Thơ Nguyễn Nhược Pháp [Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ]

Thơ Nguyễn Nhược Pháp ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ ✅ Tổng Hợp Những Tác Phẩm Hay Nhất Của Nhà Thơ Nguyễn Nhược Pháp.

Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Nguyễn Nhược Pháp

Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp được mệnh danh là một “ca” đặc biệt của phong trào Thơ mới. Tại sao lại nói như vậy? Để biết thêm chi tiết thì hãy xem ngay tiểu sử cuộc đời tác giả Nguyễn Nhược Pháp sau đây nhé!

  • Nguyễn Nhược Pháp (12/12/1914 -19/11/1938), là nhà thơ trữ tình của Việt Nam. Ông là con trai của nhà báo, dịch giả, học giả Nguyễn Văn Vĩnh.
  • Quê quán: xã Phượng Dục, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
  • Nguyễn Nhược Pháp sinh ra tại Hà Nội, con trai của dịch giả, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh với người vợ hai thường gọi là Hai Lựu.
  • Năm 1916, Nguyễn Nhược Pháp mồ côi mẹ. Bố ông quyết định cưới cô Suzanne 17 tuổi làm vợ ba.
  • Từ năm 2 tuổi, Nguyễn Nhược Pháp được vợ cả của ông Vĩnh đón về ở Mã Mây rồi đi học vỡ lòng.
  • Trong 6 năm tiếp theo, ông vào học trường Trí Tri ở phố Hàng Đàn và Trung Bắc học hiệu, phố Lý Quốc Sư.
  • Năm 14 tuổi thi đỗ lớp 6 Trường Trung học Albert Sarraut.
  • Năm 1923, gia đình Nguyễn Văn Vĩnh đã chuyển từ phố Mã Mây về phố Thụy Khuê, đối diện trường Bưởi gần hồ Tây.
  • Từ năm 1930 trở đi, kinh tế gia đình Nguyễn Văn Vĩnh trở nên khó khăn. Nguyễn Nhược Pháp vừa đi học, vừa làm ở tòa báo An Nam mới để có tiền nhuận bút, giảm bớt chi tiêu của gia đình cho mình.
  • Năm 20 tuổi, đỗ tú tài phần nhất. Năm 1935 đỗ tú tài phần hai, sau đó vào học Ban Luật Trường Cao đẳng Luật và Pháp chính.
  • Ngày 19/11/1938, Nguyễn Nhược Pháp qua đời tại Bệnh viện Đồn Thủy, khi mới 24 tuổi do bệnh thương hàn.

Đón đọc thêm 🍃Thơ Thâm Tâm🍃 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Nguyễn Nhược Pháp

Khái quát về sự nghiệp sáng tác ngắn ngủi nhưng in đậm dấu ấn trong lòng người đọc của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp.

  • Nguyễn Nhược Pháp làm thơ từ sớm, từ năm 18 tuổi và đã từng viết cho các báo Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Nhật Tân, Tinh hoa, Đông Dương Tạp chí.
  • Thi phẩm đầu tay của Nguyễn Nhược Pháp là tập thơ “Ngày xưa”. Bản sách in lần đầu do Nguyễn Dương xuất bản tại Hà Nội năm 1935. Về sau in lại nhiều lần.
  • Tác phẩm thứ hai và là tác phẩm cuối cùng của Nguyễn Nhược Pháp có tên Người học vẽ (kịch), do nhà in Trung Bắc Tân Văn xuất bản tại Hà Nội năm 1936.
  • Ông không chỉ làm thơ. Ông còn viết truyện ngắn, kịch, tiểu luận phê bình, số lượng mỗi loại cũng kể tới con số 10 tác phẩm, tương đương với số lượng bài thơ.
  • Theo một số tư liệu gia đình, Nguyễn Nhược Pháp viết khoảng trên 10 truyện ngắn. Ba truyện ngắn là Tình trẻ thơ, Mẹ và con, Bức thư được chọn vào tuyển tập Hoa một mùa.
  • Hai truyện đầu đã được đăng tải trên báo Tinh hoa (số Xuân năm 1937), truyện thứ ba viết năm 1933.
  • Một số bài thơ nổi tiếng của ông: Tay Ngà, Sơn Tinh Thủy Tinh, chùa Hương,…Trong đó bài thơ “Chùa Hương” nổi tiếng của ông đã được ca sĩ Trung Đức và giáo sư Trần Văn Khê phổ nhạc.

Phong Cách Sáng Tác Của Nguyễn Nhược Pháp

Phong cách sáng tác của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp có gì đặc biệt? Xem ngay giải mã sau đây nhé!

  • Khi sáng tác thơ, Nguyễn Nhược Pháp thường tập trung vào các nhân vật trong truyền thuyết, lịch sử qua đó thể hiện những tâm tư của mình. Bằng con mắt già trước tuổi của một người luôn giữ được cái nhìn non xanh vào cuộc sống, Nguyễn Nhược Pháp đã vẽ nên được diện mạo thời xưa đầy mơ mộng, hóm hỉnh và trìu mến…
  • Các sáng tác của ông đã đưa thêm một góc nhìn về đời sống văn hóa của xã hội Việt Nam buổi giao thời đồng thời đâu đó chúng ta cũng cảm nhận phảng phất những nỗi buồn trong góc khuất của một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, cô đơn.

Khám phá thêm🌿Thơ Quách Tấn🌿 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Nhà Thơ Nguyễn Nhược Pháp

Tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp. Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng ông đã để lại không ít tác phẩm được bạn đọc yêu thích.

Thơ

*Ngày xưa (1935)

  • Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
  • Mỵ Châu
  • Giếng Trọng Thuỷ
  • Tay ngà
  • Mị Ê
  • Một buổi chiều xuân
  • Nguyễn Thị Kim khóc Lê Chiêu Thống
  • Đi cống
  • Mây
  • Chùa Hương

*Căn gác nhỏ

Kịch

  • Một chiều chủ nhật
  • Khỏi nấc
  • Sầm Sơn
  • Bữa cơm
  • Người học vẽ
  • Người lao

Văn Xuôi

  • Tình trẻ thơ (truyện ngắn)
  • Mẹ và con (truyện ngắn)
  • Bức thư (truyện ngắn)
  • 10 bài Phê bình bằng tiếng Pháp (về Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan, truyện Vua Hàm Nghi, Đời mưa gió, bài thơ Vần và điệu, sân khấu kịch đương thời…)

11 Bài Thơ Hay Nhất Của Thi Sĩ Nguyễn Nhược Pháp

Nguyễn Nhược Pháp mất sớm nên các tác phẩm thơ của ông không nhiều. Dưới đây là 11 bài thơ hay nhất của thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp mà Thohay.vn vừa sưu tầm được, cùng thưởng thức nhé!

Sơn Tinh, Thuỷ Tinh

I
Ngày xưa, khi rừng mây u ám
Sông núi còn vang um tiếng thần,
Con vua Hùng Vương thứ mười tám,
Mỵ Nương, xinh như tiên trên trần.
Tóc xanh viền má hây hây đỏ,
Miệng nàng hé thắm như san hô,
Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ:
Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ.
Hùng Vương thường nhìn con yêu quá,
Chắp tay ngẩng lên giời tạ ân;
Rồi cười bảo xứng ngôi phò mã,
Trừ có ai ngang vì thần nhân.
Hay đâu thần tiên đi lấy vợ!
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh lòng tơ vương,
Không quản rừng cao, sông cách trở,
Cùng đến Phong Châu xin Mỵ Nương.

Sơn Tinh có một mắt ở trán,
Thuỷ Tinh râu ria quăn xanh rì.
Một thần phi bạch hổ trên cạn,
Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi.
Hai thần bên cửa thành thi lễ,
Hùng Vương âu yếm nhìn con yêu.
Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều!
Thuỷ Tinh khoe thần có phép lạ,
Dứt lời, tay hất chòm râu xanh,
Bắt quyết hò mây to nước cả,
Dậm chân rung khắp làng gần quanh.
Ào ào mưa đổ xuống như thác,
Cây xiêu, cầu gẫy, nước hò reo,
Lăn, cuốn, gầm, lay, tung sóng bạc,
Bò, lợn, và cột nhà trôi theo.
Mỵ Nương ôm Hùng Vương kinh hãi.
Sơn Tinh cười, xin nàng đừng lo,
Vung tay niệm chú. Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò
Chạy mưa. Vua tuỳ con kén chọn.
Mỵ Nương khép nép như cành hoa:
“Con đây phận đào tơ bé mọn,
Nhân duyên cúi để quyền mẹ cha!”
Vua nghĩ lâu hơn bàn việc nước,
Rồi bảo mai lửa hồng nhuốm sương,
Lễ vật thần nào mang đến trước,
Vui lòng vua gả nàng Mỵ Nương.

II
Bình minh má ửng đào phơn phớt,
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngọn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lơ thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.

Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.

Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương.
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ, vịn tay bờ thành.
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà lệ ngọc ngấn đầm quanh…

Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thuỷ Tinh ngồi trên lưng rồng vàng.
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thuỷ Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừ uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa.

III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ, hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ, reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thuỷ Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng.
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, giơ vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”

Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!

Mỵ Châu

Lẫy thần chàng đổi móng,
Lông ngỗng thiếp đưa đường.
(Nguyễn Khắc Hiếu)


I
Đêm hôm gió khóc thổi ru cành:
Núi bạc âm thầm, bể uốn xanh.
Hiu hắt Mỵ-Châu nằm, trăng phủ.
Ầm ầm sóng thảm vỗ vờn quanh.

Cát vàng le lói muôn hàng châu:
Long lanh trai tuyết nhìn canh thâu.
Thương ai sao biếc thầm gieo lệ.
Sương mờ bay tỏa bạc ngàn lau.

Chân nàng hoa lả nhuốm màu sương.
Vừng trăng lạnh lẽo, chim kêu buồn.
Thân ngà tóc rủ vờn man mác,
Thiêm thiếp em chờ ai bên đường?

II
Bơ vơ Trọng-Thủy lạc rừng hoang,
Vời theo lông ngỗng rơi bên đàng;
Đau lòng mắt nặng rùng đêm lạnh
Thoảng tiếng trăng thưa chen lá vàng.

Lẫy thần trao móng, chàng đi xa.
Yêu nhau sao nỡ bạc nhau mà?
Chàng đi — cho bao giờ gặp gỡ! —
Phiên-ngung nước cũ, lệ chan hòa.

Nào lúc con thuyền sóng vỗ quanh,
Hiu hiu mây thoảng da trời xanh,
Xiêm bay theo gió, hồn vơ vẩn.
Gương biếc nàng xưa êm tô hình.

Nào lúc chiều hôm vang lửa hồng,
Chim bay tan tác, trời mênh mông.
Lẹ gót hài tiên nàng yểu điệu,
Bên lầu tựa cửa cuốn rèm trông.

Nào lúc đêm thanh mờ bóng trăng,
Nhìn thấy nàng gợi tiếng dương cầm.
Tóc liễu đua bay vờn má ngọc,
Lời ca thánh thót, chàng quên chăng?

Bơ vơ ngày cũ tưởng càng đau,
Tìm trông phương nào, hỡi Mỵ-Châu?
Lông ngỗng cầm tay nhòa ánh lệ,
Chàng đi man mác buồn, đêm thâu.

III
Thiêm thiếp ai bên đường, hỡi ôi!
Chàng ôm khóc nghẹn chẳng ra lời,
— Đầu non mây bạc êm đềm phủ,
Phơn phớt hồn em bay, ngậm cười…

Giếng Trọng Thuỷ

Đêm khuya, gió lốc, mây đen vần,
Cỏ lướt gieo mình vực giếng thâm;
Trọng Thủy nằm trên làn nước sủi.
Tiếng mõ cầm canh xa âm thầm.

Phơn phớt hồn ma đóm lập lòe.
Cú rúc. Đàn dơi bay tứ bề.
Răng rắc kêu như tiếng xương đập,
Gió rền, quỷ khóc, lay cành tre.

Nhấp nhoáng xiên trời chớp tóe xanh,
Gầm ran sấm chuyển, mây bùng phanh.
Mưa đâp. Tù và rên văng vẳng
Hiệu lính tuần kêu trên mặt thành.

Tay Ngà

Đêm nay chờ trăng mọc,
Ngồi thẩn thơ trong vườn.
Quanh hoa lá róc rách,
Như đua bắt làn hương.

Ta ngồi bên tảng đá,
Mơ lều chiếu ngày xưa,
Mơ quan Nghè, quan Thám
Đi có cờ lọng đưa.

Rồi bao nàng yểu điệu
Ngấp nghé bay trên lầu,
Vừa leng keng tiếng ngựa,
Lẹ gót tiên gieo cầu.

Tay vơ cầu ngũ sắc
Má quan Nghè hây hây.
Quân hầu reo chuyển đất,
Tung cán lọng vừa quay.

Trên lầu mấy thị nữ
Cùng nhau khúc khích cười:
“Thưa cô đừng thẹn nữa,
Quan Nghè trông lên rồi!”

Cúi đầu nàng tha thướt,
Yêu kiều như mây qua.
Mắt xanh nhìn man mác
Mỉm cười vê cành hoa.

Ta còn đang luyến mộng,
Yêu bóng người vẩn vơ;
Tay ngà ai phủ trán?
– Hiu hắt ánh trăng mờ…

Mị Ê

Buồm nhô rẽ sóng, Mỵ mơ màng,
Tay cuốn mền hoa, khóc gọi chàng.
Thân liễu gieo đưa chìm vực biếc,
Lời thương bay lảnh động rừng vang.
Hoa trôi. Thành cũ vườn mây lửa,
Lau gợn. Chùa cao giỏ tiếng vàng.
Ủ lệ, tay ngà ôm ngực huyết,
Mỵ vờn theo sóng dạt bờ hoang.

Nguyễn Thị Kim Khóc Lê Chiêu Thống

Triều Lê-qui có nàng tiết liệt.

Nhà tan, nước mất, chàng đi thôi.
Thiếp nén lòng đau khóc nghẹn lời,
Chậm bước đành nương mình bóng Phật;
Màng tin trông ngóng nhạn chân trời.
Chuông đồng cảnh vắng, hồn mơ sảng,
Trăng lạnh, đêm sâu, cú đổ hồi.
Thê thảm chàng đi, về có vậy!
Thiếp chờ ai nữa? Hỡi chàng ôi!

Căn Gác Nhỏ

Ngõ hẻm bùn rêu đầu gác nhỏ
Văn nhân tài tử mươi lăm người
Ngọn đèn suốt canh thâu lấp ló
Văn nhân lên ở cao gần trời

Trên không vui trong đời mộng tưởng
Viết nhiều, áo họ lòi khuỷu tay
Bờm tóc như bòng bong ngất ngưởng
Khi nào họ gật đầu khen: hay

Thường khách tài hoa mê nàng Đẹp
Thay cơm bằng hai xu phở bò
Có khi óc đầy nhưng bụng lép
Thu chăn đành ngủ dài cho no

Rồi họ mê đời yêu họ quá
Tri âm là muôn ngàn tim thơ
Rồi mơ đến Bồng Lai cảnh lạ
Song vào Đông Hưng Viên đang chờ

Bừng mắt thì thầm mưa tí tách
Gió thổi làn mây bay ơ hờ
Sờ bụng không cơm, chìa khuỷu rách
Nhìn trời họ nhẩm mấy vần thơ

Mây

Người xưa mơ, nhìn mây
Đen, đỏ, vàng đua bay,
Khi thấy nhiều ma quỷ,
Lời than giời lung lay;

Khi thấy hồn người thân
— Nhìn mây lệ khôn cầm! —
Trên bầy xe tứ mã,
Tiếng bánh lăn âm thầm;

Khi thấy muôn nàng tiên
— Lồng lộng mầu thanh thiên! —
Véo von trầm tiếng địch,
Lửa hồng vờn áo xiêm.

Ngày nay ta nhìn mây,
Mây đen luồng gió lay,
Hồn xưa tìm chẳng thấy
Tóc theo luồng gió bay…

Chùa Hương

Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa.

Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.

Khăn nhỏ, đuôi gà cao,
Em đeo dải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.

Me cười: “Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?”

– Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.

Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm,
(Ý đợi người tài trai).

Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre,
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.

Thầy me ra đi đò,
Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chảy
Đưa cánh buồm lô nhô.

Mơ xa lại nghĩ gần,
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.

Người đâu thanh lạ thường!
Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương?

Chàng ngồi bên me em,
Me hỏi chuyện làm quen:
“Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông, giời ôi chen!”

Chàng thưa: “Vâng, thuyền đông!”
Rồi ngắm giời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.

Dòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen: “Hay! Hay quá!”
Em nghe rồi ngẩn ngơ.

Thuyền đi. Bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
“Nam vô A-di-đà!”

Réo rắt suối đưa quanh,
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ:
Cảnh đẹp gần như tranh.

Sau núi Oản, Gà, Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồi.
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.

Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.

Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.

Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói toả mờ.
Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.

Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong,
Quay về nhà ngang bảo:
“Mai mới vào chùa trong.”

Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
“Mai ta vào chùa trong!”

Đêm hôm ấy em mừng!
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.

Em mơ, em yêu đời!
Mơ nhiều… Viết thế thôi!
Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười!

Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.

Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.
Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.

Me bảo: “Đường còn lâu,
Cứ vừa đi ta cầu
Quan Thế Âm bồ tát
Là tha hồ đi mau!”

Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu).

Khi qua chùa Giải Oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay, lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.

Tấm tắc thầy khen: “Hay!
Chữ đẹp như rồng bay.”
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây).

Ô! Chùa trong đây rồi!
Động thẳm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.

Me vui mừng hả hê:
“Tặc! Con đường mà ghê!”
Thầy kêu: “Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về.”

Em nghe bỗng rụng rời
Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!

Làn gió thổi hây hây,
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở!
Chàng ôi, chàng có hay?

Đường đây kia lên giời,
Ta bước tựa vai cười.
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!

Ngun ngút khói hương vàng,
Say trong giấc mơ màng
Em cầu xin Giời Phật
Sao cho em lấy chàng.

Đi Cống

“Lệ cống thì phải chọn nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán số và thợ thuyền, mỗi hạng ba người, cùng các đồ sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu và các vật lạ.”
(Trần Trọng Kim)


Núi cao, lửa hồng reo chói lọi,
Đổ vàng cây cối um tùm xanh.
Khi loè nắng loá, khi thâm tối,
Sườn non con đường mềm uốn quanh.

Hiu hắt cờ bay tua phơ phất,
Binh lính hò reo gầm bốn phương.
Nón đỏ, bao vàng, chân dậm đất,
Một toán đạp rừng um dẫn đường.

Mặc áo bào xanh, ngồi ngựa trắng,
Sứ nghe nhạc lắc vang bên rừng.
Hai bên hai lọng vàng che nắng.
Giời, mây, trông non nước muôn trùng!

Mười xe bịt đồng, trâu mập kéo,
Bánh sắt khi kề lên sườn non,
Đá đổ ầm ầm như sấm réo,
Gầm nhảy xuống vực sâu kêu ròn.

Trên xe nào mâm vàng dát ngọc,
Châu báu, sừng tê và ngà voi;
Hai pho tượng vàng đỏ đòng đọc;
Bào nạm kim cương, đai đồi mồi.

Binh lính hò quanh hoa giáo mác
– Võ tướng khua đao to lầm lầm –
Hễ thấy đường chênh kề miệng thác,
Bỏ giáo lên xe xoay bánh, vần.

Thầy nho, thầy thuốc bên thầy bói,
Thợ thêu, thợ chạm cùng thợ nề,
Mỗi người đeo một cái khăn gói
Đỏ, buông cương ngựa theo gần xe.

Lúc ấy giời xanh không u ám,
Đầu non không tờ mờ bóng sương,
Làm sao họ âu sầu thảm đạm?
Buồn thay! người cố phận tha hương.

Xe đi mỗi lúc một thêm khó.
Hang thâu hổ đói rên vang lừng;
Những con trăn xám văng như gió,
Quật đuôi đè gẫy bẹp cây rừng.

Sứ bỗng nhìn quanh buồn ủ rũ:
Xa xa ngọn cờ vàng phất phơ!
Vợ con ở chân trời mây phủ,
Hẳn đang nhìn bóng nhạn mong chờ…

Hỡi ai đi thẩn thơ miền núi!
Nhìn ngọn cây xanh gió thổi ào,
Tưởng lại cờ xưa vàng chói lọi,
Nên yêu người cũ hồn trên cao.

Một Buổi Chiều Xuân

Hôm đó buổi chiều xuân,
Trông mây hồng bay vân,
Liền gập pho kinh sử,
Lững thững khỏi lầu văn.

Đường leo, nhà lom khom,
Mái xanh, tường rêu mòn.
Ta nhìn, ngâm nga đọc
Câu đối cửa mầu son.

Phu khiêng kiệu ngẩn ngơ,
Thầy lại và thầy thơ
Ngồi xổm cười bên lọng,
Trước cửa tòa dinh cơ.

Cương da buộc thân cây,
Vài con ngựa lắc dây,
Nghển đầu lên gậm lá,
Đập chân nghiêng mình xoay.

Đi vui rồi vẩn vơ,
Hay đâu thức còn mơ.
Lạc vào trong vườn mộng,
Mồm vẫn còn ngâm thơ!

Ô! Vườn bao nhiêu hồng!
Hương nghi ngút đầu bông.
Lầu xa tô mái đỏ,
Uốn éo hai con rồng.

Thoảng tiếng vàng thanh tao,
Bên giàn lý bờ ao,
Một nàng xinh như liễu
Ngồi ngắm bông hoa đào.

Tay cầm bút đề thơ,
Tì má hồn vẩn vơ,
Nàng ngâm lời thánh thót.
Ai không người ngẩn ngơ!

Ta lặng nhìn hơi lâu
— Nhưng thì giờ đi mau —
Đứng ngay gần non bộ
Có ông lão ngồi câu.

Nàng chợt nghiêng thân ngà;
Thoáng bóng người xa xa,
Reo kinh hoàng, e lệ,
Đưa rơi cành bút hoa.

Ta mơ chưa lại hồn,
Nàng lẹ gót lầu son.
Vừa toan nhìn nét phượng,
Giấy thẹn bay thu tròn…

Tuyển tập chùm🍃Thơ Thái Can🍃Hay đặc sắc

Những Đánh Giá, Nhận Định Về Nhà Thơ Nguyễn Nhược Pháp

Dưới đây là những đánh giá, nhận định của các nhà phê bình văn học về nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp:

👉Hoài Thanh và Hoài Chân viết về Nguyễn Nhược Pháp như sau: “Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp…. Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng một người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn, khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật quý: với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng.” 

👉Nói về thái độ của Nguyễn Nhược Pháp đối với các nhân vật của mình, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã có một nhận xét: “Người nhìn đời như một ông già nhìn đàn trẻ con rất ngộ nghĩnh mà cũng rất dễ yêu, mặc dầu người vẫn còn trẻ lắm”. Riêng tôi, mỗi lần đọc Nguyễn Nhược Pháp, tôi thường liên hệ tới nhà viết truyện cổ tích đại tài người Đan Mạch Andersen. Tương truyền, đó là người trong đời từng phải chạy trốn tình yêu để giữ cho tâm hồn mình sự trong trẻo, thuần phác, đặng từ đó thêu dệt nên những câu chuyện cổ tích kỳ thú thơ mộng dâng tặng bạn đọc khắp thế gian.

Chia sẻ các thông tin thú vị về 🌿Thơ Lê Anh Xuân [Ca Lê Hiến]🌿 Chùm thơ hay nhất

Viết một bình luận