Và họ tranh nhau dặn:

– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”

Những lời tán dương, ngợi khen của các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của Tản Đà:

“ Nhời văn chuốt đẹp như sao băng
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.”

Hàng loạt hình ảnh so sánh đẹp đẽ nhất, tinh khiết nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết, đã diễn tả những vẻ đẹp đa dạng, phong phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm sây mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân.

Niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà Trời. Dường như đến với nghệ thuật, chính cái hay, cái đẹp là sợi chỉ kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương không còn người nhà Trời với người trần, không còn người bề trên với kẻ bề tôi, mà chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.

Đoạn thơ đã cho người đọc phần nào thấy được con người của Tản Đà, ông là một người tự tin, kiêu hãnh với tài năng của bản thân, ông ý thức được giá trị của chính mình. Nhưng đồng thời cuộc vượt thoát lên chốn tiên giới này cũng cho thấy sự cô đơn, lạc lõng của ông với cuộc đời. Ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình. Đây đồng thời cũng là khát vọng chung của những người nghệ sĩ đương thời.

Sau khi đem tài năng thể hiện cho mọi người, Tản Đà đồng thời cũng đem những tâm sự rất thực chia sẻ với Trời cùng các chư tiên: “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó/ Trần gian thước đất cũng không có”. Cái ông có chỉ là “một bụng văn” nhưng lại bị o ép nhiều chiều: thuê giấy mực, in, lại thuê cửa hàng, hao công tốn của những văn chương hạ giới lại rẻ mạt, “Kiếm được đồng lãi thực rất khó” “Làm ăn quanh năm chẳng đủ tiêu”.

Câu thơ đậm cảm xúc ngậm ngùi, nghi ngại về sứ mệnh của kẻ cầm bút. Để rồi sau đó, Trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”. Lời động viên cũng chính là lời tự an ủi chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ này lại cho thấy cái “ngông” trong con người Tản Đàm tự tin, kiêu hãnh về giá trị của bản thân đồng thời ông cũng có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.

Bằng thể thơ thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong sáng, giọng điệu tự nhiên Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái tôi của bản thân. Đó là cái tôi : ngông ngạo, phóng túng, tự ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời.

Phân Tích Bài Thơ Hầu Trời Chọn Lọc – Mẫu 5

Thơ Tản Đà là thơ của cái tôi bay bổng, lãng mạn, của cái tôi yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước. “Hầu trời” là một trong số những bài thơ thể hiện rất rõ cái tôi của ông.

Bài thơ được in trong tập “Còn chơi” và được xuất bản vào năm 1921. Bài thơ là câu chuyện “hầu trời” của một thi sĩ với lối kể chuyện tự nhiên, giọng điệu say đắm, kết hợp khéo léo giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực. “Hầu trời” tựa như một câu chuyện tự sự với cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật kể chuyện.

Ngay những câu đầu bài thơ Tản Đà để lại một ấn tượng vô cùng đậm nét với cách dẫn dắt độc đáo của mình:

“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

Vốn dĩ câu chuyện này là hoang đường nhưng với cách kể của mình, tác giả đã khiến người ta phải tin đó là thật, thật một cách tự nhiên không hề gượng gạo. Rõ ràng câu thơ mở đầu là một câu hỏi, chính tác giả cũng đang không rõ thực hư trong câu chuyện này. Nhưng ba câu thơ tiếp với việc lặp lại ba lần chữ “thật” như một lời khẳng định với bạn đọc về sự thật này.

Tiếp đó, nhà thơ bắt đầu kể diễn biến của buổi “hầu trời” một cách rất tự nhiên. Đầu tiên, tuân lệnh của Trời, thi sĩ đã đọc thơ của mình cho Trời và các chư tiên nghe:

“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Đối với một thi sĩ, thơ ca không chỉ là sự yêu thích mà hơn cả thế nó là đam mê. Thơ ca khiến thi sĩ trở nên thăng hoa trong cảm xúc và hứng thú đến lạ thường:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn”.

Đối với niềm hăng say này của thi sĩ, thái độ của người nghe cũng vô cùng chăm chú, tập trung thậm chí là tán thưởng, biểu dương: “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng”… Các chư tiên còn vô cùng phấn khích, đón nhận khi thi sĩ kể về các tập thơ của mình: “Anh gánh lên đây bán chợ trời”.

Trong thơ ca, cái tôi là một vấn đề rất hay được mọi người chú ý đến. Thơ ca phải có cái tôi thì mới làm nên vẻ ấn tượng. Và ở những câu thơ tiếp theo, Tản Đà đã thể hiện rất rõ cái tôi của mình:

“Trời lại phê cho: “văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Bằng việc mượn lời Trời tác giả đã khéo léo ca ngợi văn thơ của mình. Và người ta gọi đây là một hiện tượng chưa từng có trong văn chương. Điều này không chỉ chứng tỏ thi sĩ rất tự tin vào tài năng của mình mà còn muốn tự khẳng định tài năng, nét tài hoa ấy.

Sau khi nói về tài năng văn chương của mình, Tản Đà hướng ngòi bút của mình kể về cuộc sống của tầng lớp văn nghệ sĩ thời ấy:

“- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có

Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo”

Bằng những nét vẽ tả thực, đoạn thơ đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống khốn cùng của văn nghệ sĩ cũng như sự hỗn loạn của văn chương lúc bấy giờ. Trái ngược hoàn toàn với những cảm xúc hưng phấn lúc trước, đoạn thơ này mang một giọng ngậm ngùi, chua xót đến đáng thương.

“Rằng: Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”

Sau lời dặn dò của Trơi, cuộc chia tay giữa thi sĩ và các chư tiên diễn ra trong xúc động:

“Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai”

Những gì đã diễn ra đẹp đến mức, khi thi sĩ bừng tỉnh, nhận ra đó chỉ là một giấc mộng, nhà thơ đã không khỏi tiếc nuối:

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đếm lên hầu Trời”.

Những câu thơ đã khép lại bài thơ, khép lại một câu chuyện nhưng dư âm mà nó để lại thì vẫn còn đó. Dù chỉ là tưởng tượng nhưng lối viết tự nhiên, cách xây dựng câu chuyện có đầy đủ cốt truyện, nhân vật… đã đem đến sự gần gũi, mới lạ cho người đọc. 

Viết một bình luận