Cuốc Kêu Cảm Hứng ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Ý Nghĩa, Gợi Ý Cách Đọc Hiểu Bài Thơ.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Cuốc Kêu Cảm Hứng
Tâm hồn nhạy cảm của Nguyễn Khuyến luôn rạo rực trước thời cuộc và nhà thơ thường gửi tâm tư vào trong những câu thơ những nỗi lòng suy tư, một cách thật sâu kín. Cuốc kêu cảm hứng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và hồn thơ của ông.
Cuốc kêu cảm hứng
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Đón đọc tác phẩm 🔰Chợ Đồng [Nguyễn Khuyến]🔰 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Cuốc Kêu Cảm Hứng
Chia sẻ các thông tin cụ thể về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Cuốc kêu cảm hứng:
Vốn tài cao học rộng, mang danh tiến sĩ, nhưng trước thực cảnh đất nước bị xâm lăng, Nguyễn Khuyến cũng đành bó tay, bất lực, phải lui về ở ẩn để tránh nhìn cảnh đau xót.
Trong quãng thời gian ở ẩn ấy, Nguyễn Khuyến vẫn canh cánh một nỗi lòng tiếc hận, chính vì thế, ông thường gửi vào thơ văn của mình những nỗi niềm suy tư, một cách thật sâu kín. Bài thơ Cuốc kêu cảm hứng cũng ra đời trong khoảng thời gian này.
Ý Nghĩa Bài Thơ Cuốc Kêu Cảm Hứng
Qua hình ảnh tiếng Cuốc kêu, Nguyễn Khuyến đã giãi bày tấm lòng yêu nước không nguôi của mình, thể hiện tâm trạng đau xót, tủi nhục của nhà thơ trước thực trạng nước mất nhà tan. Bài thơ cũng là tiếng đồng vọng bi thương, để con cháu cảm thông với nỗi lòng ông cha, trân trọng và tự hào về cái giá của độc lập tự do với bao nhiêu máu, nước mắt mà cả dân tộc phải trả.
Giới thiệu thêm ➡️Thu Vịnh [Nguyễn Khuyến]⬅️ Nội Dung, Ý Nghĩa
Cuốc Kêu Cảm Hứng Được Viết Theo Thể Thơ Nào
Bài thơ Cuốc kêu cảm hứng được viết theo thể thơ nào? Bài thơ này được tác giả Nguyễn Khuyến viết theo thể Thất ngôn bát cú.
Đọc Hiểu Bài Thơ Cuốc Kêu Cảm Hứng
Gợi ý cách đọc hiểu bài thơ Cuốc kêu cảm hứng theo bộ câu hỏi chi tiết sau đây:
👉 Câu 1. Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào? Chỉ ra phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt của bài thơ?
Đáp án:
- Thể thơ của bài Cuốc kêu cảm hứng là Thất ngôn bát cú
- Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
- Các phương thức biểu đạt: miêu tả, biểu cảm, tự sự.
👉 Câu 2. Chỉ ra 3 từ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Đáp án: Bổ sung ý nghĩa (không có trong phần trả lời câu hỏi):
- Tiếng cuốc kêu “khắc khoải” – “sầu” nghe buồn buồn, lặp đi lặp lại triền miên, thê thiết => Càng nghe càng buồn.
- “ngẩn ngơ”: chính tiếng cuốc kêu ròng rã thâu canh kiến cho khách giang hồ bồn chồn ngẩn ngơ cả dạ. Yêu nước nhưng bất lực nên mới ngẩn ngơ như thế!
👉 Câu 3. Nêu hiệu quả của phép đối được sử dụng trong hai câu thơ: Năm canh máu chảy đêm hè vắng/Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Đáp án: Hai câu thơ có sử dụng phép đối đã góp phần diễn tả không gian và thời gian mang đầy tính nghệ thuật khi tác giả cảm nhận tiếng cuốc kêu. Người đọc dường như cảm nhận được nỗi đau như máu chảy tương ứng với nỗi buồn như nát ruột hồn tan.
- “Năm canh, sáu khắc” (đêm năm canh, ngày sáu khắc): đối xứng nhau giúp tạo nên cảm giác tiếng cuốc kêu triền miên suốt canh này sang khắc khác, từ ngày này qua đêm khác, ám ảnh vào thời gian.
- Hai hình ảnh đối nhau là “đêm hè vắng” và “bóng nguyệt mờ” hô ứng, đối xứng diễn tả nỗi đau, nỗi buồn như thấm vào thời gian, toả rộng trong không gian, thời gian. Trước tiếng cuốc buồn thương, ám ảnh, không gian bóng trăng cũng phải mờ đi và không gian đêm hè cũng phải “vắng” đi.
👉 Câu 4. Tâm sự của tác giả trong hai câu thơ: Có phải tiếc xuân mà đứng gọi/ Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
Đáp án: Hai câu thơ đã diễn tả được nỗi lòng của chính Nguyễn Khuyến dành cho đất nước khi đêm đêm vẫn nằm mơ mà nhớ nước. Ông khắc khoải cho hồn cốt của đất nước. Nỗi buồn, khắc khoải đến bơ vơ, nhớ nước như thấm đượm vào từng câu chữ. Vì nhớ nước mà tâm trạng của nhà thơ hết tiếc rồi lại nhớ, hết đứng rồi lại nằm, hết gọi rồi lại mơ. Đó là trạng thái bồn chồn, đau xót của một con người yêu nước, chính trực.
👉 Câu 5. Nội dung chính của bài thơ trên?
Đáp án: Nội dung chính của bài thơ Cuốc kêu cảm hứng: Nguyễn Khuyến đã giãi bày một tấm lòng yêu nước không nguôi, một tâm trạng đầy bi kịch: xót xa đau buồn, tủi nhục vì nước mất nhà tan.
👉 Câu 6. Hãy trình bày một bài học mà em rút ra được sau khi đọc xong bài thơ trên.
Đáp án: Bài học rút ra: để con cháu cảm thông với nỗi lòng ông cha, trân trọng và tự hào về cái giá của độc lập tự do với bao nhiêu máu, nước mắt mà cả dân tộc phải trả.
Tìm hiểu bài thơ 💚 Thu Ẩm [Nguyễn Khuyến] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích chi tiết
Nghệ Thuật Bài Thơ Cuốc Kêu Cảm Hứng
Tổng hợp các giá trị nghệ thuật trong bài thơ Cuốc kêu cảm hứng của Nguyễn Khuyến.
- Thể thơ thất ngôn bát cú, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
- Các phương thức biểu đạt gồm: miêu tả, biểu cảm, tự sự.
- Sử dụng phép đối trong câu: “Năm canh máu chảy đêm hè vắng/Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ” góp phần diễn tả không gian và thời gian đặc sắc hơn, giúp người đọc cảm nhận được nỗi đau như máu chảy tương ứng với nỗi buồn như nát ruột hồn tan.
- Bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Khuyến: điêu luyện, hàm súc, giọng điệu ám ảnh, ngôn ngữ hình ảnh đối xứng hài hoà
2+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Cuốc Kêu Cảm Hứng Hay Nhất
Sưu tầm 2 mẫu văn cảm nhận, phân tích bài thơ Cuốc kêu cảm hứng hay nhất chia sẻ cho bạn đọc.
Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Cuốc Kêu Cảm Hứng Hay
Trong các nhà thơ cổ điển Việt Nam chưa có thi sĩ nào trong thơ mình lại xuất hiện nhiều bóng hình con vật đến như thế. Đó là những con vật gắn bó gần gũi với người dân cày Việt Nam, với bà con xóm thôn đồng chiêm trũng. Theo Nguyễn Văn Huyền, tác giả cuốn Nguyễn Khuyến – Tác phẩm thì có tới sáu, bảy chục con vật khác nhau xuất hiện trong thơ Yên Đổ. Có “Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè”. Có “Ngoài luỹ nhấp nhô cò cụ Tổng”, có “Trâu già gốc bụi phì hơi nắng, Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người”.
Riêng về con chim cuốc, thấy ba lần xuất hiện. Lần thứ nhất tiếng chim như nhắc nhở, như giục giã chí hăm hở vào đời:
Quyên đã gọi hè quang quác quác
Lần thứ hai là bài thơ Cuốc kêu cảm hứng, lần thứ ba là bài Điệu quyên (Viếng con cuốc) được viết vào thời gian Nguyễn Khuyến về sống giữa làng xóm quê hương, nơi “Vườn Bùi chốn cũ”. Bài thơ Nôm Cuốc kêu cảm hứng là một trong những bài thơ được nhiều người yêu thích và truyền tụng. Giọng thơ thê thiết, réo rắt, thấm một nỗi buồn mênh mông.
Tiếng cuốc như gợi lên trong lòng nhà thơ nỗi đau mất nước, nỗi buồn bơ vơ, nỗi xót xa tủi nhục trước cảnh lầm than của dân tộc. Mỗi câu thơ là một tiếng lòng, là một nỗi buồn tê tái:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
………………………………..
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Hai câu đề tả âm thanh tiếng cuốc. Tiếng cuốc kêu “khắc khoải” nghe buồn buồn, lặp đi lặp lại triền miên, thê thiết; giọng cuốc “lửng lơ” chơi vơi trong không trung. Càng nghe càng buồn không kể xiết. Nghe tiếng cuốc kêu mà xúc động nhớ đến chuyện Thục Đế xa xưa vì để mất nước mà xót xa tủi hận biến thành con chim cuốc. Một liên tưởng thấm thía, gợi tả tiếng cuốc kêu như một tiếng gọi đau thương của một oan hồn. Ba chữ “thác bao giờ” diễn tả tâm trạng buồn đau cực độ đến ngơ ngác, ngẩn ngơ:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ.
Hai câu đề giới thiệu rất tài tình nhan đề bài thơ. Nghe tiếng cuốc kêu trong hiện tại mà cảm hứng, man mác buồn đau nghĩ về một chuyện xưa đau buồn. Thơ Nguyễn Khuyến tinh tế trong biểu cảm là vậy!
Hai câu thực làm hiện lên một không gian nghệ thuật và một thời gian nghệ thuật khi nhà thơ cực tả tiếng cuốc kêu:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Tiếng cuốc gọi hè vô cùng ám ảnh. Nỗi đau như “máu chảy”, nỗi buồn như nát ruột “hồn tan”. Tiếng cuốc kêu mãi, kêu hoài, kêu khắc khoải triền miên suốt năm canh đến sáu khắc, từ ngày này qua đêm khác. “Đêm hè vắng” và “bóng nguyệt mờ” hô ứng, đối xứng diễn tả nỗi đau, nỗi buồn như thấm vào thời gian, toả rộng trong không gian.
Đêm hè trở nên “vắng” để nghe rõ tiếng cuốc “khắc khoải đưa sầu…”. Bóng trăng như “mờ” đi trong tiếng cuốc “lửng lơ” đau đớn và tê tái. Đúng là “lời văn thanh thoát, tình nghĩa rất ứng đọng lại”, như Xuân Diệu đã cảm nhận: “Chúng ta tưởng nghe da diết, ám ảnh, chì chiết một tiếng chim kêu, có sắc đỏ, khóc nức nở, gào thảm thiết, tiếng kêu có máu, tiếng huyết kêu mất nước! nhớ nước!”.
Trong bài thơ Chữ Hán Điệu quyên (Viếng con cuốc), Nguyễn Khuyến cũng diễn tả “tiếng huyết kêu mất nước! nhớ nước!” bằng một tứ thơ rỉ máu, tan nát, bi thương:
Bi đề dạ dạ huyết triêm y
(Đêm đêm kêu gào thảm thiết, máu chảy đầm áo)
Hai câu luận nói lên chiều sâu một tâm trạng:
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
“Có phải” và “hay là” câu hỏi mơ hồ, giả định ấy diễn tả những băn khoăn, những day dứt đè nặng trong lòng. Tiếng cuốc gọi hay vì “tiếc xuân” mà cuốc cất tiếng gọi? Hay là oan hồn Thục Đế “nhớ nước vẫn nằm mơ”. Câu luận rất tinh tế trong biểu cảm, Nguyễn Khuyến mượn tiếng cuốc để giãi bày niềm thao thức của mình. Cuốc thì tiếc xuân mà đứng gọi, kêu khắc khoải suốt đêm. Còn Tam nguyên Yên Đổ thì đêm đêm vẫn nằm mơ mà nhớ nước. Hồn nước đi đâu về đâu?
Nỗi buồn bơ vơ nhớ nước như thấm vào câu chữ. Các cặp hô ứng nhau rất chỉnh: Có phải – hay là / tiếc xuân – nhớ nước / mà đứng gọi – nằm mơ, làm cho nỗi buồn thương nhà nhớ nước trở nên thấm thía. Tiếc rồi nhớ, đứng rồi nằm, gọi và mơ, trạng thái nào, tâm trạng nào cũng bồn chồn, xót xa đau đớn.
Giữa thế kỉ XIX, Bà huyện Thanh Quan đứng trên đỉnh đèo Ngang lúc hoàng hôn, trong nỗi buồn của người lữ khách mà thổn thức:
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
(Qua Đèo Ngang)
Có điều là Bà huyện Thanh Quan lúc bấy giờ tuy mang tâm trạng cô đơn, nhưng còn có nước để mà “nhớ nước”, còn có nhà để mà “thương nhà” còn Nguyễn Khuyến, nửa thế kỉ sau sống trong cảnh ngộ, nước mất nhà tan nên ra đi “nhớ nước vẫn nằm mơ”, thao thức, đắng cay, đau buồn…
Nỗi đau buồn nằm mơ… nhớ nước ấy được Yên Đổ gửi gắm trong nhiều bài chữ Hán giàu ý tưởng thâm trầm, kín đáo. Đây là nỗi niềm lưu lạc tha hương:
Giang sơn y cựu phong quang cải,
Thiếu vọng đê mê dục đoạn hồn
(Sông núi vẫn như xưa nhưng quang cảnh đã đổi thay
Ngắm thấy cảnh lờ mờ mà tâm hồn những muốn nát tan
– Túc Phú Xuyên đồn)
Trong bài thơ Hung niên 1 (Năm mất mùa), giọng thơ lại càng thêm đau đớn:
Cố quốc sơn hà chân thảm đạm
Thu hương hồng nhạn tối bi ai.
(Núi sông nước cũ âm thầm,
Lạc loài cánh nhạn không cầm nỗi đau
– Bùi Văn Cường dịch)
Có thể nói “nhớ nước vẫn nằm mơ” là một tứ thơ hay nhất, cảm động nhất của Nguyễn Khuyến khi luận về “cuốc kêu…”
Hai câu kết là một lời tự hỏi, một tâm trạng bồi hồi không yên:
Thâu canh ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Kêu ai, giục ai, hay lời kêu gọi, thúc giục của ai đó đối với mình. Ngẩn ngơ nghĩa là đờ đẫn như mất hết tinh thần, đau đớn bồn chồn không yên dạ. Chính tiếng cuốc kêu ròng rã thâu canh kiến cho khách giang hồ bồn chồn ngẩn ngơ cả dạ. Yêu nước nhưng bất lực nên mới ngẩn ngơ như thế! Nhà thơ thao thức suốt năm canh, suốt những đêm hò đau xót, tủi buồn, bơ vơ vì nước mất.
Tình yêu nước son sắt thuỷ chung nên tâm trạng đầy bi kịch, rối bời, ngẩn ngơ. Một thế kỷ sau, trong vận hội mới đất nước, độc giả ngày nay vẫn còn cảm thấy ngẩn ngơ, bồi hồi nghe tiếng cuốc kêu rỉ máu, tiếng thương tiếng đau, tiếng thở dài và giọt khóc… của Tam Nguyên Yên Đổ, của ông cha thuở ấy…
Qua Cuốc kêu cảm hứng, Nguyễn Khuyến đã giãi bày một tấm lòng yêu nước không nguôi, một tâm trạng đầy bi kịch: xót xa đau buồn, tủi nhục vì nước mất nhà tan. Tâm trạng ấy của nhà thơ cũng là tâm trạng của một thế hệ nhà nho yêu nước mà bất lực trước thời cuộc. Cuốc kêu cảm hứng là tiếng đồng vọng bi thương, để người đời sau cảm thông với nỗi lòng ông cha, trân trọng và tự hào về cái giá của độc lập tự do với bao nhiêu máu, nước mắt mà cả dân tộc phải trả.
Cuốc kêu cảm hứng tiêu biểu nhất cho hồn thơ Nguyễn Khuyến sau khi đã cáo quan lui về sống giữa xóm làng quê hương: man mác bâng khuâng buồn, cô đơn… Bài thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Khuyến: điêu luyện, hàm súc, giọng điệu ám ảnh, ngôn ngữ hình ảnh đối xứng hài hoà tạo nên một bài thơ toàn bích, cổ điển, vần thơ chơi vơi lửng lơ man mác: lửng lơ – bao giờ – bóng nguyệt mờ – nằm mơ – dạ ngẩn ngơ.
Các từ láy tượng thanh, biểu cảm rất tinh luyện cực tả tiếng cuốc và tâm trạng nhà thơ: khắc khoải, lửng lơ, ròng rã, ngẩn ngơ… Tiếng cuốc kêu hoài lòng ta khi đọc Cuốc kêu cảm hứng, ta cảm thấy Tam Nguyên Yên Đổ đang thao thức ngồi dưới “bóng nguyệt mờ” đôi mắt già đẫm lệ, ngẩn ngơ lắng nghe tiếng cuốc “khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ…”
Xem thêm 🎊Bạn Đến Chơi Nhà🎊Nội Dung, Cảm Nghĩ, Phân Tích
Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Cuốc Kêu Cảm Hứng Chọn Lọc
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ cổ điển có tâm hồn sâu sắc, thâm trầm, lại mang nỗi đau đời đầy xót xa. Là người tài cao học rộng nhưng trước thực cảnh đất nước bị xâm lăng, ông cũng đành bất lực, phải lui về ở ẩn để tránh nhìn cảnh đau xót.
Trong quãng thời gian ở ẩn ấy, Nguyễn Khuyến vẫn luôn canh cánh một nỗi lòng tiếc hận, chính vì thế, ông thường gửi vào thơ văn của mình những nỗi niềm suy tư, một cách thật sâu kín. Có tận đến mấy chục con vật khác nhau xuất hiện trong thơ của một thi sĩ cổ điển như Nguyễn Khuyến và mỗi một con vật đó lại mang một ý nghĩ, một tâm trạng riêng của nhà thơ. Trong đó, con cuốc là loài được vinh dự xuất hiện tới 3 lần trong thơ ông, một trong số các bài thơ tiêu biểu nhất là Cuốc kêu cảm hứng.
Đọc nhan đề Cuốc kêu cảm hứng, nếu hiểu xuôi hay ngược đều ra nghĩa cả, nhưng xét về tâm trạng và bối cảnh ra đời có lẽ ta nên hiểu đó là nhà thơ nghe tiếng cuốc kêu mà tìm được “cảm hứng” viết bài thơ này. “Cảm hứng” ở đây chẳng phải là niềm vui, sự hứng khởi mà chính là sự khơi gợi nỗi đau mất nước từ tiếng Cuốc kêu thảm thiết, tê tái cõi lòng.
Ta có thể tìm thấy một tiếng “Quốc” đau lòng như thế trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, đó là câu “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc” thật xót xa, buồn tủi trong Qua đèo Ngang của nữ sĩ.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến đã đưa vào một tiếng chim thật thê lương, nó vừa “khắc khoải” như nhấn sâu vào tâm hồn con người, lại vừa “lửng lơ”, đó là tiếng kêu mang theo cái nỗi buồn mênh mang, vừa xót xa lại day dứt.
Tiếng cuốc cũng gợi nhớ về một sự tích xưa, Thục đế vì làm mất nước mà đau đớn chết đi hóa thân thành con cuốc, ngày ngày cất tiếng kêu thê thảm, lầm lũi. Đó là nỗi đau của một oan hồn, vấn vương vẩn cho đến muôn đời sau, nỗi đau mất nước là nỗi đau sâu sắc không thể xóa nhòa, để một oan hồn đã “thác tự bao giờ” vẫn phải đau đớn đến ngẩn ngơ, ngày ngày lang thang dưới bóng một loài chim lầm lũi.
Trong hai câu thơ thực, Nguyễn Khuyến diễn tả một khung cảnh nghệ thuật, có phần ghê rợn, ám ảnh bởi tiếng cuốc khắc khoải cô đơn, gọi hè.
“Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ”
Giữa “đêm hè vắng”, tiếng cuốc kêu chi mà đau xót, một nỗi đau có màu đỏ chói mắt của “máu chảy”, đã thế cái “vắng” buổi đêm lại càng làm cho cái tiếng cuốc gọi hè ám ảnh ấy thêm sâu đậm, thêm tha thiết, vang vọng khắp không gian tĩnh mịch, oi bức. Đã thế tiếng cuốc còn gợi một nỗi đau lớn hơn đó là nỗi đau “hồn tan” dưới một cái không gian ảm đạm “bóng nguyệt mờ”, tưởng tượng nếu đứng dưới khung cảnh ấy mà nghe tiếng cuốc thì phải thấy chán chường, khủng hoảng đến độ nào.
Tiếng cuốc ấy cũng chẳng phải chỉ kêu ngày một ngày hai mà kêu dai dẳng suốt ngày suốt đêm, kêu suốt “năm canh-sáu khắc”, lại càng thích kêu vào cái buổi đêm yên tĩnh như tiếng kêu khóc thê thảm, gợi lên trong tâm hồn người không ngủ một nỗi đau đớn, một nỗi xót xa dai dẳng, bứt rứt vô cùng.
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?”
Đến hai câu thơ luận, ta dường như nhận ra một nỗi niềm băn khoăn, day dứt sâu trong tâm hồn tác giả. Tâm trạng của một nhân sĩ mang nỗi đau đời, đau vì mất nước, đau vì bất lực, đau vì nghịch cảnh tồi tàn của dân tộc lúc bấy giờ. Ông tự hỏi tiếng cuốc kia rốt cuộc là do còn hoài xuân hay là tiếng than nhớ nước của oan hồn Thục đế xa xưa.
Nghĩ sâu xa thì đó cũng chính là tâm trạng của thi nhân, ông tiếc nhớ một đất nước vốn từng thịnh vượng sung sức như cái khí tiết trời xuân. Còn giờ đây ông lại tiếp tục với nỗi đau mất nước mà đến nằm mơ về một tổ quốc khi xưa cũng chẳng được yên giấc, bởi tiếng cuốc kêu khắc khoải, thê thương quá.
“Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.”
Hai câu kết cuối bài tưởng nhà thơ đang hỏi con cuốc kêu chi mà ròng rã vậy, nhưng đó cũng lại chính là lời tự hỏi của tác giả dành cho bản thân mình. Tiếng cuốc kêu dài trong đêm vắng, người thi nhân vẫn bồn chồn, ngẩn ngơ không ngủ được vì đau đáu một nỗi niềm sắt son yêu nước, thương dân đến tột cùng.
Tiếng cuốc kêu như giục giã, như xoáy sâu vào tâm hồn, ý bảo nhân sĩ hãy làm một điều gì đó để thay đổi thế sự ngổn ngang này. Nhưng người đang nghe tiếng cuốc giục giã như rỉ máu, như hồn tan, như kêu khóc ấy lại phải chịu bó tay bất lực, chẳng thể làm được gì, chỉ biết ngẩn người đau đớn, thở dài. Đó là một cái tâm trạng khó chịu, bức bối đến nhường nào trong cái đêm hè vắng lặng này.