Bên Kia Sông Đuống Của Hoàng Cầm [Nội Dung + Phân Tích]

Bên Kia Sông Đuống [Hoàng Cầm] ❤️️ Nội Dung, Phân Tích ✅ Tìm Hiểu Chi Tiết Về Ý Nghĩa, Nghệ Thuật, Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ.

Nội Dung Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Của Hoàng Cầm

Nhắc đến nhà thơ Hoàng Cầm thì không thể nào không nhắc đến thi phẩm Bên kia sông Đuống của ông. Dù đã ra đời rất lâu nhưng giá trị của bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn đến ngay hôm nay. Sau đây là nội dung của bài thơ Bên kia sông Đuống, cùng thưởng thức ngay nhé!

Bên kia sông Đuống
Tác giả: Hoàng Cầm

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu?
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu, về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu, về đâu?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
Con là ai? – Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
– Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời khôn nói năng

Đêm buông sâu xuống dòng sông Đuống
Ta mài lưỡi cuốc
Ta uốn lưỡi liềm
Ta vót gậy nhọn
Ta rũa mác dài
Ta xây thành kháng chiến ngày mai
Lao xao hàng cây bụi chuối
Im lìm miếu đổ chùa hoang
Chập chờn đom đóm bay ngang
Báo tin khủng khiếp
Cho giặc kinh hoàng
Từng từng tiếng súng vang vang
Trong đêm khuya thoảng cung đàn tự do
Thuyền ai thấp thoáng bến Hồ
Xoá cho ta hết những giờ thảm thương

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo lên đống lửa
Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi… cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ trại tù
Căm căm gió rét mịt mù mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”

Em ơi, đừng hát nữa lòng anh đau
Mẹ ơi, đừng khóc nữa dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm trong tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười

Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

Đọc thêm bài thơ 🌿Chùa Hương [Nguyễn Nhược Pháp]🌿Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống

Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Bên kia sông Đuống, nhà thơ Hoàng Cầm đã từng chia sẻ như sau:

Quê hương gia đình của Hoàng Cầm ở nam phần tỉnh Bắc Ninh ngay bên bờ sông Đuống. Khi giặc Pháp chiếm nam phần Bắc Ninh thì Hoàng Cầm đang công tác ở Việt Bắc.

Đầu năm 1948, bọn giặc đã chiếm đóng làng của ông, nào là lập hội tề ngay ở làng ấy và đốt đình chùa, phá chợ, cướp bóc của cải, đàn áp dân lành. Làng mạc tan tác, bố mẹ vợ con bị ly tán. Chính gia đình nhà thơ cũng bị tan tác không biết di đâu, sống chết ra sao. Khi biết được tin đó, nhà thơ Hoàng Cầm ngổn ngang trong lòng vì nỗi lo lắng về gia đình, vợ con tràn ngập trong tim nên đã viết nên bài thơ Bên kia sông Đuống.

Bài thơ được đăng lần đầu tiên trên báo Cứu Quốc tháng 6/1948. Nó được phổ biến nhanh chóng từ Việt Bắc tới khu III, khu IV, vào miền Nam và ra tận Côn Đảo.

Ý Nghĩa Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống

Bài thơ Bên kia sông Đuống đã tái hiện những bi thương, mất mát của quê hương trong chiến tranh, đồng thời lên tiếng tố cáo tội ác của giặc. Thông qua đó, tác giả muốn thể hiện tình yêu quê hương mãnh liệt đồng thời cũng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của ông. 

Đọc hiểu tác phẩm🌿Tống Biệt Hành [Thâm Tâm] ❤️️ Nội Dung, Phân Tích

Đọc Hiểu Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống

Hướng dẫn trả lời các câu hỏi đọc hiểu của bài thơ Bên kia sông Đuống.

Đọc đoạn thơ và trả lời các câu hỏi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Năm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
(Trích Bên kia sông Đuống – Hoàng cầm,Dẫn theo Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, Sđd)

👉Câu 1. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào? Nêu tác dụng của thể thơ đó.

Đáp án:

  • Đoạn thơ được viết theo thể thơ tự do (không bị trói buộc bởi các quy định về số tiếng ở mỗi dòng thơ, về cách gieo vần, ngắt nhịp; không có những khái niệm về niêm, luật, đối…)
  • Tác dụng: có ưu thế trong việc chuyển tải những trạng thái cảm xúc phong phú, phức tạp và bộc lộ dòng tâm trạng với những biến đổi linh hoạt…

👉Câu 2. Hãy chỉ ra những từ láy được tác giả sử dụng trong đoạn thơ. Cảm nhận từ láy “nghiêng nghiêng”.

Đáp án:

  • Từ láy được sử dụng trong đoạn văn trên là: Lấp lánh, nghiêng nghiêng, xanh xanh, biêng biếc, xót xa.
  • Từ láy “nghiêng nghiêng” tạo ra một hình ảnh thơ lạ, là cách nhân hóa con sông Đuống như một sinh thể có linh hồn, vừa duyên dáng vừa đầy ưu tư, chất chứa bao tâm trạng trong suốt chiều dài của cuộc kháng chiến.

👉Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên.

Đáp án: Nội dung chính của đoạn thơ trên là:

  • Dòng hồi tưởng về quá khứ bình yên, tươi đẹp của quê hương Kinh Bắc:
    • Dòng sông Đuống trong trẻo, êm đềm, duyên dáng: một dòng lấp lánh, nằm nghiêng nghiêng…
    • Những bờ bãi màu mỡ, phì nhiêu, ngập tràn sự sống: xanh xanh, biêng biếc…
  • Nỗi xót xa, đau đớn trước thực tại quê hương bị giặc chiếm đóng:
    • Cảm giác bàng hoàng, xót xa: sao nhớ tiếc, sao xót xa…
    • Nỗi đau đớn tột cùng: như rụng bàn tay…

👉Câu 4. Xác định và nêu ngắn gọn giá trị của biện pháp tu từ trong dòng thơ cuối.

Đáp án:

  • Trong dòng thơ cuối, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “Sao xót xa như rụng bàn tay”.
  • Tác dụng: Diễn tả một cách cụ thể cảm giác bàng hoàng, đau đớn khi nghe tin quê hương rơi vào tay giặc – như mất đi một phàn thân thể của chính mình. Qua đó, nhà thơ bày tỏ tình cảm gắn bó sâu nặng, máu thịt với quê hương.

Nghệ Thuật Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống

Tổng kết các giá trị nghệ thuật trong bài thơ Bên kia sông Đuống:

  • Phương thức biểu đạt chính của bài thơ trên là: Miêu tả và biểu cảm.
  • Cụm từ “Bên kia sống Đuống” được lặp lại như một điệp khúc tạo ra điểm nhấn trong cảm xúc của nhà thơ. 
  • Nét đặc sắc của bài thơ là tác giả đã tạo nên được một nhạc điệu khá độc đáo: vừa dạt dào tuôn chảy, vừa trầm buồn. 
  • Sử dụng nhiều từ láy như : Lấp lánh, nghiêng nghiêng, xanh xanh, biêng biếc, xót xa,…
  • Sử dụng biện pháp tu từ so sánh, biện pháp nghệ thuật đối chiếu tương phản.
  • Độc đáo từ vần thơ, nhịp thơ cho đến giọng điệu và cả cách xây dựng các hình tượng trong thơ.

Tìm hiểu 🍃Bài Thơ Nhớ Con Sông Quê Hương [Tế Hanh]🍃 Nội Dung, Phân Tích

10+ Bài Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Hay Nhất

Sưu tầm các bài văn phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống của tác giả Hoàng Cầm hay nhất, đọc ngay để hiểu rõ về ý nghĩa bài thơ nhé!

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Hay – Mẫu 1

Quê hương – hai tiếng gọi thiêng liêng mà bất cứ ai đi xa cũng đều muốn trở về. Quê hương đã trở thành máu thịt của ta, là hình ảnh đi vào thơ văn của biết bao nghệ sĩ. Bằng tình yêu quê hương da diết, nhà thơ Hoàng Cầm đã thể hiện sự đau xót của mình khi nghe tin Kinh Bắc bị giặc Pháp xâm lược qua bài thơ “Bên kia sông Đuống”.

Bài thơ được sáng tác năm 1948, đây là khoảng thời gian cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra hết sức ác liệt. Khi Hoàng Cầm đang công tác ở chiến khu Việt Bắc thì nghe tin quê nhà bị giặc chiếm đóng. Ngay trong đêm ấy, ông đã viết liên tục với những dòng cảm xúc đau đớn đầy căm hờn đối với quân cướp nước. Sông Đuống là dòng sông chảy qua tỉnh Bắc Ninh. Quê hương của nhà thơ ở huyện Thuận Thành thuộc phần đất phía Nam bên kia sông Đuống. Vì vậy mà ông đã lấy “Bên kia sông Đuống” đặt làm nhan đề cho tác phẩm.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương Kinh Bắc trù phú, sầm uất trước khi bị giặc xâm lược:

“Em ơi! Buồn làm chi
…..
Ngô khoai biêng biếc”

Tiếng gọi “Em ơi” và cách xưng hô anh – em thật nhẹ nhàng mà thắm thiết. Đại từ phiếm chỉ “em” gợi cho bạn đọc nhiều cách hiểu. Đây có thể là một người nào đó có quan hệ thân thiết với tác giả. Cũng có thể tác giả đang phân thân để trò chuyện với chính mình hoặc là tiếng gọi tất cả những người con yêu nước, những người đang chịu sự áp bức của quân xâm lược. Câu thơ đầu tiên vừa như một lời an ủi vừa như một lời giãi bày nỗi lòng của tác giả.

Sông Đuống đẹp một cách bình dị với những bờ “cát trắng phẳng lì” trải dài, đầy phù sa. Các từ láy “lấp lánh”, “xanh xanh”, “biêng biếc” đã thể hiện một vẻ đẹp êm đềm, thanh bình của vùng đất Kinh Bắc.

Nơi ấy có dòng sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng”, có những bãi mía, bờ dâu, những bãi ngô, bãi khoai ngút ngàn. Đó là những đặc trưng nổi bật của làng quê Việt Nam. Có làng quê nào lại không có bãi mía, bờ dâu, thửa ruộng ngô, khoai nối tiếp? Chỉ bằng vài nét gợi tả nhưng Hoàng Cầm đã giúp chúng ta nhận thấy cuộc sống của nhân dân ở đây khá no ấm. Nhưng những điều đó đã thuộc về thời gian quá khứ. Từ “ngày xưa” khiến chúng ta nhớ đến các câu chuyện cổ tích, những hoài niệm về một thời đã xa nay không còn nữa.

Dòng sông yêu thương không chỉ mang vẻ đẹp lấp lánh, hiền hòa mà nó còn là chứng nhân lịch sử. Sông Đuống được nhân hóa với tư thế “nằm nghiêng nghiêng”. Đây là tư thế nép mình khiêm tốn. Phải chăng dòng sông ấy đã chứng kiến và trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc nên giờ đây trầm lắng hơn? Sông Đuống trở nên có hồn, có hình dáng uốn lượn nhịp nhàng. Dòng sông không ở trạng thái lặng yên mà nó “trôi đi” cùng vẻ đẹp mĩ lệ, sáng lấp lánh.

Khi giặc Pháp đến xâm chiếm đất nước ta thì tất cả những gì tươi đẹp đã lùi vào dĩ vãng, để lại một bầu trời nhớ thương, nuối tiếc những tháng ngày quê hương êm ấm, yên bình:

“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”

Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau về mặt tinh thần. Mảnh đất quê hương bị giày xéo khiến trái tim tác giả không khỏi đau xót. Phải là một người yêu quê hương, gắn bó với quê hương sâu sắc thì nhà thơ mới thấu hiểu được nỗi đau ấy.

Những bãi mía, bờ dâu chỉ còn trong kí ức, trong nỗi nhớ tiếc của Hoàng Cầm khi đứng ở bên này sông nhìn về quê hương. Biện pháp tu từ so sánh cùng cụm từ “sao nhớ tiếc”, “sao xót xa” vang lên như một điệp khúc đã khắc họa sâu hơn nỗi đau mất mát. Quê hương như một phần của cơ thể con người, mất đi quê hương làm sao con người có thể không xót xa, đau đớn?

Càng nhớ tiếc về Kinh Bắc bao nhiêu thì mảnh đất ấy lại hiện rõ trong trí nhớ nhà thơ bấy nhiêu:

“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”

Tranh Đông Hồ là loại tranh dân gian được vẽ trên giấy điệp hay còn gọi là giấy gió. Nó thể hiện nét văn hóa truyền thống của đất nước. Nội dung của những bức tranh thường là các phong tục tập quán của làng quê hay là những nét vẽ về con người, con vật, về đám cưới chuột, … Màu sắc trong tranh tươi tắn khiến bức tranh trở nên sinh động, có hồn. “Màu dân tộc” trên tranh Đông Hồ chính là linh hồn, là cốt cách dân tộc Việt Nam. Quê hương ấy còn có hương thơm nồng của lúa nếp mùa bội thu.

Nhưng chiến tranh đã cướp đi tất cả:

“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
…..
Bây giờ tan tác về đâu”?

Từ láy “ngùn ngụt” không chỉ miêu tả ngọn lửa hung tàn của địch mà nó còn biểu hiện ý chí căm thù ngùn ngụt, sục sôi trong mỗi người con yêu nước. Quân ngoại xâm đã thiêu cháy hết những mái nhà êm ấm khiến vạn vật tan tác, chia lìa. Những hình ảnh “đám cưới chuột, đàn lợn” đều là những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu của dòng tranh Đông Hồ, thể hiện cuộc sống bình dị, yên ấm của con người, thể hiện nét đẹp văn hóa Việt Nam…. giờ đây bị hủy diệt trước thảm họa xâm lăng.

Vẻ đẹp của con người cũng được nhà thơ khắc họa bằng một nỗi nhớ khôn nguôi:

“Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu”

Cuộc sống của người dân nơi đây khá đủ đầy về đời sống vật chất. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của họ cũng phong phú với các phong tục nhuộm răng, ăn trầu,… Những điều ấy đã tạo nên nét riêng của con người Kinh Bắc. Người con gái Kinh Bắc vô cùng duyên dáng:

“Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng”

“Khuôn mặt búp sen” xinh xắn, thanh tú, nụ cười như nắng mùa thu dịu nhẹ mà lan tỏa đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong lòng bạn đọc. Sự liên tưởng của nhà thơ khiến câu thơ trở nên thật mềm mại, uyển chuyển. Vẻ đẹp của con người đã hòa cùng vẻ đẹp của thiên nhiên để tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, quyến rũ.

Đồng thời, nhà thơ cũng miêu tả sự tần tảo, một nắng hai sương của những người mẹ:

“Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm”

Những bà mẹ hàng ngày đã phải vất vả sớm hôm, lam lũ, hi sinh rất nhiều cho gia đình. Gánh hàng của mẹ nào có gì nhiều, mẹ chỉ có “dăm miếng cau khô”, “mấy lọ phẩm hồng”, “vài thếp giấy đầm”. Vậy mà “lũ quỷ mắt xanh” cũng cướp bóc, đánh đập làm “vết máu loang chiều mùa đông”, làm tan tác cả buổi họp chợ vốn yên bình.

Những động từ “đạp”, “khua”, “trừng trợn”, “xì xồ” diễn tả hành động tàn bạo, dã man của quân giặc. Chúng đã gây ra bao đau thương cho quê hương, dân tộc ta. Chiến tranh thật khốc liệt, chiến tranh khiến khung cảnh quê hương trở nên quạnh hiu, hoang vắng:

“Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”

Nhịp điệu câu thơ chậm rãi, nỗi buồn thương như thấm vào từng cảnh vật. Vài chiếc lá đa lác đác, thưa thớt cùng màu đỏ của máu đã loang dần, loang dần ra theo chiều đông quạnh vắng. Còn gì đau xót hơn như thế? Máu và nước mắt như đã hòa trộn vào nhau để cất lên lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa, tố cáo quân xâm lược vô nhân tính.

Chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những đứa trẻ ngây thơ, vô tội. Những đứa trẻ ngay cả trong cơn mơ cũng “thon thót giật mình” vì “tiếng súng dồn tựa sấm”, vì bóng giặc không buông tha cho bất cứ một ai dù là trẻ nhỏ. Tội ác của chúng đã in hằn vào mảnh đất quê hương, nhưng càng bị chà đạp thì nhân dân ta càng quyết tâm chiến đấu không nhụt ý chí:

“Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn”

“Bộ đội bên sông đã trở về” cùng nhân dân đứng lên chống giặc, mang lại bình yên cho quê hương, xoá hết “những giờ thảm thương” mà nhân dân phải gánh chịu. Cả quân và dân ta đã đoàn kết một lòng để quê hương sạch bóng dáng quân thù:

“Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa”

Mảnh đất Kinh Bắc sẽ trở lại trù phú, yên bình như vốn có và sự nổi dậy của quân ta đã khiến:

“Trại giặc bắt đầu run trong sương
….
Quay cuồng như xéo lên đống lửa”

Những câu thơ dài ngắn khác nhau khiến cho Nhịp thơ cũng trở nên dồn dập, hối hả diễn tả khí thế sục sôi chiến đấu của quê hương Kinh Bắc anh hùng. Trước hoàn cảnh đó, giặc “mất hồn”, “phát điên”. Chúng không thể ngờ rằng những con người nhỏ bé lại mang sức mạnh phi thường đến như vậy.

Những câu thơ cuối bài đã thể hiện một niềm mong ước thiết tha về một cuộc sống thanh bình, no ấm:

“Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”.

Hình ảnh cô gái xuất hiện với bộ yếm thắm thắt lụa hồng hiện lên thật đẹp. Người con gái Kinh Bắc đẹp một vẻ quyến rũ, thu hút trong “hội non sông”. Nhịp thơ nhanh bộc lộ sự hối hả, mong chờ ngày hòa bình để tác giả được thấy vẻ đẹp trong sáng, tươi tắn đó.

“Bên kia sông Đuống” đã thể hiện tình yêu quê hương mãnh liệt đồng thời cũng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của ông. Nhà thơ Hoàng Cầm đã tái hiện những bi thương, mất mát của quê hương trong chiến tranh, qua đó lên tiếng tố cáo tội ác của giặc.

Câu hỏi ” Bây giờ tan tác về đâu”, “Bây giờ đi đâu về đâu” cùng sự thay đổi của nhịp thơ và các hình ảnh ẩn dụ, so sánh đã khắc sâu thêm nỗi đau, nỗi căm hờn của tác giả. Có thể nói, bài thơ không chỉ là tiếng lòng riêng của Hoàng Cầm mà còn là tiếng lòng chung của những người con đất Kinh Bắc, những người con yêu nước.

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Hay Đặc Sắc – Mẫu 2

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

Mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”.

Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông. Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạn. Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt.

Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất.

Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.

Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng – biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ – biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.

Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.

Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.

Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội.

Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Sâu Sắc – Mẫu 3

Trong cuộc đời của mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và đối với nhà thơ Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông và cũng là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Khi Hoàng Cầm nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất, là đẹp đẽ nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời Bên kia sông Đuống.

Bài thơ Bên kia sông Đuống ra đời khi quê hương yêu thương Kinh Bắc của ông đã bị rơi vào tay giặc Pháp. Và đó chính là những nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh nó cú như cắt cứ cứ như trĩu nặng tâm hồn ông. Và khi đứng bên này sông Đuống đó chính là một mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia sông Đuống đó chính là một mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng của tác giả. Và đó cũng chính là một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt.

Ta như thấy được dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm như gợi ra đó chính là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ. Hơn nữa nó cũng đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Nhân vật “Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ được sử dụng đặc sắc. Tuy nhiên, ta cũng đã có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Ta cũng thật dễ bắt gặp trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, và đó cũng chỉ bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất.

Và đó như là lời an ủi đưa em về sông Đuống nhưng nó lại thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Ta cũng như đã thấy được chính trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương trong mát kia cùng với bờ cát trắng phẳng lì cứ như là chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ mãi không nguôi và còn đó chính là trù phú hai bên bờ những màu xanh bạt ngàn như bất tận của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Ta không thể nào không ấn tượng với cái dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống, đây cũng được xem là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Và dường như chính cái cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú như đã cũng giúp cho nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng và nó cũng như đã làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Khi mà đứng từ bên này, nhà thơ lại cũng như thật đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Và có lẽ đoạn thơ như đã khéo léo kết thúc bằng một hình ảnh diễn tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”.Tác giả Hoàng Cầm dường như cũng đã mượn nỗi đau của thể xác để diễn tả, nó như là để thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần.

Và có lẽ rằng phải là người coi quê hương là máu thịt của mình thì tác giả mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Và tâm trạng của nhân vật trữ tình hay tác giả đã đạt được đến mức độ điển hình.

Có lẽ rằng chính cái cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, đó như lại còn cả sự nuối tiếc, xót xa, như lai thêm lòng căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình và người dân thuận hoà vui tươi, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Chính từ những cảm xúc về nỗi đau đó, ta như có thể thấy được cảnh quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.

Và có lẽ rằng chính vùng quê Kinh Bắc nó như cũng đã có trong hoài niệm, được gợi lên bằng chính hương lúa nếp thơm nồng, hương lúa nếp như cũng là biểu tượng của cuộc sống ấm no, và cả những bức tranh Đông Hồ nó như là biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Ta dường như cũng đã thấy được chính những vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ Hoàng Cầm như thật tinh tế khi ông đã miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác như cả chia lìa của quê hương khi quân giặc tới qua các từ như “ngùn ngụt lửa hung tàn”, “ruộng khô”, “nhà cháy”, con người chia li”,… Và còn cả những loài vật cũng bị chia ly trong hoàn cảnh đó.

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Ở đây, dường như là chính những cái ảo đã hoà nhập cùng cái thực. Tác giả thật tài tình khi đã mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời vậy. Và đây dường như nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm sâu sắc, gắn bó của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hoá đẹp đẽ đã có tự hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.

Không chỉ có vậy thôi đâu mà dường như chính những hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, vẫn còn đó những nét sinh hoạt xa xưa của cha ông đó là những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà chính giấc mộng bình yên như đã được diễn ra mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

Và ta như nhận thấy được những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy ngay giờ đây cũng như đã trở nên bơ vơ, tan tác. Có thể nói cũng không còn nữa những hội hè đông vui, hay cả nhộn nhịp nữa. Xoá nhoà cái cảnh nhộn nhịp vui tươi đó mà thay vào đó chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về dường như đã càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Và cái vùng quê yên bình vùng quê Kinh Bắc nó như đã còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp đó chính là nơi được biết đến để buôn bán đông vui, sầm uất. Người đọc như có thể thấy được trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, và cả buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng

Nhưng giờ đây cảnh êm ấm thế mà dường như cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.

Và có thể nói trong niềm tiếc thương không nguôi những người, và cả những cảnh vật của quê hương, tác giả Hoàng Cầm đã dành tình cảm thật sâu sắc, sâu nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Và cả vùng Kinh Bắc trước là đất lành giờ đây bỗng hoá thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà dường như tất cả những cánh cò cũng táo tác, như thật hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Ta như thấy được chính những hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò trong những câu ca dao của thời bình nữa mà thay vào đó chính là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, như đã bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Ta như có thể thấy chính những số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm dường như cũng đã gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe doạ của đạn bom. Có lẽ là cả ban ngày lẫn ban đêm, và dường như là cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, và luôn luôn đe doạ chúng. Và cũng chính vì lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ của tác giả Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn

Có thể thấy được phần còn lại của bài thơ Bên kia sông Đuống dường như cũng đã diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên như là để đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Ta như thấy được cả giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.

Lời cảm thán, nó như chính là những niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Ta như thấy được đó chính là một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng tươi mới như đã lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Và đó chính là cô gái Kinh Bắc, cô đã hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội vậy.

Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Thi phẩm đặc sắc Bên kia sông Đuống chính là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, và đó cũng chính là sự chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình. Đồng thời cũng đã thông qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước.

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Ngắn Hay – Mẫu 4

Bên kia sông Đuống in trong tập thơ cùng tên của Hoàng cầm. Một đêm tháng tư năm 1948, đang công tác văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc, tác giả nghe tin quê hương bị giặc đánh phá nên xúc động viết ra bài thơ này. Đây là một trong những bài thơ hay nhất về tình quê hương đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.

Bằng cách trình bày khung cảnh thanh bình của quê hương sống Đuống, mảnh đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa với những nét tài hoa về hội họa dân gian, những hội hè mùa xuân đông vui, những sinh hoạt chợ búa, các nghề thủ công nổi tiếng… và tụ lại ở gánh hàng rong của mẹ già một đời tần tảo, hình ảnh những đứa em thơ… tất cả đều bị lũ giặc hung tàn tràn đến đốt phá tan tành, tác giả bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim gắn chặt với quê hương và qua đó nói lên tình yêu đất nước thiết tha, sâu đậm.

Mở đầu bài thơ, tác giả nhắc tới nét đẹp của con sống Đuống : cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc… gợi lên hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Nhưng giờ đây, tất cả đều tan tác dưới gót giày quân xâm lược. Đứng bên này sống, nhìn sang quê hương bên kia sống bị giặc chiếm, cảm xúc đau đớn của nhà thơ lên đến cực điểm: Xót xa như rụng bàn tay.

“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
…..
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?”

Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là một vùng đất mỡ màu, trù phú và có một bề dày lịch sử, văn hóa vô cùng quý báu. Nhớ tới quê hương, nhà thơ như cảm thấy hương vị đậm đà, thanh khiết của lúa nếp thơm nồng sau mùa gặt mới. Hương cốm ngọt ngào trong đêm trăng sáng Trung thu, mùi xôi nếp cái hoa vàng thơm lừng ngày giỗ, ngày Tết… để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người xa quê.

Đất Kinh Bắc là đất của thơ ca, nhạc họa và những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm. Thánh Gióng nhổ tre quật tan tác giặc Ân. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh quân Nam Hán. Lý Thường Kiệt đuổi quân Tống ở sông cầu. Chiến dịch Xương Giang của Lê Lợi – Nguyễn Trãi giết hàng vạn giặc Minh cũng diễn ra ở đấy. Bao thần thoại, truyền thuyết, cổ tích đẹp đẽ cũng ra đời từ miền đất ấy.

Đặc biệt, con người Kinh Bắc tài hoa đã sáng tạo ra một loại tranh dân gian nổi tiếng là tranh Đông Hồ với nội dung vui tươi, nét vẽ đậm đà, chân chất, màu sắc tươi tắn. Tranh nào tranh nấy như một lời chúc mừng năm mới tốt lành. Từ con người đến vạn vật đều vui với mùa xuân, nẩy nở, sinh sôi, tràn đầy sức sống :

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.

Tranh Đông Hồ đến với mọi nhà, đem niềm vui và niềm tin vào năm mới làm ăn sẽ may mắn, phát đạt. Tranh mang vẻ đẹp dân dã mà thanh tao, ý nghĩa ấm áp bao nhiêu !

Vậy mà bỗng dưng lũ giặc kia ầm ầm kéo tới, ngùn ngụt như đám cháy, hung tàn chẳng khác chi chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu. Chúng tàn phá không chừa một nơi nào:

Ruộng ta khô.
Nhà ta cháy…
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang.
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.

Nào chỉ có tang thương, đau đớn về vật chất?! Chúng nó đốt phá, cướp bóc, giết chóc… nhưng đó mới chỉ là những vết thương trước mắt, nhìn thấy rõ. Còn điều sâu xa hơn, có ai ngờ? Đàn lợn âm dương, Đám cưới chuột (tên hai bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng) tượng trưng cho quan niệm về nguồn gốc sự sống của cha ông nay cũng bị giặc tàn phá, hủy diệt. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn thế nữa?!

Lời thơ, ý thơ là vậy và âm điệu đoạn thơ cũng là một âm điệu xót xa kéo dài: Bây giờ tan tác về đâu? Giặc kéo tới cùng với đau thương, chết chóc, kinh hoàng. Bây giờ không biết mọi cái đã tan tác về đâu ? Cả thời gian lẫn không gian đều trở nên mờ mịt, xa xôi không biết đến nơi nào, đến bao giờ, khiến nỗi xót xa không còn giới hạn. Âm điệu của hai chữ về đâu nghe như một tiếng kêu xé lòng vút lên giữa thinh không, chẳng có lời đáp lại.

Đoạn thơ ngắn với hai mảng đối lập nhau : quá khứ tươi đẹp và hiện tại đau thương có tác dụng như một lời kết tội đanh thép quân xâm lược. Câu thơ cuối chứa chất xót xa, đau đớn và căm hận. Quân cướp nước sẽ phải trả nợ máu cho những tội ác của chúng đã gây ra trên quê hương, đất nước này.

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Tiêu Biểu – Mẫu 5

Đất nước – với nhừng hàng tre xanh, những cánh đồng lúa, những con đường, nơi mà chúng ta sinh ra và lớn lên, nơi chúng ta đã bảo vệ đến hơi thở cuối cùng để giữ lấy từng tấc đất, không quản “sáng ngăn bão dông, chiều ngăn nắng lửa”, nơi đó mãi mãi là niềm tự hào vô biên, mãi mãi là nguồn thơ không bao giờ cạn.

Nghĩ về đất nước, có biết bao nhà thơ đã từng xúc động nghẹn ngào, khi bình yên, họ nghe lòng rộn ràng với niềm vui xây dựng quê hương mình; khi giặc đến, họ đau đớn, xót thương quê hương bị gót giày xâm lược tàn phá, lại căm giận lũ giặc bạo tàn. Những tình cảm yêu thương, căm giận như những đợt sóng ào ào lớn lên thành một dòng cảm hứng mạnh mẽ bật lên thành thơ. Đó là bài Bên kia sông Đuống của nhà thơ Hoàng Cầm.

Bài thơ Bên kia sông Đuống đưa ta về sống với hiện thực đau thương của vùng Kinh Bắc, quê hương của thi sĩ trong những ngày mưa bom bão đạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ cổ chí kim, đã có bao nhiêu bài thơ thể hiện cảm hứng về quê hương đất nước, đó là Thăng Long thành hoài cổ với nỗi đau khắc sâu muôn kiếp, là sự khẳng định sự trường tồn của đất nước Việt Nam trong Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt,…

Tất cả những cám hứng yêu nước ấy đều xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương đất nước cúa nhà thơ, từ truyền trống “lưng đeo gươm, tay mài bút lửa” của dân tộc: Trong từng hoàn cảnh, ở mỗi thời đại, nhà thơ lại tìm cho mình một cách biểu hiện riêng.Khác với những bậc tiền bối xa xưa, Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống với một tình yêu mãnh liệt, một tình yêu đã được một sự kiện làm cho bùng cháy.

Khi ông nghe tin giặc đánh phá quê hương mình. Cái dồn nén của tình cảm vỡ ra thành những dòng chữ nghẹn ngào thấm máu và nước mắt, những dòng chữ như cắt ra từ trái tim nhà thơ với bao nhiêu xúc động mạnh mẽ, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu tình yêu, trân trọng, nâng niu, bao nhiêu nuối tiếc, nhớ nhung, bao nhiêu xót xa, cãm uất trào ra từ đầu ngọn bút. Đó phải chăng là cảm hứng lớn để ông viết lên những dòng thơ có sức lay động ghê gớm lòng người?

“Thơ chỉ tràn trong tim ta khi cuộc sống đã tràn dầy”. Thơ Hoàng Cầm đã tràn ra khi những yêu thương căm uất trong lòng nhà thơ đã lên tới đỉnh điểm.

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về bên kia sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì.

Nỗi đau ấy bật lên khi nghe tin quê hương bị giặc tàn phá khiến cho nhà thơ nức nở bởi bao nhiêu tình cảm ngổn ngang lẫn lộn. Và khi đã tỉnh lại, nhà thơ nghe như đâu đây xa xôi trong tiềm thức giấc mơ hi vọng vì tiếng hát dân ca vùng Kinh Bắc và những câu thơ đầu tiên đã tuôn trào.

Hoàng Cầm đưa ta nhớ lại “ngày xưa” – những ngày của vùng Kinh Bắc yên bình, ấm no, hạnh phúc, với tấm lòng hoài niệm xót xa, nuối tiếc với những câu thơ khắc khoải nỗi niềm. Cái cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương là niềm tự hào ngân nga trong từng câu chữ:Sông Đuống trôi điMột dòng lấp lánhNằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì.

Bên này, bên kia – sao mà đau xót! Một dòng sông mà hai khoảng trời ngăn cách

– Bên kia sông Đuống,

“Ngô khoai biêng biếc”, “xanh xanh bãi mía bờ dâu” vậy mà chiến tranh đã nổ ra những câu thơ thật đẹp nhưng đọc lên mà đau đớn:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay.

Hình ảnh “sao như rụng bàn tay” là nỗi đau được cụ thể hóa, nỗi đau của chết chóc, chia lìa. Mấy câu đầu bài thơ đã nói lên hai luồng cảm hứng chủ đạo sẽ xuyên suốt bài thơ.

Bên kia sông Đuống, đó là: yêu thương, nuối tiếc và đau đớn, căm uất. Những câu thơ nhói giữa tim ta và tan ra trong một biển tình cảm mênh mông. Mấy đoạn thơ kế tiếp nhau với một cảm hứng hoài miệm tự hào đã dựng lên trước mắt ta một vùng quê, một Kinh Bắc với những nét đẹp của truyền thống văn hóa với sự cổ kính ngàn đời, vùng quê Kinh Bắc với nỗi đau bị tàn phá lại càng nhân lên trong lòng nhà thơ những tình cảm gắn bó, yêu quê mặn mà, sâu sắc.

Nếu ở phần đầu, Hoàng Cầm hay nhắc đến những hình ảnh bình yên, thơ mộng của vùng quê trù phú vùng quan họ thì đến phần sau, ông lại hoài nhớ về những nét văn hóa của vùng quê Kinh Bắc, những nét truyền thống đặc sắc, bắt rễ sâu kín trong tâm hồn ông.

Phải chăng, khi nhớ về đất nước, đầu tiên đã nghĩ đến “giọt đàn bầu” “xoa dịu nỗi đau của mẹ” và sau đó mới nhớ đến mình là vì vậy? Nỗi nhớ đầu tiên phải là nỗi nhớ tới hương vị quê hương Việt Nam: đó là lúa nếp thơm nồng, là tranh Đông Hồ nét bút tươi trong, là tấm the đen may ác mẹ già, là hội hè đình đám, là bến chợ người dâng tơ nghẽn lối… tất cả mang màu sắc dân tộc rõ nét, rất đỗi tự hào.

Rất tự nhiên, tác giả lồng hình ảnh quê hương vào trong hình ảnh những truyền thông văn hóa, những hình ảnh con người xứ Kinh Bắc duyên dáng, dễ thương, những cô hàng xén răng đen, cắn chỉ môi trầu, những cụ bà tóc trắng, những khuôn mặt búp sen, “cười như mùa thu tỏa nắng”.

Dưới ngòi bút nhớ thương, trân trọng của Hoàng Cầm, lại nhiều hình ảnh về con người và xứ sở Kinh Bắc hiện lên duyên dáng đến kì ảo, thơ mộng đến ngọt ngào và không chỉ là nét thơ mà trở thành nét họa. Ta yêu sao những khuôn mặt của thiếu nữ ngây thơ trong trắng, kiều diễm ẩn dưới những chiếc khăn trùm đầu, như những búp sen, ta yêu sao cái cười trong sáng, hồn nhiên, trẻ trung như “mùa thu tỏa nắng”! Xứ sở Kinh Bắc đẹp đến thế, say đắm lòng người đến thế! Đúng là nét họa “màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”!

Vừa nhớ về những ngày thanh bình xưa kia, đau đớn với cái hiện thực phũ phàng, tan nát lòng người, Hoàng Cầm đã đưa ta sống trong bể căm hờn ngùn ngụt của ông, ngày giặc tới. Có thể nói cảm ứng yêu thương đã đan vào cảm hứng căm uất khiến cho mỗi lời thơ có sức cuốn hút mãnh liệt; nhà thơ lặp đi lặp lại:

Ai đã từng lớn lên từ những vùng quê “xanh xanh bãi mía bờ dâu”, “ngô khoai biêng biếc” thì mới thấy đau đớn trước màu xám xịt, toàn khói ngút trời của vùng Kinh Bắc. Đau xót biết bao khi những làn dân ca quan họ bị át đi và ruộng khoai biêng biếc cũng cháy khô với bom đạn chiến tranh – công sức, mồ hôi nước mắt người lao động cháy theo ngô khoai.

Tác giả chọn những hình ảnh đặc trưng của vùng quê Kinh Bắc với sự chia lìa, ngăn cách: “mẹ con đàn lợn âm dương”, “đám cưới chuột”, gửi tấm the đen không biết may áo cho ai… Những điệp khúc lại được nhắc đi nhắc lại: “Bây giờ tan tác về đâu” đầy nhức nhối thương đau.

Dùng thủ pháp tương phản, tác giả đã tạo nên sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, xưa và nay để nỗi đau càng thêm giằng xé, để yêu thương càng mãnh liệt và nhờ thế, căm hận cũng ngút trời, căm hận “lũ quỷ mắt xanh trừng trợn, đạp gãy quán gầy teo” thương mẹ già “Bước cao thấp trên bờ tre hun hút”. Một hình loang trước mắt ta báo hiệu sự chết chóc, sự thảm khốc của chiến tranh:

Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông.

Cái vết máu loang ấy đập vào mắt ta với lòng căm hờn tột độ. Vết máu ấy của ai? Đó là máu của những khuôn mặt búp sen “Nhừng em thơ sột soạt quần nâu”, những mẹ, những cụ già, những con người của xứ sở Kinh Bắc! Đau đớn bao nhiêu! Căm giận bấy nhiêu!

Cả một đoạn thơ dài tuôn trào lai láng những xúc cảm mãnh liệt. Bao trùm những cung bậc tình cảm thiết tha, sâu lắng về nỗi đau quê hương bị giặc tàn phá, tàn phá những truyền thống văn hóa cổ truyền, đảo lộn tất cả những sinh hoạt bình dị của con người Kinh Bắc. Phải chăng, cái đau của “đàn lợn âm dương chia lìa đôi ngã”, của đám cưới chuột tan tác trên bức tranh Đông Hồ xưa đã thôi thúc những người con của quê hương cầm lấy súng:

Bộ đội bên sông đã trở về
Con đến giờ xuất kích
Trại giặc bắt đầu rung trong sương.

Cái khát khao muốn giữ gìn sự sum họp của đám cưới chuột, của đàn lợn âm dương, giữ gìn quê hương nghìn năm văn hiến, giữ gìn truyẻn thống nghìn đời của dân tộc phải trả lời bằng tiếng súng giết giặc ngoại xâm… Ta phải chiến đấu để giành lại cho ta tất cả.

Khi quê hương có bóng giặc thù là lúc ấy ta hiểu con người đúng nhất. Ta sẵn sàng đứng lên cầm súng đuổi giặc, mặc dù có thể đổ máu mình để được độc lập tự do, Hoàng Cầm ước mơ một ngày:

Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra biển
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối

Bao nhiêu nỗi đời…Thì ta lại “về Bên kia sông Đuống”. Một ước mơ chân thành và giản dị như người Kinh Bắc nhưng đau đáu một nỗi niềm và lấp lánh niềm tin vào sự thắng lợi của dân tộc với kẻ thù hung bạo nhất. Tình yêu đất nước của Hoàng Cầm là luồng ánh sáng của niềm tin và hi vọng – ta phải chiến thắng, phải được trở về bên kia sông Đuống, tìm em, em lại thắt lụa hồng, mặc yếm thắm như những cô gái Kinh Bắc ngày xưa cùng “trẩy hội non sông”:

Bài thơ Bên kia sông Đuống khép lại trong nụ cười cô gái Kinh Bắc duyên dáng “Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” nhưng lại mở ra bằng chân trời của mơ ước, của niềm tin yêu mãnh liệt.

Cảm hứng của bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm là tình cảm bật ra từ trái tim yêu quê hương đất nước mặn nồng, tha thiết, một tình cảm lắng đọng, trào lên mãnh liệt, nó không có nét hoài cổ như trong Thăng Long thành hoài cổ, cũng không có cái đau rõ ràng trước mắt, rõ như Quê hương của Giang Nam; nó là sự đan cài, xen lẫn của quá khứ và hiện tại, của nhớ nhung và nuối tiếc, của yêu thương và căm giận, nó bàng bạc như huyền thoại, nó tuôn ra như thác lũ với những điệp từ, điệp ngữ dội vào lòng ta đau nhói… “đi đâu, về đầu”.

Đất nước luôn là thi hứng, là đề tài muôn thưở của nhà thơ. Nhưng mỗi khi có những sự kiện vĩ đại, cảm hứng ấy vụt lớn lên và nhờ thế sẽ biến tác phẩm của nhà thơ thành những kiệt tác. Ta đừng để cho thơ thành ngẫu hứng; thần hứng khởi nguồn tự đáy lòng mình, là tiếng nói bay cao, vút lên từ nhịp tim xúc động đập gấp gáp, từ con tim đã tràn đầy tình yêu.

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Chọn Lọc – Mẫu 6

Đi theo cách mạng, rồi đi kháng chiến chống Pháp, Hoàng cầm đã là nhà thơ nổi tiếng, sống giữa núi rừng Việt Bắc, nhà thơ vẫn hướng về quê hương Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Những tin dữ về quê hương bị giặc tàn phá khiến cho nhà thơ đau đớn, xót xa, căm giận.

Trong một đêm (1948) Hoàng Cầm đã viết xong bài thơ “Bên kia sông Đuống”. Bài thơ đã được truyền rộng rãi trong kháng chiến và được coi là một trong những bài thơ hay nhất viết về quê hương đất nước trong nền văn học hiện đại của nước nhà.

Bằng âm điệu trữ tình, nhà thơ hình dung lại toàn cảnh quê hương Kinh Bắc bên kia sông Đuống:

“Em ơi buồn làm chi
….
Sao xót xa như rụng bàn tay”

Câu thơ “Em ơi buồn làm chi” là khởi hứng của bài thơ, cũng là điểm tựa cho xúc cảm trữ tình của nhà thơ. Khơi vào đúng nguồn mạch trữ tình, dòng thơ tuôn chảy trong những câu thơ tự do như không có trở lực gì ngăn cản được:

“Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”

Những câu thơ thật là tài hoa! Dòng sông yêu thương trong tâm tưởng thi nhân sao mà đẹp! Hình họa là của riêng thi nhân. Cái dáng “nghiêng nghiêng” ấy không phải trong không gian mà là trong thời gian (trong kháng chiến trường kì) mới lạ. Tình yêu của “em”, của “anh” và của mỗi chúng ta đổ dồn về dòng sông nhỏ mà sâu thẳm ấy. Màu sắc cũng thật là tha thiết, từ màu “trắng” của hoài niệm, đến màu xanh, hòa điệu của “xanh xanh” là “biêng biếc”, những sắc màu tươi đẹp của quê hương mà nghĩ đến lại thấy xót xa:

“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”

Nghệ thuật so sánh “sao xót xa như rụng bàn tay” của Hoàng cầm đã biểu hiện nỗi đau tinh thần thật là cụ thể, nỗi đau đớn tinh thần đã trở thành nỗi đau đớn của thể xác.

Quê hương Kinh Bắc bên kia sông Đuống cứ hiện dần lên trong hương vị, trong sắc màu văn hóa dân tộc:

“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”

Điệp khúc “Bên kia sông Đuống” xoáy mãi vào tâm tư người đọc. “Bên kia” gợi hình ảnh của không gian gần gũi. Chính vì vậy mà lại càng xót xa. Chỉ một khoảng cách ngắn ngủi thôi mà bên này là tự do với cuộc sống yên lành mà “bên kia” là vùng tạm chiếm với khói lửa chiến tranh, với biết bao đau thương. Trong nỗi thương nhớ, nhà thơ hồi tưởng lại hình ảnh của quê hương trù phú, tươi đẹp.

“Quê hương ta lúa nép thơm nồng” gợi hương vị đậm đà thanh khiết của miền quê. Nhà thơ gợi bằng khứu giác khiến chúng ta cảm thấy như chính nhà thơ đang sống trên quê hương của mình, như đang đi trên những cánh đồng lúa chín với mùi hương lúa mới.

Tác giả còn gợi đến truyền thống văn hóa nghệ thuật độc đáo của vùng Kinh Bắc. “Tranh Đông Hồ” còn gọi là tranh làng Hồ là một di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Đó là một loại tranh dân gian đặc sắc của những nghệ nhân làng Hồ.

Tứ thơ “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong” gợi đến những tác phẩm hội họa dân gian nổi tiếng như con gà, đàn lợn âm dương, đám cưới chuột, đánh ghen, hứng dừa… Cũng là lần đầu tiên, một nhà thơ biểu dương một hình thức nghệ thuật dân tộc như là quốc hồn quôc túy. Câu thơ “Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” vừa có ý nghĩa khái quát (màu dân tộc) lại vừa có ý nghĩa cụ thể về nghệ thuật tranh làng Hồ (sáng bừng trên giấy điệp).

Rồi những ngày khủng khiếp: Giặc Pháp tràn đến. Quê hương Kinh Bắc tươi đẹp chìm ngập trong máu lửa, điêu tàn:

“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lén ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”.

“Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”, ngọn lửa “ngùn ngụt” đó cũng là nỗi căm hờn của nhà thơ đối với quân giặc bạo tàn. Câu thơ ngắt ra đứt đoạn, khô khốc như nghẹn uất, nức nở. Giữa không khí khói lửa ngùn ngụt mà xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu” thật quá đắt, diễn tả một cách tài tình tội ác điên cuồng của lũ giặc – nó hay như hình ảnh “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình” trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn vậy.

Cuộc sống trên quê hương Kinh Bắc tan tác, chia lìa. Đến sự yên vui của loài vật trong tranh làng Hồ cũng tan tác, chia lìa:

“Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?”

Biện pháp tu từ nhân hóa đã nâng cao hiệu quả thẩm mĩ. “Mẹ con đàn lợn âm dương, chia lìa đôi ngả” đó là tranh, nhưng cũng là sự thực ngoài đời. “Đám cưới chuột… tan tác về đâu” là sự tan tác của nghệ thuật, của văn hóa, nhưng cũng là sự tan tác của cuộc sống yên vui bên kia sông Đuống. Và như vậy là nhà thơ hai lần lên án tội ác của giặc Pháp xâm lược tàn phá cuộc Sống của dân lành và tàn phá nghệ thuật độc đáo của quê hương Kinh Bắc.

Tác giả lại trở về hoài niệm. Quê hương Kinh Bắc sống dậy trong lòng nhà thơ với biết bao hình ảnh thân thương. Mỗi một tên sông, tên núi, tên chùa… đều gợi đến lịch sử, đến truyền thông văn hóa, đến truyền thuyết, đến ‘‘hội hè đình đám”. Tác giả đối lập xưa và nay: “Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” thì cuộc sống vui tươi như thế, nay thì vắng vẻ cô quạnh:

“Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu”

Hoàng Cầm có biệt tài chỉ chấm phá một vài nét là những khuôn mặt của quê hương Kinh Bắc hiện lên biết mấy thân thương:

“Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu”.

Những cô gái của quê hương quan họ hiện lên như những bông hoa tươi thắm:

“Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”

Khuôn mặt “vàng” của thiếu nữ là khuôn mặt “trái xoan” (trái sầu đông). Hoàng cầm lại phát hiện ra “khuôn mặt búp sen”, ít thiên về hình họa mà thiên về tinh thần như có hương có sắc, có tấm lòng trân trọng của nhà thơ đôi với vẻ đẹp của thiếu nữ Kinh Bắc. Những mẹ già bên kia sông Đuống, qua cái nhìn và nét bút của Hoàng cầm làm động lòng hết thảy chúng ta:

“Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo”

Yêu quê hương Kinh Bắc sâu sắc, nặng tình nặng nghĩa với mỗi con người của quê hương ruột thịt, lại từng trải và lịch lãm, nên mỗi chữ thơ của Hoàng Cầm nặng trĩu tấm lòng của thi nhân. Chữ “còm cõi” tràn đầy xót thương. “Mẹ già nua còm cõi” mà “gánh hàng rong” của mẹ cũng “còm cõi” với “dăm miếng cau khô” queo quắt với “mấy lọ phẩm hồng” lòe loẹt không giấu được cái nghèo của gánh hàng rong.

“Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm”

Câu thơ “đầm hoen” nước mắt của thi nhân, đọc thấy cay nơi con mắt.

Tác giả lại sử dụng nghệ thuật đối lập, một bên là “mẹ già nua còm cõi” một bên là “lũ quỷ mắt xanh”, “khua giày đinh” càng làm nổi bật sự tàn bạo của bọn giặc xâm lược. Tác giả còn phụ họa bằng hình ảnh của thiên nhiên thật là tài tình. Những chiếc lá đa lác đác trước lều rụng rơi, chia lìa, chết chóc. Và khi “Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong, Bước cao thấp bên bờ tre hun hút” thì lại:

“Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu”

Một đường trắng ngang qua sông Đuống lạnh cả không gian, thảng thốt, kinh hoàng.

Hoàng Cầm lại đau lòng nghĩ đến đàn con thơ trong vòng vây của lũ giặc bạo tàn:

“Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lẩy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây, tiếng súng dồn tựa sẩm
Ú ớ can mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc giày vò những nét môi xinh”

Trong chiến tranh còn gì đáng thương hơn là trẻ thơ! Ta đã từng xúc động với lũ trẻ trong bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu: “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”. Giờ đây lại chính là những đứa con của thi sĩ Hoàng cầm bên kia sông Đuống, đói khát “ngày tranh nhau một bát cháo ngô”, bom đạn đe dọa “đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn”. Tiếng súng giặc đã dội vào “giấc thơ ngây” của trẻ thơ và khuếch đại lên trong trái tim thi nhân thành tiếng sấm!

“Trong giấc thơ ngây, tiếng súng dồn tựa sẩm”

Hoàng Cầm yêu tha thiết quê hương Kinh Bắc, gắn bó máu thịt với từng “bãi mía bờ dâu” với nền văn hóa lâu đời và độc đáo, với những con người đáng thương đáng mến, với truyền thông đấu tranh bất khuất của quê hương.

Hoàng Cầm cũng rất mực tài hoa và giàu cảm xúc. Chỉ một đoạn thơ, ta cũng nhận ra được những nét đặc sắc của bài thơ “Bên kia sông Đuống”. Bằng âm điệu phong phú của thể thơ tự do, bằng nghệ thuật tạo hình điêu luyện, tác giả đã diễn tả được hình ảnh của quê hương Kinh Bắc thân yêu đang chìm trong máu lửa và tình cảm xót xa, đau đớn, thương cảm của nhà thơ đối với quê hương đang bị giặc giày xéo.

Từng câu thơ cháy lên ngọn lửa căm thù ngùn ngụt trong lòng thi sĩ. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” gợi lên niềm xúc động lớn lao và cho chúng ta yêu sâu đậm thêm những giá trị tinh thần trên quê hương đất nước thân yêu của mình.

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Ấn Tượng – Mẫu 7

Độc giả từng biết đến một Tràng Giang đượm nỗi buồn thế hệ trong thơ Huy Cận. Người đọc cũng đã từng thấy một dòng sông Đà vừa dũng mãnh, vừa nên thơ và đầy bí ẩn trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Chúng ta cũng từng bắt gặp một dòng sông Hương thơ mộng trong Ai đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường và dòng sông Đuống nghĩa tình trong “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm.

“Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì”

Trong hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã để nhân vật “em” xuất hiện nhưng không xác định được chính xác là ai. Tiếng “em” vừa hư ảo vừa chân thật, khiến độc giả mường tượng ra đó có thể là người thương của tác giả ở nơi quê. Hoặc cũng có thể là một nhân vật trữ tình mơ hồ nào đó bất chợt xuất hiện trong tâm tưởng của nhà thơ. Nhưng có thể có cách lý giải khác, “em” ở đây chính là tác giả.

Tác giả đang gọi chính mình để vỗ về, an ủi và chia sẻ nỗi đau của quê hương. Que hương Kinh Bắc là nơi nổi tiếng với văn hóa giao duyên qua những làn điệu quan họ. Có lẽ bởi thế mà nhà thơ xây dựng nhân vật “em” như một cách để giải bày nỗi lòng của mình, tha thiết, da diết hơn.

Khi có “em” bên cạnh, tác giả bắt đầu đưa về dòng sông Đuống. Để rồi những câu ca sau, liên tục là những hình ảnh, ca từ miêu tả vẻ dòng sông chở nặng phù sa này. Đó là sông Đuống ngày xưa cát trắng phẳng lì. Dòng sông đẹp lấp lánh, láp lánh không chỉ của cát, mà còn lấp lánh ánh sáng của ánh mặt trời, của bình mình, lấp lánh của ánh trăng sao xuống mặt sông xanh trong.

Tác giả không chỉ nhớ về vẻ đẹp lấp lánh diệu kỳ ấy mà còn nhớ cả dáng hình, thế đứng của dòng sông trong dòng chảy lịch sử: “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”. Tác giả nhớ hai bên dòng sông còn có những bãi mía, bờ dâu xanh mướt, ngô khoai cũng xanh biêng biếc. Một bức tranh về dòng sông thật yên ả thanh bình. Thật sự rất rất gắn bó với dòng sông sâu sắc thì tác giả mới có thể viết lên những câu thơ gợi hình, gợi cảm xúc đến vậy.

“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”

Thế nhưng, bức tranh dòng sông quê giàu đẹp, trù phú đó đang bị giày xéo bởi lũ giặc thối nát. Vì thế, dù đang ở nơi xa, nhưng tác giả như đang thấy hiện rõ khung cảnh quê hương hoang tàn. Ông đau thương, “xót xa như rụng bàn tay”.

Một cách ví von nỗi đau thật độc đáo và khác lạ. Ông xem dòng sông như một phần của cơ thể. Là đôi bàn tay làm nên tất cả của ông. Thế mà giờ đây, dòng sông ấy đang bị chịu bao đau thương, bao khổ cực, chỉ nghĩ đến thôi ông cũng thấy đau nhói như mất đi một phần thân thể. Đọc câu thơ của tác giả, người đọc cảm nhận được, thấy được hình hài nỗi đay ấy.

Phân tích bài thơ thơ Bên kia sông Đuống ở những khổ thơ tiếp theo, độc giả sẽ thấy rõ hơn những đường nét của bức tranh quê của nhà thơ Hoàng Cầm, lúc yên bình và lúc bị giặc giày xéo.

“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

……………………………..

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?”

Nỗi đau như rụng bàn tay ấy khiến trong tâm trí tác giả hiện lên đủ hình hài, vẻ đẹp của quê hương. Bên kia dòng sông là một là quê lúa nếp thơm nồng, với những tranh Đồng Hồ nổi tiếng mang cả linh hồn đất nước. Ấy thế nhưng, quân giăc đã đến và chà đạp không thương tiếc.

Chúng đốt nhà đốt cửa, với mũi lê sắc nhọn trong tay, chúng lùng sục khắp “kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang” để bắt bớ, giết chóc dân lành. Tác giả ví chúng như những con chó săn, khiến cho đàn lợn trong bức tranh Đông Hồ cũng tác tác, đám cưới chuột cũng không biết đi đâu về đâu.

Đau quá, xót quá nhưng không biết phải làm gì. Mỗi câu mỗi chữ của nhà thơ như trào dâng không ngừng, để rồi từng chút từng một bao ký ức tươi đẹp về quê hương yên bình hiện về như những thước phim quay chậm. Tác giả nhớ những địa danh gắn liền với vùng Kinh Bắc như núi Thiên Thai, chùa Bút Tháp.

Ông nhớ tiếng chuông chùa, nhớ những cụ già tóc bạc phơ nhai trầu, những em bé thì sột soạt quần nâu chơi nhảy nhót ở sân đình. Ông kể tới những làng nghề truyền thống của quê hương, bênh cạnh tranh Đông Hồ còn có những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê Cầu.

Đặc biệt, ông không thể nào quên “Những cô hàng xén răng đen? Cười như mùa thu tỏa nắng”. Một hình ảnh ví von đẹp đến lịm người. Ngày xưa các cô gái đều phải nhuộm răng, để bảo vệ rang chứ không phải làm đẹp. Thế nhưng, trong mắt nhà thơ Hoàng Cầm, những nụ cười với hàm răng ấy thật lấp lánh, thật đẹp và lãng mạn như nắng mùa thu vậy.

Qua những khổ thơ trên, độc giả càng cảm nhận rõ hơn tình yêu của nhà thơ với quê hương. Ông tự hào về tất cả những gì quê ông có. Cả những điều bình thường nhất ông vẫn tìm thấy ở đấy những nét đẹp vi diệu.

Những điều thân thương ấy ở quê đang yên bình là thế, bỗng đâu quân giặc đến tàn phá. Trong lúc đang mơ màng về quá khứ tươi đẹp, ông lại giật mình qua lại thực tại. Quê ông đang chảy máu. Những câu thơ ở các khổ thơ tiếp theo đã vẽ nên bức tranh hoang tàn của quê nhà thơ dưới sự độc ác của quân giặc. Tác giả căm phẫn viết: 

“Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo”.. 

Ông ví lũ giặc như lũ quỷ không có tính người. Chúng không tha cho mẹ già, con thơ. Chúng khiến bọn trẻ phải: “Ngày tranh nhau một bát cháo ngô/Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn” Đêm ngủ còn mơ ú ớ tiếng giặc để rồi: “Thon thót giật mình/ Bóng giặc dày vò những nét môi xinh”. Ôi, phẫn nộ làm sao, hờn căm làm sao. Người nghe đã cảm thấy hừng hực sự tức giận và chỉ muốn nhanh chóng được về đánh đuổi bè lũ cướp nước ấy đi.

Ở những khổ thơ tiếp theo, độc giả có phần hả hê hơn khi các anh bộ đội đã xuất hiện. Dưới sự che chở của dân làng, các anh bí mật hoạt động trong đêm:

“Ta mài lưỡi cuốc
Ta uốn lưỡi liềm
Ta vót gậy nhọn
Ta rũa mác dài
Ta xây thành kháng chiến ngày mai”

Những câu thơ khẳng định dồn dập các hành động vừa nhanh gọn vừa dứt khoát, vừa quyết liệt, đã nhấn mạnh tới tinh thần quyết tâm đánh đuổi kẻ thù của tác giả cũng như các anh bộ đội Cụ Hồ. Chữ “ta” ở không chỉ riêng gì tác giả mà “ta” chung của toàn thể đồng bào, của nhân dân. Ai cũng đang cố gắng làm việc để sớm đánh đuổi hết lũ giặc độc ác ấy.

Để rồi những khổ thơ tiếp theo là một bộ phim về chủ đề chiến tranh thật sống động. Từ việc bộ đội du kích cho đến hình ảnh đồn bốt giặc run sợ… đều toát lên sự nguy hiểm nhưng đầy quyết tâm và mưu trí của quân và dân trên quê hương Kinh Bắc.

“Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về

………………………..

“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”

Cuộc chiến kết thúc. Quân giặc đã đầu hàng nhưng quân mình cũng mất mát đau thương không kém. Nhưng tác giả an ủi những người mẹ già, những đứa em thơ rằng đừng quá đau lòng. Bởi thù này phải trả, không thể làm khác được.

Và bởi, tác giả tin rằng, những ngày sau “nắng sắp lên rồi/ Chân trời đã tỏ”. Ý của tác giả ở đây là tương lai đã rộng mở, ánh sáng cuối con đường đã được tìm. Vì thế, những mồ hôi, những nước mắt, những giọt máu đau thương kia hãy cứ để sông Đuống cuốn đi. Chúng ta hãy vượt qua mọi sự bi thương mất mát trước kia để có một cuộc sống tố đẹp hơn.

Và tác giả chắc chắn sẽ có lúc về bên kia sông Đuống để:

“Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”

Một niềm tin sắt son vào sự chiến thắng của kháng chiến. Niềm tin vững vào sự đoàn kết dũng cảm của người dân quê hương. Ở khổ thơ cuối, nhà thơ như gạt bỏ nước mắt, lòng đầy quyết tâm. Bởi tác giả muốn được “tìm lại em”.

Bởi tình yêu nhà thơ dành cho quê hương, cho những nét đẹp của quê hương còn quá mãnh liệt không thể gục ngã. Vì tác giả vẫn còn muốn đuộc cùng em đi trẩy hội non sông, để sống những thời khắc hạnh phúc đẹp đẽ của tuổi thanh xuân. Thật là một khúc ca đầy sức sống của một chàng trai trẻ đang phơi phới tuổi xuân.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống chính là độc giả đang lắng nghe tâm tình của tác giả trước nỗi đau mất quê hương. Toàn thể bài thơ như một thước phim với sự hư ảo và hiện thực đan xen. Có lúc người đọc được thư thái ngắm bức tranh quê với dòng sông yên ả thanh bình. Nhưng có lúc lại đau tê tái, căm phẫn tột độ khi chứng kiến nỗi đau của quê hương trước sự tàn độc của quân giặc.

Nhưng rồi cuối cùng, độc giả được tắm mình trong niềm tin hy vọng tươi sáng. Để rồi cảm thấy nhẹ nhàng khi khép lại những trang thơ. Qua bài thơ, độc giả biết hơn về một vùng quê Kinh Bắc tươi đẹp và nhận ra tình yêu quê tha thiết sâu đậm trong tâm hồn tác giả.

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Điểm 10 – Mẫu 8

Hoàng Cầm đã viết Bên kia sông Đuống trong vẻn vẹn một đêm. Đó là một đêm thao thức không tài nào chợp mắt được. Trong đêm ấy đã có bao day dứt, bao trăn trở nhưng nỗi đau vẫn được nén lại để những câu thơ đầu được bật ra một cách dường như bình tĩnh:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về bên kia Sông Đuống.

Câu thơ mang giọng điệu an ủi, vỗ về nhưng không che dấu nổi một biên giới ngăn cách đôi bờ của con sông Đucíng. Và anh biết đâu trong đó còn có cả sự cách trở giữa “anh” – “em” nên “anh” mới buông lời an ủi, động viên em như thế.

“Anh” an ủi “em” hay chính “anh” đang phải tự làm “ấm” lòng mình bởi những đổi thay bàng hoàng, sửng sốt của quê hương? Tuy thế âm điệu của hai câu thơ đầu vẫn đằm thắm thiết tha, trữ tình như một lời nhắn gửi tình yêu thương, trìu mến và đầy trách nhiệm.

Từ hiện thực đau thương, quá khứ dội về đẹp hơn bao giờ hết:
Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh.

Hình ảnh con sông quê hương yêu dấu hiện lên với dòng nước trôi lững lờ gợi sự yên ả của một vùng đất thanh bình, sông với những bản sắc, không ồn ã khoa trương. Màu nước lấp lánh gợi lên cái trong xanh đang cuộn trôi giữa hai bờ cát trắng mịn màng. Dáng điệu của dòng sông cũng được tác giả kể một cách tỉ mỉ.

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kĩ, dòng sông vẫn nằm đấy đắp đổi cho bao dời xanh tốt. Dáng nằm “nghiêng nghiêng” là dáng nằm đẹp, thơ mộng, nhưng vẫn ẩn chứa một nỗi niềm khắc khoải lo âu. Dường như con sông cũng mang tâm trạng trăn trở của một thời kỳ. Sông cũng biết thao thức, thắc thỏm không yên vì quê hương đang bị tàn phá.

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc.

Tác giả đang dựng lên một bức tranh tràn đầy sức sống của quê hương Kinh Bắc. Với nghệ thuật dùng từ láy tài tình “xanh xanh” “biêng biếc” quê hương của Hoàng cầm đã chở đầy màu xanh của sự sống, của những bàn tay con người chăm chỉ ruộng nương.

Với giọng thơ chậm rãi những câu thơ mở đầu đã làm cho người đọc hình dung về một dòng sông Đuỏng, về một miền quê xứ Kinh Bắc luôn sống trong yên ả, thanh bình, trong no cơm ấm áo, trong hạnh phúc vui vầy.

Từ một giọng thơ chậm rãi, nhẹ nhàng, tác giả bỗng chuyển hẳn sang một giọng thơ nhanh, lời thơ nghẹn ngào, xúc động.

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.

Ớ vị trí tự do, nhà thơ nhìn về vùng tạm chiến, lòng miên man hoài niệm về một quá khứ đẹp đẽ, nay trở lại với thực tại, nỗi đau được nhân thêm một lần nữa nên càng đau đớn hơn.

Khi quê nhà bị chiếm đóng, nhà thơ cảm thấy như mất đi một phần máu thịt trong cơ thể mình. Giọng thơ chùng hẳn xuông trong một nỗi xót xa đến tột cùng. Điệp từ “sao” “sao” đâu phải dùng để hỏi mà thực chất là để khẳng định nỗi bàng hoàng, tê tái như không muốn tin vào sự thực. Cách so sánh lạ ở câu thơ tiếp theo sâu sắc đến nghẹn lòng.

“Rụng bàn tay” – nỗi đau trong tâm hồn đã chuyển thành nỗi đau của thể xác, chuyển thành cảm giác rụng rời của thịt da. Nỗi đau tinh thần đã lên đến cực điểm, cái mất mát lớn lao ấy không gì bù đắp nổi.

Tiếp sau hình ảnh của dòng sông, tác giả lại nhắc tới những giá trị tinh thần của một vùng quê giàu bản sắc dân tộc.

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trang giấy điêp.

“Hương côm” là đặc sản của Hà Nội, “Canh /au muống, cà dầm tương” là đặc sản của miền Trung lam lũ. Và đến Kinh Bắc có dễ mấy ai quên mùi hương thơm nồng của lúa nếp, đó là sản vật quê hương của những người dân chân lấm tay bùn.

Kinh Bắc không chỉ có “lúa nếp thơm nồng” mà còn là cái nôi của vấn hóa dân gian nổi tiếng với những bức tranh Đông Hồ giàu chất dân tộc. Cái màu dân tộc ấy “sáng hừng trên giấy điệp”, sáng bừng lên cả trong lòng người dân Kinh Bắc một nỗi niềm kiêu hãnh, tự hào.

Hình ảnh quê hương qua hoài niệm của Hoàng cầm có cả đời sông vật chất, có cả đời sông tinh thần. Ông nhắc đến những sản vật với tâm trạng đầy tự hào xúc động.

Bức tranh quê hương sinh động, trù phú được khép lại. Bài thơ mở ra một cảnh tượng đối lập vối sự yên ả, thanh bình.

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngọn lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu.

Cái mốc thời gian để phân định giữa quá khứ – hiện tại, giữa hạnh phúc – khổ đau, giữa sự sống – cái chết đó là từ cái “ngày khủng khiếp” ấy – cái ngày mà bọn giặc đặt gót giày đinh lên vùng đất vốn đã bao đời nay vẫn bình yên, trầm mặc của tác giả. Kể từ ngày ấy đã không còn dòng trôi lững lờ của con sông Đuống êm đềm xanh trong.

Sau cái “ngày khủng khiếp” ấy, câu thơ của Hoàng cầm bỗng trở nên tan tác, hoảng loạn như dồn nén một nỗi căm phẫn đến cực cùng. Giọng thơ vội vã, câu thơ ngắn – dài đan xen mà ngắn là chủ yếu.

Nỗi căm phẫn được đổ dồn lên hai câu thơ:

Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu.

“Chó ngộ một đàn” là hình ảnh ẩn dụ, tác giả mượn để ám chỉ kẻ thù. Câu thơ rất ấn tượng, lối so sánh vừa đặc sắc lại vừa rất dân dã đã lột tả được cái hung hãn; điên cuồng, man dại của kẻ xâm lược, đồng thời bộc lộ lòng căm hờn, sự khinh bỉ đối với bọn chúng. Bản chất khát máu của kẻ thù được nói tới qua một hình ảnh vừa thực vừa tượng trưng “lưỡi dài lê sắc máu”. Câu thơ toát lên mùi tanh tưởi, sự tàn ác của kẻ thù một cách ghê ghớm.

Giặc Pháp đã gây bao tội ác tày trời, gót chân của bọn chúng đi đến đâu, quê hương bị tàn phá, dày xéo đến đấy. Chúng đã dẫm đạp lên cả những giá trị văn hóa tinh thần. Quê hương trở nên chia lìa, tan tác bởi sự tàn ác dã man của chúng len lõi vào từng hang cùng ngõ hẻm.

Kiệt cùng ngõ thẳm hờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngã
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.

Một lần nữa tác giả nhắc đến tranh Đông Hồ, nhưng lần này nói rõ hơn cụ thể hơn lần trước. Cái cụ thể ấy đã cho những đề tài phong phú về hội họa truyền thông đần gian.

Những bức tranh được tác giả nhắc đến đều tượng trưng cho cuộc sông đầm ấm, hạnh phúc, trong đó có tình yêu thương của mẹ dành cho con, có hạnh phúc của đôi lứa… tất cả đều chứa đầy tính nhân văn cao cả. Thế nhưng từ ngày quê hương chìm trong khói lửa, bao giá trị nhân văn dã bị chà đạp, cuộc sông hạnh phúc sum vầy bỗng chốc trở nên chia lìa tan tác.

Những câu thơ tiếp theo vẫn là hoài niệm về một quá khứ đẹp đẽ, dường như Hoàng Cầm muốn nhắc mãi đến quá khứ để hiểu hơn về hiện tại. Nói tới quá khứ viên mãn để biết được hiện tại đen tôi. Quá khứ ngồn ngộn sự sông, hiện tại mâ’t mát, đau thương.

Ai về bên kia Sông Đuống
….
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu.

Nhà thơ cảm thấy mình như lạc đi giữa quê hương vốn vô cùng thân yêu, quen thuộc. Nỗi đau không nén nỗi đã bật lên thành câu hỏi đau nghẹn ngào.

Tác giả ngậm ngùi hoài vọng không dứt về một vùng quê đằ có một chiều sâu lịch sử “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên”. Đó là một xứ sở có nhiều hội hè, đình đám mang nét đẹp văn hóa cổ kính, trầm mặc, phảng phất không khí huyền thoại, một miền quê thơ mộng thanh bình.

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu.

Mỗi một gương mặt đều mang một vẻ đẹp riêng -biệt. Đó chính là vẻ đẹp phong phú trong mỗi tâm hồn của con người vùng Kinh Bắc. Những con người ấy như những nhân vật vừa bước ra từ những câu chuyện cổ tích xa xưa đẹp đẽ vậy mà giờ đây không còn thấy bóng dáng của họ.

Hoàng Cầm đặc biệt tả về vẻ đẹp của những cô gái Kinh Bắc xinh đẹp, duyên dáng, đảm đang. Nhưng ấn tượng nhất đối với nhà thơ vẫn là khuôn mặt rạng ngời của những cô hàng xén.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng.

Hình ảnh người con gái Kinh Bắc hiện lên với một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, tình tứ, để lộ hàm răng đen nhức đậm bản sắc dân tộc. vẻ đẹp ấy hòa vào cái nắng mùa thu êm dịu của đất trời đã tạo sức cuốn hút kì lạ.

Kinh Bắc còn là vùng quê có những phiên chợ tấp nập, đông vui Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa màu Những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh Huê cầu Bây giờ đi đâu về đâu.

Kinh Bắc đã hiện lên với làng tranh Đông Hồ, với tiếng trống hội làng, với những làn điệu dân ca mượt mà tinh tế, với điệu cười duyên dáng của người thiếu nữ, với cảnh tấp nập mua bán đông vui nay không còn nữa. Nỗi đau ấy cứ bật lên rưng rức thành những câu hỏi quặn thắt lòng người.

… Bây giờ tan tác về đâu… Bây giờ đi đâu về đâu… Bây giờ đi đâu về đâu.

Tác giả đau đớn bàng hoàng trước những mất mát quá lớn lao của quê hương. Câu thơ được điệp lại ba lần tạo nên cái dấm dẳng cái day dứt khôn nguôi, khơi dậy những tình cảm xót xa, căm hận trước tội ác tày trời của quân xâm lược.

Đằng sau những nỗi đau thương ngậm ngùi là hình ảnh của người mẹ chịu thương chịu khó. Chiến tranh tàn phá đã hằn lên nỗi nhọc nhằn, cay đắng, cực khổ trên đôi vai của biết bao người mẹ già nua.

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
….
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Nghệ thuật đối lập đã được tác giả sử dụng hết sức tài tình. Hình ảnh người mẹ được đặt trong bối cảnh của một buổi chiều mùa đông xám lạnh với gánh hàng rong bước thấp bước cao tương phản với những hành động vô cùng tàn ác của bọn giặc. Chúng đi đâu là gây tội tới đó, đến nơi nào là đầu rơi máu chảy tới đó.

Hoàng Cầm đã gọi chúng là “lũ quỹ”. Hình ảnh của chúng gợi lên sự tàn khốc của chiến tranh. Bóng dáng của người mẹ gợi lên nỗi cơ cực trước cuộc sông nhọc nhằn của thân cò lặn lội.

Chiến tranh gõ cửa từng nhà, không buông tha cho những người mẹ tóc đã bạc phơ và cả những đứa trẻ miệng còn thơm mùi sữa.

Bên kia sông Đuống

Bóng giặc dày vò những nét môi xinh.

Những đứa trẻ với bản tính ngây thơ, hồn nhiên, chúng chưa hiểu hết được bản chất của chiến tranh là gì. Chúng ngộ nghĩnh trong cách ăn, ngộ nghĩnh trong cách chơi và ngộ nghĩnh cả trong cách tránh đạn.

Ban ngày chúng vui đùa tinh nghịch, thế nhưng đem đến bóng của bầy quỹ dữ, của những tên giặc bạo tàn hung ác vẫn đi vào trong những giấc mơ không bình an, thắc thỏm của chúng. Đêm đem vẫn có những cái giật mình vì khủng khiếp, sợ hãi.

Hoàng Cầm một lần nữa đặt hai hình ảnh trong thế đối lập: bóng giặc – nét môi xinh để thấy được đó là đỉnh điểm của nỗi đau, cũng chỉ là đỉnh điểm của sự hung bạo, độc ác. Nỗi đau ấy không chỉ là sự dặn lòng, không chỉ là sự nung nấu mà đã chuyển thành hành động.

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn.

Cảm xúc đau đớn, nhớ tiếc về quá khứ được dồn nén lại, nhường chỗ cho một cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa.

Đêm buông xuống dòng sông Đuống
-Con là ai? Con ở đâu về?
Hé một cánh bếp
-Con vào đây bốn bức tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ

Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng Ngậm ngùi tóc trắng đang thẩm kể Nhữìig chuyện muôn đời không nói năng.

Tình nghĩa quân dân được bắt đầu bằng tình nghĩa giữa mẹ và con. Đó là một tình cảm thiêng liêng sâu nặng, mang cả sự che chở, đùm bọc của những con người mà Tố Hữu từng nói:

Sống trong cát chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời.

ở đây, Hoàng cầm đã ví người mẹ như ánh trăng trong sáng dịu hiền. Đó là vẻ đẹp đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam. vẻ đẹp ấy chứa một trái tim, một tâm hồn luôn biết hi sinh, luôn biết sổng vì người khác, biết hiến dâng cho cuộc đời tranh đâu.

Sau cái đêm người con trở về, bộ đội của chúng ta đã ghi bao chiến công vang dội khiến kẻ thù mất hồn bạt vía.

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
…..
Bao nhiêu nắng đẹp của mùa xuân.

Những hành động hung hăng tàn bạo của giặc đã bị chặn dứng lại trước màu chín vàng của lúa, màu nắng đẹp của mùa xuân. Chiến thắng của quân và dân ta là chiến thắng của những con người chính nghĩa. Dù cho trong niềm vui chiến thắng hôm nay đã mang theo bao nỗi buồn mất mát.

Có những người con lớn lên không biết mặt cha, có những người vợ đợi chờ mòn mỏi cả cuộc đời mà chồng vẫn không trở về, có những bà mẹ vì khóc thương con mà phải mù lòa, nhưng những mất mát ấy rồi sẽ được bù đắp cho những ai biết sống, biết hiến dâng cho lí tưởng cao đẹp.

Bao giờ về bên kia sông Đuống
….
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

Những câu thơ vẽ lên một tương lai đầy hứa hẹn về một cuộc sum vầy sắp tới. Mở đầu bài thơ là một lời an ủi, nay lời an ủi ấy trở thành một lời hẹn ước đằm thắm, thiết tha. Lời an ủi ấy còn chứa cả niềm đau, cả nỗi buồn. Lời hẹn ước lại chở đầy niềm tin và nỗi sung sướng. Nhưng cho dù buồn đau hay vui sướng thì “anh” vẫn không quên “em”, tình yêu của lứa đôi luôn bừng nở dẫu bất cứ trong hoàn cảnh nào.

Khi chiến tranh chúng ta biết xa nhau cho Tổ quốc, khi hòa bình chúng ta lại tìm nhau. Và phải chăng đó chính là bức thông điệp mà nhà thơ muốn gởi gắm với chúng ta về một tương lai rạng ngời của đất nước. Tương lai ấy gắn liền với hạnh phúc của từng lứa đôi. Tương lai ấy những người yêu thương nhau không còn phải xa cách nữa.

Như vậy, bài thơ đã kết thúc trong một âm hưởng lạc quan của ngày chiến thắng đang đón chờ phía trước. Bèn kia sông Đuông đã ghi lại tâm sự của nhà thơ đối với quê hương Kinh Bắc khi nghe tin giặc Pháp bắn phá một cách sâu sắc nhất, đầy đủ nhất. Bài thơ đã làm xúc động lòng người bởi tấm lòng chân thật, gắn bó thiết tha với quê hương của tác giả.

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Điểm Cao – Mẫu 9

Cùng với “Tây tiến” của Quang Dũng, “ đồng chí” của Chính Hữu và “bên kia sông Đuống” là những thành tựu quan trọng trong thời ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm này thể hiện một phẩm chất mới trong ca ca trữ tình cách mạng. nó kết hợp hài, nhuần thấm giữa tình cảm riêng tư và hiện thực lớn của cách mạng. Bài thơ “bên kia sông Đuống” kết tinh những nghệ thuật của thơ của ông.

“Em ơi! Buồn làm chi
…..
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”

Mở đầu bài thơ bằng tiếng gọi, một lời an ủi “em ơi buồn làm chi”, câu mở đầu bài thơ đến với nhà thơ như sự vô thức, tiềm thức, nhìn thấy quê hương bị tàn phá, đột nhà thơ như nghe được trong chính bản thân mình từ thôn xóm nào xa nghe vọng bài hát như than thở, như ru em, một giọng nữ trong trẻo nghe rõ mồn một nhưng lại nghe như lúc thời còn thơ dại, và nhà thơ đã cất lời an ủi “em ơi, buồn làm chi”.

“Em” trong thơ Hoàng Cầm thường gắn với những em Kinh Bắc xinh tươi, duyên dáng của ngày lễ hội và ở đoạn cuối của bài thơ thì em Kinh Bắc đó hiện ra rõ nét hơn. Bao giờ về bên kia sông Đuống, anh lại tìm em, em mặc áo yếm, em thắt lụa hồng, êm đi trẩy hội.

“Em” ở trong bài thơ chính là hiện thân, hóa thân của quê hương, tác giả mượn em quê hương như một đối tượng trữ tình để bày tỏ tâm tình của mình với quê hương xứ sở. bài thơ thể hiện tình yêu quê hương nhưng nó tha thiết và trìu mến như chính người yêu của tác giả.

“Những người con gái luôn ở trong tiềm thức của tôi và là cảm hứng trực tiếp cho những bài thơ,..mà cái đa tình ở đây đâu đơn thuần là tình yêu đôi lứa, tôi còn dành cái tình yêu ấy cho nơi mình sinh ra” nhà thơ Hoàng Cầm từng chia sẻ như vậy.

“Anh đưa em về sông Đuống” chỉ là hành trình trong hoài niệm, trong không gian tâm tưởng dòng sông quê hương đã hiện ra với vẻ đẹp bình yên “bờ cát trắng phẳng lì” nhưng đó chỉ là vẻ đẹp của “ngày xưa” thôi còn bây giờ bị tàn phá đi nhiều rồi.

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”

Tác giả miêu tả con sông thật sống động và như có tâm hồn vậy “cái dòng sông Đuống nghiêng nghiêng đó đã gắn bó với tôi từ những năm lên 8,9 tuổi và khi tôi xa Kinh Bắc chứng kiến hình ảnh những người phụ nữ trăn trở, suy nghĩ về số phận của mình thì cái dáng nằm nghiêng nghiêng ấy cũng là dáng vẻ suy tư số phận dân tộc”. Sông Đuống giống như một sinh thể có hồn, ôm ấp lấy quê hương.

“Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”

Từ láy “xanh xanh” “biêng biếc”, các điệp từ để nhấn mạnh sự trù phú, tươi đẹp của quê hương, nhưng ở câu cuối của khổ thơ “Sao xót xa như rụng bàn tay” đê nói lên sự đau đớn, chia lìa.

Mỗi khổ thơ là những hoài niệm về cái gì thân thương nhất của quê hương đồng thời cũng là dòng “chép tội” của giặc mai mãi “không nguôi hờn”. Quê hương Kinh Bắc vói lúa nếp Làng Vân, trạn đồng hồ, thể hiện cuộc sống tươi đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần, tranh dân gian là đề tài quen thuộc, lấy những gì thân thuộc nhất để vẽ.

“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”

Hoàng Cầm nhà thơ của đất Kinh Bắc, nhà thơ đã phất cánh diều thơ của mình từ cánh diều thơ văn học, văn hóa Kinh Bắc, “bên kia sông Đuống” là một hình tượng tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Phần mở đầu là cái nhìn toàn cảnh và cảm xúc khái quát về bên kia sông Đuống.

Còn độn hai của bài thơ thể hiện cảnh quê hương bị tàn phá do bom đạn, do chiến tranh, không còn cái yên bình, thơ mộng như ngày nào mà thay vào đó là cảnh quê hương bị bọn giặc phá hoại, chỉ nhìn thôi người ta cũng đủ đau xót.

“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
….
Bây giờ tan tác về đâu?”

Hình ảnh quê hương tươi đẹp trong quá khứ thanh bình, gợi lên tình cảm yêu thương tiếc nuối bao nhiêu thì hình ảnh kẻ thù man rợ lại làm sục sôi căm giân bấy nhiêu. Những câu thơ trên lột tả những hành động thú tính, tàn bạo.

Ta đã thấy được sự tương phản ở phần đầu của bài thơ, đó là quê hương với nếp vàng thơm, với tranh đồng hồ đặc trưng, thì giơ đây lại nhuốm màu tang tóc, màu của mất mát và đau thương, một đồng quê, một làng quê yên bình, nên thơ giờ đây lại trở thành đồng cháy. Từ một bức tranh đời sống chân thực, sinh động, có bà lam lũ vất vả, có con thơ ham trò chơi, vẫn tung tăng với những trò nghịch phá thì giờ đây lại trở thành một vùng đất “tâm linh” giữa cái thực và ảo.

“Vùng tâm linh đó không phải cái gì xa với mà là những kỉ niệm sâu lắng nhất. Nó quen thuộc và thân quen với mình trong những năm tháng thơ ấu và đến lúc đó nó nhập vào mình như vô thức nhưng lại rất thực”.

“Ai về bên kia sông Đuống
…..
Bây giờ đi đâu? Về đâu?”

Quê hương Kinh Bắc với những chùa cổ kính và trang nghiêm cùng với những lễ hội đình làng có từ bao nhiêu đời. tác giả đã vẽ nên một bức tranh hội hè đông vui, có nam phụ lão ấu, sắc môi đỏ tươi, tóc trắng phơi phới, màu nâu tươi mới, nét duyên dáng, đằm thắm, vẻ thanh thản, an nhiên với dáng xúng xắng, tung tăng.

“Ai về bên kia sông Đuống
….
Bây giờ đi đâu? Về đâu?”

Kinh Bắc hiện lên với người con yêu dấu của quê hương. Những người con gái thì tảo tần, vén khéo như hiện thân của quê hương những nét chấm phá khi nói về những người con gái thì có tài hoa, xinh đẹp, khéo léo, một vẻ đẹp vừa mộc mạc, thanh cao, vừa duyên dáng vùa dịu dàng. Cuộc sống làm ăn, buôn bán diễn ra một cách sôi nổi, sầm uất và nhộn nhịp “Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen”.

“Bên kia sông Đuống
……
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”

Hình ảnh những người mẹ Kinh Bắc hiện lên thật đáng trân trọng, người mẹ ấy đã tảo tần, lam lũ, dựa vào gánh hàng rong để mưu sinh, lo cho từng bữa ăn hàng ngày. Vì thế những vần thơ mà nhà thơ viết về mẹ thật trũi nặng và thương cảm. những cảnh ấy dường như đã quá quen với tác giả với mọi người, dù vất vả thế nhưng cuộc sống vẫn diễn ra một cách êm đềm và bình yên trong tình yêu thương của mẹ và của gia đình, của quê hương.

Rồi đột nhiên trong cái cảnh đấy, con người như thế, cảnh vật như thế mà sao bọn giặc tàn ác nó lại khiến quê hương thật xơ xác, thật thương cảm bao nhiêu, dường như sự chết chóc diễn ra hàng ngay, hàng giờ trên chia cái mảnh đất gắn bó cả tuổi thơ của tác giả vào đây. Qua đây để ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh, một cuộc chiến phi nghĩa mà bọn thực dân pháp đang tiến hành tren đất nước ta.

“Bên kia sông Đuống
….
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh”

Những hình ảnh của em bé thật tội nghiệp, “ngày tranh nhau bát cháo ngô, đêm đen thì phải chui vào gầm giường để tranh đạn”

Đứng trước hoàn cảnh đó thì tác giả đẫ vẽ nên, hình dung về một cuộc chiến đấu giải phóng quê hương, đất nước. và rồi chúng ta đã dành chiến thắng và chiến thắng đó thật lông lẫy.

Bài thơ thể hiện một cách chân thành, xúc động cái tình cảm và niềm xót thương của tác giả đối với quê hương. Nhà thơ đã gắn bó thiết tha với cái mảnh đất ông cha, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và gắn bó mật thiết với những cón người nơi đây.

Phân Tích Bài Thơ Bên Kia Sông Đuống Ngắn Gọn – Mẫu 10

Hoàng cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922 trong 1 gia đình nho giáo ở Bắc Ninh. Quê hương Kinh Bắc cổ kính có truyền thống văn hóa nghệ thuật lâu đời và phong phú, tiêu biểu là dân ca quan họ, chắc chắn có ảnh hưởng rất lớn tới tâm hồn giàu xúc cảm của nhà thơ.

Bên kia sống Đuống in trong tập thơ cộng tên xuất bản năm 1956. Tác giả nhắc về trận giặc Pháp đánh chiếm phía Nam tỉnh Bắc Ninh khi mà ông đang công việc ở chiến khu Việt Bắc. 1 đêm tháng tư năm 1948, nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, nhà thơ hết sức xúc động đã sáng tác nên bài thơ này và nó nhanh chóng được lưu truyền đa dạng trong cán bộ, đội viên ta.

Mỗi một khổ thơ trong bài thơ đều được khai mạc bằng hình ảnh dòng sông Đuống. chiếc thơ trước tiên mở ra tác phẩm là 1 tiếng gọi chứa lên trong khoảng sâu thẳm trái tim đau đớn của thi sĩ, song song cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Lời yên ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diễn ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm ấy, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương sở hữu bờ cát trắng phẳng lì chảy trong khoảng quá khứ bóng gió về hiện nay, hiện lên trong tâm khảm thi sĩ như 1 cái sáng óng ánh và trù phú hai bên bờ các màu xanh ngút ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của loại sông Đuống là một phát hiện, 1 sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. xúc cảm mãnh liệt cùng trí hình dung phong phú đã giúp thi sĩ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm đảo lộn cả không gian và thời kì, khiếp sợ hoài tâm não người đọc.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nhớ tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng, tượng trưng của cuộc sống sung túc, và tranh Đông Hồ, biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. thi sĩ thể hiện thật xúc động các cảnh tan tác chia lìa của quê hương lúc quân giặc tới: ngun ngút lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng vì thế tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Mượn hình ảnh trong tranh để mô tả cảnh tượng thật ngoài đời, thi sĩ đã lay động sâu xa tình cảm của các con người vốn gắn bó máu giết mổ mang truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc. thế mà giấc mộng bình yên ổn mấy trăm năm đó giờ đây vỡ lẽ .

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

những con người mang 1 phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây phát triển thành trơ trọi, tan tác. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng trong khoảng thuở bình lặng xa xưa vọng về càng khiến cho tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng than vãn tiếc nuối một thời êm ấm.

Trong tâm trí thi sĩ, hình ảnh các cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, kinh doanh tần tảo hiện lên với các nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Kinh Bắc vốn là vùng đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ, con người không sống được yên và cả những cánh cò cũng tớn tác, hốt hoảng ko chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không hề là cánh cò bay lả bay la trong các câu ca dao nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước phải chăng bước cao trên phố suôn sẻ mưa lạnh.

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh quân nhân trở về và quần chúng vùng lên đương đầu tấn công 1 cách thức chủ động vào quân thù. Giọng thơ chuyển từ tiếc nuối, xót thương sang uất hận, căm thù. một khung cảnh mùa xuân chan chứa niềm vui và ánh sáng lại trở về sở hữu vùng quê Kinh Bắc.

Bên kia sông Đuống là tiếng lòng tri ân sâu nặng của Hoàng Cầm, ông viết tác phẩm như trả một món nợ tình nghĩa cho quê hương, bài thơ là các nhịp cảm xúc lúc sục sôi trào dâng. Bài thơ chỉ viết về một vùng quê rất riêng, quê hương Kinh Bắc nhưng vẫn với thể khơi dậy trong trái tim hàng triệu người Việt Nam ái tình nước Việt muôn thuở.

Không nên bỏ lỡ 🌿Bài Thơ Thăm Lúa Của Trần Hữu Thung 🌿 Hay đặc sắc

Viết một bình luận