Lưu Biệt Khi Xuất Dương ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Sưu Tầm Ngay Dàn Ý, Ý Nghĩa Nhan Đề, Sơ Đồ Tư Duy, Bố Cục.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương
Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là một bài thơ tiêu biểu trong cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, bài thơ mang ý nghĩa là lời chia tay, từ biệt bạn bè và đồng chí để lên đường sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du. Nội Dung Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương như sau.
出洋留別
生為男子要希奇,
肯許乾坤自轉移。
於百年中須有我,
起千載後更無誰。
江山死矣生圖汭,
賢聖遼然誦亦癡。
願逐長風東海去,
千重白浪一齊飛。
Phiên âm:
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Dịch nghĩa:
Đã sinh làm kẻ nam nhi thì cũng phải mong có điều lạ,
Há lại để trời đất tự chuyển vần lấy sao!
Giữa khoảng trăm năm này, phải có ta chứ,
Chẳng nhẽ ngàn năm sau lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?
Non sông đã chết, sống chỉ nhục,
Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!
Mong đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên.
Dịch thơ:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Chia sẻ cho bạn đọc 💚 Chí Phèo [Nam Cao] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất
Về Nhà Thơ Phan Bội Châu
Sau đây là những thông tin chính Về Nhà Thơ Phan Bội Châu.
- Phan Bội Châu (1867- 1940), tên thuở nhỏ là Phan Văn San, tên hiệu là Sào Nam.
- Quê quán: Làng Đan Nhiễm (nay là xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
- Phan Bội Châu là một nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn nhất của dân tộc ta trong vòng 20 năm đầu thế kỉ XX.
- Phan Bội Châu là một trong những nhà nho Việt Nam đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm một con đường cứu nước mới.
- Sau khi đỗ giải Nguyên (1900) ông bắt đầu vào Nam ra Bắc tìm người cùng chí hướng, lập ra Duy tân hội – tổ chức cách mạng theo đường lối dân chủ tư sản đầu tiên ở nước ta.
- Những tác phẩm tiêu biểu: Sào Nam thi tập, Văn tế Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu niên biểu…
Xem nội dung tác phẩm 🌿 Hạnh Phúc Của Một Tang Gia 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Về Tác Phẩm Lưu Biệt Khi Xuất Dương
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu đã khắc họa thành công hình ảnh người chí sĩ cách mạng với vẻ vẻ đẹp hào hùng cũng như tràn đầy nhiệt huyết cách mạng của buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước.
- Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú.
- Hình ảnh mang tính biểu tượng cao.
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương như sau:
Theo chủ trương của Duy tân hội, ông lãnh đạo phong trào Đông Du và xuất dương sang Nhật Bản (1905). Đối với các nhà yêu nước Việt Nam, hướng về Nhật Bản cũng có nghĩa là hướng về một chân trời mới đầy hi vọng và ước mơ.
Năm 1905 trước lúc lên đường sang Nhật bản, ông làm bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để từ giã bạn bè, đồng chí.
Có thể bạn quan tâm ✨Chữ Người Tử Tù✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương
Cùng khám phá Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương bên dưới.
Nhan đề “Lưu biệt khi xuất dương” hay “Xuất dương lưu biệt” chính là lời từ biệt của nhà cách mạng Phan Bội Châu trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.
Vốn xuất thân từ nhà Nho, Phan Bội Châu khi xuất dương tìm đường cứu nước, vẫn viết lời từ biệt bằng một thể thơ truyền thống bằng chữ Hán: thể thất ngôn bát cú Đường luật. Nhan đề chữ Hán là 出洋留別.
Giá Trị Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương
Sau đây là các Giá Trị Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương.
Giá trị nội dung
- Bài thơ khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.
- Thể hiện niềm hăm hở, sự quyết tâm cao độ trong buổi đầu vượt biển đi ra nước ngoài để “mưu sự phục quốc”
Giá trị nghệ thuật
- Giọng thơ tâm huyết, sâu lắng mà sục sôi, hào hùng.
- Thể thơ thất ngôn bát cú luật bằng
- Hình ảnh sinh động vá sức truyền tải cao.
- Bài thơ mang một giọng điệu rất riêng: hăm hở, đầy nhiệt huyết.
Cùng khám phá nội dung 🌱 Hai Đứa Trẻ [Thạch Lam]🌱 Mẫu Phân Tích, Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Bố Cục Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương
Bố Cục Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương theo kết cấu gồm 4 phần theo: Đề – Thực – Luận – Kết.
- Phần 1: Hai câu đề: Quan niệm của nhà thơ về chí làm trai và tầm vóc của đấng nam nhi trong vũ trụ.
- Phần 2: Hai câu thực: Ý thức trách nhiệm của nhà thơ trước cuộc đời.
- Phần 3: Hai câu luận: Thái độ trước tình cảnh của đất nước.
- Phần 4: Hai câu kết: Tư thế cũng như khát vọng của nhà thơ trước khi lên đường.
Dàn Ý Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương
Chia sẻ bạn đọc Dàn Ý Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương.
1. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về tác giả Phan Bội Châu và tác phẩm “Xuất dương lưu biệt”, nêu nội dung khái quát của tác phẩm.
2. Thân bài
Cảm nhận về hoàn cảnh ra đời của bài thơ, dẫn dắt vào cảm nhận bài thơ
a, Hai câu đề
Quan niệm của chí sĩ Phan Bội Châu về “chí làm trai”, sống chủ động, làm chủ thế sự, gây dựng lên sự nghiệp lớn, không chấp nhận cuộc sống tầm thường.
b, Hai câu thực
- Cảm nhận về ý thức cái “tôi” cá nhân của nhân vật. Tác giả đã ý thức được về vị trí, vai trò của mình trong cuộc đời, trong lịch sử.
- Phân tích những hình ảnh biểu tượng “bách niên”, “khởi thiên”
- Phân tích ý nghĩa câu hỏi tu từ mà tác giả tự đặt ra cho mình
- Cảm nhận quan niệm mới mẻ, tiến bộ của tác giả về chí nam nhi và công danh
c, Hai câu luận
- Cảm nhận quan niệm sống tốt đẹp của kẻ sĩ trước thời thế lịch sử và thực trạng đất nước.
- Ý thức được nỗi đau mà non sông đang phải gánh chịu, tác giả đã đưa ra tư tưởng sâu sắc, tiến bộ, thể hiện cái nhìn tỉnh táo về những điều không còn phù hợp của Nho giáo.
d, Hai câu kết
Cảm nhận những hình ảnh biểu tượng kì vĩ mang tầm vũ trụ, cảm nhận tư thế hiên ngang và ý chí quyết tâm của người chí sĩ yêu nước trong thời điểm xuất dương đi tìm đường cứu nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc vĩ đại.
3. Kết bài
- Đánh giá nghệ thuật và giá trị nội dung của bài thơ
- Vị trí của bài thơ trong nền văn học và tài năng của tác giả
Xem nội dung tác phẩm 🌼Xin Lập Khoa Luật🌼 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Sơ Đồ Tư Duy Lưu Biệt Khi Xuất Dương
Cùng tham khảo các Sơ Đồ Tư Duy Lưu Biệt Khi Xuất Dương.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích 🍀Chiếu Cầu Hiền🍀 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay
5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương Hay Nhất
Cuối cùng, Thohay.vn xin chia sẻ cho các bạn 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương Hay Nhất.
Phân Tích Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương Chọn Lọc – Mẫu 1
Phan Bội Châu được nhắc đến là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có ý thức dùng văn chương để vận động, tuyên truyền cách mạng. Ông cũng chính là người khơi dòng cho loại văn chương trữ tình chính trị. Trong đó, bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là một tác phẩm tiêu biểu.
Đây là bài thơ được viết trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu đã tổ chức ở nhà mình để chia tay với các bạn bè, đồng chí trước lúc lên đường sang Nhật Bản năm 1905. “Lưu biệt khi xuất dương” đã thể hiện ý tưởng lớn lao, mới mẻ đầy trách nhiệm của tác giả, thể hiện niềm hăm hở, quyết tâm cao độ trong buổi đầu vượt biển đi ra nước ngoài để “mưu sự phục quốc”.
Chí làm trai đã được nhắc đến trong văn học từ thời xa xưa nhưng đặc biệt được đề cao ở thời kì chế độ phong kiến, thời kì đạo Nho phát triển mạnh mẽ. Nam nhi phải có công danh, sự nghiệp thì mới đáng làm trai. Chẳng vậy mà trong bài thơ “Tỏ lòng”, Phạm Ngũ Lão đã viết:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
Hay Nguyễn Công Trứ cũng từng viết:
“Chí làm trai nam, bắc, tây, đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.
Muốn trở thành bậc nam nhi được mọi người công nhận thì phải biết phấn đấu, lập được công trạng, có được danh vọng, có sức vóc “vẫy vùng” khắp bốn bể để chứng minh tài năng, bản lĩnh của bản thân. Kế thừa tư tưởng ấy của Nho giáo, Phan Bội Châu đã đưa ra một quan điểm về chí làm trai như một tuyên ngôn đầy khí thế:
“Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”.
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)
Trước hết, ông cho rằng, làm trai phải “lạ”, có nghĩa là phải sống khác mọi người, không được giống với bất kì ai để tạo nên điểm riêng biệt. “Lạ” cũng có nghĩa là điều phi thường, hiển hách, xoay chuyển cả trời đất.
Đó là lối sống chủ động, không chùn bước, nản chí để mặc cho hoàn cảnh chi phối mà phải có bản lĩnh để chi phối hoàn cảnh. Nhân vật trữ tình dám đối mặt với càn khôn, đất trời, vũ trụ để tự khẳng định bản thân, phấn đấu đạt được giấc mộng công danh.
Phan Bội Châu ôm ấp khát vọng xoay chuyển được càn khôn chứ không để “càn khôn tự chuyển dời”. Ông không đầu hàng, khuất phục trước số phận, hoàn cảnh mà dùng chính khả năng của mình để thay đổi hoàn cảnh. Có thể nói, chí làm trai của ông là chí làm trai của một đấng nam nhi hiên ngang trong vũ trụ, dám ngạo nghễ và thách thức với trời đất.
Con người mang tầm vóc lớn lao, tầm vóc vũ trụ ấy luôn mang trong mình ý thức, trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?)
Trong cuộc đời trăm năm hữu hạn, Phan Bội Châu muốn cống hiến sức mình cho đất nước, làm nên những công trạng phi thường, lớn lao để xứng đáng làm một nam nhi lưu danh vào thiên cổ ngàn năm. Tác giả đã tự khẳng định bản thân mình, đây là cái tôi mang đầy trách nhiệm, chủ động tích cực chứ không phải cái tôi vị kỉ, chỉ biết lo nghĩ cho lợi ích của cá nhân.
Ở hai câu thực có sự đối nhau hài hòa giữa sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của đời người, Phan Bội Châu dùng cái phủ định để làm nền, làm nổi bật lên điều ông khẳng định. Ông muốn làm những điều phi thường, lưu lại tên tuổi của mình trong sử sách để không hổ thẹn với chí làm trai mà mình đã lấy làm lí tưởng sống. Cống hiến cho đời vừa là nghĩa vụ vừa là trách nhiệm của bậc trượng phu.
Trong một trăm năm hữu hạn ấy, người nam nhi phải thực hiện được chí làm trai và cũng trong ngàn năm sau đó phải để lại được tiếng thơm cho đời. Hai câu thơ như lời thúc giục khơi dậy tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của con người, đặc biệt là những thanh niên trai tráng phải góp hết sức mình vào công cuộc cứu nước, tìm ra hướng đi mới cho dân tộc.
Gắn với hoàn cảnh thực tại của đất nước, Phan Bội Châu đã nêu lên trách nhiệm mà người nam nhi cần có đối với vận mệnh dân tộc:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”!
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)
Đất nước bị xâm lược, non sông cũng không còn nữa thì ta có sống cũng chỉ chuốc lấy sự nhục nhã, ê chề. Sách vở, người có học thức cũng trở thành vô nghĩa khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ông đặt lên hàng đầu bởi ông ý thức được thời cuộc.
Sách vở cũng không có ý nghĩa gì khi nước mất nhà tan. Việc làm quan trọng và thiết thực nhất lúc bấy giờ là tìm được con đường, hướng đi cho đất nước để thoát khỏi sự xâm lược, bóc lột của thực dân Pháp.
Phan Bội Châu là một người yêu nước và ông cũng mong rằng phong trào Đông du do mình lãnh đạo sẽ gặt hái được nhiều thành quả giúp ích cho nước nhà. Bên cạnh đó, hai câu luận cũng có ý nghĩa thức tỉnh những con người có tấm lòng yêu nước. Đây cũng là lúc để họ xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển cục diện, tình hình của dân tộc.
Hai câu kết của bài thơ đã thể hiện khí thế, sự quyết tâm cao độ trên con đường cứu nước mà mình đã chọn của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)
Ông có khát vọng lớn lao muốn đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông. Khát khao đó thể hiện ý chí, khát vọng hành động và tư thế của nhân vật trữ tình. Con người muốn bay lên cùng cơn gió để bắt kịp thời đại. “Bể đông”, “cánh gió”, “sóng bạc” là những hình ảnh thơ kì vĩ, hào hùng ẩn dụ cho khát vọng vượt lên hiện thực tăm tối để tìm đường cứu nước của Phan Bội Châu.
Tác giả “nguyện” vì lí tưởng cao đẹp mà vượt qua tất cả những gian khó, thử thách để chạm được đích đến, hoàn thành chí làm trai của bậc nam nhi ở đời.
Bản dịch thơ của Tôn Quang Phiệt tuy chưa dịch sát nghĩa của từ “nhất tề phi” nhưng cũng đã phần nào thể hiện sức mạnh, lòng yêu nước tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần chiến đấu sục sôi của tác giả. Trong bối cảnh của thời đại mới, con người cần phải có những tư tưởng hành động bắt kịp thời đại, có như vậy mới tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn, mang lại sự tự do cho dân tộc.
Và với Phan Bội Châu, con đường mới của ông là con đường sang Nhật Bản để học tập, chuẩn bị lực lượng hùng mạnh để nắm bắt thời cơ giành lại nền độc lập cho nước nhà.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật có giọng điệu hào hùng, tràn đầy tâm huyết có sức mạnh lay động mạnh mẽ đến các thanh niên yêu nước. “Lưu biệt khi xuất dương” đã khắc họa tâm thế, khát khao ra đi tìm đường cứu nước của một nhà cách mạng đầu thế kỉ XX. Nhân vật trữ tình mang một vẻ đẹp mới mẻ, tràn đầy khí thế của thời đại.
Phân Tích Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương Tiêu Biểu – Mẫu 2
Phan Bội Châu nhà yêu nước, anh hùng giải phóng dân tộc nổi tiếng trong lịch sử hiện đại Việt Nam, Phan Bội Châu chính là người khởi xướng các phong trào giải phóng Tổ quốc trong những năm đầu thế kỉ XX như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi của ông cũng nổi tiếng với nhiều bài thơ, cuốn sách, bài văn tế… Phan Bội Châu luôn mang trong mình lý tưởng, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước dân chủ tiến bộ.
“Lưu biệt khi xuất dương” được viết bằng chữ Hán, thể thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng trong đầu thế kỉ XX : táo bạo, nhiệt huyết lý tưởng giải phóng dân tộc luôn dâng cao. Ông đã cho người đọc thấy được không khí cách mạng sục sôi giai đoạn đầu thế kỉ XX của những con người yêu nước và tiến bộ của nước nhà.
Mở đầu bài thơ như là một tuyên ngôn lí tưởng:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.”
Làm trai trong trời đất không thể sống tầm thường, không được sống thụ động cho trời đất “tự chuyển dời”. Câu thơ mở đầu đã thể hiện tư thế, ý chí nam nhi, tài năng của người cách mạng mong muốn làm nên sự nghiệp lớn, xoay chuyển trời đất.
Tiếp tục bài thơ tác giả khẳng định:
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.
Tác giả đã khẳng định mạnh mẽ và đầy khí phách về sức mạnh con người trước càn khôn. Sự đề cao cái Tôi của nhà thơ chính là khẳng định trách nhiệm của người thanh niên yêu nước đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ cũng làm cho nhiều người tỉnh ngộ và khơi gợi sự tinh thần đấu tranh. Tác giả Phan Bội Châu như muốn ra sức kêu gọi sự tranh đấu của những con người yêu nước.
Những đoạn thơ đầu tiên tác giả đã khẳng định chí nam nhi, đoạn sau nói về trách nhiệm của nam nhi:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
Khi đất nước đang bị xâm lăng, non sông đã chết, ta sống chỉ thêm sự nhục nhã, đau đớn. Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, người học có vùi mài kinh sử cũng trở nên vô nghĩa. Vào thời điểm đó, ý muốn ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng của thời đại.
Câu thơ trên không có ý chê bai việc học mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc trước mắt. Đồng thời còn thể hiện nỗi đau của tác giả khi mà đất nước suy tàn, dân chúng lầm than, đạo đức xã hội xuống cấp đã khiến con người có trách nhiệm với dân tộc nhìn thấy mà lòng quặn đau.
Đoạn kết của bài thơ Lưu biệt khi xuất dương đã thể hiện quyết tâm, ý chí , hi vọng lớn của tác giả trên con đường mình đã chọn:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Giọng thơ sục sôi, tràn đầy hi vọng và quyết tâm đi đến nước Nhật để tìm con đường cứu nước. Hình ảnh kết thúc bài thơ vô cùng mạnh mẽ, hào hùng, đó là sự khí phách của con người bắt kịp với thời đại mới. Với hi vọng về ngày mai tươi sáng hơn.
Bài thơ giọng điệu hào hùng, từ ngữ hấp dẫn là một bài ca hào hùng về chí làm trai nguyện dấn thân mình vào sự nghiệp cứu nước của dân tộc. Bài thơ mãi là tấm gương mà người đời luôn noi theo.
Phân Tích Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương Nổi Bật – Mẫu 3
Phan Bội Châu (1867 – 1940) tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, người làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự thất bại của phong trào Cần Vương chống Pháp. Chế độ phong kiến suy tàn kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống tư tưởng phong kiến già cỗi, lỗi thời.
Tình hình đó đặt ra cho các chí sĩ yêu nước một câu hỏi lớn: Phải cứu nước bằng con đường nào? Trong không khí u ám bao trùm khắp đất nước thời đó, những tia sáng hi vọng hé rạng qua nguồn sách Tân thư truyền bá tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản của phương Tây với nội dung khác hẳn với các sách thánh hiền thuở trước.
Người ta có thể tìm thấy ở đó những gợi ý hấp dẫn về một con đường cứu nước mới, những viễn cảnh đầy hứa hẹn cho tương lai.
Vì thế, các nhà Nho tiên tiến của thời đại như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã tiên phong dấn bước, bất chấp nguy hiểm, gian lao. Phan Bội Châu là một trong những chí sĩ yêu nước đầu tiên mở ra con đường cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Mặc dù sự nghiệp không thành, nhưng ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về lòng yêu nước thiết tha và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất.
Sinh thời, Phan Bội Châu không coi văn chương là mục đích của cuộc đời mình nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng, ông đã chủ động nắm lấy thứ vũ khí tinh thần sắc bén ấy để tuyên truyền, cổ động, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào ta.
Năng khiếu văn chương, bầu nhiệt huyết sôi sục cùng sự từng trải trong bước đường cách mạng là cơ sở để Phan Bội Châu trở thành một nhà văn, nhà thơ lớn với những tác phẩm xuất sắc như: Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ngục trung thư (1914), Trùng Quang tâm sử (1913 -1917), Phan Bội Châu niên biểu (1929)…
Năm 1904, ông cùng các đồng chí của mình lập ra Duy Tân hội. Năm 1905, hội chủ trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho cách mạng và tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Trước lúc lên đường, Phan Bội Châu làm bài thơ Xuất dương lưu biệt để từ giã bạn bè, đồng chí. Phiên âm chữ Hán:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cảnh vô thùy.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Dịch thơ:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, Lưu biệt khi xuất dương đã khắc họa vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước. Bài thơ mở đầu bằng việc khẳng định chí làm trai:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Câu thơ chữ Hán: Sinh vi nam tử yếu hi kì. Hai từ hi kì có nghĩa là hiếm, lạ, khác thường cần được hiểu như những từ nói về tính chất lớn lao, trọng đại, kì vĩ của công việc mà kẻ làm trai phải gánh vác. Đây cũng là lí tưởng nhân sinh của các nhà Nho thời phong kiến.
Trước Phan Bội Châu, nhiều người đã đề cập đến chí làm trai trong thơ ca. Phạm Ngũ Lão đời Trần từng băn khoăn: Công danh nam tử còn vương nợ,/ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu (Tỏ lòng). Trong bài Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ khẳng định: Đã mang tiếng ở trong trời đất,/ Phải có danh gì với núi sông… và nhấn mạnh: Chí làm trai nam, bắc, tây, đông/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Chí khí anh hùng).
Chí làm trai của Phan Bội Châu thuyết phục thế hệ trẻ thời bấy giờ ở sự táo bạo, quyết liệt và cảm hứng lãng mạn nhiệt thành bay bổng. Với ông, làm trai là phải làm được những điều lạ, tức những việc hiển hách phi thường.
Câu thơ thứ nhất khẳng định điều đó. Câu thơ thứ hai mang ngữ điệu cảm thán bổ sung cho ý của câu thứ nhất: Kẻ làm trai phải can dự vào việc xoay chuyển càn khôn, biến đổi thời thế chứ không phải chỉ giương mắt ngồi nhìn thời cuộc đổi thay, an phận thủ thường, chấp nhận mình là kẻ đứng ngoài.
Thực ra, đây là sự tiếp nối khát vọng của nhân vật trữ tình trong bài Chơi xuân: Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi,/ Sinh thời thế phải xoay nên thời thế. Chân dung nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương hiện lên khá rõ qua hai câu đề. Đó là một con người mang tầm vóc vũ trụ, tự ý thức rằng mình phải có trách nhiệm gánh vác những trọng trách lớn lao.
Con người ấy dám đối mặt với cả càn khôn, vũ trụ để tự khẳng định mình. Chí làm trai của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên trên cái mộng công danh xưa nay thường gắn liền với tam cương, ngũ thường của Nho giáo để vươn tới lí tưởng xã hội rộng lớn và cao cả hơn nhiều.
Cảm hứng và ý tưởng đó phần nào xuất phát từ lí tưởng trí quân, trạch dân của các nhà Nho thuở trước nhưng tiến bộ hơn vì mang tính chất cách mạng. Theo quy luật, con tạo xoay vần vốn là lẽ thường tình, nhưng Phan Bội Châu ôm ấp khát vọng chủ động xoay chuyển càn khôn, chứ không để cho nó tự chuyển vần.
Cũng có nghĩa là ông không chịu khuất phục trước số phận, trước hoàn cảnh. Lí tưởng tiến bộ ấy đã tạo cho nhân vật trữ tình trong bài thơ một tầm vóc lớn lao, một tư thế hiên ngang, ngạo nghễ thách thức với càn khôn. Hai câu thực thể hiện ý thức về trách nhiệm cá nhân của nhà thơ, cũng là nhà cách mạng tiên phong trước cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Câu thứ ba không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình ở trên đời mà còn hàm chứa một tâm niệm: Sự hiện diện của ta không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích; vì vậy, ta phải làm một việc gì đó lớn lao, hữu ích cho đời. Câu thứ tư có nghĩa là ngàn năm sau, lẽ nào, chẳng có người nối tiếp công việc của người đi trước. “Cái tôi công dân” của tác giả đã được đặt ra giữa giới hạn trăm năm của đời người và ngàn năm của lịch sử.
Sự khẳng định cần có tớ không phải với mục đích hưởng lạc mà là để cống hiến cho đáng mặt nam nhi và lưu danh hậu thế. Câu hỏi tu từ cũng là một cách khẳng định mãnh liệt hơn khát khao cống hiến và nhận thức đúng đắn của tác giả: Lịch sử là một dòng chảy liên tục, cần có sự góp mặt và gánh vác của nhiều thế hệ nối tiếp nhau.
Trong bốn câu thơ đầu, những hình ảnh kì vĩ của thiên nhiên như càn khôn, trăm năm, muôn thuở đã thể hiện cảm hứng lãng mạn bay bổng, chính là cội nguồn sức mạnh niềm tin của nhân vật trữ tình.
Ở những năm đầu thế kỉ XX, sau thất bại liên tiếp của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, một nỗi bi quan, thất vọng đè nặng lên tâm hồn những người Việt Nam yêu nước. Tâm lí an phận thủ thường lan rộng.
Trước tình hình đó, bài thơ Lưu biệt khi xuất dương có ý nghĩa như một hồi chuông thức tỉnh lòng yêu nước, động viên mọi người đứng lên chống giặc ngoại xâm. Trong hai câu luận, Phan Bội Châu đặt chí làm trai vào hoàn cảnh thực tế của lịch sử đương thời:
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Lẽ nhục – vinh mà tác giả đặt ra gắn liền với sự tồn vong của đất nước và dân tộc: Non sông đã chết, sống thêm nhục. Ý nghĩa của nó đồng nhất với quan điểm: Chết vinh còn hơn sống nhục trong thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cuối thế kỉ XIX.
Câu thơ thứ 5 bày tỏ một thái độ dứt khoát, được thể hiện bằng ngôn ngữ đậm khẩu khí anh hùng, bằng sự đối lập giữa sống và chết. Đó là khí tiết cương cường, bất khuất của những con người không cam chịu cuộc đời nô lệ tủi nhục. Ý thơ mới mẻ mang tính chất cách mạng. Ở câu thứ 6, Phan Bội Châu đã thẳng thắn bày tỏ ý kiến trước một thực tế chua xót là ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo đối với tình cảnh nước nhà lúc bấy giờ.
Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích được gì trong buổi nước mất nhà tan. Cho nên nếu cứ khư khư theo đuổi thì chỉ hoài công vô ích mà thôi. Tất nhiên, Phan Bội Châu chưa hoàn toàn phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo, nhưng đưa ra một nhận định như thế thì quả là táo bạo đối với một người từng là đệ tử của chốn cửa Khổng sân Trình.
Dũng khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết bắt nguồn từ lòng yêu nước thiết tha và khát vọng cháy bỏng muốn tìm ra con đường đi mới để đưa nước nhà thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than. Phan Bội Châu cho rằng nhiệm vụ thiết thực trước mắt là cứu nước cứu dân, là Duy tân, tức là học hỏi những tư tưởng cách mạng mới mẻ và tiến bộ. Bài thơ không đơn thuần là chỉ để bày tỏ ý chí mà thực sự là một cuộc lên đường của nhân vật trữ tình:
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Các hình ảnh kì vĩ trong hai câu kết mang tầm vũ trụ: bể Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc. Tất cả như hòa nhập làm một với con người trong tư thế bay lên. Trong nguyên tác, hai câu 7 và 8 liên kết với nhau để hoàn chỉnh một tứ thơ đẹp: Con người đuổi theo ngọn gió lớn qua biển Đông, cả vũ trụ bao la Muôn lớp sóng bạc cùng bay lên (Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi).
Tất cả tạo thành một bức tranh hoành tráng mà con người là trung tâm được chắp cánh bởi khát vọng lớn lao, bay bổng lên trên thực tại tối tăm khắc nghiệt, lồng lộng giữa trời biển mênh mông. Bên dưới đôi cánh đại bàng đó là muôn trùng sóng bạc dâng cao, bọt tung trắng xóa, dường như muốn tiếp sức cho con người bay thẳng tới chân trời mơ ước. Hình ảnh đậm chất sử thi này đã thắp sáng niềm tin và hi vọng cho một thế hệ mới trong thời đại mới.
Thực tế thì cuộc ra đi của Phan Bội Châu là một cuộc ra đi bí mật, tiễn đưa chỉ có vài ba đồng chí thân thiết nhất. Dù phía trước chì mới le lói vài tia sáng của ước mơ, nhưng người ra đi tìm đường cứu nước vẫn hăm hở và đầy tin tưởng. Sức thuyết phục, lôi cuốn của bài thơ chính là ở ngọn lửa nhiệt tình đang bừng cháy trong lòng nhân vật trữ tình.
Bài thơ đã thể hiện hình tượng người anh hùng trong buổi lên đường xuất dương lưu biệt với tư thế kì vĩ, sống ngang tầm vũ trụ. Người anh hùng ấy ý thức rất rõ ràng về “cái tôi công dân” và luôn khắc khoải, day dứt trước sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được viết theo bút pháp ước lệ và cường điệu, rất phù hợp với mục đích cổ vũ, động viên. Giọng thơ vừa sâu lắng, da diết, vừa sôi sục, hào hùng, mang âm hưởng tráng ca. Nỗi đau đớn, niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng tư tưởng cách mạng đã thổi hồn vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh trong bài thơ. Âm hưởng hào hùng của bài thơ có sức lay động, thức tỉnh rất lớn đối với mọi người.
Đây là bài thơ từ biệt mà cũng là lời kêu gọi, thúc giục lên đường. Tầm vóc bài thơ hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng mộ và tin tưởng. Trong tác phẩm Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925) tác giả Nguyễn Ái Quốc đã suy tôn Phan Bội Châu là: bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập được hai mươi triệu đồng bào trong vòng nô lệ tôn sùng.
Phân Tích Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương Hay Nhất – Mẫu 4
Những năm đầu thế kỉ XX, đất nước ta một lần nữa lại bị ngoại bang xâm lược; những cuộc kháng chiến nổ ra khắp trong cả nước. Người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu là lá cờ đầu kháng chiến, ông không chỉ có con đường cứu nước mới mẻ mà ông còn để lại một kho tàng văn học lớn, có sức cổ động mạnh mẽ, trong đó không thể không nhắc đến bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương”. Bài thơ không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc mà còn nói lên “chí làm trai” khác biệt.
Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905 giữa tình hình đất nước đang chìm trong ách kìm kẹp của chế độ thực dân. Là người chủ trương trong phong trào Duy Tân, ông tìm đường cứu nước bằng cách sang Nhật. Trước khi xuất dương, ông đã làm bài thơ để gửi tặng những người bạn của mình, cũng để bày tỏ tinh thần yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc của chính bản thân.
“Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”.
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời).
Thời phong kiến, chí làm trai tức là phải tề quốc, trị gia bình thiên hạ. Người con trai phải có sự nghiệp, công danh, giúp dân giúp nước. Nhưng với Phan Bội Châu, ông lại muốn “làm trai phải lạ ở trên đời”. Cái “lạ” ở đây tức là ông muốn làm những điều khác thường, “xoay chuyển được càn khôn”.
Nếu như Nguyễn Công Trứ chỉ ở mức “Chí làm trai nam bắc tây đông/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển”, Phạm Ngũ Lão: “Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” thì Phan Bội Châu lại muốn thay đổi càn khôn, không chịu khuất phục sự sắp đặt trong trời đất.
Vần xoay vũ trụ theo ý chí mình, bước qua khỏi ranh giới an toàn, đi tìm một chân trời mới. Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu mang đến quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới, tạo ra một ý tưởng thật lớn lao, mạnh mẽ. Đó cũng là lời khẳng định sức mạnh của con người giữa vũ trụ bao la.
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?)
Hai câu thơ thực trong bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” của Phan Bội Châu tiếp tục khẳng định cho chí làm trai lớn lao. Không chỉ “xoay chuyển càn khôn” mà chí làm trai còn cần gắn liền với ý thức trách nhiệm với dân tộc.
Từ “tớ” được xem như là một danh xưng của chính tác giả, một ý thức trách nhiệm trước thời cuộc. Từ “tớ” trong câu thơ dịch cũng tạo nên sự ngông nghênh, bộc lộ một cái tôi tích cực. Câu hỏi ngỏ “Sau này muôn thuở há không ai?”, Phan Bội Châu đã không chỉ khẳng định được cái tôi trách nhiệm với đất nước mà còn bày tỏ được sự tin tưởng, khát vọng về “khoảng trăm năm”, ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
Tác giả không hướng về riêng quá khứ mà còn là hiện tại, tương lai. Đó cũng chính là bài học dành cho thế hệ trẻ của đất nước, luôn phải có cái tôi mạnh mẽ, dám hi sinh vì dân tộc.
Nếu như trước đây cổng Trạng sân Trình là niềm khát khao, niềm tự hào của rất nhiều người; đặc biệt là đối với nam nhi, đó là con đường gầy dựng sự nghiệp thì giờ đây Phan Bội Châu chỉ còn biết thở dài:
“Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”.
“Non sông đã chết” – câu thơ thật đau lòng làm sao!. Đất nước, non sông giờ đây đang bị giày xéo dưới bước chân của những kẻ ngoại bang. Đối với những người theo Nho giáo như ông, còn gì đau lòng hơn khi sách vở, công danh cũng không giúp gì được cho Tổ quốc.
“Hiền thánh còn đâu học cũng hoài” ở đây không phải Phan Bội Châu muốn phủ định đi sách thánh hiền mà là giữa thời cuộc, ông chọn đi theo con đường giải cứu đất nước, đọc sách, thi cử công danh trong thời cuộc ấy có ý nghĩa gì.
Nhà chí sĩ Phan Bội Châu quả là con người có tầm nhìn cao rộng. Với ông, thời khắc ấy không có gì đau lòng hơn là nỗi đau mất đi sự tự do trên chính dân tộc mình. Ông sẵn sàng bỏ đi lợi ích cá nhân để tìm thấy lợi ích chung cho dân tộc. Trong những năm đầu thế kỉ XX, đây quả thực là một quyết định táo bạo, trở thành tư tưởng mới, ánh sáng mới.
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”,
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Cánh buồm giăng giữa muôn trùng ngàn khơi tạo nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn. Ý chí của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu cũng tựa như con thuyền ấy, ra khơi giữa mây ngàn sóng nước, trước mặt với vô vàn thử thách; nhưng ra đi với tâm thế mạnh mẽ; không lo sợ sóng gió.
Câu thơ “thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” được dịch nghĩa là “muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”, câu thơ dịch nghĩa chưa sát với nguyên tác, hình ảnh còn bay bổng, lãng mạn hoá; làm giảm đi tinh thần mạnh mẽ, ý chí quyết tâm ra đi cứu nước.
Hình ảnh đối lập giữa sự nhỏ bé của con người với sự bao la của vũ trụ tạo nên hình tượng sử thi, tạo nên một bức tranh vô cùng hoành tráng với ước vọng bay lên, tạo nên một chân trời mới. Câu thơ cũng khẳng định sự quyết tâm, tự tin về sự thay đổi trong tương lai.
Trang thơ của nhà ái quốc Phan Bội Châu với hình ảnh đấng nam nhi muốn làm ngược lại với quy luật tự nhiên, cái tôi cá nhân cùng với trách nhiệm với Tổ quốc. Bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, giọng văn hào sảng, mạnh mẽ đã tạo nên hình ảnh phi thường của người chí sĩ ra đi cứu nước. Bài thơ đã tạo nên một luồng gió mới trong thơ văn, một vài ca mới trong cuộc chiến chống quân xâm lược Pháp đầu thế kỉ XX.
Chí làm trai của Phan Bội Châu không chỉ có ý nghĩa trong thời điểm ấy mà đến thế kỉ XXI hay mãi mãi về sau, đó là bài học, là tấm gương cho lớp lớp thế hệ về tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm; biết đương đầu với khó khăn, thử thách; loại bỏ cái tôi cá nhân để hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc.
Phân Tích Bài Thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương Đặc Sắc – Mẫu 5
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Văn học vì lẽ đó vẫn luôn song hành với mỗi bước đi của lịch sử. Văn học Việt Nam đã ghi nhận rất nhiều cây bút cùng những tác phẩm nổi bật trong thời đại văn học. “Xuất dương lưu biệt” với tinh thần nhiệt huyết, quyết tâm đi tìm con đường cứu nước của Phan Bội Châu cũng được đánh giá là một tác phẩm như thế.
Đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, gây ra bao cảnh lầm than cơ cực cho dân tộc, cho nhân dân. Nhiều phong trào yêu nước đồng loạt nổ ra nhưng thất bại, báo hiệu việc đi theo con đường phong kiến đã không còn phù hợp. Trước tình trạng bế tắc con đường cứu nước, Phan Bội Châu đã đứng lên thành lập Duy tân hội, phát động phong trào Cách mạng mới mang tên “Đông du”.
Năm 1905, Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật Bản, bắt đầu tìm kiếm con đường cứu nước của mình. “Xuất dương lưu biệt” được sáng tác vào thời điểm trước khi ông khởi hành, gửi gắm ý chí quyết tâm, sự hăm hở và tinh thần yêu nước sâu sắc của ông.
Ngay từ hai câu thơ mở đầu, Phan Bội Châu đã bộc lộ hoài bão và chí khí của mình:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)
Hai câu thơ với nhịp điệu dứt khoát đã nói lên suy nghĩ của Phan Bội Châu về 3 chữ quyết định trong cuộc đời đấng nam tử – “chí làm trai”. Ông cho rằng, nam tử phải làm được chuyện lạ ở trên đời, có khát vọng và làm chủ thế sự.
Họ là những người chủ động trước mọi thăng trầm của thời đại, không chấp nhận cuộc đời mà trời đất tự xoay vần, sắp đặt. Đây là tư tưởng vô cùng táo bạo. Để rồi khi soi chiếu vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, chúng ta có thể nhận ra lời mà tác giả đang tự nói với mình, nói với những người nam nhi thời ấy.
Đất nước đang rơi vào tình cảnh hiểm nguy, nam nhi phải đứng lên lập lại thời thế, xoay chuyển thực tại, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại chủ quyền cho đất nước, khẳng định vị trí của chính mình:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?)
Lấy trăm năm (bách niên) hữu hạn đặt cạnh muôn thuở (khởi thiên) vô hạn, phủ định để khẳng định, Phan Bội Châu một lần nữa nhấn mạnh tiêu chí của đấng nam tử. Không chỉ chủ động trước thời cuộc, không chỉ làm những việc lạ, người nam tử còn mong muốn hoàn thành những chuyện lớn lao, vượt lên cả giới hạn của chính mình, gánh trên vai không chỉ việc mình mà còn cả việc đời.
Câu hỏi “Trong khoảng trăm năm cần có tớ/ Sau này muôn thuở há không ai?” chính là lời khẳng định của tác giả về cái “tôi” cá nhân. Không rụt rè, không ẩn hiện, ý thức về cái “tôi” đến đây được thể hiện vô cùng rõ ràng. Tự nhận thấy vai trò và sứ mệnh của mình đối với thời thế và khát vọng công danh thôi thúc, nhân vật trữ tình đã can đảm đứng ra giữa cuộc đời.
Không những thế, Phan Bội Châu còn nhìn thấy cả sự lỗi thời, lạc hậu của quan điểm Nho gia:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài)
Người nam tử đã ý thức được thực tại rằng non sông đã mất chủ quyền, đất nước bị giặc ngày đêm giày xéo. Bấy nhiêu năm theo học “thánh hiền” không giữ được non sông, học cũng hoài phí, sống thêm nhục nhã, vô nghĩa.
Man mác nỗi xót xa, nhưng hai câu thơ đã đưa ra nhận định đúng đắn về thời thế, về thực trạng nước nhà dứt khoát, sáng suốt. Phan Bội Châu đã tỉnh táo nhận ra Nho học không còn phù hợp với thời điểm hiện tại, cần tiếp thu những tư tưởng và con đường mới, phù hợp hơn, phục vụ cho sự nghiệp cứu nước.
Hoài bão lớn lao đã bùng cháy lên trong suy nghĩ của người nam tử yêu nước, ông xuất phát ra đi tìm đường cứu nước với tư thế hiên ngang và tràn đầy hi vọng:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.”
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi)
“Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” là hình ảnh biểu tượng cho ý chí, khát vọng của người chí sĩ cách mạng. Hai câu thơ với những hình ảnh trừu tượng kì vĩ và lớn lao đã thể hiện khát khao, mong muốn và khí thế của người chí sĩ yêu nước, nguyện vượt cả Biển Đông, vượt mọi giới hạn để hoàn thành chí lớn, hoàn thành sự nghiệp vĩ đại.
Khép lại bài thơ, có thể đánh giá “Xuất dương lưu biệt” là một khúc ca khởi hành mang âm hưởng lạc quan và tràn đầy hi vọng. Bài thơ vừa thể hiện tư thế hiên ngang, quyết tâm của Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương đi cứu nước, vừa có giá trị thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ thanh niên thời bấy giờ.
Chính bởi những giá trị đó, “Xuất dương lưu biệt” xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học với giá trị sâu sắc, xứng đáng được thế hệ mai sau lưu giữ đến ngàn đời.