Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Tìm Hiểu Thêm Về ý Nghĩa Nhan Đề, Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Tác Phẩm.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Bài thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất của tác giả Phạm Ngọc Cảnh kể về cuộc chiến tranh đã qua đan xen với tình yêu đôi lứa được thể hiện một cách dung dị đan xen với những nét đẹp văn hóa. Dưới đây là Nội Dung Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất, mời bạn thưởng thức.
Lý ngựa ô ở hai vùng đất
Tác giả: Phạm Ngọc Cảnh
Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu
Gặp câu hát bền lòng giong ruổi mãi
Đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi
Lý ngựa ô em hát đợi bên cầu
Hoá vô tận bao điều mơ tưởng ấy
Bao câu hát ông cha mình gởi lại
Sao em thương câu lý ngựa ô này
Sao anh nghe đến lần nào cũng vậy
Sao chỉ thấy riêng mình em đứng đấy
Chỉ riêng mình em hát với anh đây.
Làng anh ở ven sông
Sắp vào tháng tư
Mắt tình tứ rủ nhau về hội Gióng
Mùi hương xông nụ cười lên nhẹ bổng
Ai chẳng ngỡ mình đang đi trong mây
Ai chẳng tin mình đang rong ngựa sắt
Cả một vùng sông ai chẳng hát
Sao không nghe câu lý ngựa ô này.
Thế mà bên em móng ngựa gõ mê say
Qua phá rộng duềnh doàng lên dợn sóng
Qua truông rậm
Đến bây giờ anh buộc võng
Gặp mối dây buộc ngựa gỗ lim già
Suốt miền Trung sông suối dày tơ nhện
Suốt miền Trung núi choài ra biển
Nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua.
Anh đa tình nên cứ muốn lần theo
Xấu hổ gì đâu mà anh giấu giếm
Đêm đánh giặc mịt mù cao điểm
Vạch lá rừng nhìn xuống quê em
Mặt đất ra sao mà thúc vào điệu lý
Khuôn mặt ra sao mà suốt thời chống Mỹ
Lý ngựa ô hát đến mê người
Mỗi bước mỗi bồn chồn về đó em ơi.
Hay vì làng anh ở ven sông
Những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng
Đã hát quen lý ngựa ô rồi
Khen câu miền Trung qua truông dài phá rộng
Móng gõ mặt thời gian gõ trống
Khen câu miền Nam như giục như mời
Ngựa tung bờm bay qua biển lúa
Ngựa ghìm cương nơi sông xoè chín cửa
Tiếng hí chào xa khơi…
Hay em biết quê anh ngoài đó
Câu hát bắc cầu qua một thời quan họ
Câu hát xui nhau nên vợ nên chồng
Lý ngựa ô này hát theo đường đánh giặc
Có điều gì như thể ẩn vào trong?
Em muốn về hội Gióng với anh không
Để anh khoe với họ hàng câu lý ấy
Em muốn làm dâu thì em ở lại
Lý ngựa ô xin cưới sắp về rồi
Đồng đội của anh đã chọn mùa thắng giặc
Cũng sắp về chia vui.
Chia sẻ thêm mẫu phân tích 🌸Chiếc Lá Đầu Tiên 🌸 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Về Nhà Thơ Phạm Ngọc Cảnh
Dưới đây là một số thông tin Về Nhà Thơ Phạm Ngọc Cảnh :
- Phạm Ngọc Cảnh (20/7/1934 – 2014) là tên khai sinh, sinh tại thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, hiện sống ở Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1974). Ông còn có bút danh Vũ Ngàn Chi.
- Phong cách nghệ thuật của ông: vừa ào ạt dữ dội mà cũng thật trữ tình sâu lắng
- Tác phẩm chính: các tập thơ: Đêm Quảng Trị, Lối vào phía Bắc, Trăng sau rằm, Nhặt lá.
Về Tác Phẩm Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Về Tác Phẩm Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất, bài thơ này cho thấy sự đặc sắc của làn điệu lí ngựa ô khi được thể hiện ở hai nơi khác nhau là “làng anh” và “làng em”. Qua làn điệu lí ngựa ô, tác giả đã kín đáo bộc lộ tâm tư của chàng trai, cô gái với nỗi nhớ nhung khắc khoải và mong chờ trong tình yêu.
Đồng thời thông qua bài thơ này, bạn cũng có thể thấy các làn điệu, câu hò là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước mơ và khát vọng của con người ngày xưa.
Mời bạn đón đọc🌷Nắng Đã Hanh Rồi 🌷 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất chính là được ra đời trong một mạch văn hào sảng khí thế của người lính trận và được in trong Thơ miền Trung thế kỉ XX, NXB Đà Nẵng, 1995, trang 359 – 361
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất chính là thể hiện nét văn hóa truyền thống của dân tộc qua những câu hát giao duyên, điệu hò, điệu lí và cho thấy nét giao lưu văn hóa cộng đồng của thế hệ xưa. Người xưa thường mượn các câu hát để thổ lộ lòng mình một cách kín đáo.
Đón đọc tác phẩm🌸 Thơ Duyên [Xuân Diệu] 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý
Bố Cục Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Bố Cục Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất được chia làm 2 phần cụ thể như sau:
- Phần 1: Từ đầu đến “nên ghập ghềnh câu lí ngựa ô qua”: Hát bên anh
- Phần 2: Đoạn còn lại: Hát bên em
Giá Trị Tác Phẩm Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Để hiểu rõ Giá Trị Tác Phẩm Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất thì bạn có thể tham khảo gợi ý dưới đây của Thohay.vn.
Giá trị nội dung
- Bài thơ cho thấy nét độc đáo của điệu lý ngựa ô khi nó được diễn xướng ở hai địa điểm khác nhau là “làng anh” và “làng em”.
- Mượn điệu lý ngựa ngô, tác giả đã khắc hoạ tình yêu đôi lứa một cách dung dị đan xen với những nét đẹp văn hóa.
Giá trị nghệ thuật
- Lời lẽ, văn phong của bài thơ là lời của một làn điệu dân ca
- Giọng điệu trong bài thơ rất thủ thỉ, tâm tình, da diết, nhẹ nhàng
- Sử dụng ngôn từ mộc mạc, giản dị, thuần Việt, đậm chất văn hóa dân gian
Đọc thêm tác phẩm🌱 Bảo Kính Cảnh Giới [Nguyễn Trãi]🌱 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Dàn Ý Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Các bạn học sinh có thể tham khảo Dàn Ý Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất sau đây để có thể làm bài tốt hơn.
a. Mở bài: Giới thiệu bài thơ Lý ngựa ô ở hai vùng đất của tác giả Phạm Ngọc Cảnh
b. Thân bài:
– Làn điệu lý ngựa ô bên anh: Từ đầu đến “… không nghe câu lý ngựa ô này”
+ Vó ngựa: giặc ngoại xâm => anh lớn lên khi đất nước còn loạn lạc, trong thời kì chống giặc cứu nước
+ Em hát câu lý ngựa ô đã tiếp thêm sức mạnh cho anh tiếp tục chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
+ Anh tự hào về làn điệu lý ngựa ô được truyền từ thời cha ông đi trước => Từ niềm tự hào đó, nhân vật anh đã khéo léo thổ lộ tình cảm với người thương của mình
+ Quê hương anh đều yêu làn điệu lý ngựa ô: Quê anh có truyền thuyết Thánh Gióng gắn với hình ảnh ngựa sắt cùng Thánh Gióng ra trận bảo vệ tổ quốc; mỗi dịp tháng tu hội Gióng diễn ra, làn điệu lý ngựa ô lại được người dân quê anh cùng nhau ca vang khiến cho tất cả ai tham dự lễ hội đều như được cưỡi mây, rong ngựa sắt.
– Làn điệu lý ngựa ô ở bên em: Từ “Thế mà bên em móng ngựa gõ mê say” đến “nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua”
+ Quê em ở miền Trung, nơi móng ngựa “gõ mê say” để băng qua phá “rộng duềnh doàng lên dợn sóng” hay qua cả “truông rậm”
+ Khi đi đánh trận ở miền Trung quê em, anh phải trải qua biết bao khó khăn, băng sông, vượt núi => khi đó làn điệu lý ngựa ô em hát lại vang lên, tiếp cho anh sức mạnh tiếp tục chiến đấu, bảo vệ tổ quốc.
– Sự giao lưu, gặp gỡ của làn điệu lý ngựa ô:
+ Điệu lý ngựa ô ở mỗi miền mang một nét đặc trưng riêng, gắn với vẻ đẹp của mỗi vùng
+ Lời tỏ tình kín đáo của chàng trai dành cho cô gái qua làn điệu lý ngựa ô
c. Kết bài: Khái quát lại nội dung và giá trị của bài thơ Lí ngựa ô ở hai vùng đất
Soạn Bài Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Các em học sinh có thể lưu lại gợi ý Soạn Bài Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất dưới đây:
👉Câu 1 (trang 90 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Văn bản cho thấy, trong cảm nhận của chủ thể trữ tình, những câu Lí ngựa ô hát ở “làng anh” và hát ở “bên em” khác nhau như thế nào?
Đáp án:
- Làng anh: Câu hát Lí ngựa ô như một khúc ca vang lên khi họ đi hành quân
- Bên em: ”móng ngựa gõ mê say’, ”qua phá rộng duềnh doàng lên đợt sóng”. Ở bên em, câu hát Lí ngựa ô như một lời mời gọi, mang cảm giác mộc mạc của làng quê, sông nước miền Trung.
👉Câu 2 (trang 90 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Tìm trong văn bản một số chi tiết cho thấy có sự gặp gỡ, hòa hợp giữa những câu Lí ngựa ô hát “ở hai vùng đất” vốn có người hát khác nhau, không gian hát và âm điệu khác nhau
Đáp án:
Chi tiết cho thấy có sự gặp gỡ, hòa hợp giữa những câu Lí ngựa ô hát “ở hai vùng đất” vốn có người hát khác nhau, không gian hát và âm điệu khác nhau được thể hiện là:
- Qua truông rậm đến giờ anh buộc võng”/”gặp mối dây buộc ngựa gốc lim già
- Ngựa tung bờm bay qua biển lúa”/”ngựa kìm cương nơi sông xòe chín cửa”
👉Câu 3 (trang 90 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Đọc Lí ngựa ô ở hai vùng đất (Phạm Ngọc Cảnh) bạn hiểu thêm điều gì về vẻ đẹp và sức sống của những câu lí, câu hò và của ca dao, dân ca nói chung?
Đáp án:
Những câu lí, câu hò và ca dao, dân ca nói chung như thể hiện vẻ đẹp, khát vọng của người dân. Họ đưa vào đó những mong ước, khát khao về sự yên bình, tình yêu lứa đôi, những tâm tư tình cảm. Cùng với đó là lòng yêu quê hương, đất nước
Giáo Án Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Các giáo viên có thể tham khảo Giáo Án Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất dưới đây để chuẩn bị cho tiết học được tốt hơn.
I. MỤC TIÊU
1. Mức độ/ yêu cầu cần đạt: Biết nhận xét nội dung bao quát của VB Lí ngựa ô ở hai vùng đất; biết phân tích các chi hình ảnh, từ ngữ, biện pháp tu từ để làm rõ nội dung và nghệ thuật văn bản.
2. Năng lực:
a.Năng lực chung: Năng lực tự chủ và tự học, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo thông qua hoạt động đọc.
b. Năng lực riêng biệt
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản Lí ngựa ô ở hai vùng đất;
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về văn bản Lí ngựa ô ở hai vùng đất;
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản;
- Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm nghệ thuật của văn bản với các văn bản khác có cùng chủ đề.
3. Phẩm chất: Biết trân trọng , giữ gìn các di sản văn hóa của quê hương, đất nước.
II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
1.Chuẩn bị của giáo viên:
- Giáo án;
- Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi;
- Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp;
- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà;
2. Chuẩn bị của học sinh: SGK, SBT Ngữ văn 10, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
- Khởi động
- Mục tiêu: Tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng HS thực hiện nhiệm vụ học tập học tập của mình từ đó khắc sâu kiến thức nội dung bài học Lí ngựa ô ở hai vùng đất.
- Nội dung: GV đặt những câu hỏi gợi mở vấn đề cho HS chia sẻ về chủ đề Những di sản văn hóa.
- Sản phẩm: Chia sẻ của HS về chủ đề Những di sản văn hóa.
- Tổ chức thực hiện:
- Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
- GV đặt câu hỏi: Em có yêu thích một loài động vật nào không? Hãy chia sẻ về tập tính của loài vật đó, Điều em thích nhất ở loài vật đó là gì?
- Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
- HS lắng nghe câu hỏi của GV, suy nghĩ để chuẩn bị chia sẻ.
- Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
- GV mời 2 HS chia sẻ trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét.
- Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
- GV nhận xét, đánh giá, dẫn vào bài học: Mỗi loài vật đều có những cách thích nghi với cuộc sống, bản năng sinh tồn riêng. Bằng cảm nhận sâu sắc và qua lăng kính quan sát tinh tế của mình, nhà văn Phạm Ngọc Cảnh đã viết lại câu chuyện cảm động về một lần sai lầm của mình để rồi phải hối hận, Bài học hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu văn bản Lí ngựa ô ở hai vùng đất.
IV. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
- Mục tiêu: Nắm được nét thông tin cơ bản về văn bản Lí ngựa ô ở hai vùng đất.
- Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi về nét thông tin cơ bản của văn bản Lí ngựa ô ở hai vùng đất.
- Sản phẩm học tập:
- Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS | DỰ KIẾN SẢN PHẨM |
Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV yêu cầu HS đọc thông tin trong SGK, giới thiệu khái quát tác giả và tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất. – GV yêu cầu 2-3 HS đọc và tìm hiểu bài thơ. Xác định thể loại, bố cục văn bản. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – HS lắng nghe yêu cầu của GV, đọc thông tin trong SGK để trả lời câu hỏi. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời 1 – 2 HS phát biểu trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức. | I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả– Tên: Phạm Ngọc Cảnh – Năm sinh – năm mất: 1934-2014 – Quê quán: Hà Tĩnh – Ông là, diễn viên nhưng ông say mê sáng tác thơ. Vì vậy ông được điều về tạp chí Văn nghệ quân đội là biên tập thơ, rồi cán bộ sáng tác của tạp chí trong 20 năm lại đây. Ngoài sáng tác thơ, ông còn viết kịch phim, đọc lời bình, dẫn các chương trình thơ trên sóng phát thanh, truyền hình và đóng một số vai phụ trong các phim. 2. Tác phẩm – Xuất xứ: Văn bản in trong Thơ miền Trung thế kỉ XX, NXB Đà Nẵng, 1995, trang 359 – 361. – Hoàn cảnh sáng tác: ra đời trong một mạch văn hào sảng khí thế của người lính trận. – Thể loại: Thơ – Bố cục: + Phần 1 (từ đầu đến “ngựa ô này”): Câu hát ở làng anh. + Phần 2 (Còn lại): Câu hát ở làng em. |
Đón đọc tác phẩm 🔻 Thu Hứng [Đỗ Phủ] 🔻Các mẫu phân tích
Sơ Đồ Tư Duy Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất
Để nhanh chóng nhớ bài thì bạn có thể xem Sơ Đồ Tư Duy Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất dưới đây nhé!
Phân tích tác phẩm 🍀Mùa Xuân Chín [Hàn Mặc Tử]🍀Tìm Hiểu Sơ Đồ Tư Duy, Ý Nghĩa Nhan Đề
3 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất Hay Nhất
Chia sẻ cho bạn đọc 3 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất Hay Nhất sau đây, đón đọc nhé!
Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất Hay Đặc Sắc – Mẫu 1
“Khớp con ngựa ngựa ô
Khớp con ngựa ngựa ô
Ngựa ô anh khớp, anh khớp cái kiệu vang, ớ ơ ờ ớ ơ…
Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen
Búp sen lá dặm, dây cương nhuộm thắm
Cán roi anh bịt đồng thoà.
Là đưa, í a đưa nàng, đưa nàng…
Anh đưa nàng về dinh…”
Đây là những câu hát em thường được nghe qua chiếc đài radio của ông em khi còn nhỏ. Lớn lên, em tìm hiểu và biết được đây là lời bài hát của bài Lý Ngựa Ô, một bài hát nổi tiếng của dân ca Nam Bộ. Bài hát đã để lại cho em ấn tượng sâu sắc vì nhịp điệu vui tươi, cùng với đó là hình ảnh những chú ngựa với nhiều sắc thái thật sinh động.
Gần đây, em được biết thêm trong nền văn học Việt Nam cũng có một bài thơ viết về làn điệu lý ngựa ô có tên Lý ngựa ô ở hai vùng đất. Bài thơ thuộc thể loại thơ tự do của tác giả Phạm Ngọc Cảnh, nằm trong tập Đêm Quảng Trị.
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ vô cùng đặc biệt đó là trong mạch văn hào sảng khí thế của người lính ra trận. Bài Lý ngựa ô ở hai vùng đất đã kể lại cuộc chiến tranh đã qua của nước ta, xen lẫn vào đó chính là tình yêu đôi lứa được thể hiện thông qua làn điệu dân gian quen thuộc.
Đầu tiên, những làn điệu Lý ngựa ô được hát ở bên anh trong phần đầu của bài thơ:
“Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu
……
Cả một vùng sông ai chẳng hát
Sao không nghe câu lý ngựa ô này.”
Nó lẽ hình ảnh những con ngựa đã xuất hiện trong tâm trí nhân vật anh ngay từ khi còn nhỏ. “Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu”, ở đây nhà thơ Phạm Ngọc Thạch đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ ngay câu đầu tiên của bài thơ với từ “vó ngựa” để chỉ giặc ngoại xâm.
Qua đó, có thể thấy anh lớn lên khi đất nước còn loạn lạc, trong thời kì chống giặc cứu nước. Nhưng dù trong tình cảnh chiến tranh khói lửa, những người dân sinh ra ở nước Nam hào hùng vẫn không bao giờ ngừng yêu thương lẫn nhau và lan tỏa tình yêu đó để tiếp thêm sức mạnh cùng nhau bảo vệ nước nhà.
Tình yêu tổ quốc, tình yêu con người đó đã được thể hiện qua những câu hát dân gian quen thuộc là làn điệu Lý ngựa ô em hát. Câu hát như tiếp thêm sức mạnh cho anh khi hành quân đánh giặc, như em vẫn luôn đợi anh về và cũng đại diện cho quê hương đang cần anh bảo vệ.
Ở đoạn tiếp theo, tác giả sử dụng nghệ thuật điệp ngữ để làm tăng thêm tính tự hào của nhân vật anh về làn điệu Lý ngựa ô được truyền lại từ thời cha ông. Làn điệu lý ngựa ô là điều quý giá mà cha ông để lại, khiến cho anh hay em đều yêu thích nó và nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần. Từ niềm tự hào đó, nhân vật anh đã khéo léo thổ lộ tình cảm với người thương của mình, nhắc tới câu hát lý ngựa ô, anh nghĩ ngay tới em, và nghĩ tới khung cảnh được cùng em hát vang làn điệu này.
Không chỉ riêng mình anh, mà cả “làng anh”, quê hương của anh đều yêu làn điệu lý ngựa ô. Quê của nhân vật trữ tình “anh” được miêu tả nằm ở “ven sông”. Và đặc biệt đây là nơi gắn với truyền thuyết Thánh Gióng, câu chuyện truyền thuyết có xuất hiện ngựa sắt, con vật đồng hành cùng Thánh Gióng đánh giặc.
Mỗi năm, vào tháng tư, làng anh lại mở hội Gióng, mọi người khắp nơi tới để tham gia lễ hội và bày tỏ lòng thành kính biết ơn với Thánh Gióng nên “mùi hương” đã được thắp tỏa ra khắp nơi. Khi hội Gióng diễn ra là lúc truyền thuyết về Thánh Gióng lại được ôn lại và truyền bá đến với con cháu đời sau.
Lúc đó, làn điệu Lý ngựa ô sẽ lại vang lên, như một làn điệu hành quân của Thánh Gióng khi xưa cùng với chú ngựa sắt của mình. Làng anh cùng hát làn điệu lý ngựa ô khiến cho bất kể ai tham gia hội Gióng cũng sẽ có cảm giác như mình đang được “đi trên mây” và “rong ngựa sắt” vậy.
Đến với vùng đất thứ hai cũng yêu làn điệu Lý ngựa ô không kém chính là bên nhân vật em:
“Thế mà bên em móng ngựa gõ mê say
qua phá rộng duềnh doàng lên dợn sóng
qua truông rậm đến bây giờ anh buộc võng
gặp mối dây buộc ngựa gỗc lim già
suốt miền Trung sông suối dày tơ nhện
suốt miền Trung núi choài ra biển
nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua…”
Có thể thấy, nếu như quê anh gắn với truyền thuyết Thánh Gióng ở miền Bắc Bộ thì quê em lại ở miền Trung, nơi móng ngựa “gõ mê say” để băng qua phá “rộng duềnh doàng lên dợn sóng” hay qua cả “truông rậm”. Đây là hai vùng địa hình đặc trưng của dải đất miền Trung nước ta, phá chính là vùng nước mặn có dải đất và cát ngăn với biển, được nối thông ra ngoài biển bằng một dòng nước hẹp.
Còn truông chính là chỉ vùng đất hoang, có cây cối rậm rạp. Có lẽ đây không chỉ là quê hương em, mà còn là nơi hai nhân vật trữ tình gặp nhau, nơi nhân vật anh phải đi đánh giặc. Anh phải trải qua biết bao khó khăn, bắc võng ngủ ở truông hoang sơ, buộc ngựa ở gốc lim, trải qua muôn trùng cách trở bởi miền Trung có “sông suối dày” như “tơ nhện”, “núi choài ra biển”.
Những lúc như vậy, làn điệu lý ngựa ô thân quen theo anh từ thuở tấm bé lại được em ca vang lên, như để tiếp thêm sức mạnh cho anh mạnh mẽ hơn để bảo vệ tổ quốc.
Rồi làn điệu lý ngựa ô ở hai vùng đất bên anh và bên em được gặp gỡ và giao lưu với nhau:
“Hay vì làng anh ở ven sông
những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng
đã hát quen lý ngựa ô rồi
khen câu miền Trung qua truông dài phá rộng
móng gõ mặt thời gian gõ trống
khen câu miền Nam như giục như mời
ngựa tung bờm bay qua biển lúa
ngựa ghìm cương nơi sông xoè chín cửa
tiếng hí chào xa khơi…
hay em biết quê anh ngoài đó
câu hát bắc cầu qua một thời quan họ
câu hát xui nhau nên vợ nên chồng
lý ngựa ô này hát theo đường đánh giặc
có điều gì như thể ẩn vào trong?”
Tuy cùng làn điệu lý ngựa ô, nhưng câu hát ở mỗi vùng lại được thêm vào đó những đặc trưng riêng của quê hương mình. Ở bên anh câu hát lý ngựa ô gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng. Ở nơi em, lại gắn với truông dài phá rộng của miền Trung. Hay miền Nam, lý ngựa ô lại có âm điệu “như giục như mời”, những câu hát gắn với hình ảnh ngựa bay qua vựa lúa bát ngát, ngựa chạy ở nơi sông Cửu Long “sông xòe chín cửa” để vươn ra biển lớn, cất tiếng hí vang “chào xa khơi”.
Ẩn chứa trong sự hòa hợp, giao lưu của các làn điệu lý ngựa ô của các vùng miền lại là lời tỏ tình của chàng trai miền Bắc dành cho người thương của mình. Chàng giới thiệu với em làn điệu giao duyên của vùng quê quan họ Bắc Ninh nổi tiếng xứ Bắc, hay còn gọi là “câu hát xui nhau nên vợ nên chồng” như một lời tỏ tình chân thành và tinh tế.
Rồi chàng ẩn ý muốn hỏi nàng, vậy những câu hát lý ngựa ô theo suốt những con đường đánh giặc bao đời nay, có chứa đựng được tình cảm nam nữ như những câu hát quan họ hay không? Đây như một lời mong mỏi của chàng trai, với ước muốn người yêu có thể làm hậu phương vững chắc cho mình đánh giặc, đợi mình khải hoàn trở về.
Qua bài thơ Lý ngựa ô ở hai vùng đất, người đọc chúng ta như được thả trôi tâm hồn vào với những làn điệu lý ngựa ô, một làn điệu dân ca nổi tiếng không kém với làn điệu quan họ. Bài thơ đã thể hiện được vẻ đẹp của dân ca lý ngựa ô ở dọc ba miền của đất nước, từ bắc vào nam, ở bất kì nơi đâu, điệu lý ngựa ô cũng thật đẹp và chứa đựng những đặc trưng riêng của vùng miền đó.
Từ điệu hò lý ngựa ô, các nhân vật trữ tình đã bộc lộ được tình cảm của mình dành cho nhau cũng như tình yêu với đất nước. Truyền thống yêu nước và yêu thương lẫn nhau đã khắc sâu vào trong tâm trí của mỗi một người dân Việt Nam, giống như làn điệu lý ngựa ô đã in sâu vào văn hóa bao đời nay của đất nước ta.
Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất Ý Nghĩa – Mẫu 2
Gặp câu hát bền lòng giong ruổi mãi
Đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi
…..
Chỉ riêng mình em hát với anh đây”.
Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, cho thấy câu hát lí ngựa ô đã gắn liền với tuổi thơ của tác giả, trở thành niềm yêu, nỗi nhớ thương đi theo suốt cuộc đời tác giả.
Nghệ thuật điệp cấu trúc cú pháp: “sao em”, “sao anh”, “sao chỉ thấy” thể hiện niềm tự hào của tác giả về câu hát lý ngựa ô. Đồng tời giọng thơ của tác giả chứa chan tình cảm, cách xưng hô “anh – em” tạo cho người đọc trào dâng cảm xúc yêu thương, bình yên trong tâm hồn.
“Làng anh ở ven sông
…..
Sao không nghe câu lý ngựa ô này”.
Làng anh ở ven sông, ”quen hát Lí ngựa ô rồi”, hát vào tháng tư khi Hội Gióng. Câu hát Lí ngựa ô ở ”làng anh” hát theo đường đánh giặc, ai nghe cũng ngỡ mình đang đi trong mây, ai chẳng tin mình đang gióng ngựa sắt. Có thể thấy câu hát Lí ngựa ô như một khúc ca vang lên khi họ đi hành quân.
“Thế mà bên em
……
nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua”.
Bên em: ”móng ngựa gõ mê say”, ”qua phá rộng duềnh doàng lên đợt sóng”. Ở bên em, câu hát Lí ngựa ô như một lời mời gọi, mang cảm giác mộc mạc của làng quê, sông nước miền Trung.
Anh ra trận, đến quê em lại nghe câu hát lí ngựa ô. Dường như câu hát đi theo anh từ thuở ấu thơ, đến lúc trưởng thành, tiếp thêm cho anh niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
“Hay vì làng anh ở ven sông
Những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng
……
Đồng đội của anh đã chọn mùa thắng giặc
Cũng sắp về chia vui”
Câu hát lí ngựa ô ở hai vùng đất tuy có sự khác nhau về âm điệu nhưng vẫn có sự gặp gỡ, hòa hợp bởi ẩn trong mẫu câu hát là những tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình, là tình yêu lứa đôi.
“Em muốn về hội Gióng với anh không
Để anh khoe với họ hàng câu lý ấy
Em muốn làm dâu thì em ở lại
Lý ngựa ô xin cưới sắp về rồi”.
Câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về, giọng thơ nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm xúc mênh mang, dàn trải, nó làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng người bao nỗi niềm bâng khuâng. Hội Gióng, câu hát lí ngựa ô chính là điểm đến trong tâm tưởng của tác giả. Ngay cả lời tỏ tình với người em gái cũng hướng về câu hát đầy kỉ niệm ấy.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp tu từ, tác phẩm Lý ngựa ô ở hai vùng đất đã thể hiện được vẻ đẹp và sức sống của những điệu lý, điệu hò, ẩn sâu trong những câu hát đó là nét đẹp tâm hồn, là khát vọng của người dân. Họ đưa vào đó những mong ước, khát khao về sự yên bình, tình yêu lứa đôi, những tâm tư tình cảm, cùng với đó là lòng yêu quê hương đất nước
Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất Ngắn – Mẫu 3
“Lý ngựa ô ở hai vùng đất” là thi phẩm thường hay được nhắc tới của Phạm Ngọc Cảnh. Bài thơ cũng là cơ duyên gắn bó ông với người phụ nữ có cái tên đẹp: Giáng Hương.
Bài thơ “Lý ngựa ô ở hai vùng đất” đã ra đời trong một mạch văn hào sảng khí thế của người lính trận. Bài thơ cũng đã gieo vào lòng những độc giả cùng thế hệ ông niềm vui và niềm tin chiến thắng:
“Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu
Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi
….
Đồng đội của anh đã chọn mùa thắng giặc
Cũng sắp về chia vui“.
Làng anh nằm ở ven sông, “quen hát Lí ngựa ô rồi”, hát vào tháng tư khi Hội Gióng. Câu hát Lí ngựa ô ở “làng anh” hát theo đường đánh giặc khiến ai nghe cũng ngỡ mình đang đi trong mây, chẳng ai tin mình đang giong ngựa sắt. Có thể thấy thời điểm “làng anh” là đang đi lính, ra trận, câu hát như một khúc ca vang lên khi họ đi hành quân.
Bên em thì “móng ngựa gõ mê say’, “qua phá rộng duềnh doàng lên đợt sóng”. Ở bên em, câu hát Lí ngựa ô như một lời mời gọi, mang những cảm xúc mộc mạc nhất của làng quê, sông nước miền Trung.
Bài thơ đã cho thấy nét độc đáo của điệu lý ngựa ô khi nó được diễn xướng ở hai địa điểm khác nhau là “làng anh” và “làng em”. Qua điệu hò ngựa ô, tác giả đã lồng ghép thể hiện tình cảm của chàng trai và cô gái với những nhớ nhung, khao khát yêu đương một cách thật kín đáo, tế nhị. Qua đó ta thấy rõ, những giai điệu, bài hát là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước mơ, khát vọng của người dân lúc xưa
Thông qua bài thơ, ta có thể nhân thấy rằng những câu hò, câu hát giao duyên hay những làn điệu dân ca nhìn chung dường như đều thể hiện được vẻ đẹp và khát vọng của nhân dân. Họ gửi gắm vào đó những ước vọng, khát khao hòa bình, tình yêu đôi lứa, những tâm tư tình cảm và tình yêu quê hương, đất nước.
Chia sẻ thêm cho bạn 💚 Dục Thúy Sơn [Nguyễn Trãi] 💚 Sơ đồ tư duy, dàn ý chi tiết