Xuân Về Của Nguyễn Bính [Nội Dung + Nghệ Thuật + Phân Tích]

Xuân Về [Nguyễn Bính] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅Hướng Dẫn Soạn Bài, Giáo Án, Cách Lập Sơ Đồ Tư Duy Nhanh Nhất.

Nội Dung Bài Thơ Xuân Về

Bài thơ Xuân về của Nguyễn Bính miêu tả bức tranh xuân ấy với hình ảnh thiếu nữ má hồng mắt trong, duyên dáng đi hội chùa làng. Cảnh xuân, tình xuân được nhà thơ nói đến rất bình dị, mộc mạc, rất thân thuộc. sau đây là Nội Dung Bài Thơ Xuân Về, mời bạn cùng đọc.

Xuân Về
Tác giả: Nguyễn Bính

Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời, đôi mắt trong.

Từng đàn con trẻ chạy xum xoe,
Mưa tạnh giời quang, nắng mới hoe.
Lá nõn, ngành non ai tráng bạc?
Gió về từng trận, gió bay đi…

Thong thả, dân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.

Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam vô.

Tìm hiểu thêm tác phẩm 🌱Tương Tư [Nguyễn Bính] 🌱 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ 

Về Tác Giả Nguyễn Bính

Một số thông tin Về Tác Giả Nguyễn Bính, bạn có thể xem để dễ phân tích tác phẩm hơn.

  • Nguyễn Bính (1918-1966) tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh tại làng Thiện Vinh, huyện Vụ Bảng, tỉnh Nam Định.
  • Ông mồ côi mẹ từ nhỏ, tự học ở nhà, bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi, được giải khuyến khích thơ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn năm 1937 với tập thơ Tâm hồn tôi.
  • Nguyễn Bính đã sáng tác nhiều thể loại như thơ, kịch, truyện thơ… Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi ca. Ông được đông đảo độc giả công nhận như một trong các nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại.
  • Phong cách nghệ thuật: Bình dị, gần gũi
  • Tác phẩm chính: Qua nhà (Yêu đương 1936); Những bóng người trên sân ga (Thơ 1937); Cô hái mơ (Thơ 2007); Tương tư; Chân quê (Thơ 1940)

Về Tác Phẩm Xuân Về

Về Tác Phẩm Xuân Về , bài thơ thuộc thể thơ tự do với ngôn từ bình dị, mộc mạc, chân quê, rất phù hợp với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Nội dung chính của tác phẩm chính là bức tranh về cảnh xuân, tình xuân được tác giả vẽ bằng ngôn từ bình dị, thân thuộc.

Xem ngay về tác phẩm 🍀 Nhớ Đồng [Tố Hữu] 🍀Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Xuân Về

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Xuân Về như thế nào? Bài thơ Xuân về được sáng tác năm 1937 in trong tuyển tập thơ Nguyễn Bính. Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, Nguyễn Bính là thi sĩ viết nhiều về mùa xuân hơn cả, thậm chí ông còn được mệnh danh là “thi sĩ mùa xuân”, trong đó Xuân về có thể xem là tác phẩm nổi bật.

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Xuân Về

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Xuân Về đã thể hiện rõ ràng cảm nhận của tác giá về sự thay đổi cảnh sắc, con người khi mùa không khí mùa xuân đang bắt đầu ngập tràn khắp các con đường, ngõ xóm, tất ca tạo nên một nét xuân thuần hậu, nhẹ nhàng, chất phác, đậm hơi thở của xuân đất Bắc

Đọc thêm tác phẩm ❤️️ Lai Tân [Hồ Chí Minh] ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Nghệ Thuật 

Bố Cục Bài Thơ Xuân Về

Bố Cục Bài Thơ Xuân Về được chia thành 4 phần cụ thể như sau:

  • Khổ 1: Vẻ đẹp khi gió xuân về
  • Khổ 2: Vẻ đẹp khi nắng xuân về
  • Khổ 3: Vẻ đẹp đồng quê xuân về
  • Khổ 4: Cảnh đi trẩy hội mùa xuân

Giá Trị Tác Phẩm Xuân Về

Hãy lưu lại phần chia sẻ Giá Trị Tác Phẩm Xuân Về sau đây để nắm vững bài học nhé!

Giá trị nội dung

  • Khắc hoạ bức tranh xuân ấy còn có hình ảnh thiếu nữ với má hồng, mắt trong, duyên dáng đi hội chùa làng.
  • Cảnh xuân, tình xuân được nhà thơ nói đến rất bình dị, mộc mạc, rất thân thuộc.

Giá trị nghệ thuật

  • Sử dụng từ ngữ gợi tả gợi cảm
  • Hình ảnh thơ chân thực, gần gũi với mỗi con người

Nhất định không nên bỏ qua bài 🌱 Từ Ấy [Tố Hữu]🌱 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Dàn Ý Xuân Về

Các bạn học sinh có thể dựa theo Dàn Ý Xuân Về sau đây để phân tích bài thơ nhé!

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác phẩm “Xuân về” và tác giả Nguyễn Bính.
  • Nêu nhận xét khái quát về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

II. Thân bài

a. Vẻ đẹp khi gió xuân về:

  • Gió xuân mang hơi ấm và khí xuân làm hồng lên đôi má “gái chưa chồng”.
  • Cô láng giềng, cô hàng xóm của nhà thơ bâng khuâng nhìn trời với “đôi mắt trong”.

=> Bức tranh xuân trẻ trung, tình tứ được chấm phá qua hai hình ảnh “màu má gái chưa chồng” và “đôi mắt trong” của cô hàng xóm đang “ngước mắt” nhìn trời xuân.

b. Vẻ đẹp khi nắng xuân về:

  • Gió xuân thổi về từng trận rồi “gió bay đi”, gợi lên sự phơi phới.
  • Mưa xuân, mưa bụi trắng trời, nay mưa đã tạnh, bầu trời rất đẹp, một không gian ấm áp: “giời quang, nắng mới hoe”.
  • “Lá nõn” là những mầm lá, những lá non màu xanh mượt, “nhành non” là những cành tơ mới nẩy lộc có nhiều lá nõn màu xanh như ngọc.

=> Lá xuân mỡ màng, non tơ sáng ngời lên lấp lánh. Các chữ: “nõn”“non”‘bạc?”, đã gợi lên sắc xuân và sức xuân kì diệu.

  • Cảnh xuân càng trở nên rộn ràng, vui tươi và hồn nhiên khi xuất hiện “Từng đàn con trẻ chạy xum xoe”.

=> Cảnh xuân càng trở nên ý vị đậm đà.

c. Vẻ đẹp đồng quê xuân về:

  • Giêng hai là thời gian nông nhàn, bà con dân cày “nghỉ việc đồng”, ai nấy đều tíu tít trong lễ hội mùa xuân.
  • Cánh đồng làng bát ngát “lúa con gái mượt như nhung”.
  • Vườn tược, xóm thôn nở trắng màu hoa cam, hoa bưởi “ngào ngạt hương bay”.
  • Mùi thơm nồng nàn, quấn quít “bướm vẽ vòng”.
  • Chữ “đầy”, chữ “ngào ngạt” là hai nét vẽ gợi lên cái thần, cái hồn của vườn xuân chốn quê.

=> Cảnh bướm, hoa trong vườn xuân thật trữ tình nên thơ. Nguyễn Bính đã đem cái tình yêu mùa xuân, yêu làng mạc đồng quê để viết nên những câu thơ tuyệt bút về hương hoa, về bướm hoa trong mùa xuân

d. Cảnh đi trẩy hội mùa xuân:

  • “Một đôi cô” duyên dáng, tươi xinh trong bộ đồ dân tộc: “yếm đỏ khăn thâm” đi trẩy hội chùa.
  • Các cụ già, bà già “tóc bạc” lưng còng, tay chống gậy trúc, vừa đi vừa lần tràng hạt, miệng lầm rầm tụng nam mô.

=> Cảnh trẩy hội xuân vừa tưng bừng náo nhiệt, vừa dân dã hồn hậu đáng yêu.

🔰Tổng kết:

  • Về nội dung: Bài thơ là bức tranh xuân với hình ảnh thiếu nữ má hồng, mắt trong, duyên dáng đi hội chùa làng. Cảnh xuân, tình xuân được nhà thơ nói đến rất bình dị, mộc mạc, rất thân thuộc.
  • Về nghệ thuật:
    • Từ ngữ gợi tả gợi cảm
    • Hình ảnh thơ chân thực, gần gũi

III. Kết bài: Khẳng định lại giá trị chủ đề và những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.

Soạn Bài Xuân Về

Hướng dẫn Soạn Bài Xuân Về theo yêu cẩu của các câu hỏi trang 77 SGK Ngữ văn 10 tập 2:

👉Câu 1. Liệt kê một số hình ảnh gợi tả không khí xuân về trong bài thơ.

Đáp án: Một số hình ảnh gợi tả không khí “xuân về” trong bài thơ:

  • Lá nõn, ngành non
  • Người dân nghỉ việc đồng
  • Lúa thì con gái
  • Hoa bưởi, hoa cam rụng
  • Các cô, các bà trẩy hội chùa.

👉Câu 2. Phát biểu cảm nhận về một hình ảnh đặc trưng cho bức tranh mùa xuân làng quê Việt Nam trong bài thơ.

Đáp án: Em thích nhất là hình ảnh lúa thì con gái. Lúa lúc này giống như một cô gái mới lớn, tràn đầy sức sống, xuân thì. Con gái là danh từ đã trở thành tính từ để làm rõ tính chất của lúa: còn non, còn xanh, rất mượt, rất đẹp.

👉Câu 3. Xác định chủ đề, cảm hứng chủ đạo của bài thơ và cho biết nhan đề Xuân về đã góp phần thể hiện chủ đề, cảm hứng chủ đạo ấy như thế nào.

Đáp án:

  • Chủ đề của bài thơ: Bức tranh thiên nhiên và con người khi xuân về.
  • Cảm hứng chủ đạo của bài thơ: cảm hứng trữ tình, thể hiện cảm xúc, sự say đắm với khung cảnh mùa xuân.

Xem thêm mẫu phân tích 🌷Chiều Tối [Hồ Chí Minh] 🌷 đầy đủ nhất

Giáo Án Xuân Về

Chia sẻ giáo án dạy bài Xuân về chi tiết cho các giáo viên có thể tham khảo.

I. MỤC TIÊU

1. Mức độ/ yêu cầu cần đạt: HS có thể phân tích được thể loại, ý nghĩa cũng như chủ đề bài thơ với phần chủ điểm Đất nước và con người.

2. Năng lực:

a. Năng lực chung:Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác..

b. Năng lực riêng biệt:

  • Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản Xuân về.                                 
  • Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về văn bản Xuân về.
  • Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản;
  • Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm nghệ thuật của văn bản với các văn bản khác có cùng chủ đề.

3. Phẩm chất: Biết trân trọng, gìn giữ những kỉ niệm, đồng thời có trách nhiệm với hiện tại và tương lai.

II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU

1.Chuẩn bị của giáo viên:

  • Giáo án;
  • Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi;
  • Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh;
  • Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp;
  • Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà;

2. Chuẩn bị của học sinh: SGK, SBT Ngữ văn 10, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

  1. Khởi động
  2. Mục tiêu: Tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của mình từ đó HS khắc sâu kiến thức nội dung bài học Xuân về..
  3. Nội dung: GV cho HS xem một đoạn video về mùa xuân và đặt câu hỏi gợi mở vấn đề.
  4. Sản phẩm: Câu trả lời của HS
  5. Tổ chức thực hiện:
  • Bước 1GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
    • GV đặt câu hỏi gợi mở: Em có thích mùa xuân không? Hãy nêu cảm nhận của em về cảnh vật mùa xuân?
  • Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
    • HS trả lời câu hỏi.
  • Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
    • GV mời một số HS đứng dậy chia sẻ.
  • Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
    • GV nhận xét, đánh giá, chốt
    • GV dẫn dắt vào bài: Mùa xuân là cảm hứng bất tận dành cho thơ. Nếu như Hàn Mặc Tử có Mùa xuân chín, Thanh Hải có Mùa xuân nho nhỏ thì Nguyễn Bính cũng đóng góp vào nền thơ ca một chút sắc xuân qua Xuân về. Hãy cùng tìm hiểu về mùa xuân thông qua cảm nhận của nhà thơ ở bài 3- Tiết 1 – Văn bản kết nối chủ điểm Xuân về.

IV. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

  1. Mục tiêu: Nắm được những thông tin về thể loại, đặc điểm và đọc văn bản Xuân về
  2. Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi liên quan đến thể loại thần thoại và văn bản Xuân về.
  3. Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS và kiến thức HS tiếp thu được liên quan đến văn bản Xuân về
  4. Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS  DỰ KIẾN SẢN PHẨM
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu tác giả, tác phẩm
Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
– GV yêu cầu HS đọc và nêu tóm tắt về tác giả, quan điểm sáng tác phong cách nghệ thuật.
– Một số hiểu biết về tác phẩm?
– Bố cục của văn bản được chia thành mấy phần? Nội dung chính mỗi phần?
– HS tiếp nhận nhiệm vụ.
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
– HS làm việc theo cặp đôi, đọc lại văn bản theo yêu cầu, suy nghĩ để hoàn thành nhiệm vụ.
Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
– GV mời 2 – 3 HS trình bày trước lớp, yêu cầu cả lớp nhận xét, bổ sung.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
– GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức
1. Tác giả, tác phẩm
a. Tác giả
– Tên: Nguyễn Bính tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính
– Năm sinh: 1918 – 1966
– Quê quán: Làng Thiện Vịnh – xã Đồng Đội- Vụ Bản – Nam Định
Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo lại mồ côi cha mẹ từ sớm.  Từ 1945-1954 ông tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ.
Năm 1954 ra BẮc tập kết, tham gia công tác văn nghệ và làm báo. Và mất đột ngột vào ngày 20/1/1996.
Ông là một người thông minh nhạy cảm với thời đại đầy biến động, luôn muốn bảo tồn và duy trì những giá trị truyền thống của dân tộc.

b.   Sự nghiệp văn học
– Tác phẩm chính
+ Ông làm thơ từ rất sớm năm 13 tuổi sáng tác nhiều thể loại như thơ, truyện, chèo…
+ Một số tác phẩm chính của ông có thể kể đến như: Tâm hồn tôi (1937),  Lỡ bước sang ngang (1940), Mười hai bến nước (1942), Truyện thơ Cây đàn Tỳ bà (1944), Gửi người vợ miền Nam (1955)…
–  Phong cách thơ
Nguyễn Bính là nhà thơ có hồn thơ đậm chất quê.
c.  Tác phẩm
–  Bài thơ Xuân về được sáng tác năm 1937 in trong tập Tuyển tập thơ Nguyễn Bính
–  Thể loại: Tự do
– Bố cục: 4 phần
+ Phần 1: khổ 1: Vẻ đẹp khi gió xuân về
+ Phần 2: Khổ 2; Vẻ đẹp khi nắng xuân về
+ Phần 3: Khổ 3: Vẻ đẹp đồng quê xuân về
+ Phần 4: Khổ 4: Cảnh đi trẩy hội mùa xuân

Sơ Đồ Tư Duy Xuân Về

Nắm bắt nội dung của bài thơ nhanh hơn thông qua các Sơ Đồ Tư Duy Xuân Về sau đây.

Sơ đồ tư duy tác phẩm Xuân về
Sơ đồ tư duy tác phẩm Xuân về
Sơ Đồ Tư Duy Xuân Về Đơn Giản
Sơ Đồ Tư Duy Xuân Về Đơn Giản

Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm 🌿Đây Thôn Vĩ Dạ🌿 Nội Dung Bài Thơ

4 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Xuân Về Hay Nhất

Mời bạn tham khảo ngay 4 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Xuân Về Hay Nhất mà Thohay.vn sưu tầm được dưới đây.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Xuân Về Hay Đặc Sắc – Mẫu 1

Thi sĩ Nguyễn Bính xuất hiện prong phong trào “Thơ mới” trước năm 1945. Phong cảnh đồng quê, hình ảnh cô thôn nữ, bến đò ngang, phiên chợ Tết… được Nguyễn Bính nói lên một cách bình dị, thân mật đáng yêu. “Tương tư”, “Chợ Tết”, “Mưa xuân”, “Xuân về”,… là những bài thơ hay của ông được nhiều người yêu thích.

Bài thơ “Xuân về” là một bức tranh xuân có bốn cảnh xinh xắn, thân mật về đồng quê. làng quê Việt Nam hơn 60 năm về trước. Con người và cảnh sắc nông thôn đã được thi vị hóa qua một hồn thơ lãng mạn tài hoa.

Cảnh xuân thứ nhất nói về cô thôn nữ khi gió đông (gió xuân) thổi về. Gió xuân mang hơi ấm và khí xuân làm hồng lên đôi má “gái chưa chồng”, tuổi xuân mơn mởn. Cô láng giềng, cô hàng xóm của nhà thơ bâng khuâng nhìn trời với “đôi mắt trong” như đang ước hẹn, đợi chờ ai… Bức tranh xuân trẻ trung, tình tứ được chấm phá qua hai hình ảnh “màu má gái chưa chồng” và “đôi mắt trong” của cô hàng xóm đang “ngước mắt” nhìn trời xuân:

“Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong “

Cảnh xuân thứ hai vừa đẹp, vừa sống động, hồn nhiên và tươi xinh. Gió xuân thổi về từng trận rồi “gió bay đi”, gợi lên sự phơi phới. Sau những tháng ngày mưa xuân, mưa bụi trắng trời, nay mưa đã tạnh, bầu trời rất đẹp, một không gian ấm áp: “giời quang, nắng mới hoe”. Nắng mới là nắng đầu xuân: “nắng mới hoe” là nắng hồng nhạt, cỏ cây đâm chồi nảy lộc:

“Lá nõn, nhành non, ai tráng bạc?”

“Lá nõn” là những mầm lá, những lá non màu xanh mượt, “nhành non” là những cành tơ mới nẩy lộc có nhiều lá nõn màu xanh như ngọc. Nhà thơ sung sướng ngạc nhiên nhìn “lá nõn, nhành non” rồi thốt lên câu hỏi “ai tráng bạc”.

Lá xuân mỡ màng, non tơ sáng ngời lên lấp lánh. Các chữ: “nõn”, “non”, ‘bạc?”, đã gợi lên sắc xuân và sức xuân kì diệu. Thi sĩ Xuân Diệu cũng đã nói hoa, lá, cành mùa xuân, cũng nói đến “cành tơ” đầy gợi cảm:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất… “
(“Vội vàng”)

Cảnh xuân càng trở nên rộn ràng, vui tươi và hồn nhiên khi xuất hiện “Từng đàn con trẻ chạy xum xoe”. Các em nô đùa, các em đón nắng mới, các em theo bà, theo chị đi trẩy hội mùa xuân. Cảnh xuân càng trở nên ý vị đậm đà.

Nét xuân đẹp thứ ba trong bức tranh xuân của Nguyễn Bính mở ra một không gian nghệ thuật rộng lớn gợi lên cái hồn quê buổi xuân về. Giêng hai là thời gian nông nhàn, bà con dân cày “nghỉ việc đồng”, ai nấy đều tíu tít trong lễ hội mùa xuân. Cánh đồng làng bát ngát “lúa con gái mượt như nhung”. Một so sánh rất hay, rất gợi cảm làm hiện lên những cánh đồng quê lúa xanh thẫm, biển lúa êm đềm “mượt như nhung”.

Vườn tược, xóm thôn nở trắng màu hoa cam, hoa bưởi “ngào ngạt hương bay”. Mùi thơm nồng nàn, quấn quít “bướm vẽ vòng”. Cảnh bướm, hoa trong vườn xuân thật trữ tình nên thơ:

“Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm lượn vọng. “

Chữ “đầy”, chữ “ngào ngạt” là hai nét vẽ gợi lên cái thần, cái hồn của vườn xuân chốn quê. Nguyễn Bính đã đem cái tình yêu mùa xuân, yêu làng mạc đồng quê để viết nên những câu thơ tuyệt bút về hương hoa, về bướm hoa trong mùa xuân.

Một nét đẹp nữa trong bức tranh “Xuân về” là cảnh đi trẩy hội. “Một đôi cô” duyên dáng, tươi xinh trong bộ đồ dân tộc: “yếm đỏ khăn thâm” đi trẩy hội chùa. Các cụ già, bà già “tóc bạc” lưng còng, tay chống gậy trúc, vừa đi vừa lần tràng hạt, miệng lầm rầm tụng nam mô. Có cái phơi phới, say mê của cô gái quê. Có cái phúc hậu, thánh thiện của tuổi già. Cảnh trẩy hội xuân vừa tưng bừng náo nhiệt, vừa dân dã hồn hậu đáng yêu. Ta cảm thấy như mình đang được sống lại lễ hội mùa xuân của làng quê hơn trăm năm về trước:

“Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô”.

“Xuân về” là một bài thơ xuân đẹp, cho ta nhiều ấn tượng và yêu thích. Những nét vẽ về “lá nõn, nhành non…”, về lúa con gái, “mượt như nhung”, về hoa bưởi hoa cam rụng đầy vườn “ngào ngạt hương bay”, với “bướm vẽ vòng”, tất cả đã gợi lên một bức tranh xuân tươi đẹp, đầy hương sắc, rất mặn mà, thân thuộc.

Bức tranh xuân ấy còn có hình ảnh thiếu nữ với má hồng, mắt trong, duyên dáng đi hội chùa làng, với “yếm đỏ khăn thâm”-, còn có bà già đi hội, chống gậy trúc, lần tràng hạt, miệng nam mô. Cảnh xuân, tình xuân được nhà thơ nói đến rất bình dị, mộc mạc, rất thân thuộc đậm đà, đáng yêu. Nguyễn Bính đã gợi lên cái hồn quê nơi thôn quê, đã để thương để nhớ trong lòng người bấy nay.

Tình quê, hồn quê là nét đẹp trong “Xuân về” của Nguyễn Bính. Thơ trong sáng, dung dị vơi đầy một tình xuân đồng quê đầm ấm và rung động, thiết tha. Thơ Nguyễn Bính dịu dàng, êm đẹp như ca dao, dân ca.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Xuân Về Hay Sâu Sắc – Mẫu 2

Ít có nhà văn, nhà thơ nào không ghi cảm nhận về mùa xuân của mình lên trang giấy. Mỗi người một nét nhìn, một phong vị văn thơ khác nhau nhưng hầu như ai cũng ca ngợi sức sống của đất trời, của con người mùa xuân. Với Nguyễn Bính mùa xuân bao trùm lên tất cả. Trong bốn khổ thơ bảy chữ tác giả là người quan sát và miêu tả bằng những câu thơ trong sáng, nhẹ nhàng. Nét xuân đầu tiên mà nhà thơ cảm nhận từ một vị trí gần với nhà thơ nhất:

Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.

“Xuân về” đầu tiên mà Nguyễn Bính “thấy” chỉ là cảm nhận qua tác nhân khác, qua hình ảnh khác. Tác nhân ấy là “gió đông”, có thể không còn làm da lạnh buốt khiến nhà thơ cảm nhận là xuân đang về và tác nhân ấy chính là “cổ hàng xóm” mới lớn có “màu má – đôi mắt trong” biểu hiện sức sống dạt dào, thanh tân của những ngày đầu năm mới. Xuân gần là ở đó, là ở gió, là cô láng giềng đang lơ đãng nhìn trời dưới mái hiên…

Rồi xa hơn một chút:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi.

Khung cảnh thật tươi sáng và trong lành. Trời không mưa. “Gió về từng trận gió hay đi”, câu thơ mang lại cho người đọc không khí mát mẻ, nhẹ nhàng mà không là gió lốc, gió xoáy. “Lá nõn nhành non ai tráng bạc” là một câu thơ đẹp về hình ảnh, hay về nội dung. Đẹp về hình ảnh “lá nõn nhành non” và nghệ thuật so sánh “ai tráng bạc”; hay là ở chỗ nó làm phong phú thêm sắc màu tươi trẻ của ngày xuân, làm cái nền rất phù hợp với niềm vui của “đàn con trẻ”. Bức tranh xuân về mở rộng thêm:

Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.

Không gian bức tranh Xuân về mở rộng thành một tổng thể. Từ mái hiên hàng xóm, lá nõn nhành non rộng ra khu vườn với màu sắc của hoa bưởi hoa cam ngọt ngào hương thơm và đầy ong bướm lượn. Tất cả nằm trong khung nền của cánh đồng làng “lúa thì con gái mượt như nhung”. Lúa đang lớn, đang vào lúc sắp trổ bông lá xanh mềm mại trải khắp. Lúc này, nhà nông nhàn nhã nghĩ tới việc “tháng giêng ăn tết ở nhà”

Phần cuối cùng của bức tranh tổng thể Xuân về là hình ảnh

Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.

Nếu ở hai khổ thơ giữa nhà thơ miêu tả cảnh cây cỏ, ruộng lúa,… là chính thì ở khổ thơ trên nhà thơ lại tập trung miêu tả về con người đang đón xuân về, đặc biệt là các cô gái và các cụ bà.

Ba khổ thơ đầu, nhà thơ miêu tả xuân đang về với con người, còn ở khổ thơ này thì xuân đã về, con người thực sự đón xuân. Một trong những hình thức đón xuân ấy là “trẩy hội chùa”. Cảnh trong khổ thơ là cảnh làng quê miền Bắc vào những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đi trẩy hội chùa phần lơn là ngươi già và các cô gái. Quanh năm chân lấm tay bùn, quần áo bạc màu mưa gió. Nhân xuân về, các cô diện “yếm đỏ khăn thâm” dắt bà thong thả đến chùa cầu phước.

Như trên đã viết, Xuân về mang một phong vị khác trong thơ ca của Nguyễn Bính. Cảnh Xuân thì vẫn là cảnh đầy sức sống với cảnh sắc tươi sáng, trong lành của làng quê Việt Nam nhưng những dòng thơ về cảnh sắc ây lại là những dòng thơ mới đang trong thời khuây động thành phong trào. Riêng về Xuân về mà xét thì đó là một bài thơ hay trong những bài thơ ghi lại những hình ảnh đặc trưng của quê Việt vào những năm đầu của thế kỉ XX.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Xuân Về Chọn Lọc – Mẫu 3

Đã xa quê gần ba chục năm để sống ở thành phố. Mỗi dịp về quê là biết bao công việc theo về. Cảnh làng quê và đặc biệt cánh đồng lúa non, hay vườn cây trĩu quả, bên cầu ao thả cá, chỉ còn lại trong ký ức.

Ngồi trên xe mà lòng tôi nao nao. Nhớ quê, nhớ tới “Xuân Về” của thi sĩ Nguyễn Bính. Mà kỳ lạ là sao lúc ấy tôi chỉ nhớ được có mỗi câu: “Lúa thì con gái mượt như nhung”. Lẩm bẩm hoài, cũng không nhớ, trong khi bình thường tôi thuộc cả bài. Về đến nhà mở sách ra đọc cho thỏa và tự nhiên tôi rất muốn viết. Sau một hồi đắn đo thì cuối cùng tôi đã viết sau khi đọc:

Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.

…..

Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô
 

Thi Sĩ Nguyễn Bính được người yêu thơ dặt cho biệt hiệu Thi Sĩ Chân Quê. Bởi thơ ông là sự chắt lọc những ngôn từ chân thật, mộc mạc, nhưng hồn thơ, ý thơ tình thơ thì bay bổng và lưu dấu trong lòng người đọc

Xuân Về, là một bức tranh sống động của làng quê Bắc bộ những năm đầu trong thập niên 30 của thế kỷ trước. Bước vào chiêm ngưỡng bức tranh quê của thi sĩ Nguyễn Bính ta gặp ngay:
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.

Mùa xuân giờ đã về trên từng bờ cây ngọn cỏ,trên đôi má của những cô gái xuân thì: “Với trên màu má gái chưa chồng” .Mà gái chưa chồng ở đây chính là “cô hàng xóm” đang ở “bên hiên hàng xóm”. Cô gái ấy có thấy thi sĩ đang nhìn mình để thấy Xuân Về hay không? Sao cô lại: “ngước nhìn giời” với đôi mắt trong”. Phải chăng chính là “đôi mắt trong” của cô hàng xóm ấy cộng thêm “màu má” ửng hồng khi gió đông thổi về, cho thi sĩ của chúng ta “Đã thấy xuân về”.

Thi sĩ đưa ta vào chiêm ngưỡng kỹ hơn bức họa của mình. Bằng khung cảnh sống động trong khổ thơ sau:

Từng đàn con trẻ chạy xun xoe,
Mưa tạnh, giời quang, nắng mới hoe.
Lá nõn, nhành non, ai tráng bạc?
Gió về từng trận, gió bay đi…

Xuân về, tết đến ở các làng quê Bắc bộ, ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh đám trẻ với khuôn mặt tươi rói theo mẹ theo chị đi chợ tết hoặc đi xem hội làng hội xuân. Để tô điểm thêm cảnh xuân tác giả miêu tả “mưa tạnh, giời quang, nắng mới hoe”. Nắng mới hoe là nắng sớm, nắng xuân ấm áp sau khi mưa bụi vừa tạnh trả lại bầu trời quang đãng.

Lúc này mới thấy điểm nhấn của mảnh ghép chính của bức tranh: Lá nõn, nhành non. Dấu hiệu của xuân thật sự chính là đây. Lá nõn là mầm lá mới nhú, nhành non là nhành cây vừa mới nảy lộc chưa kịp cứng cáp. Và một phát giác lý thú của thi sĩ khi nhìn thấy “lá nõn, nhành non” dưới nắng mới sau cơn mưa vừa tạnh, đã phải thốt lên câu hỏi: “ai tráng bạc”.

Chẳng có ai tráng bạc lên chúng, có chăng là cái lấp lánh của mầm cây mới cựa mình thức dậy dưới ánh “nắng mới hoe” và còn sót lại chút mưa bụi bám vô những giọt li ti long lanh để thi sĩ thấy như “ai tráng bạc” đấy thôi. Mảnh ghép bức tranh thêm sống động ở câu cuối “gió về từng trận, gió bay đi…” gió xuân mà tác giả cảm nhận nó về “từng trận” rồi bay đi cũng “từng trận” phải chăng gió đã nô đùa quá trớn trên những “lá nõn nhành non” của thi sĩ!

Còn đây là khổ thơ làm điểm nhấn cho bức họa Xuân Về của thi sĩ:

Thong thả dân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái mượt như nhung.

Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.

Xuân về cũng là lúc những công việc đồng áng của nhà nông tạm xong. Người dân gác lại mọi việc để đón xuân, vui tết. Xuân về  “lúa thì con gái mượt như nhung”. Đây chính là lúc cây lúa bước vào thời kỳ chuẩn bị “ngậm đòng” cây lúa có màu xanh mát dịu làm nao lòng những người con xa quê.

Không chỉ có cây lúa, mà mảnh ghép này còn có “đầy vườn hoa bưởi, hoa cam” nhưng là chúng đã “rụng” xuống. chứ không hẳn là còn trên cây. Cho dù hoa bưởi hoa cam ấy đã rụng thì vẫn “ngào ngạt hương bay”  hương bay xa còn nhờ từng trận gió về và đi kia nâng cánh, để cho lũ bướm dập dìu về nô đùa trong vườn mà ở đây thi sĩ dùng hình ảnh chúng “vẽ vòng”.

Phải chăng hình ảnh “đầy vườn” hoa rụng, còn có ẩn ý trái đã kết, cánh hoa rụng xuống bướm vẽ vòng, chính là biểu hiện vòng tuần hoàn của trời đất, của cây cối, hoa sau khi khoe hương sắc thì nhường chỗ cho trái ngon quả ngọt lớn lên.

Một mảnh ghép của bức tranh cũng sống động không kém xuất hiện:

Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô

Xuân Về tết đến, trên khắp các ngả đường làng luôn dập dìu các cô các chị ăn mặc thật đẹp để tham gia trảy hội. hoặc đi chùa cầu may. Yếm đỏ, khăn thâm là những trang phục truyền thống của các thôn nữ ở những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20.

Đường làng không chỉ có các cô mà còn có các “Bà già tóc bạc” chống cây gậy trúc đi chùa. ở đây tác giả đã để cây “gậy trúc dắt” bà già đi, Bởi bà còn bận “tay lần tràng hạt,miệng nam mô”. Một hình ảnh rất thi vị. Cây gậy đi trước ắt hẳn nó là người dẫn đường. Nhưng không phải ai cũng quan sát kỹ để nhận ra điều ấy.

Bốn mảnh ghép với bốn mảng màu sắc khác nhau, đã được thi sĩ Nguyễn Bính ghép vô bức tranh Xuân Về hoàn hảo. Xuân Về có đôi má ửng đỏ của cô gái chưa chồng, xuân về có đám trẻ xun xoe nô đùa trong xóm, Có “lá nõn nhành non ai dát bạc” Xuân Về có cánh đồng lúa đang thì con gái, có đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng, hứa hẹn một mùa trái ngọt phía trước, “Xuân Về” có các cô Thôn nữ bên các bà già tóc bạc đi chùa cầu may.

Bài thơ “Xuân Về” đã ra đời cách nay gần 80 năm. Nhưng những hình ảnh về phong cảnh làng quê thì vẫn như vừa mới viết đây thôi! Xuân về bây giờ ta vẫn gặp những đôi má ửng hồng, của các cô thôn nữ chưa chồng.

Xuân về vẫn gặp bầy trẻ ríu rít, theo bà, theo mẹ đi chợ tết, hoặc đi xem hội. Đặc biệt những “lá nõn nhành non” thì càng không thể không gặp. Xuân về vẫn nhiều lắm những cây gậy trúc dắt các cụ đi chùa đầu năm. Duy chỉ có “Yếm đào mỏ quạ đã biệt tăm” thay vào đó là những tà áo dài tha thướt, hoặc những cánh áo hoa dịu dàng của các cô thiếu nữ hôm nay, trên khắp các ngả đường thôn quê hôm nay dù còn “cát mịn”, đường gạch hay đã “bê tông hóa”  

Bài thơ “Xuân Về” đã vẫn và sẽ sống mãi cùng năm tháng, bởi sự sống động và chân thật của ngôn từ diễn đạt gần gũi và thân thiết với mọi thế hệ người Việt Nam yêu thơ.   

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Xuân Về Ý Nghĩa – Mẫu 4

Nguyễn Bính là một nhà thơ đi ra từ phong trào thơ mới, những sáng tác của ông dù theo khuynh hướng của phong trào này nhưng vẫn có những nét riêng, cụ thể là nét chân quê mộc mạc. Một thi phẩm như Xuân về là một trong những bài thơ thể hiện rõ nét cá tính của ông.

Có những bài thơ nghe thân thuộc đến thế, trong những bài học ngày đầu tiên đến trường, chắc có lẽ ít ai biết được nó là một trong những bài thơ của thi sĩ Nguyễn Bính. Ông đã không còn gì xa lạ với độc giả bởi nét chân chất và mộc mạc trong những tác phẩm mà ông viết. 

Bài thơ Xuân về là một bài thơ thấm đẫm tìn cảm của ông đối với quê hương, miêu tả chi tiết những cảnh vật đổi thay, con người ở miền quê Nam Định khi mùa xuân trở về

Ta cũng nghe mùa xuân về đâu đây trên những trang thơ cuối đời của Thanh Hải :

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Đó là mùa xuân về trong khung cảnh xứ Huế mộng mơ, nơi con sống Hương chảy dài trong nôi thành Huế cảm nhận hết cái vui tươi rộn rã ở miền đất ấy.

Nay ta lại thấy Xuân đến ở mỗi một vùng miền lại mang một dáng vẻ và hình hài khác nhau, trong thơ Nguyễn Bính có lẽ đượm một chút buồn và trầm hơn :

“Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng
 Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời, đôi mắt trong.”

Xuân theo con gió đông về trên miền quê êm đềm, một mùi hương mởn mơn của những loại thảo mộc vừa chớm nụ hoa chào đón không khí lành lạnh tê tái ấy. Trên đôi má người thiếu nữ cũng đỏ ưng ửng hồng hào, đôi mắt trong vây đầy tâm tư nghĩ về một điều gì mới mẻ ấy.

Mùa xuân được Nguyễn Bính cảm nhận thông qua những sự vật và con người xung quanh mình, cụ thể là cô gái hàng xóm. Những nét ngây thơ của cô gái ấy tượng trưng cho sức sống tươi trẻ mà mùa xuân mang lại, căng tràn mùi vị, tựa như đang ở sát bên mình.

Cái nét miêu tả gần gũi ấy như khiến mùa xuân càng thêm nôn nao trong ngày trở về, phải bung xoã hết mình để làm cho cái không khí lúc này hết mực tươi vui và náo nức. Cách miêu tả sự việc thông qua một vật thể nào đó cũng có nét tương đồng trong tác phẩm Chiều Xuân của Anh Thơ :

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

Sự vật thiên nhiên như lặng tờ nao nao đón xuân về trên từng nhành cây, ngọn cỏ. Nguyễn Bính đã thật tài tình chỉ với vài ba câu thơ mà đã đặt bút làm nên những nét vẽ cơ bản trong bức tranh ngập tràn sắc xuân. Cô gái mới lớn đầy sự hồn nhiên đang ngóng xuân về, trên đôi má, đôi mắt, đâu đâu cũng là sự tươi trẻ, như là sự hiện diện của mùa xuân vậy.

Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã bắt đầu đi sâu hơn, đã từng bước cảm nhận được mùa xuân một cách rõ nét nhất, xuân đã về len lỏi khắp các ngõ ngách, gió đượm xuân thổi hồn bay xa bao trùm lên toàn bộ miền quê yên bình. Rồi xa hơn một chút:

Từng đàn con trẻ chạy xun xoe,
Mưa tạnh giời quang, nắng mới hoe
Lá nõn, ngành non ai tráng bạc?
Gió về từng trận , gió bay đi.”

Tạm biệt những cơn mưa lạnh lẽo và những ngọn gió bấc vô tình của mùa đông, nay đã nhường chỗ cho sắc xuân trở về.

Trời quang hơn, trong xanh và cao, những tia nắng nhẹ nhè đâm xuyên xuống mặt đất một cách dịu dàng, sưởi ấm sự vật, là lời mời gọi hoa lá cỏ cây thức dậy sau những chuỗi phải phải ẩn mình dưới cái lạnh của mùa đông.

Cây cối đua nhau nở rộ, những chồi xanh nhú lên đua nhau đón nắng mới, cái nắng mà ai ai cũng mơ ước tắm mình dưới nó một lần. Lá xanh như được tráng qua một lớp bạc, óng ánh, tươi trẻ, tự như cái sắc xuân mơn mởn đang về vậy, làm phong phú thêm cái nét tươi trẻ của ngày xuân.

Những đứa trẻ hàng xóm nhôn nhao đổ ra đường, hít một ngụm khí trời thanh tao, mát rượi, đùa giỡn trên con đường làng đất đỏ, tất cả hiện lên hoà vào nhau như một bức tranh êm đềm ngày xuân trên miền quê Nam Định, khiến cho bất cứ một người nào đọc vào cũng sẽ ngay lập tức quay về cái ngày còn bé của mình, cảm nhận từng chút kỉ niệm đã qua, bồi hồi, xao xuyến.

Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Bính vô cùng gần gũi, không cách điệu mà theo xu hướng nhưng lại có những nét độc đáo riêng biệt.

“Đêm xuân một giấc mơ màng
Bốn bề xuân tỏa một nàng ở trong
Chiều xuân dễ khiến … ngại ngùng
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?”

Xuân về, cái không khí ấy khiến ai mà cầm lòng nổi. Hơn thế khi tắm mình trong từng câu thơ của Nguyễn Bính, xuân không còn ở trên giấy mà như hiện hữu trước mặt, miêu tả mà như tái hiện, sắc xuân nồng nàn đượm trên ánh mắt hồn nhiên của độc giả.

Đã miêu tả con người, bức tranh xuân nay trở thành góc nhìn cao hơn, xa hơn, trở thành một tổng thể nhất định:

“Thong thả, dân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái mượt như nhung.
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.”

Từ cô em gái hàng xóm, từ những đứa trẻ nô đùa trên đường, nay tác giả nhìn nhận mùa xuân với góc nhìn cao hơn để thể hiện một cách rộng nhất cái bức tranh màu sắc ấy. Những người nông dân đã nghỉ việc ở ngoài đồng, chuẩn bị đón xuân về nồng đượm trên quê hương, những bông lúa thự mướt và non như những cô gái mới lớn, xanh rờn, tươi trẻ. Bông lúa tháng Giêng nằm phơi mình giữa đồng đón nắng mới, như một thiếu nữ e thẹn, ngại ngùng trước sự đổi thay của thiên nhiên.

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra”

Tác giả Anh Thơ cũng nhận thấy điều đó trong tác phẩm của mình, nhưng Nguyễn Bính lại ví ngọn lúa như con người, có những xúc cảm và tình cảm như con người, đó là sự khác biệt của ông. Ngoài vườn hoa bưởi hoa cam đã rùng trải trắng cả một bóng cây, mùi hương cay cay lan toả theo những ngọn gió mới mà xoa xịu khứu giác của mọi người, tưởng tượng không khí lúc này thật bình dị biết bao.

Ở khổ thơ cuối, nhà thơ đã đưa độc giả đến với những hoạt động đón xuân của con người một cách nhẹ nhàng và khơi gợi :

“Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.”

Cái cảnh trẩy hội chùa là một nét phong tục đặc trưng của người Việt, chính vì vậy Nguyễn Bính sau khi miêu tả thiên nhiên thì đã đưa nó vào thi phẩm của mình. Những cô em gái, bà cụ mặc những bộ đồ tươm tất, khoác yếm đỏ, nối đuôi nhau đi đến chùa trẩy hội đầu xuân. Cái không khí vui tươi hoà nhã ấy là sự quen thuộc của người việt, đọc đến những dòng thơ này ai mà không cảm được cái vui tươi ấy, trang thơ của Nguyễn Bính có sức mạnh lớn lao lay động lòng người và khơi gợi về những kỉ niệm.

Nghệ thuật tả cảnh của nhà thơ Nguyễn Bính vô cùng đặc sắc và có sức mạnh gợi tả vô cùng to lớn. Miêu tả sự vật, cây cối, con người, con ong con bướm, tất cả là những hình ảnh thân thuộc đối với vùng quê, khi đi qua thơ Nguyễn Bính như được hoá hồn, trở nên thực và đi vào trong tâm trí người đọc. Cái tình mà Nguyễn Bính gửi vào đó đậm đà sự dân dã, ông viết nên những dòng thơ ấy bằng chính trái tim yêu quê hương đất nước, trong sáng và đáng yêu.

Những dòng thơ trong sáng, dung dị vang lên một cách thuần khiết nhất, thấm đẫm trong từng câu chữ, đó là cái tài hoa của một người nghệ sĩ chân chính.

Hoài Thanh đã bình luận về giọng thơ ấy thế này : “Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á,…đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”, gói gọn trong hai từ “chân quê”, hay nói cách khác giọng thơ ấy “dường như nói bằng hàng nghìn giọng, mê đắm và thuyết phục, nó nâng cái mô tả từ chỗ ngắn ngủi một lần và tạm thời lên chỗ tồn tại muôn đời”.

Xuân về là một thi phẩm xuất sắc trong chùm thơ Nguyễn Bính, không chỉ bộc lộ rõ cái tài trong phong cách làm thơ của ông mà con biểu thị con người ấy theo những nét riêng trong suốt cuộc đời cống hiến cho nghệ thuật.

Cùng tìm hiểu thêm tác phẩm 💌 Tràng Giang [Huy Cận] 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật

Viết một bình luận