Số Phận Con Người: Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích 

Số Phận Con Người ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Hoàn Cảnh Sáng Tác, Ý Nghĩa Nhan Đề, Sơ Đồ Tư Duy.

Nội Dung Tác Phẩm Số Phận Con Người

“Số phận con người” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Sôlôkhốp được học trong chương trình Ngữ văn 12 học kì 2. Sau đây là Nội Dung Tác Phẩm Số Phận Con Người đầy đủ.

(Lược phần đầu: Mùa xuân năm 1946, trên đường đi công tác, tác giả gặp anh lái xe An-đrây Xô-cô-lốp 46 tuổi và bé Va-ni-a chừng 5 – 6 tuổi trên bến đò. Nhân dịp này, An-đrây Xô-cô-lốp đã kể cho tác giả nghe về cuộc đời đau khổ của mình. Khi chiến tranh bùng nổ, anh ra trận, để lại vợ và ba con ở hậu phương. Chiến đấu chừng một năm, anh bị thương hai lần, vào tay và chân. Tiếp đó là hai năm bị đoạ đày trong các trại tập trung của phát xít Đức. Năm 1944, bọn phát xít bị thua to trên mặt trận Xô – Đức, buộc phải dùng cả tù binh làm lái xe. Nhân cơ hội đó, An-đrây Xô-cô-lốp đã cướp xe, bắt sống tên thiếu tá phát xít, chạy thoát về phía quân ta. Mãi lúc ấy An-đrây Xô-cô-lốp mới biết vợ và hai con gái anh đã bị bom phát xít giết hại từ giữa năm 1942. A-na-tô-li, con trai anh, một học sinh giỏi toán, giờ là đại uý pháo binh. Hai cha con cùng tiến đánh Béc-lin, sào huyệt của bọn phát xít. Đúng ngày 9 tháng 5 năm 1945, ngày chiến thắng, một tên thiện xạ Đức đã bắn chết A-na-tô-li, đứa con trai yêu quý, niềm hy vọng cuối cùng của An-đrây Xô-cô-lốp…)

Tôi đã chôn trên đất người, đất Đức, niềm vui sướng và niềm hi vọng cuối cùng của tôi; đại đội pháo đã nổ súng vĩnh biệt tiễn người chỉ huy của họ tới nơi an nghỉ cuối cùng; trong người tôi như có cái gì đó vỡ tung ra… Tôi trở về đơn vị mình như người mất hồn. Nhưng chả mấy chốc tôi được giải ngũ. Về đâu bây giờ? Chả nhẽ lại về Vô-rô-ne-giơ? Không được! Tôi chợt nhớ ở U-riu-pin-xcơ có một người bạn, giải ngũ hồi mùa đông vì bị thương, – có lần anh ấy mời tôi về nhà, tôi nhớ ra và tìm đến U-riu-pin-xcơ.

Hai vợ chồng người bạn tôi không có con, sống trong một ngôi nhà riêng nho nhỏ ở rìa thành phố. Mặc dù được hưởng phụ cấp thương binh, nhưng anh bạn tôi vẫn làm lái xe cho một đội vận tải, tôi cũng đến xin làm ở đó. Tôi ở nhà bạn, họ thu xếp cho tôi chỗ nương thân. Chúng tôi chở các thứ hàng hoá về các huyện, và mùa thu thì chuyển sang chở lúa mì. Chính vào hồi ấy tôi gặp chú con trai mới của tôi, đấy chú bé đang nghịch cát đấy.

Thường cứ chạy xe xong trở về thành phố, việc đầu tiên cũng dễ hiểu thôi, là tôi vào hiệu giải khát, nhấm nháp chút gì đó và tất nhiên có uống một ly rượu lử người. Phải nói rằng tôi đã quá say mê cái món nguy hại ấy… Thế rồi một hôm, tôi thấy chú bé ấy ở gần cửa hàng giải khát, hôm sau vẫn lại thấy – thằng bé rách bươm xơ mướp. Mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩn như ma lem, đầu tóc rối bù, nhưng cặp mắt – cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm! Tôi thích nó, và lạ thật, thích đến nỗi bắt đầu thấy nhớ nó, cố chạy xe cho nhanh để được về gặp nó. Nó ăn ngay ở hiệu giải khát, ai cho gì thì ăn nấy.

Sang ngày thứ tư, tôi chở lúa mì từ nông trường, ghé lại hiệu giải khát. Chú bé của tôi ngồi ở bậc thềm, hai bàn chân nhỏ xíu đung đưa, và nom có vẻ như đang đói. Tôi thò đầu ra ngoài cửa buồng lái và hét gọi: “Ê, Va-ni-a! Lên ô tô đi, nhanh lên, chú đưa đến kho thóc rồi trở về đây ăn trưa”. Nghe tiếng hét gọi của tôi, nó giật mình nhảy khỏi thềm, leo lên bậc xe hỏi nhỏ: “Sao chú lại biết tên cháu là Va-ni-a?”. Và đôi mắt nhỏ của nó mở to ra chờ tôi trả lời. Còn tôi thì bảo nó rằng tôi là người từng trải, cái gì cũng biết.

Nó bước sang bên phải xe, tôi mở cửa đặt nó ngồi bên cạnh mình và cho xe chạy. Thằng bé hoạt bát đến thế mà bỗng nhiên không biết vì sao lại lặng thinh, tư lự, chốc chốc lại liếc nhìn tôi dưới đôi hàng mi dài cong vút, và lại thở dài. Một con chim con non nớt như thế mà đã học thở dài ư? Đấy đâu phải việc của nó? Tôi hỏi: bố cháu đâu, hả Va-ni-a?”. Nó rỉ tai: “Chết ở mặt trận.” – “Thế mẹ cháu?” – “Mẹ bị bom chết trên tàu hoả khi mẹ con cháu đang đi tàu.” – “Thế cháu từ đâu đến?” – “Cháu không biết, không nhớ…” – “Thế ở đây cháu không có ai là bà con thân thuộc à?”. – “Không có ai cả” – “Thế đêm cháu ngủ ở đâu?” – “Bạ đâu ngủ đó”.

Những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên ở mặt tôi, và lập tức tôi quyết định: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con.”. Ngay lúc ấy, tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên. Tôi cúi xuống bên nó khẽ hỏi: “Va-niu-ska, có biết ta là ai không nào?”. Nó hỏi lại nghẹn ngào: “Thế chú là ai?”. Tôi nói lại cũng khẽ như thế: “Ta là bố của con!”

Trời ơi, thật không thể tưởng tượng được. Nó nhảy chồm lên cổ tôi hôn vào má, vào môi, vào trán và như con chim chích, nó ríu rít líu lo vang rộn cả buồng lái: “Bố yêu của con ơi! Con biết mà! Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà! Thế nào cũng tìm thấy mà! Con chờ mãi mong được gặp bố!”. Nó áp sát vào người tôi, toàn thân cứ run lên như ngọn cỏ trước gió. Còn mắt tôi thì cứ mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy… Thế mà tôi vẫn không bị mất tay lái thì cũng kì lạ thật. Nhưng rồi xe cũng lảo đảo đâm xuống rãnh, tôi tắt máy. Giữa lúc mắt còn mờ đi như vậy, tôi không dám chạy tiếp, sợ đâm phải người. Tôi dừng xe chừng năm phút, còn chú bé con trai của tôi cứ ghì chặt lấy tôi lặng im, run rẩy. Tay phải tôi quàng sang ôm lấy nó, khẽ áp nó vào người, còn tay trái tôi mở máy quay trở về nhà mình. Đến kho thóc làm gì nữa, khi mà tôi không còn bụng dạ nào để đi đến đó.

Tôi để xe cạnh cổng, bế con trai mới của tôi vào nhà. Còn nó thì hai tay bé bỏng cứ ôm chặt lấy cổ tôi, vào đến nơi vẫn không chịu buông ra. Nó áp chặt má vào cái má lởm chởm chưa cạo của tôi, cứ như là dán vào đó. Tôi cứ thế bế vào. May quá, cả hai vợ chồng nhà chủ đều đang ở nhà. Tôi bước vào, nháy mắt ra hiệu cho cả hai người rồi nói một cách phấn khởi: “Đây, tôi tìm được cháu Va-niu-ska của tôi rồi! Hai bác là người tốt bụng, cho chúng tôi ở nhờ nhé!”. Cả hai, những người không có con, lập tức hiểu ngay câu chuyện, cứ lăng xăng tíu tít. Còn tôi thì không làm sao dứt khỏi chú con trai. Cuối cùng, rồi cũng dỗ được nó. Tôi lấy xà phòng rửa tay cho nó rồi đặt ngồi vào bàn ăn. Bà chủ múc xúp bắp cải vào đĩa cho nó, rồi đứng nhìn nó ăn ngấu nghiến mà nước mắt ròng ròng. Bà đứng cạnh lò sưởi lấy tạp dề che mặt khóc. Bé Va-niu-ska của tôi thấy bác ấy khóc bèn chạy lại níu lấy vạt áo và nói: “Cô ơi, sao cô lại khóc? Bố cháu tìm thấy cháu ở gần hiệu giải khát, mọi người phải vui mừng chứ, sao cô lại khóc?”. Chao ôi, nghe nói thế bác ta lại càng đầm đìa nước mắt, càng khóc sướt mướt.

Sau bữa ăn trưa, tôi đưa nó tới hiệu cắt tóc, rồi về nhà đặt ngồi vào chậu giặt, tắm rửa xong rồi bọc nó vào tấm khăn trải giường sạch. Nó ôm lấy tôi và cứ thế ngủ thiếp đi. Tôi cẩn thận đặt nó lên giường, rồi cho xe chạy tới kho thóc, dỡ lúa mì xuống, đem xe về trạm để đó, chạy ra cửa hàng tạp hoá. Tôi mua cho nó một cái quần dạ, một sơ mi, đôi dép và một cái mũ lưỡi trai bằng sợi. Tất nhiên là tất cả mọi thứ đều không vừa và chất lượng cũng kém. Về cái quần dạ thì bà chủ đã quở tôi: “Bác điên hay sao, trời nóng thế này mà mặc quần dạ cho con!”. Và lập tức, chiếc máy khâu được đặt lên bàn; rương hòm được lục tung lên. Một giờ sau, Va-niu-ska của tôi đã có một chiếc quần đùi xa tanh và một sơ mi trắng cộc tay. Tôi ngủ chung với nó, và lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Nhưng trong đêm cũng phải dậy đến vài bốn bận. Tôi thức giấc, thấy nó rúc vào nách tôi như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ, tôi thấy lòng vui không lời nào tả xiết! Tôi không dám trở mình để nó khỏi thức giấc, nhưng rồi không nén được, tôi nhẹ nhàng ngồi dậy đánh diêm ngắm nhìn nó ngủ…

Tôi thức giấc trước khi trời sáng, không hiểu vì sao mà lại khó thở thế. Hoá ra chú con trai của tôi đã đạp tung khăn trải giường, bò lên nằm vắt ngang trên người tôi, xoạc chân ra, bàn chân bé nhỏ đè lên cổ họng tôi. Ngủ với nó thật không yên, nhưng quen hơi, không có nó thì buồn. Đêm đêm khi thì nhìn nó ngủ, khi thì thơm mái tóc xù của nó, trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn…

Thời gian đầu, nó còn theo tôi trong các chuyến xe, nhưng rồi tôi hiểu ra rằng như thế không có lợi. Chỉ một mình tôi thì cần gì đâu? Một mẩu bánh mì, một củ hành với tí muối, thế là đủ no cho một ngày của đời lính. Nhưng thêm nó thì khác: khi thì phải mua sữa cho nó, khi thì phải luộc quả trứng, không có thức ăn nóng cho nó là không xong. Nhưng công việc thì cần gấp. Tôi kiên quyết để nó ở nhà cho bà chủ chăm nom, nhưng nó cứ khóc suốt từ sáng cho đến tối, chiều tối chuồn ra kho thóc tìm tôi. Nó thường đợi tôi ở đó đến khuya.

Ban đầu thật là vất vả với nó. Có hôm trời còn sáng, hai bố con đã đi nằm ngủ – ban ngày tôi làm việc mệt lử người – còn nó, lúc thì cứ luôn luôn ríu rít như chim sẻ, có lúc không hiểu sao lại cứ tự nhiên im lặng. Tôi hỏi: “Con trai bố đang nghĩ gì đấy?”. Nó hỏi lại, mắt nhìn lên trần: “Bố ơi, cái áo bành tô bằng da của bố đâu rồi?”. Cả đời tôi, có bao giờ tôi có bành tô da nào đâu! Tôi đành phải đánh trống lảng: “Bố để lại ở Vô-rô-ne-giơ rồi!” – Tôi bảo nó. “Thế tại sao bố lại tìm con lâu thế?”. Tôi đáp: bố tìm con ở bên Đức, bên Ba Lan, và đi bộ, đi xe tìm khắp cả Bê-lô-ru-xi-a, mà con thì lại ở U-riu-pin-xcơ.”. – “Thế U-riu-pin-xcơ có gần nước Đức không hả bố? Thế Ba Lan có cách xa nhà ta lắm không?”. Đấy hai bố con cứ nói chuyện huyên thuyên như thế cho đến khi ngủ thiếp đi.

Anh bạn ạ, không phải là vô cớ mà nó hỏi về cái áo bành tô da đâu? Không, hoàn toàn không đơn giản. Tức là, ông bố đẻ của nó đã có thời mặc bành tô da, và nó chợt nhớ lại. Đấy, trí nhớ trẻ con cứ như quầng sáng mùa hạ, soi sáng tất cả trong chốc lát rồi vụt tắt. Trí nhớ của chú bé ấy cũng như vậy, như quầng sáng, cứ chợt loé lên như thế.

Cũng có thể là tôi và cháu bé còn ở U-riu-pin-xcơ, chừng hơn một năm nữa, nếu như hồi tháng mười một không bị chuyện rủi ro. Hôm ấy tôi lái xe đường lầy, đến một thôn nọ thì xe bị trượt, vừa lúc đó có một con bò quay lại, xe tôi chạm phải chân nó. Thế là như ta biết đấy, các bà gào thét ầm lên, người ta xúm lại, anh kiểm soát xe hơi lập tức đến ngay. Anh ta thu hồi bằng lái của tôi mặc dù tôi đã hết sức van nài mong anh rộng lượng tha thứ. Con bò đứng dậy, ve vẩy đuôi rồi chạy vào ngõ hẻm, còn tôi thì bị tước bằng lái. Mùa đông, tôi làm thợ mộc, rồi thư từ với một người bạn trước kia ở cùng đơn vị. Anh ta ở cùng một tỉnh với anh đấy, ở huyện Ka-sa-rư, làm nghề lái xe hơi – anh ấy mời tôi đến nhà anh ấy. Anh ấy viết thư bảo rằng đến đó tôi sẽ làm ở bộ phận thợ mộc chừng nửa năm, rồi ở tỉnh họ cấp lại bằng lái xe mới cho tôi. Thế là tôi và cháu bé cùng đi bộ tới Ka-sa-rư.

Mà nói thực với anh, nếu không xảy ra chuyện lôi thôi với con bò thì rồi tôi cũng vẫn rời U-riu-pin-xcơ. Nỗi đau buồn không cho tôi ở lâu mãi một chỗ được. Có lẽ phải đến khi nào cháu Va-niu-ska lớn lên, buộc lòng phải gửi cháu vào một trường học ổn định, thì may ra lúc ấy, nguôi bớt nỗi buồn, tôi mới có thể ở yên một chỗ. Còn bây giờ thì hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga.

– Cháu bé đi vất vả lắm nhỉ, – tôi nói.

– Cháu đi bộ ít thôi, phần lớn thời gian tôi cõng cháu. Tôi để nó ngồi lên vai và cứ thế đi, nếu muốn vận động cho dãn gân cốt thì nó lại tụt xuống chạy, tung tăng bên đường như con dê con. Anh bạn ạ, tất cả những điều ấy cũng chẳng sao, miễn là bố con chúng tôi sống được; nhưng mà quả tim của tôi đã rệu rã lắm rồi, đến phải thay pít-tông thôi… Có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi. Tôi chỉ sợ lúc nào đó đang ngủ mà tôi chết luôn làm cho con trai tôi phải khiếp sợ. Lại còn thêm một nỗi khổ tâm này nữa: hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những người thân quá cố. Và lúc nào cũng thế, tôi ở bên này, sau hàng rào dây thép gai, còn vợ con thì tự do ở bên kia… Tôi nói đủ chuyện với I-ri-na, với các con nhưng chỉ vừa mới toan lấy tay đẩy dây thép gai ra, thì vợ con lại rời bỏ tôi, cứ như là vụt tan biến mất… Và đây là một điều rất kì lạ: ban ngày bao giờ tôi cũng trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt…

Trong rừng đã nghe tiếng đồng chí của tôi gọi, tiếng mái chèo vỗ nước.

Người khách lạ nhưng đã trở thành thân thiết đối với tôi đứng dậy, đưa bàn tay to bè cứng rắn như bằng gỗ:

– Tạm biệt anh bạn, chúc anh may mắn.

– Chúc anh đến Ka-sa-rư may mắn.

– Cảm ơn anh. Này con, sang đò đi.

Chú bé chạy tới, đứng bên phải bố, túm lấy vạt áo bông của bố, chạy lon ton cho kịp bước sải dài của người lớn.

Hai con người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ… Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi.

Với một nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con… Có lẽ cuộc chia tay của chúng tôi sẽ thanh thản tốt đẹp hơn; nhưng Va-niu-ska, mới đi được ít bước, đôi chân lũn cũn chuệnh choạng, chợt quay lại nhìn tôi, vẫy bàn tay bé xíu hồng hồng. Bỗng như có một bàn chân con vật nào đó mềm mại nhưng móng sắc nhọn bóp lấy tim tôi, và tôi vội quay mặt đi. Không, không phải những người đứng tuổi đã bạc đầu trong chiến tranh chỉ khóc trong chiêm bao đâu. Họ cũng khóc trong thực tại đấy. Cái chính ở đây là phải biết kịp thời quay mặt đi. Cái chính ở đây là đừng làm tổn thương trái tim em bé, đừng để cho em thấy những giọt nước mắt đàn ông hiếm hoi nóng bỏng lăn trên má anh.

Nhất định đừng bỏ qua ❤️️ Thuốc [Lỗ Tấn] ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Nghệ Thuật 

Tóm Tắt Số Phận Con Người

Tiếp theo đây là bản Tóm Tắt Số Phận Con Người.

Chiến tranh kết thúc, Xô-cô-lốp được giải ngũ, nhưng anh không trở về Vô-rô-ne-giơ quê hương nữa. Một đồng đội bị thương đã giải ngũ có lần mời anh về nhà chơi, Xô-cô-lốp nhớ ra và tìm đến U-riu-pin-xcơ. Anh xin được làm lái xe chở hàng hóa về các huyện và chở lúa mì về thành phố.

Mỗi lần đưa xe về thành phố, anh lại tạt vào cửa hiệu giải khát uống một li rượu lử người. Anh đã gặp bé Va-ni-a đầu tóc rối bù, rách bươm xơ mướp nhưng cặp mắt như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm. Nó ăn ngay ở hiệu giải khát, ai cho gì thì nó ăn nấy. Bạ đâu ngủ đó. Xô-cô-lốp xúc động quyết định: “mình sẽ nhận nó làm con nuôi!”.

Xô-cô-lốp nói với bé Va-ni-a: “Là bố con!” khi nó nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?”. Đưa bé Va-ni-a về nhà vợ chồng người bạn, Xô-cô-lốp tắm rửa, cắt tóc, sắm quần áo cho bé Va-ni-a. Nhìn nó ăn súp bắp cải, vợ người bạn lấy tạp dề che mặt khóc. Lần đầu tiên sau chiến tranh, Xô-cô”lốp được ngủ một giấc yên lành. Còn bé Va-ni-a rúc vào nách bố nuôi như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ. Ngày và đêm, bé Va-ni-a không chịu rời Xô-cô-lốp.

Một chuyện rủi ro xảy đến, Xô-cô-lốp bị người ta tước mất bằng lái xe. Mất việc, anh đưa bé Va-ni-a đi bộ đến Ka-sa-rư kiếm sống. Nhìn 2 bố con đi xa dần với một nỗi buồn thấm thìa, chợt đứa bé quay lại nhìn nhà văn, vẫy vẫy bàn tay bé xíu hồng hồng. Như có móng sắc nhọn bóp lấy tim mình, tác giả vội quay mặt đi…

Có thể bạn sẽ cần tác phẩm🌱 Một Người Hà Nội🌱 Mẫu Phân Tích, Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Về Nhà Văn Sô-lô-khốp

Cùng xem thêm những thông tin chính Về Nhà Văn Sô-lô-khốp nhé.

  • Sô-lô-khốp tên khai sinh là Mi-khai-in A-lếch-xan-đrô-vích Sô-lô-khốp, sinh năm 1905, mất năm 1984, là nhà văn Nga lỗi lạc, đã vinh dự nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1965
  • Sô-lô-khốp sinh tại thị trấn Vi-ô-sen-xcai-a, thuộc tỉnh Rô-xtop trên vùng thảo nguyên sông Đông.
  • Ông tham gia công tác cách mạng từ khác sớm (thư kí ủy ban trấn, nhân viên thu mua lương thực, tiễu phỉ,…)
  • Cuối năm 1922, ông đến Mát-xco-va, làm nhiều nghề để kiếm sống như đập đá, khuân vác, kế toán…
  • Năm 1926, ở độ tuổi 21, ông đã in hai tập truyện ngắn.
  • Năm 1925, ông trở về quê nhà và viết cuốn tiểu thuyết tâm đắc nhất của cuộc đời mình
  • Ông là đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô từ năm 1932.
  • Năm 1939, ông được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô. Trong thời gian chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống phát xít Đức xâm lược, ông theo sát Hồng quân trên nhiều chiến trường với tư cách là phóng viên báo Sự thật
  • Phong cách nghệ thuật: nột nổi bật là viết đúng sự thật. Ông không né tránh những sự thật dù khắc nghiệt trong khi phản ánh những bức tranh thời đại rộng lớn, những cảnh đời, những chân dung số phận đau thương. Trong sáng tác của ông, chất bi và chất hùng, chất sử thi và chất tâm lí luôn được kết hợp nhuần nhuyễn.
  • Tác phẩm chính: Truyện sông Đông (tập truyện), Thảo nguyên xanh (tập truyện), Sông Đông êm đềm (tiểu thuyết),…

Xem thêm về 🌷Mùa Lá Rụng Trong Vườn 🌷 đầy đủ nhất

Về Tác Phẩm Số Phận Con Người

Về Tác Phẩm Số Phận Con Người, đây được coi là tác phẩm đầu tiên trong văn học Nga khai thác đề tài hậu chiến, cụ thể là phản ánh số phận bất hạnh, những mất mát của con người sau chiến tranh.

Tác phẩm tuy khai thác những vết thương của con người do chiến tranh để lại nhưng đã phần nào thể hiện rõ tính cách bất khuất, kiên cường, niềm tin của con người nơi đây. Thể hiện cách nhìn cuộc sống và chiến tranh một cách toàn diện, chân thực, sự đổi mới cách miêu tả nhân vật, khám phá tính cách Nga, khí phách anh hùng và nhân hậu của người lính Xô viết.

Bố cục của tác phẩm gồm có 3 phần:

  • Phần 1 (từ đầu đến “chú bé đang nghịch cát đấy”): Lời giới thiệu của nhân vật Sô-cô-lốp.
  • Phần 2 (tiếp đó đến “chợt lóe lên như thế”): Niềm hạnh phúc của bé Va-ni-a
  • Phần 3 (còn lại): Số phận hẩm hiu của Sô-cô-lốp và niềm tin vào sức mạnh của con người Nga

Có thể bạn sẽ yêu thích nội dung 🌼Chiếc Thuyền Ngoài Xa🌼 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Hoàn Cảnh Sáng Tác Truyện Số Phận Con Người

Hoàn Cảnh Sáng Tác Truyện Số Phận Con Người như sau:

Truyện ngắn được Sô-lô-khốp sáng tác vào năm 1957, đúng 12 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc; lúc này nước Nga đang tràn đầy tinh thần dân chủ.

Tác phẩm này là cột mốc quan trọng mở ra chân trời mới cho văn học Nga. Dung lượng và tư tưởng của truyện khiến có người liệt nó vào loại tiểu thuyết anh hùng ca.

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Số Phận Con Người

Khám phá Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Số Phận Con Người bên dưới.

Nhan đề “Số phận con người” là nhan đề giàu ý nghĩa và sức gợi. Trước hết nhan đề đã góp phần hé mở về nội dung của tác phẩm, đó là hướng đến số phận bất hạnh của những con người sau khói lửa của cuộc chiến tranh. Nhân vật trong truyện đều được đặt vào những hoàn cảnh mất mát, thương tâm, và để vượt qua những nghịch cảnh ấy đòi hỏi con người phải có đủ nghị lực, tình thương cũng như niềm tin vào cuộc sống.

Chỉ cần có niềm tin, nghị lực và tình thương, con người có thể vượt lên mọi mất mát của chiến tranh, của số phận để hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn, đó cũng chính là ý nghĩa sâu xa, ánh sáng niềm tin mà nhan đề cũng như nội dung truyện ngắn mang lại.

Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm🌈Những Đứa Con Trong Gia Đình🌈 Nội Dung, Giá Trị, Phân Tích 

Giá Trị Nội Dung Số Phận Con Người

Cùng Thohay.vn tìm hiểu Giá Trị Nội Dung Số Phận Con Người.

  • Từ nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu.
  • Tác phẩm chứa đựng một nội dung sâu sắc về triết học và thẩm mĩ, mang giá trị nhân văn sâu sắc: sức mạnh tinh thần, tình yêu thương có thể cứu vớt con người và nhờ nó, con người có thể vượt qua sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh, xây dựng cuộc sống tự do, yên lành.

Giá Trị Nhân Đạo Của Số Phận Con Người

Tiếp theo là các Giá Trị Nhân Đạo Của Số Phận Con Người.

  • Ca ngợi sức mạnh vươn lên của con người sau chiến tranh.
  • Cảm thông, chia sẻ với những đau thương mất mát – di chứng của chiến tranh, cùng những khó khăn trong cuộc mưu sinh thường nhật của những con người thời hậu chiến, đặc biệt là những người lính vừa trở về từ chiến trường và trẻ em – những con người chịu nhiều đau thương và mất mát nhất trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
  • Lên án bão tố của chiến tranh phi nghĩa và sức mạnh ghê gớm của nó. Chiến tranh không chỉ cướp đi sinh mạng của hàng nghìn, hàng triệu người. Mà kinh khủng hơn, là nó đã phá nát cuộc sống của không biết bao gia đình, đạp đổ ước mơ và tương lai của những đứa trẻ.
  • Nói lên những khát vọng thầm kín mãnh liệt, tin tưởng vào nghị lực, ý chí vươn lên làm chủ số phận của con người. Sức mạnh phi thường với niềm tin bất diệt của con người có thể làm nên được điều kì diệu, đưa con người vượt thoát khỏi những nghịch cảnh éo le, tàn khốc. Tâm hồn con người có chỗ dựa vững chắc chính là tình yêu thương, giống như Xô-cô-lốp và bé Va-ni-a vậy.

Đừng vội bỏ qua 💚 Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ 💚 Sưu Tầm Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất

Giá Trị Nghệ Thuật Của Số Phận Con Người

Xem thêm các Giá Trị Nghệ Thuật Của Số Phận Con Người sau đây.

  • Tác phẩm được kề theo ngôi thứ nhất, kết cấu theo trình tự thời gian. Số phận con người mang âm hưởng anh hùng ca về lòng dũng cảm, về tinh thần chịu đựng và sức mạnh tinh thần của con người Nga, tính cách Nga.
  • Truyện được viết theo kiểu truyện lồng trong truyện; nhân vật tôi (tác giả) thuật lại câu chuyện anh nghe được từ Xô-cô-lốp. Tác phẩm có hai người kể chuyện: tác giả và nhân vật; nhà văn tạo được nhiều tình huống nghệ thuật đặc sắc để thử thách, khám phá chiều sâu tính cách Nga, con người Nga.
  • Lời kể chuyện giản dị, sinh động, gần gũi đã tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn với người đọc về câu chuyện cuộc đời của những con người thời hậu chiến
  • Truyện đã miêu tả sâu sắc, tinh tế nội tâm và diễn biến tâm trạng nhân vật, từ đó người đọc có thể hình dung về thế giới nội tâm của những con người sau cuộc chiến.
  • Nhiều đoạn trữ tình ngoại đề gây xúc động mạnh cho người đọc. Vì đó là cảm xúc, nhận định và quan niệm của tác giả về số phận của những con người nhỏ bé, bất hạnh.

Sơ Đồ Tư Duy Số Phận Con Người

Nhất định đừng bỏ qua các Sơ Đồ Tư Duy Số Phận Con Người.

Sơ Đồ Tư Duy truyện Số Phận Con Người Đầy Đủ Nhất
Sơ Đồ Tư Duy truyện Số Phận Con Người Đầy Đủ Nhất
Sơ Đồ Tư Duy Số Phận Con Người Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Số Phận Con Người Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Số Phận Con Người Viết Tay
Sơ Đồ Tư Duy Số Phận Con Người Viết Tay

Mời bạn xem thêm phân tích 🌻Rừng Xà Nu🌻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay

5 Mẫu Phân Tích Số Phận Con Người Hay Nhất

Thohay.vn xin tổng hợp 5 Mẫu Phân Tích Số Phận Con Người Hay Nhất.

Phân Tích Số Phận Con Người Đặc Sắc – Mẫu 1

Sô Lô Khốp là nhà văn nổi tiếng của nước Nga, ông đạt được rất nhiều thành tựu văn học to lớn, trong đó ông đã đạt được giải thưởng Nô ben văn học năm 1965 và đạt được nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Số phận con người là một tác phẩm xuất sắc của ông.

Chiến tranh là một đề tài sâu rộng và nó dần ăn đi tiềm thức và cuộc sống của con người, con người được xem như là nạn nhân của chiến tranh, họ phải chịu đựng những đau khổ, và bất hạnh do cuộc sống gây nên, chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ của con người, con người đang dần phải sống những năm tháng tăm tối và bị chiến tranh vùi dập đến tận xương tủy.

Khi chiến tranh nhiều anh hùng đã xung phong ra mặt trận và Xô cô Lốp là một nhân vật như thế, chiến tranh nổ ra anh đã từ giã gia đình để xung phong ra mặt trận, bỏ lại ở nhà đó là vợ và con, buôn ba ngoài mặt trận nhiều năm, con trai lớn của anh cũng đang tham gia vào đội quân của Liên xô.

Trước khi tham gia vào chiến tranh Xô Cô Lốp được xem như là một nhân vật giàu lòng yêu thương, có tấm lòng nhân ái, và sự quả quyết trong cuộc sống, nhưng rồi chính chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ của anh, từ gia đình, quê hương, người thân… anh đã trở thành nạn nhân của chiến tranh, bị chiến tranh vùi dập anh lâm vào tình trạng đau khổ, số phận con người đang dần phải chịu đựng nhiều đau khổ, và điều đó đã mang một ý nghĩa to lớn, ngay trong chính nhan đề.

Tác giả đã thể hiện được dòng tâm trạng, và một thái độ dứt khoát trước kẻ thù, ở đây số phận con người đã nêu ra một hiện thực đó là con người phải chịu nhiều đau khổ và là nạn nhân xấu số của chiến tranh.

Xô Cô Lốp là nhân vật đại diện cho con người Nga, với tính chất kiên cường, quả cảm mặc dù khó khăn như anh vẫn luôn thể hiện cho mình một thái độ dứt khoát và anh dũng trước cuộc sống, giá trị của tác phẩm để lại cho người đọc nhiều cảm xúc về chiến tranh, chính chiến tranh làm cho các nhân vật này phải chịu nhiều cực khổ, họ phải sống cuộc sống vất vả và gian nan nhất.

Trong hoàn cảnh đó con người đang phải chịu những đau đớn, không chỉ nỗi đau về tinh thần mà còn thể hiện nỗi đau về thể xác, con người phải chịu những hậu quả lớn do chiến tranh gây nên, chiến tranh là thủ phạm gây nên bao nhiêu đau khổ cho con người.

Tác phẩm đã để lại cho người đọc, nhiều cảm xúc, đó là những cảm xúc đau thương và sự cảm thông sâu sắc cho số phận của những con người trong tác phẩm, họ phải chịu nhiều đau đớn và sự tổn thương tinh thần sâu sắc, trong những cảm xúc đó con người đang bị chiến tranh vùi dập và nó cướp đi nhiều thứ quan trọng trong cuộc sống của con người, họ phải chịu nhiều tổn thương, không chỉ về thể xác mà còn chịu nhiều tổn thương tinh thần.

Và chiến tranh cũng đang ám ảnh lấy cuộc sống của con người, họ phải chịu đựng nhiều bất hạnh mà cuộc sống này đã gây nên, họ cướp đi gia đình người thân, và qua đó họ còn bị ám ảnh trước những hiện thực của chiến tranh, chiến tranh đã gây cho họ nhiều tổn thương, không chỉ về thể xác mà tinh thần của họ, cũng bị ám ảnh và đau đớn, mặc dù hòa bình, nhưng cuộc sống của họ vẫn bị ám ảnh những nỗi đau không thể nào nguôi ngoai, đó là những cảm xúc riêng trong tâm hồn của con người.

Chiến tranh để lại cho con người nhiều nỗi nhớ, khi người thân của họ ra chiến trường, nhưng không biết bao giờ mới quay trở về, họ vẫn đang bị ám ảnh và mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc, hình ảnh bé vania vẫn từng ngày chờ đợi bố về đó cũng thể hiện tình yêu thương mà những người con dành cho người bố, hình ảnh chiếc áo bành tô đó là sự thể hiện những nỗi khắc khoải sâu sắc của con người mong ngóng từng ngày người thân của mình sẽ trở về, đó là những cảm xúc riêng và cũng chứa chan bao nhiêu ý nghĩa.

Nhan đề trong tác phẩm cũng đã thể hiện mạnh mẽ được những điều đó, qua cách nhìn mới mẻ của tác giả, ông đã nêu lên hiện thực của chiến tranh, nó thật tàn khốc, và cướp đi cuộc sống bình lặng của con người. Trong tác phẩm, giá trị của nó để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, con người có thể hiểu biết và có cái nhìn nhận về chiến tranh, chiến tranh cướp đi cuộc sống của con người.

Tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, đó là sự tàn khốc và đau đớn và chiến tranh đã gây nên cho con người.

Phân Tích Số Phận Con Người Chọn Lọc – Mẫu 2

Sô-lô-khốp (1905 – 1984) thuộc nhóm không nhiều những nhà văn mà khi nhắc đến, người ta không cần nói nhiều hay không nói về những phẩm chất thiết yếu của một ngòi bút bậc thầy như tình yêu văn chương, sự trau dồi nghề nghiệp, say mê và nỗ lực lao động, tinh thần vượt khó. Ông được đứng vào hàng ngũ những nhà văn xuôi lớn nhất thế kỉ XX.

Ông để lại những tác phẩm đồ sộ và còn trường tồn theo thời gian tới tận ngày nay người đọc vẫn nhớ rõ. Một trong số đó là truyện “Số phận con người” được viết năm 1957. Nổi bật trong truyện là hình tượng nhân vật Xô-cô-lốp – một con người nhân hậu, kiên cường.

Thật vậy, truyện kể về nhân vật Xô-cô-lốp. Khi chiến tranh bùng nổ anh ra trận để lại quê nhà vợ và 3 con. Sau một năm chiến đấu hai lần anh bị thương nhẹ vào tay và chân. Tiếp đó anh bị bắt làm tù binh bị đày đọa suốt 2 năm trời trong các trại tập trung của phát xít Đức. Lao dịch nhục hình đói rét tử thần đêm ngày đe dọa. Năm 1944 giặc bị thua to trên mặt trận Xô-Đức bọn phát xít bắt tù binh làm lái xe.

Nhân cơ hội đó Xô-cô-lốp đã bắt sống một tên trung tá Đức lái xe chạy thoát về phía Hồng quân. Lúc này anh mới biết tin về vợ và 2 con gái anh đã bị bom giặc giết hại. Anatôli cậu con trai giỏi toán của anh nay đã trở thành đại uý pháo binh Hồng quân. Hai cha con cùng tham dự chiến dịch công phá Berlin sào huyệt của Hitler. Đúng ngày 9/5/1945 ngày chiến thắng một tên thiện xạ Đức đã bắn lén giết chết Anatôli niềm hy vọng cuối cùng của anh.

Chiến tranh kết thúc Xô-cô-lốp được giải ngũ nhưng anh không trở về Vôrônegiơ quê hương nữa. Một đồng đội bị thương đã giải ngũ có lần mời anh về nhà chơi Xô-cô-lốp nhớ ra và tìm đến Uriupinxco. Anh xin được làm lái xe chở hàng hóa về các huyện và chở lúa mì về thành phố. Mỗi lần đưa xe về thành phố anh lại tạt vào cửa hiệu giải khát uống một ly rượu lử người. Anh đã gặp bé Vania và nhận bé làm con nuôi. Từ đó anh đã tìm lại được cuộc sống của mình.

Nhân vật Xô-cô-lốp được nhà văn miêu tả rất chân thực và bi thương với số phận rất éo le. Bản thân anh bị thương hai lần, hai năm bị đày đọa trong trại tù binh Đức. Anh mất cả vợ lẫn đứa con trai mà anh hết mực thương yêu. Chính tình cảnh đó, sau khi ra tù anh đã trở thành một con người khác. Nghe tin sốc, anh như lạc vào thế giới đau thương ai oán.

Anh không còn người thân, không còn gia đình, quê hương, không còn nhà. Vì vậy, anh đã tìm đến chén rượu để cho vơi bớt đi nỗi nhớ, vơi bớt đi nỗi đau đang gào thét giằng xé trong tim can anh. Vì bị đẩy vào cảnh bế tắc nên anh cũng suýt rơi vào con đường của kẻ nghiện rượu không có tiền đồ. Tuy rơi vào hoàn cảnh khó khăn ấy nhưng anh vẫn giữ tính cách Nga kiên cường.

Nhà văn đã khéo léo sắp xếp cho cuộc gặp gỡ giữa đứa con cưng của mình với nhân vật bé Va-ni-a. Ông đã khéo léo để chính cuộc gặp gỡ đó đã mở ra một trang sử tươi đẹp về cuộc đời mới, cuộc sống mới cho đứa con mình làm lại từ đầu. Gặp bé Va-ni-a “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ mướp”, nhất là khi thấy cặp mắt sáng của em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”.

Sau khi nghe về hoàn cảnh đáng thương của bé Va-ni-a, Sô-cô-lốp cảm tình cho tình cảnh của chú bé nên anh quyết định nhận nó làm con nuôi. Khi nghe bé Va-ni-a nghẹn ngào hỏi “Thế chú là ai”, Xô-cô-lốp trả lời “Là bố của con”.

Có thể thấy rằng mặc dù đây là một quyết định táo bạo bộc phát nhất thời song nó lại xuất phát tình tình yêu, sự cảm thông san sẻ cho nỗi bất hạnh của nhau giữa những người cùng cảnh ngộ. Đó là tình yêu giữa người với người. Ở họ trỗi dậy một sự ham muốn muốn bao bọc, chở che cho người cùng cảnh ngộ với mình.

Anh đã đưa bé Va-ni-a về nhà, cả hai người bạn của anh đều rất vui vẻ. Họ như nhìn thấy một sự đồng cảm đến không ngờ. Từ khi nhận bé làm con nuôi, anh tìm mọi cách bù đắp tình cảm cho nó, chăm sóc nó tuy vụng về nhưng rất đáng yêu và chân thật. Từ cắt tóc, tắm rửa, may quần áo.

Tuy nhiên, việc nhận bé làm con nuôi cũng khiến cho Sô-cô-lốp có những khó khăn nhất định. Anh vừa phải làm bố, làm mẹ chăm sóc bé. Anh không muốn làm tổn thương trái tim mỏng manh của bé.

Khi ăn uống, với Sô-cô-lốp trước lẻ bóng “chỉ một mình tôi thì cần gì đâu nhưng thêm nó thì khác”. Anh chăm bẵm nó khi thì phải mua sữa, khi thì luộc quả trứng không có thức ăn cho Va-ni-a là không xong. Rồi có lần anh anh lại đâm phải con bò và bị tịch thu bằng lái.

Cuộc sống ngày một khó khăn và gian truân hơn nhiều. Khó khăn chồng chất khó khăn. Nhưng dù vậy, bé Va-ni-a cũng là đứa con anh hết mực yêu thương. Hai người sống nương tựa vào nhau, là chỗ dựa tinh thần để cùng nhau vượt qua khó khăn thử thách trước mắt.

Anh cũng đã ngủ ngon giấc hơn. Điều đó chứng tỏ sức mạnh của tình yêu thương thật kì diệu, nó sưởi ấm trái tim đang cô đơn kia, nó nhen nhóm ngọn lửa yêu thương cho con người, nó vun đắp tình cảm, nó chia sẻ niềm vui.

Nhà văn cũng đã thành công khi khắc họa diễn biến tâm lí nhân vật Xô-cô-lốp. Mặc dù có bé Va-ni-a ở bên song anh vẫn không thể quên đi những kí ức đau buồn mà chiến tranh mang lại. Anh không thể quên sự ra đi của vợ và con trai. Kí ức ấy luôn ám ảnh, giày xéo tâm can anh: “Hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những người thân quá cố”.

Mặc dù vậy anh vẫn cố gắng kiên cường vượt qua. Anh vẫn một mực yêu thương, chăm sóc cho bé Va-ni-a. Anh giấu sự thật về chiếc áo bành tô để bé Va-ni-a được an tâm. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình yêu thương của người cha đối với người con. Chỉ có như vậy mới giúp anh sống tiếp ở thực tại, cố gắng ở thực tại nhiều hơn.

Tóm lại, có thể thấy, nhà văn đã khéo léo để cho cuộc gặp gỡ giữa những con người bất hạnh trở thành điểm sáng là chỗ dựa cho họ cùng nhau sống tiếp. “Số phận con người” là một truyện đặc sắc. Nhà văn đã tập trung khám phá nỗi đau bất hạnh của con người sau chiến tranh, tiêu biểu là nhân vật Xô-cô-lốp.

Bên cạnh đó tác giả còn ngụ ý phê phán chiến tranh tàn nhẫn đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mệnh, gây bao nhiêu đau thương mất mát cho gia đình, xã hội. Qua truyện ta cũng thấy được cái tài của nhà văn khi ông đã miêu tả tâm lí nhân vật rất đặc sắc xem lời văn nhẹ nhàng, lôi cuốn. Sô-cô-lốp chính là hiện thân của người Nga kiên cường bất khuất.

Phân Tích Số Phận Con Người Hay Nhất – Mẫu 3

Sô-lô-khốp nhà văn Nga lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1965. Ông để lại số lượng tác phẩm đồ sộ, những bộ tiểu thuyết lớn và những truyện ngắn hay với cái nhìn chân thực về cuộc sống và chiến tranh.

Số phận con người được sáng tác dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản Liên Xô, khôi phục tinh thần dân chủ, chống sùng bái cá nhân và trong xu thế quan tâm đến số phận con người sau chiến tranh. Tác phẩm của Sô – lô – khốp mang tinh thần thời đại rất rõ nét.

Xô-cô-lốp bị thương, anh bị bắt làm tù binh trong trại tập trung của phát xít Đức với những cực hình vô nhân đạo. Không chỉ vậy anh còn mất đi tất cả người thân, gia đình vì bom đạn phát xít: vợ và hai con gái. Đây có lẽ là nỗi đau đớn lớn nhất cuộc đời anh, những vết thương về thể xác có thể lành theo năm tháng, còn những mất mát, đau thương về tinh thần thi năm tháng cũng không thể chữa lành.

Và niềm an ủi duy nhất, cuối cùng cho tầm hồn đầy đau thương ấy là đứa con trai xuất sắc, là đại úy pháo binh, là học sinh học giỏi toán lại bị tên thiện xạ Đức bắn trúng ngay trong khoảnh khắc chiến thắng. Anh phải chôn niềm hy vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Bước ra khỏi cuộc chiến, anh không còn lấy một người thân ở bên cạnh, nỗi cô đơn, trống trải, hụt hẫng bủa vây lấy người đàn ông này.

Bởi vì quá đau thương, anh không dám trở về quê hương. Mảnh đất quê hương gắn với biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của anh và gia đình, nếu anh trở về đó, từng mảnh kí ức ùa về, có lẽ anh sẽ không thể sống nổi. Chính vì vậy Xô-cô-lốp lựa chọn cách đến ở nhờ nhà bạn, đề vợi bớt nỗi đau đớn và u buồn. Tại anh anh làm nghề lái xe để mưu sinh và trong những ngày đó anh bắt đầu nghiện rượu, anh tìm đến rượu để quên đi quá khứ, chạy trốn những kí ức đeo bám anh.

Nhưng anh càng chạy trốn, càng tìm đến rượu thì quá khứ càng ám ảnh anh bấy nhiêu. Sau đó Xô-cô-lốp bị mất bằng lái, anh thất nghiệp nên đã di chuyển đến một vùng đất khác để sinh sống. Những vết tích mà chiến tranh để lại đã hằn in trên đôi mắt màu tro đượm buồn của anh.

Bé Va-ni-a cũng là một số phận bất hạnh khác, bố mẹ em chết vì bom đạn phát-xít. Va-ni-a trở thành một đứa trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, em sống lang thang trên đường phố, cuộc sống hết sức cơ cực “bạ đâu ngủ đấy, ai cho gì thì ăn nấy”. Cả Va-ni-a và Xô-cô-lốp đều là những nạn nhân của chiến tranh phát-xít, họ bị mất gia đình, người thân, sống cuộc đời cô đơn, trơ trọi, nếu thiếu bản lĩnh, nghị lực họ sẽ bị cuộc đời vùi dập.

Số phận đau thương, bất hạnh đã khiến cho hai con người người ấy gặp nhau, bằng tình yêu thương Xô-cô-lốp đã quyết định nhận bé Va-ni-a làm con. Xô-cô-lốp mang hạnh phúc vô bờ bến cho bé Va-ni-a. Em “nhảy chồm lên cổ, hôn vào má vào môi vào trán, như con chim chích ó ríu rít líu lo vang dội cả buồng lái…”.

Quyết định ấy không chỉ mang lại niềm vui cho bé Va-ni-a mà còn đem lại sự bình yên, hạnh phúc cho Xô-cô-lốp, sau biết bao nhiêu năm lấy rượu để quên đi, để chìm vào giấc ngủ, thì đây là lần đầu tiên sau nhiều năm anh được ngủ một cách ngon lành…

Bằng tình yêu thương, hai con người bị khuyết thiếu tình yêu thương ấy đã bù đắp, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho nhau. Anh luôn quan tâm, dành tình yêu thương và sự quan tâm chăm sóc cho Va-ni-a: lấy xà phòng rửa tay trước khi đặt ngồi vào bàn ăn, đưa tới hiệu cắt tóc tắm rửa, chạy ra cửa hàng tạp hóa mua một chiếc quần dạ vào lúc trời đang rất nóng… Bởi khi mang hạnh phúc đến cho Va-ni-a cũng chính là mang lại hạnh phúc cho chính anh.

Không chỉ tình yêu thương, mà cả nghị lực kiên cường đã giúp Xô-cô-lốp vượt lên số phận đầy đau thương của mình. Gia đình anh đều bị bom đạn phát-xít cướp mất tính mạng, chỉ còn một mình anh cô độc trong cuộc đời, trái tim đã dần trở nên yếu đuối, chán nản, có những lúc tưởng như bỏ cuộc.

Sức khỏe của anh ngày một đi xuống, con tim bỗng nhiên nhói lên, thắt lại giữa ban ngày, khiến anh tối sầm mặt lại. Anh lo lắng rồi một ngày không xa cái chết sẽ đến và anh còn lo hơn cho bé Va-ni-a, anh chết, bé sẽ rơi vào cảnh cô đơn, lang thang, điều này còn làm anh lo lắng gấp bội. Không chỉ vậy, những ám ảnh quá khứ vẫn đeo bám anh, dù đã cố gắng nhưng nó vẫn lẩn khuất hiện về. Hầu như đêm nào anh cũng gặp lại những giấc chiêm bao về vợ con.

Tuy nhiên luôn phải giấu diếm, che đậy nỗi đau, không muốn để Va-ni-a nhìn thấy mình khóc, để giữ niềm vui trọn vẹn cho Va- ni- a. Ý chí nghị lực của anh còn thể hiện trong lần anh mất bằng lái, thay vì chán nản, bi quan, than vãn, đổ lỗi cho số phận, anh lại mang đứa con trai của anh đến những vùng đất mới để giải quyết việc trước mắt là mưu sinh bằng nghề nghiệp khác, và cũng là để quên đi nỗi đau quá khứ.

Ý chí nghị lực đã giúp anh vượt qua nỗi đau, những trớ trêu của số phận để tiếp tục sống, nuôi dưỡng bé Va-ni-a trưởng thành. Ý chí nghị lực của anh cũng chính là bản tính tiêu biểu của con người Nga.

Tác phẩm dùng lối kể truyện, truyện lồng trong truyện vô cùng đặc sắc. Giúp cho câu chuyện vừa chân thật, vừa dạt dào tình cảm. Đặc biệt với mỗi lối kể sẽ đem đến những hiểu quả khác nhau. Khi Xô-cô-lốp kể chuyện giọng điệu, ngôn ngữ sẽ nương theo đặc điểm của người lính, người lái xe, giúp cho nhân vật hiện lên sinh động, tự nhiên hơn. Khi chọn ngôi kể là tác giả câu chuyện sẽ được thuật lại khách quan, chân thực hơn.

Dù chỉ là trích đoạn nằm ở cuối tác phẩm nhưng đã gửi gắm những thông điệp sâu sắc của tác giả. Sô-lô-cốp kêu gọi, nhắc nhở sự quan tâm cả toàn xã hội đối với những cá nhân, những số phận con người như Xô-cô-lốp đã hi sinh tất cả để giữ gìn độc lập cho dân tộc. Đồng thời lên án bão tố chiến tranh phi nghĩa với sức mạnh phũ phàng của nó và nó vẫn có ý nghĩa thời sự tới tận ngày nay.

Phân Tích Số Phận Con Người Tiêu Biểu – Mẫu 4

Sô lô khốp được biết đến là một nhà văn Xô viết lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Nobel về văn học vào năm 1965. Ông đã có nhiều tác phẩm hay và nổi tiếng để lại bao gồm truyện, tiểu thuyết và đặc biệt hơn nữa là tác phẩm xuất sắc viết về “số phận con người”. Và thông qua tác phẩm này chúng ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh.

Nhân vật chính trong truyện được biết đến là nhân vật Xô-cô-lốp. Và anh ta được xây dựng lên là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc. Trong khi trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh mất hết tất cả từ người thân, nhà cửa và cả bạn bè nữa. Đối với Xô-cô-lốp thì có thể nói thì anh chiến đấu vì gia đình, vì quê hương đất nước nhưng khi hòa bình đã được lập lại thì mọi thứ đã bỏ anh mà đi thì không còn gì nữa cả.

Anh dường như đã phải sống trong một cuộc sống đau khổ, kể cả khi chiến đấu, anh bị thương rất nhiều. Có cả vợ và hai người con của anh cũng bị bom của phát xít cướp đi tính mạng của mình. Và lúc này Xô-cô-lốp chỉ còn biết hi vọng và trông chờ vào người anh trai nhưng rồi cuối cùng anh ấy cũng đã chết trận.

Như vậy, thông qua đây chúng ta như đã có thể thấy được rằng số phận anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những giày vò thật tủi cực về thể xác lẫn tinh thần. Sau đó khi trở giờ về thì lại phải nếm trải niềm đau khổ về tinh thần tụt độ bởi người thân yêu duy nhất của mình cũng không còn nữa. Từ đó chúng ta có thể thấy được những hậu quả mà chiến tranh đã để lại là quá lớn lao, quá đắng cay và thật đáng thương cho Xô-cô-lốp.

Sau chiến tranh, anh cứ ngỡ được sống trong hạnh phúc, nhưng không, Xô-cô-lốp phải sống trong bế tắc và tuyệt vọng. Không hề có một mái nhà che nắng che mưa mà anh phải sống nhờ nhà một người bạn. Và để rồi cho tới khi anh tình cờ gặp được cậu bé có tên Va-ni-a. Nhà văn đã miêu tả thật ám ảnh về ngoại hình của cậu bé bằng những lời văn hết sức chân thật.

Hiện lên đó là một cậu bé tầm 5 tới 6 tuổi ăn mặc rách rưới, cả cha và mẹ của cậu bé đều đã chết trong chiến tranh, ít ra Sô-lô-khốp còn có thể lao động được còn cậu bé thì lại không có ai, ai cho ăn gì thì cậu bé ăn nấy và bạ đâu ngủ đấy. Duyên phận dường như đã đưa đẩy cho họ gặp nhau như để bù đặp cho nhau những thiếu sót của cuộc đời đầy giông bão này vậy.

Xô-cô-lốp đã nhận nuôi bé Va-ni-a, anh còn chăm sóc tận tình chu đáo, anh còn mua quần áo cho cậu bé, là một chiếc áo bành tô rất đẹp. Có thể nói rằng chính lòng nhân ái đó đã đem hai trái tim đó như đã xích lại với nhau như để sưởi ấm cho nhau vậy. Anh luôn luôn cố gắng làm mọi việc để nuôi bé Va-ni-a, nhưng trớ trêu thay cuộc sống không giống như những gì mình nghĩ, anh vượt qua mọi nỗi đau, xe anh quệt nhẹ vào người ta và cuối cùng bị mất bằng lái và không được lái xe.

Nghề mưu sinh của anh cũng đã không còn cho nên anh phải đi khắp nơi, đã thế sức khỏe anh lại yếu đi trông thấy, anh đau đến mức khóc nhưng anh lại không để cho bé Va-ni-a biết được điều này. Thông qua điều này chúng ta dường như nhận thấy tác giả có một tấm lòng nhân đạo cao cả.

Đến đoạn cuối của tác phẩm đầy tình thương yêu và biết bao sự nghiệt ngã này thì nhà văn đã thể hiện sự thương xót của mình đối với nhân vật. Đoạn văn như đã thể hiện được sự khâm phục, tính cách của những con người luôn luôn kiên cường đứng vững vàng trước những khó khăn của cuộc sống.

Có thể nói trong hoàn cảnh có nghèo khó thế nào thì họ vẫn luôn trao nhau những tình yêu thương đầy sự nhân ái, họ luôn luôn đùm bọc nhau cho nhau những yêu thương để vượt qua cuộc đời khó khăn và để sống.

Như vậy, chỉ với qua tác phẩm thôi mà chúng ta như có thể thấy được số phận đau khổ của con người qua chiến tranh là như thế nào. Con người đó, họ không những phải chịu những nỗi đau thể xác trên chiến trường mà còn phải chịu nhiều nỗi đau về tinh thần. Xô-cô-lốp cùng bé Va-ni-a là hai nhân vật chính là hiện thân của những số phận bất hạnh đó.

Qua đó tác giả Sô-lô-khốp như đã muốn kêu gọi mọi người hãy có trách nhiệm đối với những con người như vậy hơn, để cuộc sống thực sự có ý nghĩa.

Phân Tích Số Phận Con Người Ấn Tượng – Mẫu 5

Nhà văn Sô-lô-khốp (1905 – 1984), ông là một nhà văn Xô Viết lỗi lạc, vinh dự hơn khi ông được nhận giải thưởng Nobel về văn học năm 1965. Đồng thời ông được liệt vào danh sách những nhà văn lớn.

Tác phẩm của ông để lại gồm những tập truyện, tiểu thuyết lớn và tiêu biểu trong số đó có tác phẩm Số phận con người. Qua tác phẩm ấy ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh. Từ khi ra đời có trên mặt báo Sự Thật cho đến nay tác phẩm vẫn còn nguyên những giá trị ý nghĩa của mình.

Nhân vật chính trong truyện chính là nhân vật Xô-cô-lốp. Anh là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc. Trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh không còn gì cả, người thân, nhà cửa, bạn bè không còn ai hết.

Đối với anh mà nói một lòng chiến đấu vì quê hương đất nước cũng chính là bảo vệ người thân của mình vậy mà giờ đây những người thân yêu của anh đều từ bỏ anh mà đi, bom đạn kia đã cướp họ khỏi anh.

Chính vì thế mà anh phải sống một cuộc sống đau khổ. Trong chiến đấu anh cũng phải chịu những bất hạnh đó là hai lần anh bị thương và tiếp tục bị đày đọa hai năm trong trại tập trung của phát xít Nhật. Vợ và hai người con gái của anh bị bom phát xít cướp đi tính mạng. Anh chỉ còn niềm hy vọng vào người con trai cả là A-na-tô-li thì anh ấy cũng bị chết trận năm 1945.

Như vậy có thể thấy số phận của anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những khổ cực về thể xác rồi mà đến khi chiến tranh kết thúc mọi nhà sống trong độc lập thì với anh lại là niềm đau khổ về tinh thần vì những người thân yêu của anh đều bị chiến tranh cướp đi mất rồi. Anh tuyệt vọng trước những đau khổ của cuộc đời. Từ đó ta thấy được hậu quả của chiến tranh để lại thật sự rất đau lòng.

Sau chiến tranh anh không còn nhà cửa, không còn người thân cho nên anh phải ở nhờ một người đồng chí cũ. Anh phải tìm đến rượu để dịu bớt nỗi đau của mình. Tóm lại sau chiến tranh anh phải sống một cảnh sống cô đơn và bế tắc.

Và trong một lần tình cờ hay do duyên trời run rủi cho anh gặp bé Va ni a. Nhà văn miêu tả ngoại hình của chú bé bằng những lời văn chân thực nhất để từ đó thấy được hậu quả kinh khủng của chiến tranh để lại. Chú bé khoảng năm đến sáu tuổi.

Chú hiện lên trong bộ dạng quần áo rách bươm xơ mướp, mặt mũi thì bê bết lem luốc…duy nhất chỉ có cặp mắt là sáng ngời. Cậu bé ấy cũng có một hoàn cảnh vô cùng thương tâm. Cả cha và mẹ của cậu bé đều chết trong chiến tranh.

Cùng có người thân bị mất nhưng ít ra Xô-cô-lốp còn có sức mà lao động còn cậu bé kia làm sao có thể lao động được. Cậu còn quá nhỏ. Cậu sống vạ vật, ai cho gì ăn đấy, bạ đâu ngủ đấy. Và duyên phận như cho họ gặp nhau để bù đắp cho nhau những tình thương mà mình đã mất đi. Xô-cô-lốp cảm thương tình cảnh của Va ni a cho nên anh quyết định nhận cậu làm con nuôi.

Cả hai người chủ nhà của Xô-cô-lốp cũng đồng tình với hành động nhân ái ấy. Và anh như quên đi mọi đau khổ mà dành cho bé Va ni a những tình thương sự tận tình chu đáo. Anh mua quần áo cho cậu bé, một chiếc áo bành tô rất đẹp. Chính lòng nhân ái đã đem hai trái tim gần nhau sưởi ấm cho nhau.

Thế rồi anh cố gắng kiếm sống để nuôi bé Va ni a nhưng cuộc sống hay số phận anh khổ đau. Anh vượt lên những nỗi đau, xe anh quệt nhẹ người ta mà anh bị tước bằng lái, anh mất việc nên phải đi lang bạt kiếm sống. Đã thế thể chất sức khỏe của anh cũng giảm đi trông thấy.

Anh đau đến khóc thế nhưng anh vẫn cố gắng không để cho bé Va ni a biết. Trước mặt cậu bé, anh vẫn tỏ ra bình thường. Dường như nhà văn đang nhìn anh với một ánh mắt nhân đạo, anh đã không để cho bé Va ni a phải khóc, điều đó thể hiện một sự hi sinh của người cha.

Đến đoạn cuối tác phẩm thì nhà văn như thể hiện sự đồng cảm thương xót của mình với nhân vật. Tác giả không thể nào giấu được những cảm xúc của bản thân mình trước những tình cảnh cũng như tình cảm của hai cha con mà thốt lên: “Với nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con…” Hai người côi cút đã tìm đến nhau chia sẻ cho nhau những niềm yêu thương trong cuộc sống.

Đoạn văn thể hiện sự khâm phục những tính cách con người Nga kiên cường trước những khó khăn của cuộc sống. Trong hoàn cảnh đói nghèo đau khổ nhưng vẫn trao cho nhau những tình yêu thương nhân ái để chạm tay đến hạnh phúc.

Viết một bình luận