Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng: Soạn Bài, Tóm Tắt, Phân Tích

Thohay.vn chia sẽ nội dung tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết về anh hùng Trần Quốc Toản chi tiết như hoàn cảnh sáng tác, nội dung, ý nghĩa, soạn bài, giáo án…

NỘI DUNG CHÍNH

Giới Thiệu Tác Phẩm Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Tác phẩm Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết vào phút cuối của cuộc đời khi ông phải gian nan chống lại bệnh tật của mình. Tác phẩm ra đời vào năm 1960, đây là khoảng thời gian mà Việt Nam đang trong giai đoạn kháng chiến chống lại quân đội Mỹ.

“Lá cờ thêu sáu chữ vàng” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản. Tác phẩm này được xem là một trong những tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi, khắc họa tinh thần yêu nước và ý chí chống giặc ngoại xâm của Trần Quốc Toản.

Nội dung chính:

  • Câu chuyện kể về Trần Quốc Toản, một thiếu niên 16 tuổi, nổi tiếng với lòng yêu nước và ý chí quyết tâm chống giặc. Khi nghe tin quân Nguyên xâm lược, Trần Quốc Toản đã xin vua cho phép ra trận nhưng bị từ chối vì còn quá trẻ. Không nản lòng, Trần Quốc Toản tự mình tập hợp quân đội và tham gia chiến đấu. Lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua) trở thành biểu tượng cho tinh thần chiến đấu của ông

Ý nghĩa:

  • Tác phẩm không chỉ ca ngợi lòng yêu nước và tinh thần anh dũng của Trần Quốc Toản mà còn khơi dậy lòng tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước. Qua câu chuyện, Nguyễn Huy Tưởng muốn gửi gắm thông điệp về sự kiên trì, lòng dũng cảm và tinh thần đoàn kết trong cuộc chiến chống ngoại xâm.

Đặc điểm nghệ thuật

  • Ngôn ngữ giản dị, trong sáng: Phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi, dễ hiểu và dễ nhớ.
  • Hình tượng nhân vật sống động: Trần Quốc Toản được khắc họa với những phẩm chất anh hùng, lòng yêu nước và ý chí kiên cường.
  • Tình tiết hấp dẫn: Câu chuyện có nhiều tình tiết gay cấn, lôi cuốn người đọc

Chia sẽ đến bạn câu chuyện 👉 Bóp Nát Quả Cam Trần Quốc Toản

Nội Dung Tác Phẩm Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Dưới đây là nội dung của tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Văn bản này được trích ở phần 3 trong tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng.

Hoài Văn nằn nì thế nào quân Thánh Dực cũng không cho chàng xuống bến. Hầu đứng trên bờ, thẫn thờ nhìn bến Bình Than. Hai cây đa cổ thụ rủ bóng râm mát che kín cả một khúc sông.

Dưới bến, những thuyền lớn của các vương hầu về hội sư, đậu dài san sát, sơn đủ các màu. Trên mũi thuyền, phất phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hiệu cờ của Chiêu Minh Vương, của Chiêu Quốc Vương, của Chiêu Văn Vương, của Hưng Đạo Vương, của Chiêu Thành Vương, chú ruột mình. Thuyền của các vị đại vương chức trọng quyền cao nhất của triều đình đều ở gần thuyền ngự. Thuyền ngự cao lớn hơn cả, chạm thành hình một con rồng lớn rực rỡ son vàng, hai bên mạn dàn bày cờ quạt, tàn vàng, tán tía và đồ nghi trượng của đấng thiên tử. Hết thuyền của các đại vương là thuyền của các tước vương bậc dưới, rồi đến thuyền của các tước hầu, cuối cùng là thuyền của các tướng sĩ đi hộ vệ. Mắt Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương… Thì ra các con trai của Hưng Đạo Vương đều đủ mặt. Những người em họ ấy, chẳng qua chỉ hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi! Cha ta mất sớm, nên ta mới phải đứng rìa nhục nhã thế này! Mắt Hoài Văn giương to đến rách, nhìn những lá cờ bay múa trên những đoàn thuyền đẹp như gấm như hoa.

Qua các cửa sổ có chấn song triện và rủ mành mành hoa của thuyền rồng, Hoài Văn thấy các vương hầu đang ngồi bàn việc nước với quan gia. Hoài Văn chẳng biết các vị đang nói gì. Nhưng bàn gì thì bàn, Hoài Văn dám chắc cũng chẳng ngoài cái việc lớn là cho quân Nguyên mượn đường vào đánh Chiêm Thành hay chống cự lại mà thôi. Dã tâm của quân giặc đã hai năm rõ mười rồi. Nó giả tiếng mượn đường, kì thực là để cướp sống lấy nước Nam. Chỉ có việc đánh, làm gì phải kéo ra tận đây mà bàn đi bàn lại? Chao ôi! Lúc này mà Hoài Văn được xuống thuyền rồng và được bàn việc nước! Chàng sẽ quỳ trước mặt quan gia, và xin quan gia cho đánh!

Thuyền rồng im lặng. Tàn tán, cờ quạt và các đồ nghi trượng in màu vàng son trên mặt nước sông trong vắt. Chốc chốc lại thấy những người nội thị quỳ ngoài mui, dâng trầu cau, dâng thuốc. Hoài Văn muốn xô mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống bến nhưng lại sợ tội chém đầu.

Chàng muốn thét to: “Xin quan gia cho đánh”, nhưng lại e phạm thượng! Mấy tháng ở kinh, thấy sứ Nguyên hạch sách đủ điều, Hoài Văn chỉ có một ý nghĩ là đánh, đánh để giữ lấy quốc thể. Rồi lại đến cái ngày quan gia mời các bô lão khắp bàn dân thiên hạ về kinh để nhà vua hỏi ý dân xem nên cho giặc mượn đường hay nên đánh lại. Các bô lão là những người quê mùa chất phác, chưa bao giờ được bước chân vào nơi lầu son, gác tía, chưa bao giờ được bàn việc nước, thế mà nghe quan gia hỏi, họ đều nắm tay, gân mặt, khẳng khái tâu lên: “Xin đánh”, trăm miệng một lời, rung chuyển cả toà điện Diên Hồng. Những người áo vải ấy còn biết đường phải trái, huống chi ta là bậc tôn thất há lại không nghĩ được như họ hay sao? Đến họ mà quan gia còn hỏi kế, sao ta là người gần gụi, quan gia chẳng hỏi một lời?

Suốt ngày hôm qua, Hoài Văn ruổi ngựa đi tìm vua, quên không ăn uống. Hôm nay, đợi mãi từ sớm đến trưa, Hoài Văn thấy đói cồn cào, mắt hoa lên, đầu choáng váng, chân tay buồn bã. Hoài Văn không chịu được nữa. Đứng mãi đây cho đến bao giờ? Thôi thì liều một chết vậy. Ta cứ xuống, chỉ nói hai tiếng xin đánh, rồi mặc cho triều đình luận tội. Hoài Văn xô mấy người lính Thánh Dực ngã chúi, xăm xăm xuống bến. Một viên tướng hốt hoảng chạy tới, níu áo Hoài Văn lại. Quốc Toản tuốt gươm, mắt trừng lên một cách điên dại:

– Không buông ra, ta chém!

Lính ập đến giữ lấy Hoài Văn. Thực ra, vì nể chàng là một vương hầu, nên họ đã để cho chàng đứng đấy từ sáng. Nay thấy Hoài Văn làm quá, viên tướng nói:

– Quân pháp vô thân, Hầu không có phận sự ở đây, nên trở ra cho anh em làm việc. Nhược bằng khinh thường phép nước, anh em tất phải chiếu theo thượng lệnh.

Hoài Văn đỏ mặt bừng bừng, quát lớn:

– Ta xuống xin bệ kiến quan gia, không kẻ nào được giữ ta lại. Lôi thôi thì hãy nhìn lưỡi gươm này!

Viên tướng tái mặt, hô quân sĩ vây kín lấy Hoài Văn. Quốc Toản vung gươm múa tít, không ai dám tới gần. Tiếng kêu, tiếng thét náo động cả bến sông.

Vừa lúc ấy thì cuộc họp bàn ở dưới thuyền rồng tạm nghỉ. Vua Thiệu Bảo và nhiều vị vương hầu ra ngoài mui, ngắm cảnh sông nước. Nghe tiếng ồn ào trên bến, vua và các vương hầu nhìn lên, thấy Hoài Văn đang giằng co với một đám quân Thánh Dực. Vua hỏi:

– Cái gì trên ấy?

Quốc Toản nhìn xuống bến, thấy vua Thiệu Bảo đứng tựa đầu rồng dưới một cái tán vàng. Nhà vua còn rất trẻ, mặt đỏ như gấc chín. Đứng sau vua là Hưng Đạo Vương cao lớn, chòm râu dài đốm bạc bay theo chiều gió. Chiêu Thành Vương lật đật chạy lên bờ, hỏi cháu:

– Cháu không sợ tội chết hay sao mà đến đây? Ai bảo cháu?

Hoài Văn thưa:

– Cháu nghe tin thiên tử họp với các vương hầu ở đây nên cháu đến.

– Cháu chưa đến tuổi dự bàn việc nước. Bên trong là tình họ hàng máu mủ, xuề xoà, thân mật với nhau thế nào cũng được. Nhưng ra ngoài là việc nước, có tôn ti, có phép tắc, không thể coi thường. Cháu tự tiện đến đây đã không phải, lại gây sự với quân Thánh Dực, đấy là tội chết. Chú cũng phải vạ lây. Sao cháu không nghe lời chú, về quê thờ mẹ, mà lại tự tiện vô cớ đến đây gây ra cái vạ tày trời này?

Hoài Văn cúi đầu thưa:

– Cháu biết là mang tội lớn. Nhưng cháu trộm nghĩ rằng khi quốc biến thì đến đứa trẻ cũng phải lo, huống hồ cháu đã lớn. Cháu chưa đến tuổi dự bàn việc nước, nhưng cháu có phải là giống cỏ cây đâu mà ngồi yên được? Vua lo thì kẻ thần tử cũng phải lo. Cha cháu mất sớm, cháu được chú nuôi nấng. Chú thường dạy cháu những điều trung nghĩa, cháu vẫn ghi trong tấc dạ. Cháu liều chết đến đây, chỉ muốn góp một vài lời. Thưa chú, chẳng hay quan gia cùng các vương hầu bàn định thế nào? Cho nó mượn đường hay đánh lại?

– Việc đó còn đang bàn. Có người chủ chiến. Có người chủ hoà.

Quốc Toản đứng phắt dậy, mắt long lên:

– Ai chủ hoà? Ai chủ hoà? Cho nó mượn đường ư? Không biết đấy là kế giả đồ diệt Quắc của nó đấy sao? Dâng giang sơn gấm vóc này cho giặc hay sao mà lại bàn thế?

Quốc Toản chạy xồng xộc xuống bến, quỳ xuống tâu vua, tiếng nói như thét:

– Xin quan gia cho đánh! Cho giặc mượn đường là mất nước.

Nói xong, Hoài Văn run bắn, tự đặt thanh gươm lên gáy và xin chịu tội. Thiệu Bảo gật đầu, mỉm cười nhìn Hưng Đạo Vương và Hưng Đạo Vương cũng gật đầu. Lời nói của Hoài Văn chính hợp với ý của nhà vua và Hưng Đạo. Nhưng trong đám vương hầu, có một người sầm nét mặt. Đấy là Chiêu Quốc Vương Ích Tắc. Ích Tắc là kẻ chủ hoà. Chiêu Quốc Vương nói:

– Hoài Văn Hầu làm loạn phép nước. Muốn trị nước phải trị người thân trước đã. Cúi xin quan gia cho chém đầu để nghiêm quân lệnh!

Hoài Văn cúi rạp đầu xuống đất. Bên cạnh Hoài Văn, Chiêu Thành Vương cũng quỳ để xin chịu tội. Thiệu Bảo ôn tồn nói:

– Hoài Văn Hầu làm trái phép nước, tội ấy đáng lẽ không dung. Nhưng Hoài Văn còn trẻ, tình cũng đáng thương, lại biết lo cho vua, cho nước, chí ấy đáng trọng.

Vua truyền cho hai chú cháu đứng dậy, và nói tiếp:

– Việc nước đã có người lớn lo. Hoài Văn Hầu nên về quê để phu nhân có người sớm hôm trông cậy. Đế vương lấy hiếu trị thiên hạ, em ta không nên sao nhãng phận làm con.

Vừa lúc ấy, một người nội thị bưng một mâm cỗ đi qua. Thiệu Bảo cầm lấy một quả cam sành chín mọng trên mâm, bảo nội thị đưa cho Hoài Văn. Vua nói:

– Tất cả các vương hầu đến đây đều có phần cam. Chẳng lẽ Hoài Văn lại không được hưởng. Vậy thưởng cho em ta một quả.

Hoài Văn đỡ lấy quả cam, tạ ơn vua, lủi thủi bước lên bờ. Đằng sau có tiếng cười của Thiệu Bảo và các vương hầu. Nghe rõ cả tiếng cười của mấy vị tước vương chỉ nhỉnh hơn mình vài tuổi. Vua ban cam quý. Nhưng việc dự bàn thì vẫn không cho. Hoài Văn tức, vừa hờn vừa tủi. Uất nhất là đám quân Thánh Dực cũng khúc khích cười chế nhạo. Hoài Văn quắc mắt, nắm chặt bàn tay lại. Được rồi! Ta sẽ chiêu binh mãi mã cầm quân đi đánh giặc. Xem cái thằng phải đứng ngoài rìa này có phải là một kẻ toi cơm không? Hai hàm răng Hoài Văn nghiến chặt. Hai bàn tay càng nắm chặt lại, như để nghiền nát một cái gì. Hai bàn tay rung lên vì giận dữ. Hoài Văn lẩm bẩm: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta”. Hai nắm tay Hoài Văn càng bóp mạnh.

Đám người nhà trông thấy Hoài Văn hầm hầm trở ra thì chạy ùa tới hỏi chuyện. Để đỡ ngượng với họ, Hoài Văn nói liều:

– Ta đã tâu với quan gia cho đánh. Quan gia ban cho quả cam này. Ơn vua lộc nước, ta đem về để biếu mẫu thân.

Trần Quốc Toản xoè bàn tay phải ra. Quả cam đã nát bét chỉ còn trơ bã.

Phân tích tác phẩm ❣️ Côn Sơn Ca (Nguyễn Trãi) ❣️

6 Chữ Trên Lá Cờ Của Trần Quốc Toản Là Gì?

6 chữ trên lá cờ của Trần Quốc Toản là “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Nguyên văn chữ Hán: 破強敵報皇恩). Ông đã đi vào lịch sử Việt Nam với tính thần yêu nước, lòng dũng cảm, dám hy sinh mạng sống vì dân tộc của mình.

Đôi Nét Về Tác Giả Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Như đã giới thiệu ở trên tác giả sáng tác tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Cùng thohay.vn điểm qua đôi nét về ông qua nội dung bên dưới.

👉 Tiểu sử, cuộc đời Nguyễn Huy Tưởng

  • Nguyễn Huy Tưởng sinh năm 1912, mất năm 1960 là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Việt Nam.
  • Nguyễn Huy Tưởng sinh ra trong một gia đình nhà nho có tinh thần yêu nước ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện đông Anh, Hà Nội).
  • Năm 1930: Tham gia các hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng.
  • Năm 1935: Nguyễn Huy Tưởng làm thư ký nhà Đoan (Thuế quan) ở Hải Phòng, sau đó quay về Hà Nội.
  • Năm 1938: Tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ và phong trào hướng đạo sinh ở Hải Phòng.
  • Năm 1943: Gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật và được bầu làm Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng.
  • Tháng 6/1945: Ông tham gia ban biên tập tạp chí Tiên Phong của Văn hóa cứu quốc.
  • Tháng 8/1945: Ông đi dự Đại hội quốc dân ở Tân Trào và là đại biểu văn hóa cứu quốc, giúp biên tập các tờ báo Cờ giải phóng, Tiên Phong.
  • Năm 1951: Nguyễn Huy Tưởng tham gia chiến dịch biên giới.
  • Năm 1954, ông làm Uỷ viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam

👉 Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng

  • Phong cách sáng tác
    • Trong văn của Nguyễn Huy Tưởng luôn đầy chất thơ của cuộc sống và chất chứa những bài ca hy vọng, các bài học về tình thương yêu những người thân, xóm giềng, cộng đồng và đồng loại.
    •  Có thiên hướng khai thác các đề tài lịch sử
    •  Đóng góp lớn nhất ở hai thể loại: tiểu thuyết & kịch
    •  Văn phong giản dị, đôn hậu, trong sáng, thâm trầm, sâu sắc. 
  • Một số tác phẩm chính của ông như: Vũ Như Tô (kịch, 1941), Bắc Sơn (kịch, 1946), Những người ở lại (kịch, 1948), Đêm hội Long Trì (tiểu thuyết, 1942), An Tư (tiểu thuyết, 1945), Sống mãi với thủ đô (tiểu thuyết, 1961), Kí sự Cao Lạng (kí, 1951) …

Mời bạn tham khảo thêm các bài văn mẫu cảm nhận 🍁 Bài Thơ Nhớ Của Hồng Nguyên 🍁 hay nhất

Ý Nghĩa Nhan Đề Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Lá cờ thêu sáu chữ vàng là biểu tượng cho tấm lòng nồng nàn yêu nước và lý tưởng cách mạng của người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản. Nó không chỉ đại diện cho niềm tự hào và khát vọng độc lập của dân tộc mà còn là nguồn cảm hứng cho thế hệ trẻ, khích lệ họ học tập và noi theo tấm gương anh hùng.

Ý Nghĩa Giáo Dục Của Truyện Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, nhằm mục đích như sau:

  • Giáo dục nhân cách: Tác phẩm giúp nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà và khơi dậy lòng yêu nước.
  • Qua hình ảnh người anh hùng nhỏ tuổi Trần Quốc Toản, tác phẩm tạo sự gắn kết và bồi đắp thêm tấm lòng biết ơn ông cha, yêu thương đất nước cho các em nhỏ.
  • Tác giả khẳng định tác phẩm như một thiên truyện giáo dục, nâng cao ý thức của trẻ thơ về lịch sử và tinh thần yêu nước.

Bố Cục Văn Bản Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Lá cờ thêu sáu chữ vàng được chia bố cục thành 3 phần như sau:

  • Phần 1: (Từ đầu – “nhưng lại e phạm thượng”): Hoài Văn xin xuống bến họp bàn việc nước nhưng không được chấp thuận.
  • Phần 2: (Tiếp cho đến “thưởng cho em ta một quả”): Hoài Văn xông xuống bến Bình Than xin đánh
  • Phần 3: (Còn lại): Nói về tâm trạng của Hoài Văn.

Tham khảo thêm 👉 Bài Thơ Nguyên Tiêu Của Bác [Nội dung + phân tích]

Đọc Hiểu Văn Bản Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Tham khảo cách giải bài tập phần đọc hiểu văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng mà thohay.vn chia sẽ bên dưới.

👉 Câu 1 (trang 37, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):  Các phát biểu sau đây là đúng hay sai?

Lời giải chi tiết:

TTPhát biểu ĐúngSai 
1Văn bản giới thiệu một cuốn sách hoặc một bộ phim thuộc loại văn bản nghị luận. 
2Mục đích của văn bản giới thiệu một cuốn sách, bộ phim là trình bày cho người đọc biết các thông tin cơ bản, nổi bật về nội dung, hình thức, giá trị,… của cuốn sách hoặc bộ phim đó.  
3Nội dung của văn bản giới thiệu một cuốn sách hoặc một 3 bộ phim chỉ bao gồm thông tin khách quan về cuốn sách hoặc bộ phim đó. 
4Văn bản giới thiệu một cuốn sách hoặc một bộ phim thường được trình bày theo trình tự: từ thông tin khái quát về cuốn sách, đến thông tin cụ thể, từ thông tin khách bộ phim đến thông tin chủ quan của người đọc, người xem hoặc người giới thiệu về cuốn sách, bộ phim đó. 
5Ngoài phương tiện ngôn ngữ, bài giới thiệu cuốn sách, bộ phim còn sử dụng kết hợp phương tiện phi ngôn ngữ 5 như hình ảnh, sơ đồ,… để tăng hiệu quả của việc cung cấp thông tin  
6Bài giới thiệu về cuốn sách, bộ phim hoàn toàn giống với bài phân tích tác phẩm văn học. 

👉 Câu 2 (trang 38, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):  

Ghép loại câu ở cột A với thông tin phù hợp ở cột B

AB
1) Câu hỏia) Là câu dùng để biểu lộ trực tiếp cảm xúc của người nói, thường có các từ ngữ cảm thần nhựa, ái, than ôi,…, khi viết thường kết thúc bằng dấu chấm than
2) Câu khiếnb) Là câu dùng để trình bày (trần thuật, miêu tả, nhận định,..). về sự vật, sự việc; khi viết thường kết thúc bằng dấu chấm hoặc đôi khi bằng dấu chấm than, dấu chấm lửng
3) Câu cảmc) Là câu dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo, ngăn cấm; khi viết thường kết thúc bằng dấu chấm than hoặc dấu chấm
4) Câu kểd) Là cậu được dùng để hỏi thông tin, ra lệnh, khuyên bảo, ngăn cấm; khi viết thường kết thúc bằng dấu chấm
 e) Là câu dùng để hỏi thông tin, thường có các từ nghi vấn: ai, gì, nào,… hoặc từ hay; khi viết được kết thúc bằng dấu chấm hỏi

Lời giải chi tiết:

  • 1 – d 
  • 2 – c
  • 3 – a
  • 4 – b 

👉 Câu 3 (trang 38, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):  Văn bản “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” – tác phẩm không bao giờ cũ dành cho thiếu nhi thuộc loại văn bản nào?

A. Văn bản văn học

B. Văn bản thông tin

C. Văn bản nghị luận

D. Văn bản đơn phương thức

Lời giải chi tiết: Đáp án B

👉 Câu 4 (trang 38, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Mục đích của văn bản “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” – tác phẩm không bao giờ cũ dành cho thiếu nhi là gì?

A. Giới thiệu các thông tin cơ bản về nội dung và nghệ thuật của truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng

B. Giới thiệu các thông tin cơ bản về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và sự nghiệp sáng tác của ông

C. Nêu ý kiến của người viết về tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng và phân tích, làm sáng tỏ ý kiến

D. Tranh luận, phản bác các ý kiến chưa thỏa đáng về tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng

Lời giải chi tiết: Đáp án A

👉 Câu 5 (trang 38, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Ghép phần văn bản ở cột A với thông tin phù hợp ở cột B để xác định nội dung chính của từng phần trong văn bản “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” – tác phẩm không bao giờ cũ dành cho thiếu nhi:

A
1) Phần (1)a) Giới thiệu nội dung của tiểu thuyết Lá cờ thêu sáu chữ vàng,
2) Phần (2)b) Giới thiệu đặc sắc nghệ thuật và đánh giá chung về tác phẩm 
3) Phần (3)c) Giới thiệu khái quát về tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng
 d) Giới thiệu về vị trí của tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng trong sự nghiệp sáng tác của tác giả Nguyễn Huy Tưởng

Lời giải chi tiết: 1- c; 2- a; 3 – b

👉 Câu 6 (trang 39, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):

 (Câu hỏi 2, SGK) Hãy vẽ sơ đồ tư duy để thể hiện ý chính và thông tin cụ thể làm rõ cho ý chính đó của mỗi phần trong văn bản.

Lời giải chi tiết:

Sơ đồ tư duy thể hiện ý chính
Sơ đồ tư duy thể hiện ý chính

👉 Câu 7 (trang 39, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Thông tin nào sau đây không phải là điểm nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng?

A. Cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn, chi tiết đặc sắc, ấn tượng

B. Số lượng nhân vật đông đảo, nhân vật trung tâm Trần Quốc Toản được miêu tả sống động, chân thực

C. Tinh thần, hào khí của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên lần thứ hai được thể hiện sâu sắc

D. Ngôn ngữ cổ kính, trang nhã nhưng giản dị, tự nhiên; giọng văn hùng hồn, sôi nổi, đầy nhiệt huyết

Lời giải chi tiết: Đáp án C

👉 Câu 8 (trang 39, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Mỗi trích dẫn sau thể hiện thông tin khách quan về truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng hay nhận xét, ý kiến chủ quan của người giới thiệu hoặc người đọc về tác phẩm?

Lời giải chi tiết:

Trích dẫnThông tin khách quanÝ kiến chủ quan 
a) Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em. 
b) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. 
c) “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên…”. 
d) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. 

👉 Câu 9 (trang 40, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): (Câu hỏi 5, SGK) Hình ảnh bìa sách trong bài viết thể hiện chi tiết nào trong văn bản? Theo em, vì sao người giới thiệu lại chọn hình ảnh này?

Lời giải chi tiết:

Hình ảnh bìa sách trong bài viết thể hiện chi tiết giới thiệu nội dung tác phẩm, cụ thể hơn là ở phần giới thiệu nội dung Trần Quốc Toản được đánh giặc ngoại xâm. Người giới thiệu chọn hình ảnh này vì bìa sách đã khái quát được nội dung nổi bật của tác phẩm, thể hiện được tư thế hiên ngang của Trần Quốc Toản trước quân địch.

→ Việc đưa hình ảnh vào đoạn này giúp người đọc phần nào tưởng tượng, hình dung được câu truyện.

👉 Câu 10 (trang 40, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):

 (Câu hỏi 6, SGK) Ngoài các thông tin được giới thiệu trong văn bản, em còn muốn biết thêm điều gì nữa về tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng? Em làm thế nào để biết được các thông tin đó?

Lời giải chi tiết:

Ngoài các thông tin được giới thiệu trong văn bản, em còn muốn biết thêm ý nghĩa của tiêu đề tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng. Em cần đọc và tìm hiểu kỹ cuốn sách, tìm hiểu thêm những thông tin về lá cờ đó để hiểu rõ hơn về tiêu đề.

👉 Câu 11 (trang 40, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Đọc đoạn văn sau và làm theo các yêu cầu sau:

Đọc nội dung trong Sách bài tập Ngữ văn Cánh Diều tập 2 trang 40 – 42 

a) Tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố được viết với mục đích gì? 

b) Hoàn thành bảng dưới đây để hiểu thông tin được trình bày trong từng phần của đoạn văn:

Hoàn thành bảng sau
Hoàn thành bảng sau

c) Từ bảng trên, hãy chỉ ra những nội dung nào là thông tin khách quan về tiểu thuyết Tắt đèn và những nội dung nào là ý kiến chủ quan của người giới thiệu về tiểu thuyết.

d) Em có thể sắp xếp lại thứ tự các phần trong văn bản được không? Tại sao?

e) Ngoài những thông tin đã được giới thiệu trong văn bản, em muốn biết thêm điều gì về tiểu thuyết Tắt đèn? Làm thế nào để có được những thông tin đó?

g) Dựa vào nội dung của văn bản và kiến thức về tiểu thuyết Tắt đèn, hãy tạo một infographic để giới thiệu về tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

a) Văn bản nhằm giới thiệu thông tin về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố cho độc giả.

b) 

Lời giải chi tiết Lá cờ thêu sáu chữ vàng
Lời giải chi tiết Lá cờ thêu sáu chữ vàng

c) Trong văn bản thông tin giới thiệu một cuốn sách có những thông tin khách quan về đối tượng được giới thiệu và những ý kiến chủ quan, thể hiện nhận xét, đánh giá của người viết.

Ở bài viết này, các thông tin khách quan về tác phẩm Tắt đèn gồm: 

  • Tên tác phẩm, tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
  • Phần tóm tắt nội dung tác phẩm.
  • Đánh giá của nhà văn Vũ Trọng Phụng về tác phẩm.

Các thông tin thể hiện ý kiến chủ quan của người viết về tác phẩm gồm:

  • Đánh giá và làm rõ giá trị nội dung của tác phẩm.
  • Đánh giá và làm rõ giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

d) Văn bản không thể thay đổi trình tự sắp xếp nội dung vì nó sẽ phá vỡ tính lô gích của bài viết. Bài viết đi từ giới thiệu chung khái quát về tác phẩm đến tóm tắt nội dung tiểu thuyết Tắt đèn và cuối cùng đánh giá về giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm là hợp lí. Trình tự bài đã đáp ứng được mục đích đặt ra của người viết. Chính vì vậy, việc thay đổi thứ tự khiến nội dung không có sự kiện kết và gợi mở đến người đọc. 

e) Bên cạnh những thông tin được cung cấp trong bài đọc, em muốn biết thêm về một số đánh giá của những nhà văn, những nhà phê bình văn học về tác phẩm này.

Thông qua việc tra cứu thông tin trên mạng, các diễn đàn văn học, các cuốn sách phê bình văn học của các nhà văn, nhà phê bình nổi tiếng, em có thể nắm được thông tin về vấn đề mình muốn biết.

Tham khảo thêm những bài văn mẫu phân tích tác phẩm 🌻 Gương Báu Khuyên Răn 🌻 [Hay Nhất]

Giá Trị Tác Phẩm Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Dưới đây là giá trị tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng mang lại.

👉 Giá trị nội dung

Lá cờ thêu sáu chữ vàng khắc họa hình ảnh người anh hùng nhỏ tuổi Hoài Văn với tinh thần yêu nước bất diệt. Qua đó khơi dậy biết bao dòng cảm xúc trong tâm hồn những người con yêu nước và giúp người đọc hiểu thêm về lịch sử đất nước Việt Nam anh hùng.

👉 Giá trị nghệ thuật

Bằng sức tưởng tượng phong phú, ca từ giàu chất biểu cảm, lập luận chặt chẽ, tác phẩm chinh phục tấm lòng người đọc biết ơn, ghi công người anh hùng dân tộc với tinh thần yêu nước quật cường. 

Sơ Đồ Tư Duy Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Chia sẽ đến bạn sơ đồ tư duy tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng, giúp bạn hệ thống bài viết một cách khoa học.

Sơ đồ tư duy tác phẩm Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng
Sơ đồ tư duy tác phẩm Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng
Sơ đồ tư duy Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng chi tiết
Sơ đồ tư duy Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng chi tiết

Xem thêm bài thơ 👉 Bình Ngô Đại Cáo [Nội Dung Tác Phẩm + Nghệ Thuật + Phân Tích]

Soạn Bài Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Hướng dẫn các bạn cách soạn bài Lá cờ thêu sáu chữ vàng chi tiết.

* Trước khi đọc

👉 Câu hỏi 1 (trang 10 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Chia sẻ cảm nghĩ của em về người anh hùng nhỏ tuổi Trần Quốc Toản (qua các tài liệu lịch sử, sách báo, phim ảnh… mà em đã đọc, đã xem).

Trả lời:

– Trần Quốc Toản là vị anh hùng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai, và hy sinh khi còn rất trẻ.

– Trần Quốc Toản và câu chuyện bóp nát quả cam khi vua Trần Nhân Tông tổ chức Hội nghị quân sự cấp cao bàn kế sách chống giặc Mông – Nguyên đã cho ta thấy tinh thần chiến đấu anh dũng và lòng yêu nước vô bờ của ông.

👉 Câu hỏi 2 (trang 10 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Ngoài Trần Quốc Toản, em còn biết thêm những nhân vật thiếu nhi lỗi lạc nào trong lịch sử?

Trả lời:

Những nhân vật thiếu nhi lỗi lạc trong lịch sử mà em biết là: Kim Đồng, Lý Tự Trọng, Nguyễn Bá Ngọc, Trần Quốc Toản…

* Đọc văn bản

Gợi ý trả lời câu hỏi trong bài đọc:

1. Theo dõi: Quang cảnh, không khí ở bến Bình Than – nơi diễn ra một hội nghị quan trọng.

– Quang cảnh:

+ Hai cây đa cổ thụ che kín cả một khúc sông.

+ Dưới bến, những thuyền lớn của các vương sư về hội sư, đậu dài san sát, sơn đủ các màu.

– Không khí: Tưng bừng, khí thế, tráng lệ “những lá cờ bay múa trên những đoàn thyền đẹp như gấm hoa”.

2. Theo dõi: Những ý nghĩ của nhân vật xen vào lời của người kể chuyện.

– “Cha ta mất sớm, nên ta mới phải đứng rìa nhục nhã thế này!”

– “Đứng mãi đây cho đến bao giờ? Thôi thì liều một chết vậy. Ta cứ xuống, chỉ nói hai tiếng xin đánh, rồi mặc cho triều đình luận tội.”

– “Ta sẽ chiêu binh bãi mã, cầm quân đi đánh giặc. Xem cái thằng ngoài rìa này có phải là một kẻ toi cơm không.”

3. Theo dõi: Hoài Văn có những suy nghĩ gì khi thấy các vương hầu họp bàn việc nước?

– Bàn gì thì bàn dám chắc cũng chẳng ngoài cái việc lớn là cho quân Nguyên mượn đường vào đánh chiêm thành hay chống cự lại mà thôi.

– Dã tâm của quân giặc đã hai năm rõ mười rồi. Nó giả tiếng mượn đường, kì thực là để cướp sống lấy nước Nam.

– Chỉ có việc đánh, làm gì phải phải kéo ra tận đây bàn đi bàn lại?

4. Dự đoán: Điều gì sẽ xảy ra khi Hoài Văn có hành động vượt khuôn phép?

Khi Hoài Văn có hành động vượt khuôn phép thì:

– Lính ập đến giữ lấy Hoài Văn.

– Bị mời ra ngoài và có thể bị trị tội.

5. Theo dõi: Hoài Văn giải thích như thế nào về hành động của mình?

– Cháu biết là mang tội lớn. Nhưng cháu trộm nghĩ rằng khi quốc biến thì đứa trẻ cũng phải lo, huống chi cháu đã lớn. Cháu chưa đến tuổi dự bàn việc nước, nhưng cháu có phải là giống cỏ cây đâu mà ngồi yên được? Vua lo thì kẻ thần tử cũng phải lo. Cha cháu mất sớm, cháu được chú nuôi nấng. Chú thường dạy cháu những điều trung nghĩa, cháu vẫn ghi trong tấc dạ. Cháu liều chết đến đây, chỉ muốn góp một vài lời. Thưa chú, chẳng hay quan gia cùng các vương hầu định bàn thế nào? Cho nó mượn đường hay đánh lại?

6. Theo dõi: Thái độ của Trần Quốc Toản thể hiện như thế nào qua lời nói?

– Thái độ của Trần Quốc Toản được thể hiện qua lời nói: bất bình, bức xúc, căm thù giặc khi nghe có người chủ hòa.

7. Đối chiếu: Cách nhà vua xử lí hành động của Trần Quốc Toản có đúng như dự đoán của em không?

– Dự đoán: Hoài Văn bị lính vây bắt, bị đuổi ra ngoài và trị tội.

– Đối chiếu: Vua tha tội cho Hoài Văn, khuyên răn và cho Hoài Văn một quả cam.

=> Không giống như dự đoán của em.

8. Theo dõi: Tâm trạng của Hoài Văn.

– Hoài Văn vừa tức vừa hờn vừa tủi.

– Uất nhất là dám quân Thánh Dực cũng khúc khích cười chế nhạo.

* Sau khi đọc

Nội dung chính: Văn bản nói về cậu bé Hoài Văn dù tuổi đời còn nhỏ, nhưng đã biết lo toan việc nước, muốn giết giặc trừ họa cho dân bảo vệ lãnh thổ đất nước.

Gợi ý trả lời câu hỏi sau khi đọc:

👉 Câu 1 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Hãy tóm tắt nội dung văn bản và cho biết câu chuyện dựa trên bối cảnh của sự kiện lịch sử nào.

Trả lời:

– Tóm tắt: Trong một cuộc họp bàn về việc nước với đông đủ các vị đại vương chức trọng quyền cao trong triều đình. Chú của Hoài Văn là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc nhưng không cho Hoài Văn theo, chàng vì lo việc nước đã một mình phi ngựa để đến kịp. Thấy những người em họ chỉ hơn Hoài Văn có năm sáu tuổi cũng được tham dự càng làm Hoài Văn thêm nôn nóng, chàng lại nghĩ đến thân mình vì cha mất sớm, nên phải chịu cảnh đứng rìa nhục nhã. Hoài Văn suy nghĩ về số phận đất nước nên đã giằng co với lính canh, chạy xuống thuyền rồng xin Vua cho đánh, rồi đặt thanh gươm lên cổ chịu tội. Vua không những tha tội mà còn ban cho Quốc Toản cam quý vì thấy cậu còn trẻ mà đã biết lo việc nước. Căm giận khi nghĩ tới quân giặc đang lăm le lại bị vua coi là trẻ con, Hoài Văn vô tình bóp nát quả cam trong tay và hạ quyết tâm sẽ giết chết giặc, báo ơn vua và chứng minh cho triều đình thấy bản lĩnh của mình.

– Bối cảnh: Lấy bối cảnh cuộc chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai của nhà Trần.

👉 Câu 2 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản có tâm trạng như thế nào khi phải đứng trên bờ nhìn quang cảnh một sự kiện đặc biệt đang diễn ra ở bến Bình Than?

Trả lời:

Tâm trạng của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản khi phải đứng trên bờ nhìn quang cảnh một sự kiện đặc biệt đang diễn ra ở bến Bình Than là:

– Nôn nóng, tức giận khi các em họ chỉ hơn mình năm, sáu tuổi lại được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua.

– Chàng lại nghĩ đến thân mình vì cha mất sớm, nên phải chịu cảnh đứng rìa nhục nhã.

– …

👉 Câu 3 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Khi bị quân Thánh Dực ngăn cản xuống bến gặp vua, Trần Quốc Toản có hành động gì khác thường? Vì sao Trần Quốc Toản có hành động như vậy?

Trả lời:

– Khi bị quân Thánh Dực ngăn cản xuống bến gặp vua, Trần Quốc Toản có hành động khác thường:

+ Tuốt gươm, mắt trừng lên một cách điên dại.

+ Mặt đỏ bừng bừng quát lớn: “Ta xuống xin bệ kiến quan gia, …. nhìn lưỡi gươm này!”

+ Quốc Toản vưng gươm múa tít.

– Trần Quốc Toản có hành động như vậy bởi vì chàng là người yêu nước, lo lắng cho đất nước bị quân địch xâm chiếm nên nóng lòng mong gặp được nhà vua và tâu lên ý kiến xin đánh.

👉 Câu 4 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Chứng kiến hành động và nghe lời tâu bày của Trần Quốc Toản, vua Thiệu Bảo có thái độ và cách xử lí thế nào? Thái độ và cách xử lí đó cho thấy điều gì ở vị vua này?

Trả lời:

– Chứng kiến hành động và nghe lời tâu bày của Trần Quốc Toản, vua Thiệu Bảo có thái độ và cách xử lí:

+ Gật đầu mỉm cười nhìn Hưng Đạo Vương.

+ Vua tha tội, khuyên Quốc Toản về quê chăm mẹ.

+ Vua ban cho Quốc Toản cam quý.

– Thái độ và cách xử lí đó cho thấy vua Thiệu Bảo là một người hiền từ, anh minh và sáng suốt.

👉 Câu 5 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Trong lời người kể chuyện đôi chỗ xen vào những ý nghĩ thầm kín của nhân vật Trần Quốc Toản. Hãy nêu một vài trường hợp và phân tích tác dụng của sự đan xen đó.

Trả lời:

Những ý nghĩ của nhân vật xen vào lời của người kể chuyện:

– Cha ta mất sớm, nên ta mới phải đứng rìa nhục nhã thế này!

– Đứng mãi đây cho đến bao giờ? Thôi thì liều một chết vậy. Ta cứ xuống, chỉ nói hai tiếng xin đánh, rồi mặc cho triều đình luận tội.

– Ta sẽ chiêu binh bãi mã, cầm quân đi đánh giặc. Xem cái thằng ngoài rìa này có phải là một kẻ toi cơm không.

=> Tác dụng: Khắc họa sắc nét hình ảnh một người anh hùng trẻ tuổi có lòng yêu nước bất diệt, sớm lo việc nước và bất bình khi phải đứng ngoài cuộc họp quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước.

👉 Câu 6 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Những nét tính cách nào của Trần Quốc Toản được thể hiện qua lời đối thoại với các nhân vật khác trong truyện?

Trả lời:

Cuộc đối thoạiNội dung đối thoạiNét tính cách được bộc lộ
Giữa Trần Quốc Toản với quân Thánh Dựchai bên cãi cọ, xung đột nhau khi Trần Quốc Toản vượt quá giới hạn cho phépsự bức xúc, nóng nảy, thiếu kiềm chế, điều có thể dẫn đến nguy hiểm
Giữa Trần Quốc Toản với Chiêu Thành Vươnghai bên đối đáp, làm rõ nguyên nhân Trần Quốc Toản đến bến Bình Than gây náo loạnsuy nghĩ chín chắn trước tình thế đất nước đối diện với họa ngoại xâm
Giữa Trần Quốc Toản với vua Thiệu BảoTrần Quốc Toản đã nói được với vua điều nung nấu trong lòng; vua phán xử độ lượng hành động nóng nảy của Trần Quốc Toảnmạnh mẽ, ngay thẳng, dám làm dám chịu, đặt vận mệnh đất nước cao hơn tính mạng bản thân

👉 Câu 7 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Trong truyện này, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đều mang đậm màu sắc lịch sử. Hãy nêu ví dụ và cho biết tác dụng.

Trả lời:

Ví dụ cho thấy ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đều mang đậm màu sắc lịch sử:

– Ngôn ngữ người kể chuyện: hội sư, thuyền ngự, đại vương, đấng thiên tử…

– Ngôn ngữ nhân vật: Quân pháp vô thân, vua lo thì kẻ thần tử cũng phải lo…

= > Tác dụng:

– Làm khung cảnh cuộc hội họp trở nên uy nghiêm, nổi bật và trang trọng.

– Làm nổi bật tính cách của các nhân vật đặc biệt là nhân vật Trần Quốc Toản: quyết đoán, gan dạ và khí phách…

👉 Câu 8 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Hãy khái quát chủ đề của văn bản và cho biết căn cứ vào đâu em khái quát như vậy.

Trả lời:

– Chủ đề: Tình yêu đất nước và lòng căm thù giặc của người anh hùng trẻ tuổi Hoài Nam.

– Căn cứ vào nội dung văn bản để khái quát chủ đề của tác phẩm.

Viết kết nối với đọc

👉 Bài tập (trang 15 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích chi tiết Trần Quốc Toản bóp nát quả cam.

Đoạn văn tham khảo

Trần Quốc Tuấn là người trẻ, có tình yêu đất nước mãnh liệt và là người có khí phách oai phong. Khi đọc cuốn Lá cờ thêu sáu chữ vàng, bạn sẽ thấy một Trần Quốc Tuấn quyết liệt, khẳng khái và oai phong như thế nào. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với bút pháp tài hoa đã in đậm hình ảnh người thiếu niên anh hùng bóp nát quả cam trên những trang văn lịch sử hào hoa, hào hùng của dân tộc.

Cậu bé Hoài Văn vì không được bàn việc nước nên vừa tức vừa hờn vừa tủi, mặc dù được ban cam quý nhưng nỗi uất ức vẫn không nguôi ngoai. Nhìn thấy sự cười nhạo của đám quân Thánh Dực, Hoài Văn càng trở nên tức tối và dẫn đến việc bóp nát quả cam quý vua ban trong tay. Lòng yêu nước cùng sự căm phẫn giặc, đã nhen nhóm trong Hoài Văn những hy vọng đầu tiên về việc chiêu binh bãi mã đánh giặc.

Điều đó cho ta thấy Hoài Văn không chỉ là một cậu bé dũng cảm, gan dạ mà còn có ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi đất nước.

Tham khảo thêm 👉 Hầu Trời của Tản Đà [Những Bài Văn Mẫu Phân Tích Hay]

Giáo Án Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Thầy, cô giáo có thể tham khảo giáo án Lá cờ thêu sáu chữ vàng mà thohay.vn chia sẽ bên dưới để xây dựng giáo án dạy học cho mình nhé.

I. MỤC TIÊU

1. Về mức độ/ yêu cầu cần đạt

– Nhận biết được một số yếu tố của truyện lịch sử như: cốt truyện, bối cảnh, nhân vật, ngôn ngữ.

– Nhận biết và phân tích được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản; phân tích được một số căn cứ để xác định chủ đề.

2. Về năng lực

a. Năng lực chung

– Hình thành năng lực làm việc nhóm, năng lực gợi mở,…

– Phát triển khả năng tự chủ, tự học qua việc đọc và hoàn thiện phiếu học tập ở nhà.

– Giải quyết vấn đề và tư duy sáng tạo trong việc chủ động tạo lập văn bản.

b. Năng lực đặc thù

– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến tác giả Nguyễn Huy Tưởng.

– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng.

m đối với đất nước.

II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU

1. Chuẩn bị của giáo viên

– Giáo án, tài liệu tham khảo, kế hoạch bài dạy

– Phiếu học tập, trả lời câu hỏi

– Bảng giao nhiệm vụ cho HS hoạt động trên lớp

– Bảng giao nhiệm vụ học tập cho HS ở nhà

2. Chuẩn bị của học sinh

– SGK, SBT Ngữ văn 8, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG

a. Mục tiêu: Tạo tâm thế, sự hứng khởi cho HS vào học bài,  thu hút HS sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. HS khắc sâu kiến thức nội dung bài học.

b. Nội dung: GV đặt cho HS trả lời những câu hỏi mang tính gợi mở vấn đề.

c. Sản phẩm: Nhận thức và thái độ học tập của HS.

d. Tổ chức thực hiện:

  • Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ

Giáo viên giao nhiệm vụ: GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung trước khi đọc:

1. Chia sẻ cảm nghĩ của em về người anh hừng nhỏ tuổi Trần Quốc Toản (qua các tài liệu lịch sử, sách báo, phim ảnh,… mà em đã đọc, đã xem).

2. Ngoài Trần Quốc Toản, em còn biết thêm những nhân vật thiếu nhi lỗi lạc nào trong lịch sử?

  • Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ

– HS hoạt động cá nhân, kết nối với thực tế, nhớ lại những cảm xúc chân thật nhất về trải nghiệm của bản thân. Ghi chép ngắn gọn các nội dung theo yêu cầu.

  • Bước 3: Báo cáo thảo luận

Yêu cầu khoảng 4 HS chia sẻ trải nghiệm của bản thân một cách ngắn gọn, súc tích.

  • Bước 4: Kết luận, nhận định

– GV cũng có thể chia sẻ cùng HS về trải nghiệm của chính mình, kết nối với bài đọc.

– GV khơi gợi những vấn đề để nêu nhiệm vụ cho bài học mới.

B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

Hoạt động 1: Đọc – hiểu văn bản

  1. Mục tiêu: Nắm được những thông tin về thể loại và đọc văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng
  2. Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi liên quan đến văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng
  3. Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS và kiến thức HS tiếp thu được liên quan đến văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng
  4. Tổ chức thực hiện
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS               DỰ KIẾN SẢN PHẨM
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu về tác giả tác phẩm
Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
–   GV mời đại diện các nhóm dựa vào nội dung đã đọc ở nhà hãy trình bày hiểu biết của em về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng?
– HS tiếp nhận nhiệm vụ.
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
– HS đọc thông tin trong SGK, chuẩn bị trình bày trước lớp.
Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
– GV mời 2 – 3 HS phát biểu, yêu cầu cả lớp nhận xét, bổ sung.
Dự kiến sản phẩm: HS dựa vào SHS, tóm tắt về nêu vài nét cơ bản về tác giả, tác phẩm.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
– GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức.
– GV bổ sung
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
aCuộc đời – sự nghiệp
– Nguyễn Huy Tưởng sinh năm 1912 mất năm 1960.
Quê tại Hà Nội.
– Trong sáng tạo nghệ thuật ông là người có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và đóng góp nổi bật ở hai thể loại: tiểu thuyết và kịch.
b. Tác phẩm
– Tác phẩm chính của ông gồm có: Đêm hội Long Trì (1942), Vũ Như  Tô (1943), An Tư (1944),  Bắc Sơn (1946), Lá cờ thêu sáu chữ vàng(1960), Sống mãi với thủ đô (1961)…
– Văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng thuộc phần 3 của tác phẩm cùng tên Lá cờ thêu sáu chữ vàng.  

Hoạt động 2: Khám phá văn bản

  1. Mục tiêu: Nhận biết và phân tích được văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng
  2. Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi liên quan đến văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng
  3. Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS và kiến thức HS tiếp thu được liên quan đến văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng
  4. Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
Nhiệm vụ 1: Thể loại và chủ đề tác phẩm
Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
– GV mời đại diện các nhóm dựa vào nội dung đã đọc ở nhà để trả lời các câu hỏi liên quan đến văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng:
Em hiểu gì thể loại truyện lịch sử?
+ Xác định bối cảnh của truyện?
+ Tóm tắt tác phẩm và xác định chủ đề của tác phẩm?– Các nhóm tiếp nhận nhiệm vụ.
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập- Các nhóm thảo luận để trả lời.
Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
– GV mời đại diện các nhóm lên bảng yêu cầu các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
– GV nhận xét, chốt kiến thức.                           
Nhiệm vụ 2: Nhân vật Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản
Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
– Dựa vào kiến thức và văn bản đã chuẩn bị ở nhà hãy cho biết:
Tâm trạng của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản khi phải đứng trên bờ nhìn quang cảnh một sự kiện đặc biệt đang diễn ra ở bến Bình Than?
+ Khi bị quân Thánh Dực ngăn cản xuống bến gặp Vua, Trần Quốc Toản có hành động gì? Vì sao Trần Quốc Toản lại có hành động như vậy?
+ Thông qua đoạn đối thoại với các nhân vật khác trong truyện nét tính cách nào của Trần Quốc Toản đã được bộc lộ?
– HS tiếp nhận nhiệm vụ
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
– Các nhóm thảo luận để trả lời.
Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
– GV mời đại diện 1 nhóm lên bảng yêu cầu các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
– GV nhận xét, chốt kiến thức                                                   
I. Thể loại và chủ đề tác phẩm
– Thể loại: Truyện lịch sử
+ Truyện lịch sử trước hết mang đầy đủ các đặc điểm của tác phẩm truyện. Bao gồm có các yếu tố: cốt truyện, người kể chuyện, lời kể, nhân vật… Đề tài mà truyện lịch sử khai thác là đề tài lịch sử.
+ Cốt truyện của truyện lịch sử là phần cốt lõi của câu chuyện mà nhà văn kể lại, trên cơ sở các sự kiện, biến cố xảy ra trong một bối cảnh thời đại cụ thể, trung tâm là hoạt động của con người.
+ Mặc dù mang dấu ấn của những câu chuyện có thật gắn với niên đại nhưng cốt truyện bao giờ cũng là kết quả của sự tưởng tượng hư cấu và sắp xếp một cách nghệ thuật theo ý đồ của nhà văn.
+ Nhân vật trong truyện lịch sử rất phong phú. Bao gồm: vua chúa, tướng sĩ, quan lại, những người tu hành nho sĩ, thứa dân…. Song thường nhân vật chính lại là người có vị thế cao trong xã hội.
–  Bối cảnh sự kiện lịch sử
Câu chuyện dựa trên bối cảnh của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai.
–  Tóm tắt tác phẩm
Tại bến Bình Than, Vua Trần và các vương hầu họp bàn kế sách đối phó với quân xâm lược. Vì chưa đủ tuổi không được dự họp, Trần Quốc Toản cảm thấy nhục nhã chỉ muốn gặp Vua để bày tỏ chủ kiến của mình là không chấp nhận hòa hoãn. Do nóng lòng muốn gặp Vua, Trần Quốc Toản định vượt qua hàng rào quân cấm vệ để đến nơi Vua họp bàn, bị ngăn cản đã xảy ra xung đột. Khi được gặp Vua, Trần Quốc Toản nói to câu xin đánh, Vua Trần biết nỗi lòng vì nước của chàng trai đã không trách phạt con ban thưởng một quả cam. Trần Quốc Toản quyết định trở về quê chiêu mộ binh mã, thao luyện võ nghệ đề xuất quân đánh giặc. Khi chàng xòe tay ra, quả cam đã bị bóp nát tự bao giờ.
– Chủ đề tác phẩm
VB thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của người anh hùng nhỏ tuổi Trần Quốc Toản qua đó cho thấy hào khí, tinh thần chống xâm lược của cha ông ta ở thời Trần.
II.     Nhân vật Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản
–  Tâm trạng của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản khi đứng trên bờ
+ Trần Quốc Toản năn nỉ quân Thánh Dực mà vẫn không được xuống bến, “thẫn thờ” nhìn bến Bình Than; cảm thấy nhục nhã khi phải đứng rìa, không được dự họp; nhìn những lá cờ trên thuyền của các vương hầu đến “rách mắt”; ước ao được xuống thuyền rồng dự bàn việc nước và quỳ trước Via tâu một câu xin đánh; muốn xô mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống bến, nhưng sợ tội chém đầu; so sánh điều đang nung nấu trong lòng mình với sự đồng tâm nhất trí của các bô lão ở hội nghị Diên Hồng, khẳng định thêm ý nguyện đánh giặc, sục sôi đến mức định liều lĩnh làm điều vượt khuôn phép.
+ Ở vào tình thế đặc biệt như vậy, tâm trạng của Trần Quốc Toản đủ sắc thái: ao ước được bàn việc nước đến cháy bỏng; có chút “ganh tị” với những người anh em chỉ hơn mình mấy tuổi mà dự họp; bức xúc vì phải đứng ngoài; tính chuyện liều lĩnh để được gặp Vua… Tất cả thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc, muốn góp sức mình để đánh đuổi quân xâm lược. Đó là tâm trạng của một người tuổi nhỏ mà chí lớn.
– Khi bị quân Thánh Dực ngăn xuống gặp Vua
+ Hành động khác thường của Trần Quốc Toản là “xô mấy người lính Thánh Dực ngã chúi, xăm xăm xuống bến”; “tuốt gươm, mắt trừng lên” dọa chém người ngăn cản, đỏ mặt quát lớn trước mặt viên tướng, múa tít gươm khiến cho không ai có thể đến gần để cản bước mình….
+ Ở thời phong kiến, hành động của Trần Quốc Toản được xem là khinh thường phép nước, phạm vào trọng tội, có thể bị chém đầu. Mặc dù biết rõ điều đó nhưng vì quá lo lắng cho đất nước căm thù giặc, nóng lòng muốn bày tỏ chủ kiến của mình với Vua, Trần Quốc Toản mới hành động liều lĩnh như thế.
–  Nét tính cách của Trần Quốc Toản thông qua hội thoại với các nhân vật khác
+ Nội dung cuộc hội thoại giữa Trần Quốc Toản với quân Thánh Dực: Hai bên cãi cọ, xung đột nhau khi Trần Quốc Toản vượt qua giới hạn cho phépð Trần Quốc Toản bộc lộ sự bức xúc, nóng nảy, thiếu kiềm chế, điều có thể dẫn đến nguy hiểm
+ Nội dung cuộc đối thoại giữa Trần Quốc Toản với chú ruột Chiêu Thành Vương: Hai bên đối đáp, làm rõ nguyên nhân Trần Quốc Toản đến bến Bình Than gây náo loạn và tiết lộ thông tin bước đầu của việc bàn bạc. Cuộc hội thoại thể hiện sự suy nghĩ chín chắn của Trần Quốc Toản trước tình thế đất nước đối diện với họa ngoại xâm.
+ Nội dung hội thoại giữa Trần Quốc Toản với vua Thiệu Bảo: Trần Quốc Toản đã nói với Vua điều nung nấu trong lòng: Vua phán xử độ lượng hành động nóng nảy của Trần Quốc Toản, đánh giá cao ý thức vì Vua, vì nước của một bề tôi non trẻ.
Cuộc hội thoại cho thấy một Trần Quốc Toản mạnh mẽ, ngay thẳng, dám làm dám chịu đặt vận mệnh đất nước cao hơn tính mạng bản thân. 

Hãy Phân Tích Những Nét Đặc Trưng Về Nhân Vật Trong Văn Bản Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng

Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng có những nét đặc trưng về nhân vật và ngôn ngữ như sau:

  • Truyện tái hiện những sự kiện, nhân vật ở một thời kì, một giai đoạn lịch sử cụ thể.
  • Cốt truyện được xây dựng trên các cơ sở các sự kiện đã xảy ra nhằm thể hiện chủ đề của tác phẩm.
  • Truyện khắc họa nhân vật nổi tiếng: vua Quang Trung, Lê Chiêu Thống,…
  • Ngôn ngữ: Tác phẩm sử dụng ngôn ngữ trang trọng, trau chuốt và chính xác để tái hiện lại các sự kiện và tình huống lịch sử. Ngôn ngữ trong truyện này có thể sử dụng các thuật ngữ, từ ngữ và cách diễn đạt phù hợp với thời kỳ lịch sử mà truyện đang miêu tả.

– Nhận xét về nghệ thuật kể chuyện lịch sử của tác giả: Lối văn trần thuật đặc sắc. Không ghi chép sự kiện một cách gấp gáp qua từng mốc thời gian mà miêu tả cụ thể hành động, lời nói. Miêu tả được thế đối lập giữa hai đội quân và trung thành với lịch sử dân tộc.

Mời bạn xem thêm 👉 Vội Vàng của Xuân Diệu [Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ]

5+ Mẫu Tóm Tắt Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Ngắn

Sau đây, Thohay.vn chia sẽ đến bạn những mẫu tóm tắt tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng ngắn hay, giúp bạn có thêm nhiều tư liệu ôn tập.

Tóm Tắt Cốt Truyện Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Ngắn Gọn

Tác phẩm kể về người anh hùng nhỏ tuổi Trần Quốc Toản. Sau khi có giấc mơ mang điềm báo về việc bản thân bắt sống tên sứ thần hống hách nhà Minh. Cậu đã tiến về Bình Than xin nhà vua cho cùng dự họp bàn việc nước.

Thấy cậu còn nhỏ, vua ban cho một quả cam rồi đuổi ra ngoài. Ấm ức và thất vọng, khi rời đi, Quốc Toản đã bóp nát quả cam lúc nào không hay. Về nhà, cậu chăm chỉ rèn luyện võ nghệ, chờ ngày báo đáp tổ quốc. Ít lâu sau, khi giặc tấn công nước ta, Trần Quốc Toản mang theo lá cờ thêu sáu chữ vàn “Phá cường địch, báo hoàng ân” ra trận. Với sự dũng mãnh, cậu đã đạt nhiều chiến công vang dội, ghi danh vào sử sách.

Tóm Tắt Tác Phẩm Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Ngắn Hay

Là một câu chuyện lịch sử nhưng Lá cờ thêu sáu chữ vàng lại được viết dựa trên sự tưởng tượng phong phú, sáng tạo độc đáo của nhà văn. Nổi bật nhất phải kể đến hình tượng người anh hùng tuổi nhớ nhưng đã nuôi chí lớn Trần Quốc Toản.

Câu chuyện được mở đầu với “một giấc mơ thú vị” của cậu thanh niên Trần Quốc Toản. Trong mơ, cậu thấy được chính mình đã bắt sống tên sứ thần hống hách Sài Thung của nhà Nguyên. Giấc mơ như là điềm báo cho một người có ý chí phi thường, tuy tuổi nhỏ, nhưng đã nhận thức được sứ mệnh cao cả của mình. Khi nghe nghóng được vua Trần Nhân Tông sẽ tới bến Bình Than họp bàn việc nước, cậu thanh niên nhỏ ấy đã quyết định cùng ngựa xuất phát đến gặp nhà vua.

Trần Nhân Tông rất vừa ý với cậu nhóc này, nhưng vì tuổi còn nhỏ nên chỉ được vua thưởng cho cam quý, còn việc nước thì chưa cho dự. Trần Quốc Toản cảm thấy rất thất vọng, ấm ức, vừa đi vừa nghiến chặt răng, không biết từ bao giờ quả cam trong tay đã bị bót nát. Kể từ khi ấy, Trần Quốc Toản quyết tâm học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ. Khi nghe tin quân giặc kéo đến, với lá cờ mang sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân” Quốc Toản cùng nhiều tráng sĩ anh dũng chiến đấu.

Cuối cùng tin vui thắng trận về khắp bản làng, ai nấy đều reo hò vui mừng, mẹ Trần Quốc Toản nghẹn ngào xúc động khi thấy lá cờ sáu chữ đỏ chính tay mình thêu đang phấp phới bay cao.

Mời bạn xem thêm 👉 Thảo Luận Ý Kiến Về Một Vấn Đề Trong Đời Sống 

Tóm Tắt Câu Chuyện Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Hay Nhất

Lá cờ thêu sáu chữ vàng” là một tác phẩm văn của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, dựa trên câu chuyện có thật về Trần Quốc Toản – một anh hùng nhỏ tuổi trong lịch sử Việt Nam. Truyện đưa chúng ta quay về thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp đô hộ, khi đất nước Việt Nam đang chịu cảnh áp bức và xâm lược từ quân đội thực dân Pháp.

Nhân vật chính của câu chuyện là Trần Quốc Toản, một học sinh trung học và là trưởng nhóm Trường Bách khoa Hà Nội. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp, cậu đã tự tay thêu lá cờ sáu chữ vàng, trên đó ghi lời kêu gọi “Không đội trời chung, không buông súng” – một thông điệp quan trọng để động viên nhân dân Việt Nam tiếp tục chiến đấu. Cuộc chiến diễn ra ác liệt tại cửa Hàm Tử, khiến cảnh sát Pháp và quân đội Việt Nam đối đầu.

Trong trận đánh, Trần Quốc Toản đã hy sinh dũng cảm để bảo vệ lá cờ sáu chữ vàng, nhưng bản thân cậu đã trở thành nạn nhân của đạn dược. Tuy nhiên, thông điệp mà cậu gửi truyền đã lan tỏa rộng rãi, tiếp thêm động lực cho những người chiến đấu tiếp tục kiên trì đứng vững trên con đường giải phóng dân tộc. Tác phẩm ” Lá cờ thêu sáu chữ vàng” chứa đựng những thông điệp vô cùng ý nghĩa về tình yêu nước, lòng dũng cảm và sự đoàn kết của nhân dân trong cuộc chiến giành lại độc lập và tự do cho đất nước.

Nó là một minh chứng sáng đáng về tinh thần quyết tâm và hy sinh cao cả của những người anh hùng, gửi gắm hy vọng và khích lệ cho thế hệ sau biết trân trọng giá trị độc lập và sự tự do.

Tác phẩm này cũng nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của sự đoàn kết và tương thân tương ái trong việc xây dựng một xã hội vững mạnh và phát triển.

Chia sẽ đến bạn những mẫu 🌻 Viết Bài Văn Nghị Luận Về Một Vấn Đề Đời Sống 🌻 hay nhất

Mẫu Tóm Tắt Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Siêu Ngắn

Lá cờ thêu sáu chữ vàng, một tác phẩm lịch sử đầy ý nghĩa, đã được sáng tạo với sự tưởng tượng phong phú và độc đáo của nhà văn. Trong tác phẩm này, một hình tượng người anh hùng đáng kính, Trần Quốc Toản, đã được khắc họa một cách nổi bật.

Câu chuyện bắt đầu với “một giấc mơ thú vị” của cậu thanh niên Trần Quốc Toản. Trong giấc mơ đó, cậu thấy mình đã bắt sống tên sứ thần hống hách Sài Thung, người đại diện cho nhà Nguyên.

Giấc mơ này như là một dấu hiệu cho thấy Trần Quốc Toản là một người có ý chí phi thường, dù tuổi còn nhỏ, nhưng đã nhận thức được sứ mệnh cao cả của mình. Khi nghe nói rằng vua Trần Nhân Tông sẽ tới bến Bình Than để họp bàn việc quan trọng, cậu thanh niên nhỏ ấy quyết định cùng ngựa xuất phát để gặp nhà vua. Trần Nhân Tông rất ấn tượng với cậu nhóc này, nhưng do tuổi còn nhỏ nên chỉ được vua thưởng một quả cam quý, còn việc tham gia vào cuộc họp chưa được cho phép.

Trần Quốc Toản cảm thấy thất vọng và ấm ức, vừa đi vừa nghiến chặt răng, không biết từ bao giờ quả cam trong tay đã bị nát bởi sức nén của cậu. Từ đó, Trần Quốc Toản quyết tâm học tập về binh thư và rèn luyện võ nghệ. Khi nghe tin quân giặc đang tiến đến, cùng với lá cờ mang sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân”, Quốc Toản cùng với nhiều anh hùng trận đấu dũng mãnh.

Cuối cùng, tin vui về chiến thắng lan tỏa khắp bản làng, và mọi người đều hân hoan reo mừng. Mẹ của Trần Quốc Toản không kìm được nước mắt xúc động khi nhìn thấy lá cờ sáu chữ vàng mà chính tay bà đã thêu, bay phấp phới trên không trung.

Bài Tóm Tắt Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Đặc Sắc

Năm đó, giặc Nguyên cho sứ thần sang nước ta giả vờ mượn đường để xâm lược nước ta. Thấy sứ giặc ngang ngược đủ điều, Trần Quốc Toản vô cùng căm giận.

Vào một buổi sáng, biết vua vừa họp bàn việc nước ở dưới thuyền rồng, chàng quyết đòi gặp vua Trần Nhân Tông để nói hai tiếng ” xin đánh”. Đợi từ sáng đến trưa vẫn không được gặp, chàng liều chết xô mấy tên lính gác ngã xuống rồi xăm xăm xuống thuyền. Quân lính ập đến vây kín, Quốc Toản mặt đỏ bừng bừng vuốt gươm quát lớn: ” Ta xuống xin bệ kiến vua, không kẻ nào được giữ ta lại”.

Lúc đó, cuộc họp cũng đã xong, vua cùng các vương hầu ra ngoài du thuyền, chàng chạy đến và quỳ xuống tâu: ” Cho giặc mượn đường là mất nước xin bệ hạ cho đánh”. Và nói xong, chàng đặt gươm lên gáy xin chịu tội. Vua cho chàng đứng dậy và bảo chàng đã làm trái phép nước lẽ ra nên chịu tội nhưng thấy chàng còn trẻ nên tạm tha cho chàng vì tấm lòng của chàng.

Nói xong, vua ban cho chàng một quả cam, chàng tạ ơn vua, chân bước lên bờ mà lòng ấm ức bởi thấy chàng còn quá trẻ chưa đủ bàn việc nước. Nghĩ đến quân giặc đang hoành hành như vậy, chàng nghiến răng hai bàn tay bóp chặt quả cam. Sau đó chàng trở về tập hợp gia nô và nhân dân mài vũ khí, đóng thuyền, thêu lên cờ sáu chữ: “Phá cường địch báo hoàng ân”.

Tham khảo thêm cách 🌹 Viết Văn Bản Thuyết Minh Giải Thích Một Hiện Tượng Tự Nhiên 🌹  [20+ mẫu hay nhất]

5+ Mẫu Phân Tích Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Hay Nhất

Với những bài văn mẫu phân tích tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng hay nhất mà thohay.vn tổng hợp và chia sẽ bên dưới sẽ giúp bạn trau dồi thêm kỹ năng viết văn.

Phân Tích Tác Phẩm Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Sinh Động

Trần Quốc Toản là một tông nhất nhà Trần với công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Ông đã sống và cống hiến hết mình vì sứ mệnh của dân tộc, ông ra đi để lại một tấm gương sáng về tấm lòng yêu nước cho ngàn đời sau nói theo. Câu chuyện cuộc đời ông cứ thế được lưu truyền qua bao đời nay và được ca tụng dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng với hình ảnh “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”.

Ngay từ đầu tác phẩm cho ta biết về ý nghĩa nhan đề “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản. Có lẽ bởi vì Trần Quốc Toản chính là tấm bia chói lóa lý tưởng cách mạng, tấm lòng nồng nàn yêu nước, đó chính là thứ cần đó giúp lớp lớp thế hệ mầm non tương lai dựa vào. Tác giả còn khẳng định tác phẩm như một thiên truyện giáo dục, nâng cao ý thức của trẻ thơ về lịch sử nước nhà, tạo sự gắn kết, bồi đắp thêm tấm lòng biết ơn ông cha, yêu thương đất nước cho các em nhỏ.

Chí lớn của Trần Quốc Toản, tác giả kể về giấc mơ khi Trần Quốc Toản còn bé, ông mơ bắt sống được tên sứ nhà Nguyên hống hách. Tuy còn nhỏ nhưng ông đã ý thức được bổn phận của đấng nam nhi, còn nhỏ nhưng ấp ủ hoài bão lớn, chính là hoài bão của dân tộc.

Tuy chỉ nhỏ hơn các anh trai “dăm sáu tuổi” mà được tham gia bàn việc nước, điều đó càng làm tâm can Trần Quốc Toản nóng như lửa đốt. Thậm chí chàng còn có suy nghĩ xô ngã lính để chạy xuống nơi quan quân bàn bạc thế sự”, chi tiết đó đủ để ta hiểu được tấm lòng thương nước, lo cho dân của chàng. Đường đường là một bậc nam nhi khí phách oai hùng, sao có thế dửng dửng trước cảnh nước nhà đang khốn khó.

Càng nghĩ chàng càng thêm nôn nóng, chàng quyết định xô ngã lính để vào tâu với nhà vua. Thế nhưng tài của chàng khó mà được nhà vua công nhận bởi trong mắt vua “chàng như một đứa trẻ”. Không được vua trọng dụng nhưng sao mà tránh được lệnh vua, chàng chỉ biết “bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào”. Phải chăng bóp nát quả cam không phải vì giận hờn vua? Phải chăng bóp nát quả cam đó chính là nỗi căm hờn giặc ngoại xâm đến nỗi muốn nghiền chúng thành chăm mảnh?

Đó quả thực là vì lòng khát khao yêu nước, thương dân. Ngày ngày chàng chăm chỉ luyện tập, chàng hạ quyết tâm trên bến Bình Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta”.

Người anh hùng Trần Quốc Toản xuất hiện dưới ngòi bút miêu tả tinh thế chính là thành công của tác phẩm. Bằng sức tưởng tượng phong phú, ca từ giàu chất biểu cảm, lập luận chặt chẽ, tác phẩm chinh phục tấm lòng người đọc biết ơn, ghi công người anh hùng dân tộc với tinh thần yêu nước quật cường. Đặc biệt, “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” chắc chắn rằng sẽ là một tác phẩm không bao giờ cũ dành cho thế hệ mầm non của đất nước, là tấm gương sáng cho các em noi theo.

Phân Tích Đoạn Trích Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Đặc Sắc

Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một tác phẩm lịch sử của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, kể về cuộc đời của Trần Quốc Toản, một vị tướng tài ba của nhà Trần. Tác phẩm là kết quả của biết bao chiêm nghiệm về đời Trần, một thời đại mà Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt sùng kính, được lấy cảm hứng từ sự kiện lịch sử diễn ra ở thời nhà Trần với cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược lần thứ hai (1285).

Tác phẩm “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” đã tái hiện lại hình ảnh người thiếu niên anh hùng (Hoài Văn Hầu, tức Trần Quốc Toản), tuy tuổi đời còn trẻ nhưng lại có tinh thần yêu nước to lớn và lòng căm thù giặc sâu sắc, sau này sẽ trở thành danh tướng đời nhà Trần.

Từ nhỏ, ông sống trong một gia đình có truyền thống yêu nước nên Hoài Văn đã mang trong mình một tình yêu nước to lớn. Qua tác phẩm, ta có thể thấy rõ tinh thần yêu nước đã được nuôi dưỡng trong tâm hồn của Hoài Văn từ rất nhỏ “Cháu còn ít tuổi thật. Nhưng ví bằng quân Nguyên sang cướp nước ta, thì cháu cũng xin theo các chú, các bác đi đánh giặc”.

Chính vì lòng yêu nước nồng nàn đó, chàng đã không màng đến tất cả ngay cả mạng sống của mình, kiên quyết xông vào để gặp vua “Xin quan gia cho đánh! Cho giặc mượn đường là mất nước”. Tuy còn nhỏ nhưng Hoài Văn đã biết suy nghĩ cho nước nhà, mong muốn được góp sức mình bảo vệ nước “Cháu biết là mang tội lớn. Nhưng cháu trộm nghĩ rằng khi quốc biến thì đến đứa trẻ cũng phải lo huống hồ cháu đã lớn. Cháu chưa đến tuổi dự bàn việc nước, nhưng cháu có phải là giống cỏ cây đâu mà ngồi yên được” nhưng mong muốn đó không được chấp nhận.

Chàng đã tức giận, không thể ngồi yên nhìn đất nước lâm nguy chàng đã chợt nghĩ sẽ chiêu binh, mãi mã mà cầm quân đi đánh giặc “Được rồi! Ta sẽ chiêu binh mãi mã, cầm quân đi đánh giặc. Xem cái thằng phải đứng ngoài rìa này có phải là kẻ toi cơm không”.

Chính từ tình yêu nước mãnh liệt đó đã gợi lên bên trong Hoài Văn sức mạnh và ý chí đánh giặc. Ý chí quyết tâm đạt đến đỉnh điểm được thể hiện qua chi tiết Hoài Văn suy nghĩ dựng lên lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng “PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN” làm cho quân sĩ phấn khởi, kẻ địch kinh hồn: “Suốt từ chập tối đến canh hai, Hoài Văn tự hỏi “Ta sẽ viết chữ gì trên lá cờ của ta? Chữ đề phải quang minh chính đại như ban ngày. Chữ đề phải là một lời thề quyết liệt. Chữ đề phải làm cho quân sĩ phấn khởi, cho kẻ địch kinh hồn”. Trống đã điểm canh ba.

Mắt Hoài Văn bỗng rực sáng, toàn thân như bừng bừng cháy. Tay Hoài Văn giơ lên như đang phất một lá cờ. Hoài Văn thét lớn: PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN”. Dòng chữ dù ngắn gọn nhưng lại ẩn chứa sâu bên trong một lời thề son sắt, một tinh thần trung quân ái quốc sâu đậm.

Vì quá yêu nước nên Hoài Văn luôn muốn mau chóng đánh tan bọn giặc để bảo vệ đất nước, để có thể góp phần sớm mang lại cuộc sống an bình cho nhân dân: “Phải tập cho nhanh. Giặc sang đến nơi rồi. Ta sẽ học tập cả ngày lẫn đêm. Chí ta đã quyết. Dù cho khó nhọc đến đâu, ta cũng chẳng sờn lòng”.

Không những thế, chàng còn ngày đêm kêu gọi, đi từng thôn xóm vận động bà con cùng đứng lên chống giặc. Khi ra chiến trường, Hoài Văn mạnh mẽ, quyết đoán lao vào đánh giặc để bảo vệ nước nhà, để nhân dân sống một cuộc sống yên bình, chàng không hề chùn bước trước khí thế của bọn giặc, bởi lẽ một lòng yêu nước đầy to lớn đã vượt lên tất cả làm cho Hoài Văn thêm can đảm đánh bại kẻ thù.

Qua tác phẩm, hình ảnh một anh hùng trẻ tuổi với lòng yêu nước đầy bất diệt, đầy kiên cường mạnh mẽ, quyết tâm chống giặc để bảo vệ đất nước. Lòng yêu nước ngày càng được dâng cao, giặc càng mạnh, càng bạo thì lòng yêu nước của Hoài Văn càng lớn.

Tham khảo thêm mẫu ❣️ Viết Văn Bản Kiến Nghị Về Một Vấn Đề Của Đời Sống ❣️ siêu hay

Bài Văn Phân Tích Đoạn Trích Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Ngắn Hay

Trong kho tàng văn học Việt Nam, khi nhắc tới truyện lịch sử hay và đặc sắc, không thể không kể đến sáng tác “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tác phẩm đã giúp độc giả hiểu biết thêm về lịch sử của đất nước, đồng thời khơi dậy biết bao cảm xúc bồi hồi, rạo rực pha lẫn tự hào trong tâm hồn.

Tác phẩm được sáng tác trong bối cảnh diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược lần thứ hai năm 1285. Tuy là một tác phẩm lịch sử, nhưng văn bản này được đa phần được sáng tác dựa trên sự tưởng tượng và cách sáng tạo độc đáo của tác giả.

Chính điều ấy đã gây ấn tượng cho người đọc làm nên sự thành công cho tác phẩm. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng khai thác về những gương mặt tiêu biểu như Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải… Nhưng nổi bật nhất phải kể đến hình tượng Trần Quốc Toản là người thiếu niên tuổi còn nhỏ nhưng đã nuôi chí lớn.

Câu chuyện mở đầu bằng “một giấc mơ thú vị” của Trần Quốc Toản. Trong mơ, chàng mơ thấy mình bắt sống được tên sứ thần hống hách Sài Thung của nhà Nguyên. Giấc mơ đó dường như là sự mở đầu cũng là báo hiệu cho một người có ý chí phi thường, dù tuổi còn nhỏ, nhưng đã nhận thức được sứ mệnh của mình, ngay cả trong mơ cũng muốn giết giặc để mang hòa bình về cho đất nước. Khi biết tin vua Trần Nhân Tông sẽ tới bến Bình Than để cùng các vương hầu họp bàn việc nước, chàng quyết định xuất phát.

Một người một ngựa đi suốt một đêm với mong muốn được gặp nhà vua. Khi tới nơi, chàng thấy đám quân Thánh Dực đang canh gác ngoài bến tàu, chàng mơi to gan mà chạy đến, xô ngã mấy người lính, liều mình chạy lại quỳ xuống trước mặt nhà vua mà nói 2 tiếng: “Xin đánh”.

Tuy vua rất vừa ý, nhưng vì tuổi còn nhỏ nên chàng chỉ được vua ban cho cam quý, còn về việc nước thì vẫn không được vua cho dự. Trong lòng Trần Quốc Toản cảm thấy rất ấm ức, thất vọng, vừa hờn vừa tủi, nhưng lệnh vua đã ban, chàng nào dám cãi, vậy nên chỉ đành trở ra.

Chàng vừa đi vừa nghiến chặt răng, quả cam trong tay đã bị bóp nát từ bao giờ. Kể từ ngày ấy, Nguyễn Quốc Toản luôn nung nấu ý chí “Làm thế nào để được ra trận giết giặc, lập công, báo được ơn vua”. Chàng quyết tâm học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ với tinh thần sục sôi tràn đầy nhiệt huyết.

Không lâu sau, chỉ với lá cờ mang sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân” được đích thân mẹ chàng tự tay thêu đã chiêu mộ rất nhiều tráng sĩ gần xa. Họ cùng nhau tập hợp để rèn luyện binh thư, võ nghệ, họ sống với nhau như những người anh em ruột thịt. Khiến cho ai nấy đều cảm phục trước sự tài trí của những người thiếu niên anh hùng.

Và rồi, khi nghe tin quân giặc kéo đến nước nhà, không chần chừ gì, Trần Quốc Toản và quân sĩ đã cùng nhau anh dũng lên đường đánh giặc. Khi ấy chàng đã gặp và kết nghĩa anh em Nguyễn Thế Lộc- người anh hùng rừng núi. Không bao lâu sau, hai anh em đã phải chia tay nhau để Quốc Toản trở về Vạn Kiếp, đây là một trong những cảnh khiến người đọc cảm động nhất về tình cảm thân thiết gắn bó nghĩa tình của hai người hùng đều mang trong mình khí thế sục sôi giết giặc bảo vệ nước nhà.

Trần Quốc Toản đã được cử cùng Chiêu Văn Vương và Trần Nhật Duật đi đánh chặn Toa Đô. Trên cửa Hàm Tử, một cuộc chiến ác liệt, cam go đã nổ ra. Trần Quốc Toản anh dũng mà hiên ngang xông thẳng về phía các thuyền chiến của giặc. Tất cả quân sĩ đồng thanh hô vang “Sát thát”, ai nấy ráo riết, đánh đuổi đám tàn quân hỗn loạn ấy.

Toa Đô liều chết nhảy xuống nước bơi vào bờ, tưởng đâu sẽ thoát nhưng đã bị tướng quân Nguyễn Khoái bắn tên đâm trúng lưng. Giờ đây quân Nguyên như “rắn mất đầu”, rối rít buông bỏ vũ khí đầu hàng. Tin vui về tới, nhân dân bản làng ai nấy đều reo rò ăn mừng chiến thắng. Đặc biệt mẹ của Trần Quốc Toản cũng có mặt trong giây phút đó. Ngước mắt lên nhìn, bà nghẹn ngào xúc động khi thấy lá cờ thêu sáu chữ đỏ chói đang phấp phới bay.

Sau khi thưởng thức tác phẩm, nhà phê bình văn học Thiều Quang đã bộc bạch rằng: “Đọc mê mải cuốn truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng, tôi có cảm khoái say sưa như lâu ngày được hưởng một “món ăn lạ miệng”.

Thật vậy, cuốn sách ấy đã để lại cho độc giả rất nhiều những khung bậc cảm xúc khác nhau. Đó vừa là sự khâm phục, ngưỡng mộ người anh hùng Trần Quốc Toản với lòng yêu nước tha thiết, ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm. Vừa là sự cảm động trước sự đồng tâm hiệp lực, đoàn kết một lòng cùng nhau chiến đấu anh dũng quân dân nhà Trần . Một lòng căm hận, quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược Mông Nguyên mang hòa bình về cho nước nhà.

Văn Phân Tích Đoạn Trích Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Siêu Hay

Trong kho tàng văn học Việt Nam, truyện lịch sử là thể loại có ít tác phẩm hay và đặc sắc, trong đó có không thể không nhắc đến “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Đó là cuốn sách mà tôi yêu thích nhất – cuốn sách giúp tôi hiểu thêm về lịch sử đất nước và khơi dậy biết bao dòng cảm xúc trong tâm hồn tôi.

Lấy bối cảnh là cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược lần thứ hai (1285), nhưng tác phẩm có rất ít yếu tố lịch sử mà chủ yếu là sự tưởng tượng và sáng tạo của tác giả. Chính điều ấy làm nên sự thành công cho tác phẩm. Tác phẩm khai thác những gương mặt tiêu biểu như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật… Nhưng nổi bật nhất là hình tượng Trần Quốc Toản, người thiếu niên tuổi nhỏ chí lớn.

Mở đầu tác phẩm là “một giấc mơ thú vị” của Trần Quốc Toản. Chàng mơ thấy mình bắt sống được Sài Thung – tên sứ thần hống hách của nhà Nguyên. Đó là sự mở đầu và báo hiệu cho một ý chí phi thường. Khi biết nhà vua cùng các vương hầu họp bàn việc nước ở bến Bình Than, chàng đã đi suốt một đêm để tìm nhà vua rồi năn nỉ, cầu xin đám quân Thánh Dực cho mình xuống bến để quỳ trước mặt vua và nói 2 tiếng: “Xin đánh”.

Tuy vậy, chàng chỉ được vua ban cam quý, còn việc nước thì vẫn không cho dự. Trần Quốc Toản cảm thấy vô cùng ấm ức, vừa hờn vừa tủi. Chàng nghiến chặt răng, hai tay nắm chặt đến mức bóp nát quả cam quý. Từ ấy, chàng luôn nung nấu ý nghĩ “Làm thế nào để được ra trận giết giặc, lập công, báo được ơn vua”. Trở về quê nhà, chàng quyết tâm rèn luyện võ nghệ, học tập binh thư. Sự khổ công luyện tập, ý chí, lòng kiên trì đã khắc họa nên hình tượng về người thiếu niên trẻ tuổi, sục sôi nhiệt huyết.

Không lâu sau, lá cờ với sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân” được thêu từ tấm lòng của người mẹ hiền thảo đã chiêu mộ được biết bao tráng sĩ gần xa. Họ cùng nhau tập luyện võ nghệ, binh thư, sống với nhau như anh em ruột thịt. Nhân dân khắp nơi ai nấy đều cảm phục tài trí của người thiếu niên anh hùng ấy.

Thế rồi, quân giặc đã phạm đến cửa ải. Trần Quốc Toản và quân sĩ lên đường đánh giặc, trên đường, chàng đã gặp rồi kết nghĩa anh em với người anh hùng rừng núi Nguyễn Thế Lộc – một con người tuy lạnh lùng ít nói nhưng vô cùng nghĩa khí. Cuộc chia tay của hai anh em để Quốc Toản phải trở về hội quân ở Vạn Kiếp là một trong những đoạn khiến tôi cảm động.

Đọc đến đây, tôi thấy sống mũi mình cay cay.  Tôi thấy cảm phục tình anh em thân thiết của họ, tình cảm ấy thật thiêng liêng và thắm thiết. Tuy phải chia tay nhưng hai người vẫn luôn hướng về nhau và nhớ về những kỷ niệm đáng quý trong khoảng thời gian đã qua. “Lòng Hoài Văn thổn thức… nhìn anh em Thế Lộc lên núi. Bầu trời ảm đạm, âm u, những đám mây bồng bềnh bao phủ đỉnh núi”.

Trần Quốc Toản được cử đi cùng Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đánh chặn Toa Đô. Một cuộc chiến ác liệt đã nổ ra trên cửa Hàm Tử. Trần Quốc Toản hiên ngang xông về phía các chiến thuyền của giặc. Quân sĩ hô vang “Sát thát”, ráo riết, truy đuổi đám tàn quân hỗn loạn.

Toa Đô phải liều chết bơi vào bờ, bị tướng quân Nguyễn Khoái bắn tên trúng lưng. Quân Nguyên như “rắn mất đầu”, vội vàng buông vũ khí đầu hàng. Nhân dân ở làng bản xung quanh đổ xô ra giúp quan quân đánh giặc, ăn mừng chiến thắng. Trong số đó có mẹ của Trần Quốc Toản. Khi nhìn thấy lá cờ thêu sáu chữ đỏ chói, bà không kìm được nước mắt, nghẹn ngào vì xúc động…

Cuốn sách đã mang lại cho tôi nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Đó là sự khâm phục, ngưỡng mộ tinh thần yêu nước và ý chí kiên cường của Trần Quốc Toản. Đó là sự cảm động  trước tình mẹ con, chú cháu, vua tôi cùng trên dưới, một lòng. Đó là lòng căm giận trước tội ác của quân Nguyên. Đó còn là sự hả hê, vui sướng khi quân giặc phải chịu thất bại thảm hại và bị khuất phục bởi tinh thần đoàn kết, đồng tâm hiệp lực của quân nhân nhà Trần.

Và trên hết, tôi đã học được một bài học thật ý nghĩa về ý chí và sự quyết tâm, từ đó nhận thức được trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước. Gấp lại cuốn sách nhưng những hình ảnh tràn đầy khí thế về Hoài Văn Trần Quốc Toản vẫn luôn in đậm trong tâm trí tôi. Đó là một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ ngày nay học tập và noi theo. Hình ảnh lá cờ thêu sáu chữ vàng và đoàn quân xông xáo, hăng hái đi đánh giặc sẽ mãi mãi là một biểu tượng của lòng yêu nước, một bản anh hùng ca sáng ngời trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Chia sẽ thêm đến bạn 👉 16+ Mẫu Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học [Hay nhất]

Mẫu Phân Tích Đoạn Trích Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Xuất Sắc

Trần Quốc Toản là một tông nhất nhà Trần với đóng góp lớn lao trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Ông đã sống và cống hiến quên mình cho sự nghiệp của dân tộc, ông mất đi để lại một tấm gương sáng về tấm lòng yêu nước mà ngàn đời sau nói theo. Câu chuyện cuộc đời ông cứ thế được truyền tụng từ biết bao đời nay và được tái hiện dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng với hình tượng “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”.

Ngay từ nhan đề tác phẩm cho ta hiểu được ý nghĩa nhan đề “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản. Có lẽ vì Trần Quốc Toản chính là tấm gương chói loá lí tưởng cách mạng, tấm lòng nồng nàn yêu nước, đó cũng là cái cần đó để các thế hệ thiếu nhi tương lai dựa vào. Tác giả đã khẳng định tác phẩm như một thiên truyện giáo dục, nâng cao nhận thức của thiếu nhi đối với lịch sử nước nhà, tạo sự gắn bó, vun đắp cho tấm lòng tri ân ông cha, yêu thương tổ quốc nơi mỗi em nhỏ.

Chí lớn của Trần Quốc Toản, tác giả kể về giấc mộng khi Trần Quốc Toản còn nhỏ, ông nằm mơ bắt sống được tên sứ nhà Nguyên hống hách. Tuy còn nhỏ nhưng ông đã ý thức được trách nhiệm của đấng nam nhi, từ nhỏ đã nuôi chí lớn, đây là hoài bão của dân tộc.

Tuy chỉ nhỏ hơn các anh trai “dăm sáu tuổi” mà lại được tham gia bàn bạc việc nước, điều đó càng khiến tâm can Trần Quốc Toản nóng như lửa đốt. Thậm chí chàng còn có ý nghĩ quật ngã quân lính rồi nhảy xuống nơi quân lính bàn luận thời cuộc “,chi tiết ấy đủ để ta thấy được tấm lòng yêu nước, lo lắng cho dân của chàng. Đường đường là một bậc nam nhi khí phách oai hùng, làm sao có khả năng dè bỏ được cảnh nước nhà đang khốn khó.

Càng nghĩ chàng càng thấy sốt ruột, chàng liền quật ngã quân lính rồi vào tâu với vua. Thế nhưng tài của chàng làm sao mà lại được nhà vua trọng dụng khi trong mắt nhà vua “chàng khác nào một đứa trẻ”. Không được vua công nhận nhưng làm sao có thể thoát được lệnh vua, chàng chỉ có thể “bóp nát trái cam trong tay bất cứ lúc nào”. Phải chăng bóp nát trái cam không phải bởi vì giận vua?

Phải chăng bóp nát quả cam kia chính là lòng căm thù giặc ngoại xâm đến muốn nghiền chúng thành trăm mảnh? Đó chính là bởi lòng khao khát yêu nước, thương nòi. Ngày ngày chàng chăm chỉ tập luyện, chàng hạ quyết tâm trên bến Bình Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta “.

Người anh hùng Trần Quốc Toản xuất hiện dưới ngòi bút miêu tả tinh thế cũng là thành công của tác phẩm. Bằng trí tưởng tượng bay bổng, ngôn từ đậm chất thơ, lập luận chặt chẽ, tác phẩm chinh phục được lòng người đọc sâu sắc, ghi công người anh hùng dân tộc với truyền thống yêu nước bất khuất.

Đặc biệt, “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” chắc chắn rằng sẽ là một tác phẩm không bao giờ cũ để dành tặng thế hệ tương lai của nước nhà, là tấm gương sáng ngời cho các em noi theo.

Viết một bình luận