3254 Câu Thơ Truyện Kiều [Trọn Bộ Có Chú Giải + Bình Giải]

3254 Câu Thơ Truyện Kiều ❤️️ Trọn Bộ Có Chú Giải, Bình Giải ✅ Tham Khảo Trọn Bộ Truyện Kiều, Tìm Hiểu Hoàn Cảnh Sáng Tác.

Trọn Bộ 3254 Câu Thơ Truyện Kiều Có Chú Giải

Chia sẻ cho bạn đọc trọn bộ 3254 câu thơ truyện Kiều có kèm thêm chú giải chi tiết.

Câu sốNội Dung CâuChú Giải
1Trăm năm trong cõi người ta,
2Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.Người có tài thì thường gặp mệnh bạc, hình như Tài, mệnh ghét nhau, xung khắc với nhau, hễ được hơn cái này thì phải kém cái kia.
3Trải qua một cuộc bể dâu,Bể dâu: Trong văn chương cổ của chúng ta thường dùng thành ngữ “bãi bể nương dâu”, hoặc nói tắt là “bể dâu” để chỉ những sự biến đổi thăng trầm của cuộc đời.
4Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5Lạ gì bỉ sắc tư phong,Bỉ sắc tư phong: Cái kia kém thì cái này hơn, nghĩa là: Được hơn điều này thì bị kém điều kia.
6Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.Tạo hoá ghen với người đàn bà đẹp: Người đàn bà đẹp thường gặp cảnh ngộ không hay.
7Cảo thơm lần giở trước đèn,Cảo thơm hay Kiểu thơm: do chữ phương cảo, nghĩa là pho sách thơm pho sách hay.
8Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.Phong tình: Chỉ những chuyện ái tình trai gái. Sử xanh: Thời xưa, khi chưa có giấy, người ta chép sử bằng cách khắc chữ vào những thanh trúc, cật trúc màu xanh, nên gọi là thanh sử.
9Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,Gia Tĩnh: Niên hiệu vua Thế Tông, nhà Minh (1522-1566).
10Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.Hai kinh: Tức Bắc Kinh và Nam Kinh (Trung Quốc).
11Có nhà viên ngoại họ Vương,Viên ngoại: Một chức quan giữ việc sổ sách tại các bộ, đặt ra từ thời Lục-triều. Về sau, “Viên ngoại” dần dần trở thành một hư hàm. Chữ “Viên ngoại” ở đây được dùng theo nghĩa này.
12Gia tư nghỉ cũng thường thường bực trung.
13Một trai con thứ rốt lòng,
14Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.Chữ: Theo lễ nghi Trung Quốc xưa, người nào cũng có “danh” là tên chính, và “tự” là tên chữ (“Danh” đặt từ khi sinh ra, còn “tự” thì đến khi hai mươi tuổi mới dựa theo “danh” mà đặt ra).
15Đầu lòng hai ả tố nga,Tố Nga: Chỉ người con gái đẹp.
16Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
17Mai cốt cách, tuyết tinh thần,Thuý Kiều và Thuý Vân, mỗi người có một vẻ riêng ví như mai có “cốt cách” của mai, tuyết có “tinh thần” của tuyết.
18Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
19Vân xem trang trọng khác vời,
20Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.Khuông trăng: Khuôn mặt đầy đặn, tròn trĩnh, xinh xắn như mặt trăng. Nét ngài: nét lông mày.
21Hoa cười ngọc thốt đoan trang,Thốt: Tiếng cổ có nghĩa là nói. Hoa cười, ngọc thốt: cười tươi như hoa, nói đẹp như ngọc.
22Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
23Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
24So bề tài sắc, lại là phần hơn.
25Làn thu thủy, nét xuân sơn,Thu thuỷ: Nước mùa thu, Xuân sơn: Núi mùa xuân. Câu noi này ví mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi mùa xuân.
26Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
27Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,Bài ca của Lý Diên Niên, đời Hán, ca ngợi sắc đẹp của một mĩ nhân có câu:Nhất cố khuynh nhân thành. Tái cố khuynh nhân quốc. Nghĩa là: Quay lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người. Quay lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người. Do đó, người sau thường dùng chữ nghiêng nước (khuynh quốc), nghiêng thành (khuynh thành) để chỉ sắc đẹp phi thường của người phụ nữ. Hai chữ một hai trong câu này dịch mấy chữ nhất cố, tái cố ở trên.
28Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.Câu này có nghĩa là về “sắc” thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về “tài” thì họa may ra thì còn có người thứ hai nữa.
29Thông minh vốn sẵn tính trời,
30Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
31Cung thương làu bậc ngũ âm,Cung, thương: Hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung bậc nhạc cổ của Trung Quốc: Cung, thương giốc, truỷ, vũ. Làu bậc: Làu thông cung bậc.
32Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.Hồ cầm: Một loại đàn tỳ bà. Hồ cầm một trương: Một cây đàn hồ cầm.
33Khúc nhà tay lựa nên chương,
34Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.Bạc mệnh: Tên bản đàn do Thuý Kiều sáng tác. “Bạc mệnh” nghĩa là số mệnh bạc bẽo, mỏng manh. Não nhân: Làm cho người ta nghe mà não lòng.
35Phong lưu rất mực hồng quần,Hồng quần: Cái quân màu hồng, hai chữ này được dùng để chỉ nữ giới.
36Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kêCặp kê: Đến tuổi cài trâm (Kê nghĩa là cài trâm). Theo lễ cổ Trung Quốc, con gái 15 tuổi đến thì hứa gả chồng cho nên bắt đầu búi tóc cài trâm.
37Êm đềm trướng rủ màn che,
38Tường đông ong bướm đi về mặc ai.Tường đông: Bức tường ở phía đông. Thời xưa con gái thường ở nhà phía đông. Đây dùng chữ “tường đông” để chỉ chỗ có con gái đẹp ở.
39Ngày xuân con én đưa thoi,Con én đưa thoi: Chim én bay đi bay lại như chiếc thoi đưa.
40Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.Thiều quang: ánh sáng tươi đẹp, chỉ tiết mùa xuân. Mùa xuân có 90 ngày (ba tháng), mà đã ngoài 60, tức là đã bước sang tháng ba.
41Cỏ non xanh tận chân trời,
42Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
43Thanh minh trong tiết tháng ba,Thanh minh: Là tiết đầu của mùa xuân nhằm vào đầu tháng ba.
44Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.Tảo mộ: Quét mồ. Theo tục cổ, đến tiết Thanh minh con cháu đi viếng và sửa sang lại phần mộ của cha mẹ tổ tiên. Đạp thanh: Dẫm lên cỏ xanh, chỉ việc trai gái đi chơi xuân, dẫm lên cỏ xanh ngoài đồng, do đó mà gọi hội Thanh minh là hội Đạp thanh.
45Gần xa nô nức yến anh,Yến anh: Chim yến (én), chim anh (có khi đọc là oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay ríu rít từng đàn. Đây ví với cảnh những đoàn người rộng ràng đi chơi xuân.
46Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
47Dập dìu tài tử, giai nhân,
48Ngựa xe như nước áo quần như nêm.Ngựa đi như nước: Ngựa xe qua lại như nước chảy, hết lớp này đến lớp khác. áo quần như nêm: ý nói người đông đúc, chen chúc.
49Ngổn ngang gò đống kéo lên,Ngổn ngang gò đống kéo lên: Những đoàn người ngổn ngang kéo nhau lên nơi gò đống.
50Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.Vàng – vó: Một loại vàng giấy, dùng trong việc đưa ma hoặc lễ hội.
51Tà tà bóng ngả về tây,
52Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
53Bước dần theo ngọn tiểu khê,Tiểu khê: Ngòi nước nhỏ.
54Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
55Nao nao dòng nước uốn quanh,
56Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
57Sè sè nấm đất bên đàng,
58Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
59Rằng: Sao trong tiết thanh minh,
60Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
61Vương Quan mới dẫn gần xa:
62Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.Ca nhi: Con hát.
63Nổi danh tài sắc một thì,
64Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
65Kiếp hồng nhan có mong manh,Hồng nhan: Má hồng, chỉ người đẹp.
66Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.Cành thiên hương: Cành hoa thơm của trời, ví với người đẹp.
67Có người khách ở viễn phương,
68Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
69Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
70Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ.Trâm gãy bình rơi: ý nói người đẹp đã chết.
71Buồng không lạnh ngắt như tờ,
72Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.Dấu xe ngựa: Dấu vết xe ngựa của những khách đến chơi bời trước đấy.
73Khóc than khôn xiết sự tình,
74Khéo vô duyên ấy là mình với ta.Bấy: Biết bao nhiêu.
75Đã không duyên trước chăng mà,
76Thì nay chút ước gọi là duyên sau.
77Sắm sanh nếp tử xe châu,Nếp tử, xe châu: Quan tài bằng gỗ tử và xe đưa đám tang có rèm hạt châu. ý nói người khách mua quan tài và thuê xe tang chông cất Đạm Tiên một cách chu đáo.
78Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.Bụi hồng: do chữ hồng trần, nghiã là đám bụi đỏ. Đây muốn ám chỉ nấm mộ nằm bên đường, một nấm mồ lưu lại trong cõi trần gió bụi.
79Trải bao thỏ lặn ác tà,Thỏ bạc, ác vàng: Người xưa cho rằng trong mặt trăng có con thỏ giã thuốc, trong mặt trời có con quạ vàng ba chân.
80Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
81Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
82Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.Châu: Hạt ngọc châu, đây chỉ nước mắt.
83Đau đớn thay phận đàn bà!
84Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
85Phũ phàng chi bấy hóa công,Hoá công: Thợ tạo hoá, tức là trời.
86Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.Phượng: Chim phượng trống. LoanI: Chim phượng mái. Trong văn cổ, loan phương dùng để chỉ đôi lứa vợ chồng. ở đây chỉ những khách làng chơi đi lại, chung chạ ái ân với Đạm tiên, ngày trước.
87Sống làm vợ khắp người ta,
88Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
89Nào người phượng chạ loan chung,
90Nào người tích lục tham hồng là ai?Tiếc lục tham hồng: ý nói luyến tiếc, ham sắc đẹp của giai nhân.
91Đã không kẻ đoái người hoài,
92Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
93Gọi là gặp gỡ giữa đường,
94Họa là người dưới suối vàng biết cho.Suối vàng: Do chữ Hoàng tuyền ở dưới đất có mạch suối, mà đất thuộc màu vàng, nên gọi là hoàng tuyền.
95Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
96Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.
97Một vùng cỏ áy bóng tà,Áy: Vàng úa.
98Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
99Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
100Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
101Lại càng mê mẩn tâm thần
102Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
103Lại càng ủ dột nét hoa,
104Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
105Vân rằng: Chị cũng nực cười,
106Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
107Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
108Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
109Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
111Quan rằng: Chị nói hay sao,
112Một lời là một vận vào khó nghe.Vận vào: ý nói lời nào cũng như ám chỉ vào mình.
113Ở đây âm khí nặng nề,Âm khí: Cái khí cõi âm, cõi chết, ở đây chỉ không khí bãi tha ma.
114Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa.
115Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
116Thác là thể phách, còn là tinh anh,Thể: Thể xác (hữu hình). Phách: Chỉ những cái gì vô hình chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại.
117Dễ hay tình lại gặp tình,
118Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.Hiển linh: Tỏ sự linh thiêng cho mọi người biết.
119Một lời nói chửa kịp thưa,
120Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
121Ào ào đổ lộc rung cây,
122Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
123Đè chừng ngọn gió lần theo,
124Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
125Mắt nhìn ai nấy đều kinh,
126Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa.Tinh thành: Lòng thành thuần khiết, lòng chí thành.
127Hữu tình ta lại gặp ta,
128Chớ nề u hiển mới là chị em.U hiển: U là tối, chỉ cõi chết. Hiển là sáng rõ, chỉ cõi sống. ý nói: chớ nề kẻ sống, người chết, kẻ cõi âm , người cõi dương.
129Đã lòng hiển hiện cho xem,
130Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.
131Lòng thơ lai láng bồi hồi,
132Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
133Dùng dằng nửa ở nửa về,
134Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135Trông chừng thấy một văn nhân,
136Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.Tay khấu: Tay càm cương ngựa. ý nói, buông lỏng dây cương cho ngựa đi thong thả. Dăm băng: Như nói dặm đường đi. Băng là lướt đi.
137Đề huề lưng túi gió trăng,Lưng túi gió trăng: Tức là lưng túi thơ. Những nhà thơ thời xưa hay ngâm phong vịnh nguyệt, nên người ta gọi thơ là phong nguyệt (gió trăng).
138Sau chân theo một vài thằng con con.
139Tuyết in sắc ngựa câu giòn,Câu: con ngựa, non trẻ, xinh đẹp.
140Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
141Nẻo xa mới tỏ mặt người,
142Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.Tự tình: Chuyện trò, bày tỏ tâm tình.
143Hài văn lần bước dặm xanh,Hài văn: Thứ giày thêu mà nho sĩ thời xưa thường dùng. Dặm xanh: Dặm cỏ xanh.
144Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.Cây quỳnh, cành giao: Cây ngọc quỳnh và cây ngọc giao. ý nói vẻ khôi ngô tuấn tú của Kim Trọng như làm cho cả một vùng cũng hoá thành đẹp.
145Chàng Vương quen mặt ra chào,
146Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.Hai Kiều: Hai người con gái xinh đẹp, tức hai chị em Thuý Kiều.
147Nguyên người quanh quất đâu xa,
148Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.Trâm anh: Trâm là cái trâm để cài búi tóc. Anh là cái dải mũ, hai thứ dùng trang sức cho cái mũ của người sĩ tử, quan chức. Nhà trâm anh: Chỉ những nhà thế tộc phong kiến, có người đỗ đạt, làm quan.
149Nền phú hậu, bậc tài danh,Phú hậu: Giàu có.
150Văn chương nết đất, thông minh tính trời.Nết đất: Theo lối nhà, theo dòng dõi trong nhà, mạch đất đó có truyền thống văn chương.
151Phong tư tài mạo tót vời,Phong tư: Dáng điệu. Tài mạo: Tài hoa và dung mạo.
152Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.Phong nhã: Phong lưu nho nhã. Hào hoa: Sang trọng phong cách có vẻ quí phái. Vào trong là ở trong nhà, Ra ngoài là ra giao thiệp với đời.
153Chung quanh vẫn đất nước nhà,
154Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.Đồng thân: Bạn cùng học.
155Vẫn nghe thơm nức hương lân,Hương lân: Làng xóm, ý nói: Vẫn nghe tiếng khen đồn đại ở vùng lân cận.
156Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.Đồng tước: Đời tam quốc, Tào Tháo đào sông Chương Hà, bắt được đôi chim sẻ đồng, bèn cho xây ở gần đó một toà lâu đài, đặt tên là đài Đồng Tước (sẻ đồng), và định hễ đánh thắng Đông Ngô thì bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều (là vợ Tôn sách và vợ Chu Du) đem về đấy để vui thú cảnh già. Khoá xuân ở đây là khoá kín tuổi xuân, tức cấm cung, tác giả mượn điển cũ để nói lóng rằng: nhà họ Vương có hai cô gái đẹp cấm cung.
157Nước non cách mấy buồng thêu,Buồng thêu: Buồng người con gái.
158Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.Chốc mòng: Tiếng cổ, nghĩa là bấy lâu, bấy nay.
159May thay giải cấu tương phùng,Giải cấu tương phùng: Cuộc gặp gỡ tình cờ.
160Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa.Đố lá: Hội đố lá, còn gọi là diệp hý, một tục chơi xuân có từ đời nhà Đường. Vào khoảng tháng ba, trai gái đi du xuân, bẻ một cành cây rồi đố nhau xem số lá chẵn hay lẻ để đoán việc may rủi. Đây là dịp để họ làm quen và tìm hiểu nhau.
161Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,Bóng hồng: Bóng người con gái. Phụ nữ Trung Quốc thời xưa hay mặc quần đỏ nên gọi là bóng hồng.
162Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.Xuân lan, thu cúc: Hai chị em Kiều, mỗi người có một vẻ đẹp riêng, ngưòi như lan mùa xuân, người như cúc mùa thu.
163Người quốc sắc, kẻ thiên tài,Quốc sắc: Sắc đẹp nhất nước, chỉ Thuý Kiều.
164Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
166Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.Chỉn: Tiếng cổ. Chin khôn: chẳng xong, không xong.
167Bóng tà như giục cơn buồn,
168Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.
169Dưới cầu nước chảy trong veo,
170Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
171Kiều từ trở gót trướng hoa,
172Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
173Mảnh trăng chênh chếch dòm song,Gương nga: Theo truyền thuyết trong cung trăng có chị Hằng Nga, nên thường gọi trăng là “gương nga”.
174Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.Vàng gieo ngấn nước: ánh trăng vàng dọi xuống ngấn nước.
175Hải đường lả ngọn đông lân,Đông lân: Xóm bên đông, nơi có con gái đẹp ở, cũng giống nghĩa chữ “tường đông” (xem chú thích 38). Hải đường là ngọn đông lân: Cây hải đường ở xóm đông ngả ngọn xuống.
176Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
177Một mình lặng ngắm bóng nga,Bóng nga: Bóng trăng.
178Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:
179Người mà đến thế thì thôi,Người mà: Chỉ Đạm Tiên.
180Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
181Người đâu gặp gỡ làm chi,Người đâu: Chỉ Kim Trọng.
182Trăm năm biết có duyên gì hay không?
183Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
184Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
185Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
186Tựa nương bên triện một mình thiu thiu.Triện: Lan can.
187Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,Tiểu Kiều: Xem chú thích 146
188Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân.Phong vận: Yểu điệu. Thanh tân: Thanh tú tưới tắn.
189Sương in mặt, tuyết pha thân,Ý nói mặt và thân hình người tiểu kiều đó như có sự và tuyết in phủ lấy.
190Sen vàng lãng đãng như gần như xa.Sen vàng: Chỉ gót chân người đẹp. Đông Hôn Hầu, đời Tề (Nam Bắc Triều), rất yêu quí phi họ Phan, từng đúc hoa sen bằng vàng lát xuống nền nhà, để cho nàng đi lên rồi khen rằng: “Bộ bộ sing liên hoa” (mỗi bước đi nở ra một hoa sen). Lăng đăng: Tiếng cổ, có nghĩa là đi từ từ chậm chậm, chập chờn mờ tỏ.
191Chào mừng đón hỏi dò la:
192Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?Đào nguyên: Đời Tần có một người đánh cá chèo thuyền ngược theo một dòng suối đi mãi tới một khu rừng trồng toàn đào, thấy nơi đó có một cảnh sống tuyệt đẹp như nơi tiên ở. Người sau dùng chữ “nguồn đào” hay “động đào” để chỉ cảnh tiên.
193Thưa rằng: Thanh khí xưa nay,Thanh khí: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (cùng một thứ tiếng thì ứng với nhau, cùng một loại khí thì tìm đến nhau).
194Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
195Hàn gia ở mé tây thiên,Hàn gia: Hèn là nghèo, gia là mọn, nhà xoàng, lạnhlẽo, nói khiêm tốn. Tây thiên: Phía trời đàng tây, hoặc cánh đồng phía tây.
196Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.
197Mấy lòng hạ cố đến nhau,Hạ cố: Trông xuống, chiếu cố đến nhau.
198Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.Hạ tứ: Ban xuống, ban cho. Cả câu: Hai bài thơ của Kiều lời đẹp ý hay, thật quý báu như là ném cho những hạt châu, gieo cho những thỏi vàng vậy.
199Vâng trình hội chủ xem tường,
200Mà sao trong sổ đoạn trường có tên.Đoạn trường: Đứt ruột, chỉ sự đau đớn bi thương. Số đoạn trường: Sổ ghi tên những người phụ nữ bạc mệnh.
201Âu đành quả kiếp nhân duyên,Quả kiếp nhân duyên: Quả là kết quả. Nhân là nguyên nhân, ý nói duyên (tốt). hay kiếp (xấu) cũng là có nhân với quả cả.
202Cùng người một hội, một thuyền đâu xa!
203Này mười bài mới mới ra,
204Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
205Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
206Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
207Xem thơ nức nở khen thầm:
208Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thườngTú khẩu, cẩm tâm: Miệng thêu, lòng gấm. ý nói thơ Kiều làm rất hay.
209Ví đem vào tập Đoạn Trường
210Thì treo giải nhất chi nhường cho ai.
211Thềm hoa khách đã trở hài,
212Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
213Gió đâu xịch bức mành mành,
214Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
215Trông theo nào thấy đâu nào
216Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
217Một mình lưỡng lự canh chầy,
218Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
219Hoa trôi bèo dạt đã đành,
220Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!
221Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
222Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.Đòi cơn: Nhiều cơn.
223Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,Trưởng loan: Màn có thêu chim loan.
224Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ gì?Nhà huyên: chỉ vào bà mẹ. Huyên là cây hoa hiên, theo thuyết cổ, có tính chất làm quên sự lo phiền.
225Cớ sao trằn trọc canh khuya,
226Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?Hoa lê: Ví với người đẹp, giọt mưa ví với giọt nước mắt.
227Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
228Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.Dưỡng sinh: Nuôi dưỡng và sinh ra, chỉ công ơn cha mẹ.
229Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
230Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
231Đoạn trường là số thế nào,
232Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
233Cứ trong mộng triệu mà suy,
234Phận con thôi có ra gì mai sau!
235Dạy rằng: Mộng triệu cớ đâu,Mộng triệu: Điều thấy trong mộng.
236Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao.
237Vâng lời khuyên giải thấp cao,
238Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.MạchTương: Dòng nước mắt. Tương là tên một con sông ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) chảy vào hồ Động Đình. Ngày xưa, vua Thuấn đi tuần thú, chết ở phương xa, hai người vợ vua là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến ngồi trên bờ sông Tương, khóc rất thảm thiết, nước mắt vẩy ra những khóm trúc xung quanh, làm cho trúc đó hoá thành những điểm lốm đốm. Về sau, các nhà văn thường dùng chữ mạch Tương, giọt Tương để chỉ nước mắt phụ nữ.
239Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
240Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
241Hiên tà gác bóng chênh chênh,
242Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.
243Cho hay là thói hữu tình,
244Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.Tơ mành: Sợi tơ mong manh. Hai chữ này chỉ chung Kiều và Kim Trọng để kết thúc đoạn nói về Kim Trọng.
245Chàng Kim từ lại thư song,Thư song: Chỗ cửa sổ phòng đọc sách.
246Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.Biếng khuây: Không khuây, không khuây.
247Sầu đong càng lắc càng đầy,Sầu đong càng lắc càng đầy: ý nói mối sầu tương tư, càng ngày càng chồng chất lên mãi.
248Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
249Mây Tần khóa kín song the,Câu này ý nói: Mây che kín cửa sổ phòng Kiều.
250Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.
251Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,Tuần trăng khuyết: Khuyết hết cả một tuần trăng (cứ mỗi kì trăng tròn, gọi là một tuần trăng). Chỉ thời gian suốt cả tháng. Đĩa dầu hao: Đĩa dầu hao cạn (vì đèn bị thắp khuya).
252Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
253Buồng văn hơi giá như đồng,
254Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.Bút để lâu không viết đến ngọn bị khô đi, đàn để lâu không gẩy đến dây bị chùng lại. ý nói Kim Trọng buồn trong tương tư, bỏ cả việc học hành và gẩy đàn.
255Mành Tương phất phất gió đàn,Mạch Tương: Mành làm bằng trúc núi Tương.
256Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
257Vì chăng duyên nợ ba sinh,Ba sinh: Do chữ Tam sinh, nghĩa là ba kiếp luân chuyển: “Quá khứ”, “hiện tại” và “vị lai” của con người.
258Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
259Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
260Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.Kỳ ngộ: Sự gặp gỡ kì lạ.
261Một vùng cỏ mọc xanh rì,
262Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu!
263Gió chiều như gợi cơn sầu,
264Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu.Vĩ lô: Cây lau, cây sậy.
265Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
266Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.Lam Kiều: Vùng đất thuộc Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Bùi Hàng, đời Đường, khi thi hỏng về, gặp Vân Kiều tặng bài thơ, có câu:”Lam Kiều tiện thị thần tiên quật, hà tất khi (kì) khu thướng ngọc kinh” (cầu Lam là cái tổ tiên đó, hà tất phải vất vả lên đế đô để thi cử làm gì). Về sau, Hàng đi qua một nơi, gọi là Lam Kiều, khát nước, vào xin nước một nhà bà lão gần đấy thấy Vân Anh, (em Vân Kiều), cháu gái bà, người tuyệt đẹp, Hàng ngỏ ý cầu hôn, bà lão bảo: Bà cân dùng cối ngọc và chày ngọc để giã thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên), nếu có những thứ ấy làm sính lễ sẽ gả con cho. Hàng về tìm được cối và chày ngọc đưa đến, lại ở đấy giã thuốc cho bà lão một trăm ngày, rồi lấy Vân Anh và sau hai vợ chồng cùng lên cõi tiên. ở đây, Lam Kiều chỉ chỗ nhà ở của Kiều.
267Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
268Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.Lá thắm: Do chữ Hồng diệp. vu Hựu, đời Đường, một hôm đi chơi, bắt được chiếc lá đỏ trôi trên ngòi nước từ cung vua chảy ra. Trên lá có đề một bài thơ, Vu Hựu bèn để lại hai câu thơ vào chiếc lá đỏ khác, rồi đem thả nơi đầu ngòi nước, cho trôi vào cung vua. Hàn thị, người cung nữ thả lá đỏ khi trước, lại bắt được lá đỏ của Vu Hựu. Về sau, nhờ dịp vua phóng thích cung nữ, Vu Hựu lấy được Hàn thì. Chim xanh: Người ta thường gọi sứ giả đưa tin là “chim xanh” (thanh điểu). Câu này ý nói: Khó thông tin tức mối manh với Thuý Kiều.
269Lơ thơ tơ liễu buông mành,
270Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
271Mấy lần cửa đóng then cài,
272Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
273Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
274Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
275Là nhà Ngô Việt thương gia,Ngô Việt thương gia: Nhà đi buôn ở nước Ngô, nước Việt (đi buôn xa, nay Ngô, mai Việt).
276Buồng không để đó người xa chưa về.
277Lấy điều du học hỏi thuê,
278Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
279Có cây, có đá sẵn sàng,Đá: Đây chỉ núi giả (ta thường gọi là núi non bộ) do những tảng đá xếp thành.
280Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai.Lâm Thuý: tên cái hiên của nhà Ngô Việt thương gia. Vì có chữ Thuý trùng với một chữ trong tên Kiều nên Kim Trọng mới mừng thầm là có duyên số tiên định.
281Mừng thầm chốn ấy chữ bài,Bài: Bày ra, xếp đặt sẵn, do chữ “an bài”.
282Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
283Song hồ nửa khép cánh mây,Song hồ: Cửa sổ dán giấy. Cành mây: Cánh cửa sổ.
284Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
285Tấc gang đồng tỏa nguyên phong,Cửa động bị khoá, cửa nguồn bị ngăn, cho nên tuy nhà Kiều gần có ganh tấc, mà vẫn là xa xôi cách trở.
286Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
287Nhẫn từ quán khách lân la,Nhẫn từ: Kể từ khi (tiếng cổ).
288Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.
289Cách tường phải buổi êm trời,
290Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
291Buông cầm xốc áo vội ra,
292Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
293Lần theo tường gấm dạo quanh,Tường gấm: Do chữ cẩm tường, bức tường gạch có vẽ hoa như gấm (một cách tô điểm văn hoa).
294Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.Kim thoa: Cái thoa gài tóc bằng vàng.
295Giơ tay với lấy về nhà:
296Này trong khuê các đâu mà đến đây?Khuê các: Buồng lầu, nơi ở của con gái nhà sang trọng.
297Ngẫm âu người ấy báu này,
298Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
299Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
300Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
301Tan sương đã thấy bóng người,
302Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
303Sinh đà có ý đợi chờ,
304Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
305Thoa này bắt được hư không,Hư không: Bỗng không, tự nhiên.
306Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?Hợp phố: Tên một quận, trước thuộc Giao châu, nay thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Theo Hán sử: Nguyên xưa, ven bể quận Hợp Phố có loại trai sinh ra một loại ngọc quý, nhưng vì bọn quan tước tham nhũng, bắt nhân dân đi mò ngọc cho chúng, dân tình khổ cực, nên ngọc trai biến đi nơi khác hết. Về sau, có vị quan thanh liêm là Mạnh Thường đến nhận chức, cải cách, chính sự, bãi lệnh mò ngọc, thì ngọc trai lại dần dần trở về. Do đó, người ta thường nói “Châu về Hợp Phố” (Hợp Phố châu hoàn), để chỉ những trường hợp vật báu đã bị mất lại trở về với chủ cũ.
307Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
308Ơn lòng quân tử sá gì của rơi.
309Chiếc thoa nào của mấy mươi,
310Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao?
311Sinh rằng: Lân lý ra vàoLân lý: Nguyên nghĩa là xóm và làng, đây dùng như nhgiã bà con láng giềng.
312Gần đây nào phải người nào xa xôi,
313Được rầy nhờ chút thơm rơi.
314Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
315Bấy lâu mời được một ngày,
316Dừng chân, gạn chút niềm tây gọi là…Niềm tây: Nỗi lòng, chút tâm sự riêng.
317Vội về thêm lấy của nhà,
318Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông.
319Thang mây dón bước ngọn tường,Thang mây: Do chữ vân thê, nguyên là một khí cụ của quân đội thời dùng để trèo vào thành bên địch (thanh cao, tưởng có thể bắc tới mây được).
320Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe.Người hôm nọ: Người gặp gỡ hôm đi thanh minh. Chăng nhe: (từ cổ) phải chăng là.
321Sượng sùng giữ ý rụt rè.
322Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu.Kẻ: Chỉ Kim Trọng. Người: Chỉ Kiều, Kim Trọng nhìn tỏ mặt Kiều, mà Kiều thì e thẹn cúi đầu.
323Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,Ngẫu nhĩ: Tình cờ, cũng như “ngẫu nhiên”.
324Thầm trông trộm nhớ, bấy lâu đã chồn.Chồn: Mệt mỏi, ý nói sốt ruột lắm.
325Xương mai tính đã rũ mòn.Xương mai: Xương vóc gầy. Cây mai, thân và cành nhỏ bé, nên người ta thường gọi những người xương vóc gầy là mai cốt (xương mai). Rũ mòn: Gầy mòn, ý nói tương tư mà gầy mòn đi.
326Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
327Tháng tròn như gửi cung mây,Suốt tháng tâm thần như gửi ở cung trăng.
328Trần trần một phận ấp cây đã liều!
329Tiện đây xin một hai điều,
330Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?Đài gương: Giá cao,, trên mặt chiếc gương lớn và hộp đựng đồ trang sức của phụ nữ. Trong văn cổ, thường mượn chữ đài gương để chỉ người phụ nữ. Dấu bèo: ý nói thân phận hèn mọn như cánh bèo trôi nổi mặt nước. ở đây là lời Kim Trọng tự nói khiêm.
331Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
332Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phongBăng tuyết: ý nói trong sạch, thanh bạch. Chất hằng: Một thể chất lúc nào cũng như thế. Phỉ phong: Hai thứ rau, người ta dùng lá và củ nấu canh hoặc muối dưa làm món ăn hàng ngày. ý cả câu: Gia đình vốn thanh bạch, mà tư chất thì cũng bình thường, không có tài sắc gì, lời Kiều tự khiêm (Bốn chữ trên nói gia đình, bốn chữ dưới nói bản thân).
333Dấu khi lá thắm, chỉ hồngLá thắm: đã giảng ở câu 268. Chỉ hồng: Do chữ xích thằng (sợi dây đỏ) theo sách Tục U quái lục: Vì Cố, người đời Đường, đi cầu hôn, vào nghỉ quán trọn, gặp một ông già ngồi dưới bóng trăng, mở cái túi vải, đang kiểm sổ sách. Vi Cố hỏi, ông già trả lời: Đây là sổ sách hôn nhân, và chiếc túi vải này dùng đựng những dây đỏ (xích thằng) dùng để buộc chân đôi vợ chồng. Do điển này mà có những danh từ: “chỉ hồng”, “tơ hồng” để chỉ việc nhân duyên vợ chồng, và “Nguyệt lão” (ông già dưới trăng), “Trăng già”, “ông Tơ”, để chỉ người làm mối mai. Tục xưa: khi cưới vợ, thường làm lễ Tơ hồng, tức là tế ông Nguyệt lão xe dây đỏ đó.
334Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
335Nặng lòng xót liễu, vì hoa,
336Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!
337Sinh rằng: Rày gió mai mưa,
338Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
339Dầu chăng xét tấm tình si.Dù chăng: Dù chẳng, nếu không.
340Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
341Chút chi gắn bó một hai,
342Cho đành, rồi sẽ liệu bài mối manh.
343Khuôn thiêng dù phụ tấc thành,Khuôn thiêng: Khuôn tạo hóa, chỉ trời. Khuôn do chữ quân, tức là cái khuôn dùng để nặn đồ gốm. Người xưa ví tạo hoá đúc nặn ra muôn vật như cái khuôn nặn ra các đồ gốm, nên gọi Tạo hoá là Hồng quân, Thiên quân, (khuôn trời). Tấc thành: Tấc lòng chân thành, thành thực.
344Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
345Lượng xuân dù quyết hẹp hòi.Lượng xuân: Nguyên nghĩa là tấm lòng tốt đẹp như mùa xuân. Còn có thể giải là tấm lòng của người phụ nữ trẻ tuổi, xinh đẹp.
346Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
347Lặng nghe lời nói như ru,
348Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng…Chiều xuân: Như nói tứ xuân (Xuân tứ). Nét thu: Nét thu ba, nét sóng thu, tức con mắt.
349Rằng: Trong buổi mới lạ lùng,
350Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
351Đã lòng quân tử đa mang,
352Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung.Đá vàng: Do chữ kim thạch. Kim đây là loài đồng, chỉ chuông đồng, vạc đồng;thạch là đá, chỉ bia đá. Thời xưa, những việc lớn, những công đức hay châm ngôn, thường được người ta khắc vào chuông đồng, bia đá, để lưu truyền thiên cổ. Do đó, người ta thường dùng danh từ kim thạch để chỉ cái gì có tính cách vĩnh cửu bền vững, không thay đổi được, như ghi tạc vào vàng đá. Đây nói: Kiều nhận lời gắn bó với Kim Trọng, và xin ghi tạc lời đó, như ghi tạc vào vàng đá.
353Được lời như cởi tấm lòng,
354Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.
355Rằng: Trăm năm cũng từ đây,
356Của tin, gọi một chút này làm ghi!
357Sẵn tay khăn gấm quạt quỳBả: Bản Trương Vĩnh Ký chú Bả là cầm. Quạt hoa quì: Chiếc quạt bằng lá quì vẽ hoa.
358Với cành thoa ấy, tức thì đổi trao.
359Một lời gắn bó tất giao,Tất giao: Sơn và keo, chỉ tình nghĩa gắn bó bền chặt với nhau như hai chất keo và sơn.
360Mé sau dường có xôn xao tiếng người
361Vội vàng lá rụng hoa rơi,
362Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang.Lầu trang: Lầu trang điểm, chỉ dùng lầu ở của phụ nữ.
363Từ phen đá biết tuổi vàng,Đá biết tuổi vàng: Muốn xem vàng bao nhiêu tuổi, xấu tốt thế nào, người ta thường dùng thứ đá cuội đen để thử, gọi là hòn đá thử vàng. Qua sự trao đổi, Kim-Kiều đã hiểu biết và yêu nhau, như đá biết rõ tuổi vàng.
364Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ.
365Sông Tương một dải nông sờ,Sông thương: Hai câu này lấy ý ở bài thơ trong Tình sử:” Quân tại Tương giang đầu, Thiếp tại Tương giang vĩ, Tương tư bất tương kiến, Đồng ẩm Tương giang thuỷ”. Dịch nghĩa: Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương, Nhớ nhau mà chẳng thấy nhau, Cùng uống nước sông Tương.
366Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.
367Một tường tuyết trở sương che.Tuyết trở sương che: ý nói bức tường của nhà Kiều với nhà Kim Trọng như có tuyết sương ngăn trở, che khuất khiến cho hai người gặp gỡ trao đổi tin tức.
368Tin xuân đâu dễ đi về cho năng.
369Lần lần ngày gió đêm trăng,
370Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.Thư hồng rầm lục: Màu đỏ ít đi, màu xanh rậm thêm, tức là mùa xuân sắp qua, mùa hạ sắp tới.
371Ngày vừa sinh nhật ngoại gia
372Trên hai đường, dưới nữa là hai em.Hai đường: Do chữ song đường (xuân đường và huyền đường) chỉ cha mẹ.
373Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
374Biện dâng một lễ, xa đem tấc thành.
375Nhà lan thanh vắng một mình,Nhà lan: Do chữ lan thất.
376Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.
377Thời trân thức thức sẵn bày,Thì trân: Những thức ăn quý đương mùa. Thuý Kiều mang sang để tiếp Kim Trọng. Chú ý, “sẵn bày” ở đây không phải là bày biện ra bàn ở nhà Kiều.
378Gót sem thoăn thoắt dạo ngay mái tường.
379Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,
380Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông:
381Trách lòng hờ hững với lòng,
382Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.Lửa hương: Hai chữ này thường dùng để chỉ tình duyên vợ chồng.
383Những là đắp nhớ đổi sầu,
384Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.Hoa râm: Hoa cây râm, sắc trắng, ví mái tóc lốm đốm bạc trông như những chẫm hoa râm.
385Nàng rằng: Gió bắt mưa cầm,
386Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.Tri âm: Hiểu biết tiếng đàn. Đời Xuân Thu, Bá Nha, một người giỏi đàn, Chung Tử Kỳ, một người giỏi nghe đàn, đều nổi tiếng, cùng làm bạn với nhau. Tử Kỳ hiểu được tâm hồn bạn trong tiếng đàn, khi Bá Nha gẩy đàn, như núi Thái – Sơn”, khi Bá Nha nghĩ đến dòng chảy (lưu thuỷ), thì Tử Kỳ khen: “Tiếng đàn cuồn cuộn như sông Giang, sông Hà”. Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha đứt dây, đập đàn ra, và than rằng: “Trong thiên hạ không còn ai là tri âm (người hiểu biết tiếng đàn của mình) nữa”. Về sau, tri âm dùng để chỉ bạn thân, tri kỷ, hoặc bạn tình.
387Vắng nhà được buổi hôm nay,
388Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng!
389Lần theo núi giả đi vòng,Núi giả: Chữ Hán là giả sơn, tức là núi non bộ.
390Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
391Xắn tay mở khóa động đào,Động đào: Tức động Đào nguyên.
392Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai.Thiên thai: Tên một núi ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, Tương truyền đời Hán, Lưu Thần và Nguyễn Triệu lên núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên nữ rồi cùng nhau kết duyên ở đấy.
393Mặt nhìn mặt, càng thêm tươi,
394Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên.Vạn phúc: Lời chào hỏi chúc mừng khi gặp nhau. Hàn thuyên: lạnh ấm, lời hỏi thăm sức khỏe.
395Sánh vai về chốn thư hiên,
396Góp lời phong nguyệt, nặng nguyền non sông.Phong nguyệt: Lời thơ trăng gió vui chơi. Non sông: Lấy núi sông mà nguyền ước (sông cạn, núi mòn, lời thề cũng không thay đổi).
397Trên yên, bút giá thi đồng,Yên: Bàn sách, Bút giá: Cái giá để gác bút. Thi đồng: Cái ống đựng thơ.
398Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên.Đạm thanh: Màu xanh nhạt, chỉ màu bức tranh cây thông của Kim Trọng.
399Phong sương được vẻ thiên nhiên,Phong sương: Gió và sương. Bức tranh cây thông vẽ rất tự nhiên như có đượm cả phong sương.
400Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi.
401Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,
402Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.Phẩm đề: Đề lợi vịnh bức tranh. Thêm hoa: Thêm vẻ đẹp. ý nói bức tranh mới vẽ xong, xin đề mấy vần thơ cho tăng thêm vẻ đẹp.
403Tay tiên gió táp mưa sa,Tay tiên: Bàn tay người đẹp, người tiên.
404Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
405Khen: Tài nhả ngọc phun châu,Nhả ngọc phun châu: Tài xuất khẩu thành thơ hay, như nhả ra ngọc, phun ra châu.
406Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này!Nàng Ban: Nàng Ban Chiêu, đời Đông Hán. Nàng học rộng tài cao, được vua Hán vời đến giúp soạn sách. Ả Tạ: Nàng Tạ Đạo Uẩn, đời Tấn, là người thông minh, có học thức.
407Kiếp tu xưa ví chưa dày,
408Phúc nào nhắc được giá này cho ngang!
409Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,
410Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.Ngọc bội: Đồ đeo bằng ngọc. Chữ dùng chỉ chung người ta đã hiển đạt và có quan chức. Kim môn: Tức Kim mã môn nói tắt, tên cửa cung Vị ương của vua nhà Hán (cửa cung có để tượng ngựa đồng nên gọi là Kim mã). Đời Hán Vũ Đế, thường cho những người có văn tài đến đợi ở đây, để chờ nhà vua hỏi han về chính sự. Kiều muốn nói Kim Trọng không là nhà quan cũng là người học cao.
411Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
412Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?Khuôn xanh: Cũng như khuôn thiêng, sự sắp đặt của trời.
413Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
414Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:Tướng sĩ: Thày xem tướng.
415Anh hoa phát tiết ra ngoài,Anh hoa: Những cái tinh hoa tốt đẹp.
416Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
417Trông người lại ngẫm đến ta,
418Một dầy một mỏng biết là có nên?
419Sinh rằng: Giải cấu là duyên,Giải cấu: Cuộc gặp gỡ tình cờ.
420Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.Nhân định thắng thiên: ý nói: Người ta cũng có thể làm thay đổi được cả số trời.
421Ví dù giải kết đến điều,Giải kết: Giải là cởi, kết là mối buộc. ý nói, chúng ta đã ràng buộc với nhau, nếu có sự chia rẽ thì quyết liều thân để giữ lời vàng đá.
422Thì đem vàng đá mà liều với thân!
423Đủ điều trung khúc ân cần,Trung khúc: Những sự uỷ khúc ở trong lòng, như nói tâm tình, tâm sự.
424Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.Tàng tàng: Say say, ngà ngà.
425Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,Giang: ý nói ngày ngắn lắm.
426Trông ra ác đã ngậm gương non đoài.
427Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
428Giã chàng nàng mới kíp dời song sa.Song sa: Cửa sổ có che vải sa, cũng như song the, chỉ phòng ở của Kiều.
429Đến nhà vừa thấy tin nhà,
430Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.Hai thận: Cha mẹ, do chữ song thân, tức thân phụ (cha) và thân mẫu (mẹ).
431Cửa ngoài vội rủ rèm the,
432Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
433Nhặt thưa gương giọi đầu cành,Nhặt thưa: Mau và thưa, chỉ ánh trăng. ánh trăng giọi bóng cành lá cây xuống làm cho mặt đất chỗ sáng, chỗ tối.
434Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.Trướng huỳnh: Trường là cái màn, huỳnh là con đom đóm. Đời Tấn, Xa Dận ham học, nhà nghèo, đêm khôn có đèn, phải bắt con đom đóm đựng vào túi lụa thưa để mà đọc sách. Chỉ phòng học của Kim Trọng.
435Sinh vừa tựa án thiu thiu,
436Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
437Tiếng sen sẽ động giấc hòe,Tiếng sen: Bước chân của người đẹp. Giấc hoè: Theo sách Nam kha ký: Thuần Vu Phần đời Đường, ngày sinh nhật, uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cay hoè già ở phía nam nhà ông, liền mộng thấy đến một nước gọi là “Đại Hoè An”, được vua nước ấy gả công chúa, và cho làm quan Thái thú quận Nam Kha, vinh hiển hơn hai mươi năm. Khi tỉnh dậy, chỉ thấy dưới gốc hoè một tổ kiến lớn, trong có con kiến chúa, mới hiểu đó là nước và vua Hoè An (gốc hoè yên ổn), còn Nam kha tức là cành hoè phía nam nhằm thẳng xuống tổ kiến. Do đó, người ta nói “giấc Nam kha” hay “giấc hoè” để chỉ cuộc phú quý hư ảo.
438Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.Đây nói, Kim Trọng sực tỉnh thấy ánh trăng đưa bóng hoa lê tới gần.
439Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,Đỉnh Giáp: Đỉnh núi Vu Giáp (hay Vu Sơn). Vua Sở Hoài Vương đi chơi quán Cao Đường, mộng thấy một người đàn bà đẹp, và tự xưng là thần núi Vu Sơn, sớm làm mây, chiều làm mưa. Do tích này, người ta thường dùng chữ “mây mưa” để chỉ việc ân ái giữa trai gái. Non thần: núi Thần nữ chỗ ở của nàng tiên gặp vua Sở nói trên.
440Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
441Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,
442Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
443Bây giờ rõ mặt đôi ta,
444Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
445Vội mừng làm lễ rước vào,
446Đài sen nối sáp song đào thêm hương.Đài sen: Cái để thắp nên làm hình hoa sen. Song đào: Chỗ cửa sổ có trồng cây đào.
447Tiên thề cùng thảo một chương,Tiên thề: Giấy hoa tiên (giấy viết thư từ có vẽ hoa ghi chép lời thề).
448Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
449Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
450Đinh ninh hai mặt một lời song song.
451Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
452Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.Đồng: Đồng tâm, cùng một lòng với nhau. Người xưa, thường tặng nhau dây lưng gấm, kết thành vòng hồi văn, ngụ ý thân yêu quấn quýt, gọi là cái “đồng tâm kết”.
453Chén hà sánh giọng quỳnh tương,Hà: Ráng mặt trời. Chén hà do chữ hà bôi thứ chén bằng ngọc màu ráng đỏ, đây dùng nói chén quý. Quỳnh tương: nước ngọt, ví thứ rượu ngon quý.
454Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.Kiều với Kim Trọng, ngồi kề nhau, mùi hương quần áo như là hoà lộn với nhau, mà trong binh gương, bóng hai người cũng như lồng đôi với nhau.
455Sinh rằng: Gió mát trăng trong,
456Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
457Chày sương chưa nện cầu Lam,Chày sương, cầu Lam: đã chú ở câu 266
458Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?Sàm sỡ: Lả lơi không đứng đắn.
459Nàng rằng: Hồng diệp xích thằng,Hồng điệp, xích thằng: xen câu 268 và 238
460Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.Tương tri: Biết lòng nhau, thông cảm nhau.
461Đừng điều nguyệt nọ hoa kia.Nguyệt nọ, hoa kia: Chuyện trai gái bất chính.
462Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.
463Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài,Cầm đài: Cái đài ngồi gẩy đàn của Tư Mã Tương Như, một nhà giỏi đàn đời Tây Hán.
464Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.Nước non: Do chữ lưu thuỷ, cao sơn (nước chảy, non cao), những tiếng đàn của Bá Nha mà Chung Tử Kỳ nghe và phân biệt được. Đây Kim Trọng đề cao Kiều lên ngang tài với Bá Nha, và tự cho mình là Chung Kỳ.
465Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi,Tiện Kỹ: Nghề mọn, lời nói nhún.
466Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng.
467Hiên sau treo sẵn cầm trăng,Cầm trăng: Tức nguyệt cầm, ta gọi là đàn nguyệt.
468Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.Tây nâng ngang mày: Thái độ tỏ ý trân trọng.
469Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay,
470Làm chi cho bận lòng này lắm thân!Bận lòng: khó nghĩ. Lắm thân: tiếng cổ, có nghĩa là “lẵm thay”.
471So dần dây vũ dây văn,Vũ, văn: Vũ là dây đàn to, văn là dây đàn nhỏ.
472Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.Cung thương: xem câu 31
473Khúc đâu Hán Sở chiến trường,Hán sở chiến trường: Bãi chiến trường giữa đời Hán, và nước Sở. Cuối đời Tần, Lưu Bang (Hán Cao tổ) và Hạng Vũ (Sở Bá vương) đánh nhau nhiều trận kịch liệt.
474Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.Tiếng sắt, tiếng vàng: Tiếng khí giới bằng sắt, bằng kim loại va chạm xô xát nhau.
475Khúc đâu Tư mã Phượng cầu,Tư mã phượng cầu: Tư mã Tương Như người đời Hán, có văn tài, ở đất Lâm Cùng, Trác Vương Tôn, có con gái là Văn Quân, người đẹp mà mới goá chồng. Tương Như gẩy khúc đàn “Phượng cầu hoàng” để tỏ tình với Văn Quân cảm tiếng đàn, đêm ấy, bỏ nhà trốn theo Tương Như.
476Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
477Kê Khang này khúc Quảng lăng,Kê Khang, Quảng Lăng: Kê Khang, đời Tam quốc, đêm gẩy đàn cầm ở đình Hoa Dương, bỗng có người khách lạ tới dạy cho khúc “Quảng Lăng tán”, âm điệu tuyệt hay.
478Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.Lưu thuỷ, hành vân: Nước chảy, mây bay. ý nói khúc đàn thanh thoát lưu loát.
479Quá quan này khúc Chiêu Quân,Quá quan: Đi qua cửa ải. Chiêu Quân: Tên chữ của Vương Tường, một cung nữ đời Hán Nguyên đế, bị gả cho chúa Hung nô, khi qua cửa ải, vào đất Hung nô, Chiêu Quân thường gảy khúc đàn tỳ bà để tỏ nỗi lòng nhớ nhà, nhớ nước.
480Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
481Trong như tiếng hạc bay qua,
482Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.Tiếng suối: Tiếng đàn nghe đục như tiếng ầm ì của dòng suối dội ở lưng chừng núi xuống.
483Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
484Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
485Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
486Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
487Khi tựa gối khi cúi đầu,
488Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.Chín khúc: Chỉ các khúc ruột chứ không nhất thiết phải đúng chín khúc ruột.
489Rằng: Hay thì thật là hay,
490Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!
491Lựa chi những bậc tiêu tao,Tiêu tao: Chính nghĩa là tiêu điều, thê hương, đây dùng chỉ tiếng đàn buồn rầu, sầu não.
492Dột lòng mình cũng nao nao lòng người?Dột: ủ dột. Nao nao: Xao xuyến, đau xót.
493Rằng: Quen mất nết đi rồi,
494Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
495Lời vàng âm lĩnh ý cao,Lời vàng: Lời khuyên quí giá.
496Họa dần dần bớt chút nào được không.
497Hoa hương càng tỏ thức hồng,Hoa hương: Hoá có hương thơm. Thức hồng: vẻ hồng. Càng đàn, càng thơ, nàng Kiều càng đẹp, tình ý đôi bên càng nồng nàn.
498Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
499Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
500Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
501Thưa rằng: đừng lấy làm chơi,Làm chơi: Xem vấn đề là thường, không quan trọng.
502Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!
503Vẻ chi một đóa yêu đào,Yêu đào: Cây đào non, lấy chữ ở thơ “Đào yêu”, Kinh thi: Đào chi yêu yêu (cây đào non mơn mởn) ví với người con gái trẻ mà đẹp, đã đến tuổi đi lấy chồng.
504Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
505Đã cho vào bậc bố kinh,Bố kinh: Bố là vải, kinh là cây kinh, một loại cây mọc thành cụm, hoa màu tía nhạt, cành và thân cứng rắn, thời xưa, những phụ nữ nghèo thường dùng cành nó làm trâm cài tóc. Ý Kiều nói: Đã cho vào hang người vợ chính thức như hạng bố kính thời xưa (không phải là nhân tình, nhân ngãi).
506Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầụTòng phu: Theo chồng, chí cái đạo làm vợ, theo quan niệm Nho giáo xưa.
507Ra tuồng trên Bộc trong dâu,Trên Bộc, trong dâu: Trong bãi dâu, trên sông Bộc. Xưa ở nước Vệ, đời Xuân Thu, có tục trai gái hẹn hò, tụ hội nhau ở bãi dâu trên sông Bộc để hát hổng, đùa bỡn, làm việc dâm đãng.
508Thì con người ấy ai cầu làm chi!
509Phải điều ăn xổi ở thì,
510Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!
511Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,Kỳ ngộ: Cuộc gặp gỡ kỳ lạ, chỉ cuộc nhân duyên tốt đẹp của đôi tài tử giai nhân.
512Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương.Thôi, Trương: Theo Tây sương ký: Thôi Oanh và Trương Cung, tên tự là Quân Thuỵ, đời Đường, là đôi trai tài, gái sắc, đẹp đôi, vừa lứa, đã gặp gỡ và yêu nhau ở chái tây chùa Phổ Cứu, đất Bổ Đông, nhưng vì đã đi lại ăn nằm với nhau, nên về sau chán nhau mà bỏ nhau. Đá vàng: Đây chỉ tình vợ chồng chung thuỷ, đoan chính.
513Mây mưa đánh đổ đá vàng,
514Quá chiều nên đã chán chường yến anh.Yến anh: Đây ví với cặp trai gái.
515Trong khi chắp cánh liền cành,Chắp cánh liền cành: Nói khi ăn nằm ân ái với nhau. Theo bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị, vua Đường Huyền tông và Đường quý phi nguyện với nhau trong đêm “thất tịch”: Tại thiên nguyện tác ti dực diểu, tại địa nguyên vi liên lí chí (trên trời nguyện làm đôi chim liền cánh, dưới đất nguyện là hai cây liền cành).
516Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
517Mái tây để lạnh hương nguyền,Mái tây: Do chữ tây sương, tức chái tây chùa Phổ Cứu, nơi Thôi, Trương gặp gỡ nhau. Hương nguyền: Nén hương để thề nguyền.
518Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
519Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,Gieo thoi: Các sách thường dẫn điển sau đây: Tạ Côn đời Tấn, ghẹo người con gái đang ngồi dệt cửi, bị cô ta cần cái thoi ném vào mặt, gẫy mất hai cái răng (theo Tấn thư).
520Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
521Vội chi liễu ép hoa nài,
522Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
523Thấy lời đoan chính dễ nghe,
524Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.Vì: Nể, tiếng cổ, cũng có nghĩa là yêu (yêu vì Nặng lòng xót liễu vì hoa).
525Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân,Bóng tầu: Bóng mái nhà (Tàu: Miếng gỗ dài đặt dọc ở mái hiên, để đỡ lấy mái nhà, gần chỗ giọt tranh). Vẻ ngân: Vẻ sáng như bạc, chỉ ánh trăng.
526Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào.
527Nàng thì vội trở buồng thêu,
528Sinh thì dạo gót sân đào bước ra.Sân đào: Sân có trồng cây đào.
529Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
530Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.Gia đồng: Người phục dịch công việc ở trong nhà. Thúc phụ: Chú ruột. Từ đường: Từ bỏ nơi nhà ở, tức là chết.
531Đem tin thúc phụ từ đường,
532Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề.Lữ thấn: Chết nhưng mà chưa chôn, quan tài còn quàn tạm ở nơi đất khách.
533Liêu dương cách trở sơn khê,Liêu dương: Tên đất, nay thuộc tỉnh Liêu Ninh (Trung Quốc) nơi chú ruột Kim Trọng chết. Sơn khê: Núi và khe ngòi.
534Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.Xuân đường: Cha, Xuân là một loại cây sống rất lâu. Người sau nhân gọi cha là xuân hay Xuân đường (nhà xuân), có ý mong cha được tuổi thọ như cây ấy. Hộ tang: Trông coi việc tang.
535Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,Mảng: Tiếng cổ. Mảng tin: Mới chợt nghe tin.
536Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.Đài trang: Do chữ trang đài, nơi trang điểm của phụ nữ.
537Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,Đinh ninh: cẵn kẽ, đến nơi đến chốn.
538Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:
539Sự đâu chưa kịp đôi hồi,Đôi hồi: Giãi bày, trò chuyện hết lời với nhau.
540Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ,Trao tơ: Chỉ việc kết hôn. Theo sách Khai nguyên Thiên bảo di sự: Trương Gia Trinh, tể tướng nhà Đường, có năm con gái, muốn gả một người cho Quách Nguyên Chấn, đô đốc Lương Châu, người đẹp mà có tài nghệ, bèn bảo năm con đứng sau một bức màn, mỗi người cầm một sợi dây tơ dài, dòng ra ngoài, và cho Nguyên Chấn tuỳ ý kéo lấy một sợi, trúng sợi nào thì lấy người cầm sợi ấy. Nguyên Chấn được kéo sợi tơ đỏ, lấy người con thứ ba, rất đẹp.
541Trăng thề còn đó trơ trơ,
542Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
543Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,Ba đông: Ba năm để tang.
544Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy!Chầy: Còn chậm, còn lâu ngày.
545Gìn vàng giữ ngọc cho hay,Gìn vàng giữ ngọc: Giữ thân thể cho được khoẻ mạnh, và cũng ngụ ý giữ gìn mối tình cho được thuỷ chung, trong sạch.
546Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
547Tai nghe ruột rối bời bời,
548Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau:
549Ông tơ ghét bỏ chi nhau,
550Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi!
551Cùng nhau trót đã nặng lời,
552Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!
553Quản bao tháng đợi năm chờ,
554Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.
555Đã nguyền hai chữ đồng tâm,
556Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.Ôm cầm thuyền ai: Ôm đàn sang thuyền của người khác, tức là đi lấy chồng khác.
557Còn non còn nước còn dài,
558Còn về còn nhớ đến người hôm nay!
559Dùng dằng chưa nỡ rời tay,
560Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.
561Ngại ngùng một bước một xa,
562Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.
563Buộc yên quảy gánh vội vàng,
564Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai.
565Buồn trông phong cảnh quê người,
566Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.Quyên: Chim đỗ quyên, tức chim quốc. Đây tả cảnh cuối hè, sang thu. Tiếng quyên kêu còn ra rả (nhặt) đầu cành và bóng nhạn đã thấy bay loáng thoáng (thưa) ở chân trời.
567Não người cữ gió tuần mưa,Cữ, tuần: Người xưa thường tính bảy ngày là một cữ, và mười ngày là một tuần.
568Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.Tương tư: Nguyên nghĩa là ở xa cách mà cùng nhớ nhau, sau người ta mượn để nói sự nhớ nhau của đôi trai gái yêu nhau.
569Nàng còn đứng tựa hiên tây,
570Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.Chín hồi: Do chữ cửu hồi, ruột chín lần bị đau quặn lại.
571Trông chừng khói ngất song thưa,
572Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng.
573Tần ngần dạo gót lầu trang,
574Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về,Ngoại hương: Làng ngoại , quê ngoại. Giãi dề: Giải bày, chuyện trò.
575Hàn huyên chưa kịp giãi dề,
576Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.Sai nha: Nha lại do quan trên sai phái đi.
577Người nách thước, kẻ tay đao;Thước: Tay thước, một thứ võ khí cổ, bằng gỗ, dài độ một thước tây, cạnh vuông bốn góc, dùng để đánh người. Nách thước: Nách cắp tay thước. Đao: Dao to, mã tấu, thứ võ khí bằng sắt, lưỡi to.
578Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
579Già giang một lão một trai,Già: Cái gông. Giang: Khiêng đi, giải đi. ở đây nói cha con viên ngoại và Vương quan bị đóng gông lại.
580Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
581Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
582Rụng rời khung cửi, tan tành gói may.
583Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,Tế nhuyễn: Nhỏ bé, mềm mại, chỉ chung những đồ vàng ngọc quí gái và trang sức, quần áo dễ mang đi.
584Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
585Điều đâu bay buộc ai làm?Bay buộc: ý nói cái tai vạ tự đâu bay đến, buộc vào.
586Này ai dan dậm, giật giàm bỗng dưng?Dậm: Một dụng cụ đánh cá.
587Hỏi ra sau mới biết rằng:
588Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.Xưng xuất: Xưng ra, khai ra.
589Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
590Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.Loà mây: Làm mờ cả bầu trời. ý nói: một vụ hết sức oan uổng.
591Hạ từ van lạy suốt ngày,Hạ từ: Hạ lời, nói lời thanh minh để kêu cầu van xin. Lân tuất: Thương xót, thương tình. ý cả câu: tụi sai nha cứ phủ tay đánh đập, mặc những lời kêu van của nhà Kiều, chúng chỉ làm điếc làm ngơ.
592Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.
593Rường cao rút ngược dây oan,Rường cao: Thanh rường nhà bắc ở trên cao. Dây oan: Dây trói oan uổng. Tụi sai nha trói và treo ngược hai cha con họ Vương lên rường nhà.
594Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595Mặt trông đau đớn rụng rời,
596Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
597Một ngày lạ thói sai nha,
598Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
599Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,Cốt nhục: Ruột thịt, chỉ Vương ông và Vương Quan.
600Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao?Ngộ biến tòng quyền: Gặp cảnh biến phải theo đạo “quyền” (không thể giữ nguyên đạo “kinh” như lúc bình thường được). ý nói: Phải tuỳ theo hoàn cảnh mà xử sự cho thích hợp.
601Duyên hội ngộ, đức cù lao,Hội ngộ: Gặp gỡ gắn bó nhau. Chỉ mối tình duyên giữa Kiều với Kim Trọng. Cù lao: Công ơn sinh dưỡng khó nhọc của cha mẹ.
602Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?
603Để lời thệ hải minh sơn,Thệ hải minh sơn: Chỉ non thề bể.
604Làm con trước phải đền ơn sinh thành.Sinh thành: Công ơn cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng nên người.
605Quyết tình nàng mới hạ tình:Hạ tình: Tỏ bầy ý nghĩ.
606Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!Rẽ cho: Lời gạt đi ý kiến những người khác để nói lên ý kiến của mình một cách kiên quyết.
607Họ Chung có kẻ lại già,Lại già: Người gia lại già.
608Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.Nha dịch: Người làm việc ở nơi gia môn, tức nơi công sở của các phủ huyện.
609Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
610Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.
611Tính bài lót đó luồn đây,
612Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
613Hãy về tạm phó giam ngoài,
614Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày.Qui liệu: Thu xếp, lo liệu.
615Thương tình con trẻ thơ ngây,
616Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ!
617Đau lòng tử biệt sinh ly,Tử biệt sinh ly: Chết vĩnh biệt nhau gọi là “tử biệt”, sống mà xa lìa nhau gọi là “sinh ly”. Đó là hai cảnh thương tâm lớn của đời người. Tuy là hai cảnh, nhưng người ta thường dùng làm một thành ngữ, để nói chung cho người gặp cảnh “tử biệt” cũng như người gặp cảnh “sinh ly”.
618Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!
619Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,Hạt mưa: Chỉ thân phận người con gái. Ca dao: Thân em như hạt mưa sa, Hạt vào đài các, hạt ra ruộng lầy.
620Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.Tấc cỏ, ba xuân: Do chữ tnốn thảo, tâm xuân. Thơ tả tình đi chơi xa nhớ mẹ của Mạnh Giao đời Đường có câu: Dục tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân huy (Ai bảo cái lòng của ngọn cỏ một tấc (ngọn cỏ ngắn) báo đáp được ánh sáng ấm áp của ba tháng xuân). Tấc cỏ: Ví với người con. Ba xuân Ví với công ơn cha mẹ.
621Sự lòng ngỏ với băng nhân,Băng nhân: Người làm mối.
622Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.Tin sương: Do chữ sương tín. Tin sương là ngụ ý chỉ tin tức truyền đi.
623Gần miền có một mụ nào,
624Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.Viễn khách: Khách phương xa.
625Hỏi tên rằng: Mã Giám sinh.Giám sinh: Sinh viên học tại Quốc tử giám, một thứ trường đại học của triều đình phong kiến, lập ở kinh đô để đào tạo người ra làm quan.
626Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.Lâm thanh: Một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc).
627Quá niên trạc ngoại tứ tuần,Tử tuần: Bốn mươi tuổi (mỗi một tuần là mười tuổi).
628Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
629Trước thầy sau tớ lao xao
630Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.Nỗi mình: Nỗi riêng của mình, chỉ cuộc tình duyên dở dang với Kim Trọng. Nỗi nhà: Nỗi tai vạ của toàn gia đình họ Vương.
631Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
632Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
633Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
634Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
635Ngại ngùng giợn gió e sương,Rợn gió: Sợ gió.
636Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
637Mối càng vén tóc bắt tay,
638Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.Điệu: Cách điệu, cốt cách.
639Đắn đo cân sắc cân tài,
640Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
641Mặn nồng một vẻ một ưa,
642Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
643Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều,
644Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?Sinh nghi: Đồ dẫn cưới, tiền dẫn cưới.
645Mối rằng: đáng giá nghìn vàng,Nghìn vàng: Đời hán, một nghìn vàng tức là một cân vàng, sau dùng để chỉ nghìn lạng vàng.
646Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài.Rớp nhà: Nhà gặp lúc hoạn nạn.
647Cò kè bớt một thêm hai,
648Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
649Một lời thuyền đã êm dằmÊm dằm: ý nói sự việc đã lo lót xong xuôi, êm thấm, giống như chiếc thuyền đã đứng êm dằm, khôn còn tròng trành nữa.
650Hãy đưa danh thiếp trước cầm làm ghi.Canh thiếp: Lá thiếp biên tên, tuổi (nhân trong thiếp có biên tuổi, tức niên canh, nên gọi là canh thiếp). Theo hôn lễ xưa, khi bắt đầu dạm hỏi, nhà trai, nhà gái trao đổi canh thiếp của trai gái để đính ước với nhau.
651Định ngày nạp thái vu qui,Nạp thái: Chỉ lễ dẫn đồ cưới. Vu qui: Về nhà chồng, chỉ lệ đón dâu.
652Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong!
653Một lời cậy với Chung công,
654Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.Khất tử: Đơn xin (Nhà Kiều làm đơn xin tạm tha cho Vương ông).
655Thương tình con trẻ cha già,
656Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu:
657Nuôi con những ước về sau,
658Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.Gieo cầu: Hán Vũ đế kén phò mã, cho công chúa ngồi lên lầu, ném quả cầu xuống, ai cướp được thì làm phò mã.
659Trời làm chi cực bấy trời,
660Này ai vu thác cho người hợp tan!Vu thác: Vu là đổ tội cho, thác là đặt điều ra.
661Búa rìu bao quản thân tàn,
662Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.
663Một lần sau trước cũng là,
664Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!
665Theo lời càng chảy dòng châu,
666Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
667Vội vàng kẻ giữ người coi,
668Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
669Vẻ chi một mảnh hồng nhan,Một mảnh hồng nhan: Như nói một mụn con gái.
670Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
671Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,Nàng Oanh: Nàng Đề Oanh. Theo Liệt nữ truyện: Để Oanh người đời Hán, khi cha nàng là Thuấn Vu ý, phạm tội, bị hạ ngục ở Tràng An, chờ ngày hành hình, Đề Oanh dâng thư lên vua Văn đế, xin nộp mình làm giá hầu cho các nhà quan để chuộc tội cho cha, Văn đế cảm động, xuống chiếu tha cho cha nàng.
672Lại thua ả Lý bán mình hay sao?Ả Lý: Nàng Lý Ký. Theo sách Đường dại tùng thư: Lý Ký, đời đường nhà nghèo, tự nguyện bán mình cho người làng đem cúng thần rắn, để lấy tiền nuôi cha mẹ. Về sau nàng chém chết thần rắn, rồi lấy vua Việt vương.
673Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,Cỗi xuân: Gốc cây xuân, chỉ người cha. Sách xưa nói: Tuổi hạc: Tuổi con chim hạc, như nói tuổi thọ. Sách xưa nói, chim hạc sống lâu một nghìn năm.
674Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
675Lòng tơ dù chẳng dứt tình,Lòng tơ: Tấm lòng thương con vương vấn không dứt.
676Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non.Gió mưa: Chỉ những tai biến xảy đến. Nước non: Chỉ cơ nghiệp nhà (nước non cũng như giang sơn).
677Thà rằng liều một thân con,
678Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.Hoa dù rã cánh: Tức cây còn xanh lá, nói Vương ông được an toàn.
679Phận sao đành vậy cũng vầy,Cũng vầy: cũng vậy, cũng thế thôi.
680Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh.Đậu: Một cái hoa kết được thành quả, hay một cái quả giữ được đến lúc chín, không bị nửa chừng rụng đi, thì người ta gọi là cái hoa đậu, cái quả đậu. Cả câu: ý nói cũng xem như là đã chết ngay từ lúc còn nhỏ tuổi.
681Cũng đừng tính quẩn lo quanh,
682Tan nhà là một thiệt mình là hai.
683Phải lời ông cũng êm tai,
684Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang.
685Mái ngoài họ Mã vừa sang,
686Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.
687Trăng già độc địa làm sao?
688Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.
689Trong tay đã sẵn đồng tiền,
690Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì!
691Họ Chung ra sức giúp vì,Giúp vì: Giúp đỡ.
692Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong.Lễ tâm: Lễ vật của dân sự “thành tâm” đem đút lót cho bọn quan lại. Tụng kỳ: Kỳ xử kiện, tức phiên xử án.
693Việc nhà đã tạm thong dong,
694Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.Tinh kỳ: Người ta thường dùng chữ tinh kỳ để chỉ cái ngày thành hôn, vì theo hôn lễ xưa, người ta đón dâu vào buổi tối.
695Một mình nàng ngọn đèn khuya,
696Áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu.
697Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,Dầu: Cũng như nghĩa đành (dầu lòng, đành lòng).
698Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!Một lời: Một lời thề nguyền. ý Kiều nói: Số phận ra sao cũng đành, nhưng chỉ đau lòng là trót đeo đẳng lời thề với Kim Trọng.
699Công trình kể biết mấy mươi.
700Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
701Thề hoa chưa ráo chén vàng,
702Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
703Trời Liêu non nước bao xa.Trời liêu: Liêu dương.
704Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
705Biết bao duyên nợ thề bồi.
706Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì.
707Tái sinh chưa dứt hương thề.Tái sinh: Một kiếp sống nữa, kiếp sau cũng như nói lai sinh. Hương thề: Mảnh hương thề nguyền. Xem chú thích 517
708Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.Trâu ngựa: Theo thuyết luân hồi nhà Phật: Người nào kiếp này mắc nợ ai mà chưa trả được, thì kiếp sau phải hoá làm thân trâu ngựa nhà người ta để đền trả cho xong. Nghì: Tức là chữ “nghĩa” được đọc chệch ra. Trúc mai: Tình nghĩa bền chặt thân thiết như vậy cây trúc, cây mai thường được trồng gần nhau.
709Nợ tình chưa trả cho ai,
710Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.Khối tình: Tình sử: Xưa có một cô gái yêu một người lái buôn. Người lái buôn đi mãi chưa về, cô ta ốm tương tư mà chết. Khi hoả táng, quả tim kết thành một khối rắn, đốt không cháy, đập không vỡ. Sau người lái buôn trở về, thương khóc, nước mắt nhỏ vào khối ấy liền tan ra thành huyết. Tuyền đài: Nơi ở dưới suối vàng, tức nơi ở của người chết.
711Nỗi riêng riêng những bàng hoàng,Bàn hoàn: ở đây có nghĩa là nghĩ quanh, nghĩ quẩn mãi không dứt.
712Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
713Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,Giấc xuân: Giấc ngủ ngon lành.
714Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715Cơ trời dâu bể đa đoan,Cơ trời: Tức thiên cơ, máy trời. Dâu bể: Cũng như “bể dâu”. Đa đoan: Nhiều mối nhiều việc.
716Một nhà để chị riêng oan một mình,
717Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?Nhẫn: Tiếng cổ, ngồi nhẫn là ngồi mãi suốt đêm.
718Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?
719Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
720Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
721Hở môi ra cũng thẹn thùng,
722Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
723Cậy em, em có chịu lời,
724Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
725Giữa đường đứt gánh tương tư,
726Loan giao chắp mối tơ thừa mặc em.Kéo loan: do chữ loan giao, tức thứ keo chế bằng máu chim loan. Tương truyền người xưa thường dùng để nối dây đàn và dây cung. Mối tơ thừa: Ví dây tơ tình với dây đàn, dây tơ tình bị đứt.
727Kể từ khi gặp chàng Kim,
728Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
729Sự đâu sóng gió bất kỳ,
730Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai!
731Ngày xuân em hãy còn dài,
732Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
733Chị dù thịt nát xương mòn,
734Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.Chín suối: Do chữ cửu tuyền, chỉ nơi suối vàng.
735Chiếc thoa với bức tờ mây,Tờ mây: Tờ giấy vẽ mây, tức tờ giấy ghi lời thề nguyền của Kim, Kiều.
736Duyên này thì giữ vật này của chung.
737Dù em nên vợ nên chồng,
738Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
739Mất người còn chút của tin,
740Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.Mảnh hương nguyền: Những manhr gỗ thơm đã đốt dở trong cuộc thề nguyền của Kim, Kiều. Thời xưa, khi thề nguyền với nhau, người ta thường đốt hương.
741Mai sau dầu có bao giờ.
742Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
743Trông ra ngọn cỏ lá cây,
744Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
745Hồn còn mang nặng lời thề,
746Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai;Bồ liễu: Một loại cây ưa mọc gần nước. Cây bồ liễu rụng lá sớm hơn hết các loài cây, vì cái thể chất yếu đuối đó nên trong văn cổ thường dùng để ví với người phụ nữ.
747Dạ đài cách mặt khuất lời,Dạ dài: Đài đêm tối, nghĩa bóng là cõi chết.
748Rẩy xin chén nước cho người thác oan.
749Bây giờ trâm gẫy bình tan,Trâm gẫy bình tan: Thơ Bạch Cư Dị, đời Đường: Bình truỵ trâm chiết thị hà như, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt. (Cái cảnh bình rơi trâm gãy là thế nào? nó giống như cảnh biệt ly của thiếp với chàng buổi sáng nay). Đây dùng chỉ cuộc tình duyên tan vỡ.
750Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
751Trăm nghìn gửi lại tình quân,Tình quân: Người tình, cũng như tình lang.
752Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
753Phận sao phận bạc như vôi,Phận bạc: Chính nghĩa là phận mỏng, tức bạc mệnh.
754Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng.Nước chảy hoa trôi: Hoa rụng xuống, nước trôi đi, nguyên chỉ cảnh xuân tàn, sau thường mượn để nói sự tàn tạ của đời người.
755Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
756Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
757Cạn lời hồn ngất máu say,
758Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng.
759Xuân Huyên chợt tỉnh giất nồng,Xuân huyên: Xuân đường, huyên đường, tức cha mẹ.
760Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài.
761Kẻ thang người thuốc bời bời,
762Mới dằn cơn vựng, chưa phai giọt hồng.Vựng: Cơn ngất, bất tỉnh nhân sự. Giọt hồng: Giọt nước mắt có máu, giọt lệ thảm.
763Hỏi: Sao ra sự lạ lùng?
764Kiều càng nức nở mở không ra lời.
765Nỗi nàng Vân mới rỉ tai,
766Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây.
767Này cha làm lỗi duyên mày,
768Thôi thì nỗi ấy sau này đã em.
769Vì ai rụng cải rơi kim,Nói tình duyên nửa chừng bị chia lìa, tan vỡ.
770Để con bèo nổi mây chìm vì ai.
771Lời con dặn lại một hai,
772Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng.Mòn bia đá: Chỉ một khoảng thời gian rất lâu. Tấc vàng: Tấc lòng bền vững như vàng.
773Lậy thôi, nàng lại thưa chiềng,Chiềng: Trình, tiếng cổ.
774Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
775Sá chi thân phận tôi đòi,Tôi đòi: Kiều bán mình làm vợ lẽ nàng tự xem như kẻ ăn người ở. Mấy hồi: Mấy hồi trống tan canh.
776Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu.
777Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
778Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.
779Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780Quản huyền đâu đã giục người sinh ly.Quân huyền: Chính nghĩa là ống trúc và dây đàn, thường dùng chỉ đàn. Đây nói họ Mã đưa các đồ âm nhạc đến đón Kiều.
781Đau lòng kẻ ở người đi,
782Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm.Đại ý cả câu: Giọt lệ rơi xuống, có thể thấm qua cả đá, tơ ruột rút ra, có thể làm chết rũ cả con tằm.
783Trời hôm mây kéo tối rầm,
784Rầu rầu ngọn cỏ đầm đầm cành sương.
785Rước nàng về đến trú phường,Trú phường: Chỗ phố trọ, nhà trọ.
786Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong.Xuân khoá: Chữ xuân ở đây không phải là mùa xuân. Chú ý: lúc Mã Giám sinh đón Kiều là mùa thu: Đêm thu một khắc một chầy.
787Ngập ngừng thẹn lục e hồng,Lục hồng: Màu lá xanh, màu hoa đỏ thường dùng để chỉ sắc đẹp của phụ nữ.
788Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen.Nghĩ lòng: Nghĩ riêng trong lòng. Đòi phen: Nhiều phen, nhiều lúc.
789Phẩm tiên rơi đến tay hèn,Phẩm tiên: Của trên cõi tiên. Hèn hạ, tục tằn.
790Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai:Nắng giữ mưa gìn: ý nói giữ gìn trinh tiết một cách thận trọng.
791Biết thân đến bước lạc loài,
792Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.Nhị đào: Hoa đào còn phong nhị ví với người con gái còn trinh.
793Vì ai ngăn đón gió đông,Gió đông: Tiếp ý chữ nhị đào ở trên, ý nói: Không để cho người tình chung bẻ nhị đào, giống như ngăn đón gió đông không cho đến với nhị đào vậy.
794Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi.
795Trùng phùng dầu họa có khi,Trùng phùng: Gặp gỡ lần thứ hai, ý nói đến sau này lại gặp Kim Trọng.
796Thân này thôi có còn gì mà mong.
797Đã sinh ra số long đong,
798Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?
799Trên yên sẵn có con dao,Yên: Cái án, một loại bàn cổ, chân cao, bề mặt hẹp và dài.
800Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn:
801Phòng khi nước đã đến chân,
802Dao này thì liệu với thân sau này.
803Đêm thu một khắc một chầy,
804Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.
805Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
806Vẫn là một đứa phong tình đã quen.Phong tình: ăn chơi phóng đãng bất chính.
807Quá chơi lại gặp hồi đen,
808Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.
809Lầu xanh có mụ Tú Bà,Lầu xanh: Do chữ thanh lâu: Cái lầu sơn mầu xanh. Chữ thanh lâu nguyên chỉ lầu ở của phái quyền quí hay vua chúa, hoặc chỉ lầu ở của mỹ nhân. Về sau thanh lâu mới có nghĩa là nhà hát, nhà điếm.
810Làng chơi đã trở về già hết duyên.Làng chơi: thuộc loại gái điếm gái làng chơi.
811Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
812Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường.Mạt cưa mướp đắng: Chuyện cổ tích: “Một người lấy mạt cưa làm cám, đợi lúc nhá nhem tối, đem ra chợ bán, lại gặp một người đem mướp đắng giả làm dưa chuột ra bán. Hai người bán lẫn cho nhau, thế là bợm lại mắc bợm”. Đây nói Mã Giám sinh và Tú bà cùng là phường bịp.
813Chung lưng mở một ngôi hàng,
814Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề.Buôn phấn bán hương: Mua những con gái ở các nơi về làm gái điếm. Phấn và hương là hai thứ nữ giới dùng để trang điểm, nên mượn để chỉ chung nữ giới. Đã lề: ý nói đã thành nề nếp, đã quen nghề.
815Dạo tìm khắp chợ thì quê,Chợ: Kẻ chợ, tức nơi thành thị, đô hội. Khắp chợ thì quê: Lối nói cổ, có nghĩa là: khắp chợ cùng quê, khắp vùng kẻ chợ đến miền thôn quê.
816Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi.Giả danh hầu hạ: Mượn tiếng là tìm nàng hầu vợ lẽ để về hầu hạ. Dạy nghề ăn chơi: Dạy nghề làm gái điếm kiếm tiền.
817Rủi may âu cũng tại trời,
818Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên.
819Xót nàng chút phận thuyền quyên,Thuyền quyên: Nguyên nghĩa là óng ả xinh tươi để chỉ người phụ nữ đẹp.
820Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.
821Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,Mẹo lừa: mưu mẹo lừa dối. Khuôn: Như nói vành, đã mắc vào vành không ra được nữa.
822Sính nghi rẻ giá nghênh hôn sẵn ngày.Nghinh hôn: Đón dâu.
823Mừng thầm: Cờ đã đến tay!Cờ đến tay: Đây mượn câu tục ngữ: Cờ đến tay ai, người nấy phất, để nói ý nghĩ của Mã: Kiều đã vào tay mình rồi muốn làm gì thì làm.
824Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng.Vẻ ngọc: Vẻ mặt đẹp như ngọc. Khúc vàng: Khúc lòng.
825Đã nên quốc sắc thiên hương,
826Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa.Câu này do chữ nhất tiểu thiên kim: Một nụ cười của người đẹp đáng giá nghìn vàng.
827Về đây nước trước bẻ hoa,Bẻ hoa: Tức phá trinh tiết của Kiều.
828Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.Vương tôn: Chỉ con gái các nhà quí phái.
829Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
830Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời,
831Miếng ngon kề dến tận nơi,
832Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.
833Đào tiên đã bén tay phàm,
834Thì vin cành quít cho cam sự đời!Câu này ý nói: Đào tiên đã tới tay,thì vin cành bẻ phắt đi cho thoả sự đời (tức là làm ngay cái việc “nước trước bẻ hoa” ở trên).
835Dưới trần mấy mặt làng chơi,Dưới trần: Như nói trong cõi đời, ở đời. Mấy mặt: Mấy người.
836Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa.Biết hoa: Biết giá trị của hoa. ý nói: Bọn làng chơi đã dễ mấy người phân biệt được gái tân với gái mất tân.
837Nước vỏ lựu máu mào gà,Nước vỏ lựu, mái mào gà: Theo sách Bắc lý chi: Gái thanh lâu tiếp khách xong, lại lấy nước vở lựu máu mào gà sống để rửa, giả làm gái còn tân để đánh lừa khách chơi.
838Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.Chiêu tập: Dùng cách sửa chữa làm như còn nguyên vẹn.
839Mập mờ đánh lận con đen,Con đen: Những người còn trẻ tuổi mà khờ dại, đây chỉ những khách chơi không sành sỏi.
840Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?
841Mụ già hoặc có điều gì,
842Liều công mất một buổi quỳ mà thôi.
843Vả đây đường xá xa xôi,
844Mà ta bất động nữa người sinh nghi.
845Tiếc thay một đóa trà mi,Trà mi: Một thứ hoa nở về mùa xuân đầu hạ, hoa mầu vàng nhạt rất đẹp.
846Con ong đã tỏ đường đi lối về.
847Một cơn mưa gió nặng nề,
848Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.Ngọc, hương: Ngọc đẹp, hương thơm, ví với người đẹp.
849Đêm xuân một giấc mơ màng,
850Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ.Đuốc hoa: Do chữ hoa chúc: đuốc hoa, nến hoa.
851Giọt riêng tầm tã tuôn mưa,
852Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình:
853Tuồng chi là giống hôi tanh,
854Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.
855Thôi còn chi nữa mà mong?
856Đời người thôi thế là xong một đời.
857Giận duyên tủi phận bời bời,
858Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh.Quyên sinh: Bỏ đời sống, tức tự tử.
859Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
860Một mình thì chớ hai tình thì sao?Hai tình: Chỉ cha mẹ. ý nói: Một mình thì tự tử chẳng sao, nhưng còn cha mẹ thì làm thế nào?
861Sao dầu sinh sự thế nào,
862Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân.Truy nguyên: Tìm đến căn nguyên, gốc rễ của sự việc.
863Nỗi mình âu cũng giãn dần,Giãn: Nới ra. Nỗi lòng của Kiều lúc trước như bị bóp nghẹt, nay nghĩ đi nghĩ lại, thấy nới dần ra.
864Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi.Một lần: Một lần chết. Kiều nghĩ: chóng hay chậm, cũng một lần chết, nếu bây giờ nàng chết đi tất liên luỵ đến cha mẹ.
865Những là đo đắn ngược xuôi,
866Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường.Gáy sôi: Gáy ầm ỹ, dồn dập. Chữ “sôi” có hàm ý giục giã.
867Lầu mai vừa rúc còi sương,Lầu mai: Chòi canh về sáng. Còi sương: Tiếng tù và thổi lúc sớm tinh sương.
868Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi.
869Đoạn trường thay lúc phân kỳ!Đoạn trường: Đứt ruột có nghĩa đau đớn quá (như dứt từng khúc ruột). Phân kỳ: Chia đường, chia lìa mỗi người mỗi ngả như nói “chia tay”.
870Vó câu khấp khểnh bóng xe gập ghềnh.Vó câu: Vó ngựa (Câu: ngựa non đang sức lớn). Những chữ “khấp khểnh”, “ghập ghềnh” vừa tả con đường đi gồ ghề khó khăn, vừa ngụ ý thân thế Kiều đã long đong vất vả ngay từ lúc bước chân ra đi…
871Bề ngoài mười dặm trường đình,Trường đình: Đời Tần, Hán, người ta chia đường ra từng cung, cứ năm dặm là một cung ngắn, có một cái quán, gọi là “đoản đinh” (quán ngắn) mười dặm là một cung dài, lại có một cái quán nữa gọi là “trường đình” (quán dài). Tục cổ, chủ thường tiễn khách ra khỏi mười dặm đường làm tiệc tiến hành ở trường đình rồi mới trở về.
872Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.
873Ngoài thì chủ khách dập dìu,Chủ khách: Chỉ Vương ông Mã Giám sinh.
874Một nhà huyên với một Kiều ở trong.
875Nhìn càng lã chã giọt hồng,
876Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao:
877Hổ sinh ra phận thơ đào,Thơ đào: Đây có nghĩa là con gái ít tuổi, ngây thơ.
878Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
879Lỡ làng nước đục bụi trong,
880Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
881Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
882Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!
883Khi về bỏ vắng trong nhà,
884Khi vào dùng dắng khi ra vội vàng.Dùng dắng: Dùng dằng, do dự, khi Mã vào trong phòng Kiều thì do dự mà khi ở phòng ra thì vội vàng.
885Khi ăn khi nói lỡ làng,
886Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh.Thầy tớ: Chỉ Mã và bọn tôi tớ Mã.
887Khác màu kẻ quý người thanh,
888Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.
889Thôi con còn nói chi con?
890Sống nhờ đất khách thác chôn quê người!
891Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
892Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
893Vài tuần chưa cạn chén khuyên.Tuần: Tuần rượu, mỗi chén rượu đôi bên cùng uống cạn là một tuần. Chén khuyên: Chén khuyên mời, đây là chén rượu tiến.
894Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe.Nghỉ: Nó, hắn, y, thổ âm Nghệ Tĩnh đây chỉ Mã.
895Xót con lòng nặng trì trì,
896Trước yên ông đã nằn nì thấp cao:Trước yên: Trước yên ngựa của Mã.
897Chút thân yếu liễu tơ đào,Yếu liễu thơ đào: ý nói Kiều còn yếu ớt thơ dại, ví như cây liễu yếu cây đào non.
898Rớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi.
899Từ đây góc bể bên trời,Góc bể chân trời: Do chữ hải giác thiên nhai: Góc biển cả, chỗ cùng nận bầu trời ý nói xa xôi hết sức.
900Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
901Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,Tầm: Một đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, dài tám thước. Nghìn tầm: 8000 thước, nghĩa bóng: cao lắm! Tùng quân: Tùng là cây thông, một thứ cây cao lớn, lthân thẳng và cứng cáp, mùa đông lá cây vẫn xanh tươi, trong văn cổ, thường dùng để tượng trưng cho người trượng phu. Quân là cây trúc, dóng thẳng đốt ngang, thân rỗng mà không cong queo, thường dùng để tượng trưng cho người quân tử.
902Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.Tuyết sương che chở: Tức che chở cho khỏi tuyết sương. Cát đằng: Dây sắn, một loại day phải leo bám vào những cây to, người ta thường nói “cát đằng” “cát luỹ” hay “sắn bìm” để chỉ người vợ thiếp.
903Cạn lời khách mới thưa rằng:
904Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.Nhiệm trao: ý nói số trời mầu nhiệm đã buộc sợi “xích thằng”.
905Mai sau dầu dến thế nào,
906Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỉ thần!Gương nhật nguyệt: Gương mặt trời, mặt trăng. Chữ “gương” hàm ý soi tỏ tội lỗi. Dao quỷ thần: Gươm dao của quỷ thần, hàm ý trừng phạt, ý Mã nói: nếu sau này ăn ở không thuỷ chung, sẽ có trời soi tỏ tội lỗi và bị quỷ thần trừng phạt.
907Đùng dùng gió giục mây vần,Gió giục mây vần: Tả xe Kiều đi mau lẹ, vội vã.
908Một xe trong cõi hồng trần như bay.
909Trông vời gạt lệ chia tay,Trông vời: Tức trông với theo một cái gì đó đã đi xa.
910Góc trời thăm thẳm đêm ngày đăm đăm.
911Nàng thì dặm khách xa xăm,
912Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây.Bạc phau: Trắng phau, trắng xoá. Cầu giá: Váng sương bám trên mặt cầu buổi sớm mai. Ngàn mây: Những đám mây ở những nơi rừng núi. Câu này tả cảnh cuối thu, bắt đầu sang đông.
913Vi lô san sát hơi may,Hơi may: Hơi gió heo may.
914Một trời thu để riêng ai một người.
915Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,Ngất tạnh: Bầu trời cao ngất mà tạnh ráo. Mù khơi: Mù mịt xa khơi.
916Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.Lời non sông: Kiều thấy trăng mà nhớ đến cái “vầng trăng” đêm nào đã chứng kiến cuộc thề nguyện của hai người.
917Rừng thu từng biếc xen hồng,Từng biếc xen hồng: Rừng cây mùa thu có những lá úa màu đỏ xen giữa từng lá mùa xanh.
918Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.Thần hôn: Sớm hôm, chỉ sự sớm hôm chăm sóc thăm hỏi cha mẹ.
919Những là lạ nước lạ non,
920Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi.Lâm tri: Tên huyện, thuộc tỉnh Sơn Đông.
921Xe châu dừng bánh cửa ngoài,Xe châu: Xe có rèm hạt châu, thứ xe phụ nữ ngồi.
922Rèm trong đã thấy một người bước ra.
923Thoắt trông nhờn nhợt màu da,
924Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao!
925Trước xe lơi lả han chào,
926Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
927Bên thì mấy ả mày ngài,Mày ngài: Tức mấy ả gái điếm.
928Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.
929Giữa thì hương án hẳn hoi,
930Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.Tượng: Bức tranh vẽ. Tượng trắng đôi lông mày tức tranh thần “Bạch mi”.
931Lầu xanh quen lối xưa nay,
932Nghề này thì lấy ông này tiên sư,Tiên sư: Tổ sư, ông tổ sáng lập ra một nghề. Chữ dùng hàm ý mỉa mai.
933Hương hôm hoa sớm phụng thờ.
934Cô nào xấu vía có thưa mối hàng,
935Cởi xiêm lột áo sỗ sàng,
936Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.
937Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,Đổi hoa: Như nói thải hoa, tức như lấy hoa mới để thờ, thải hoa cũ lót xuống dưới chiếu để nằm.
938Bướm hoa bay lại ầm ầm tứ vi!Tứ vi: Bốn phía xung quanh.
939Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
940Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
941Cửa hàng buôn bán cho may,
942Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu.Hàn thực: Ăn lạnh, ăn đồ nguội. Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công khôi phục lại ngôi vua, nhưng lúc ân thưởng triều thần. Văn Công lại quên mất Tử Thôi. Tử Thôi bất bình trốn vào núi ở ẩn. Đến lúc Văn Công nghĩ lại, muốn vời Tử Thôi, nhưng Tử Thôi quyết chí ở ẩn, Văn Công ra lệnh đốt rừng Tử Thôi quyết tâm chịu chết cháy ở trong núi. Văn Công hối hận vô cùng ra lệnh hàng năm đúng ngày Tử Thôi chết, cấm không được đốt lửa. Do đó mà có tục hàn thực, cứ trước…tiết thanh minh hai ngày (có sách chép một ngày) người ta cấm đốt lửa, ăn đồ nguội, và tổ chức nhiều cuộc vui: đá cầu, đánh đu, chọi gà, kết xe hoa đi dong chơi. Nguyên tiêu: Đêm tiết thượng nguyên, tức đêm ngày rằm tháng riêng đầu năm. Đây Tú bà khấn thần phù hộ cho cửa hàng lầu xanh của mụ, ngày lại đêm, lúc nào khách chơi cũng ra vào đông đúc, tấp nập như những ngày hội hàn thực nguyên tiêu.
943Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
944Xôn xao oanh yến dập dìu trúc mai.
945Tin nhạn vẩn lá thư bài,Tin nhạn: Tô Vũ, người đời Hán, đi sứ sang Hung nô không chịu khuất phục, bị chúa Hưng nô đầy lên Bắc Hải chăn dê, nhà Hán hỏi, thì bảo là chết rồi, sau sứ Hán phải nói thác là vua Hán săn được con chim nhạn ở vườn thượng lâm chân nó có buộc một bức thư lụa của Tồ Vũ gửi về, khi ấy Hưng nô mới chịu trả lại Tô Vũ cho nhà Hán. Do đó, người ta thường nói “tin nhạn” để chỉ tin thư. ở đây, tác giả dùng như nghĩa “tin tức” đơn thuần.
946Đưa người cửa trước rước người cửa sau.
947Lạ tai nghe chửa biết đâu,
948Xem tình ra cũng những màu dở dang.
949Lễ xong hương hỏa gia đường,Hương hoa gia đường: Bốn chữ này nguyên chỉ nhà hay bàn thờ cúng gia tiên, đây tác giả dùng chỉ bàn thờ thần Bạch mi.
950Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.
951Dạy rằng: Con lạy mẹ đây,
952Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.Cậu mày: Tức cha mày, chỉ Mã Giám sinh, Tú Bà bắt Kiều lạy nhận mụ là mẹ nuôi. Mã Giám sinh là cha nuôi.
953Nàng rằng: Phải bước lưu ly,
954Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.Tiểu tinh: Sao nhỏ, chỉ vợ lẽ.
955Điều đâu lấy yến làm oanh,
956Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
957Đủ điều nạp thái vu qui,
958Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.
959Giờ ra thay mặt đổi ngôi,
960Dám xin gửi lại một lời cho minh.
961Mụ nghe nàng nói hay tình,
962Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:Tam banh: Theo sách Đạo giáo “Trong người ta có ba thần thi: Thượng Thi, tên Bành Chất, ở bụng;Hạ Thi, tên Bành Kiệu, ở chân, thường làm hại người”. Do đó, người ta cho rằng: những sự hung ác giận dữ của người là do thần “Tam thi” hay”Tam Bành” làm ra, và thường dùng chữ tam bành để chỉ cơn tức giận.
963Này này sự đã quả nhiên,
964Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi.Min: Ta, tao (tiếng cổ).
965Bảo rằng đi dạo lấy người,
966Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
967Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
968Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
969Màu hồ đã mất đi rồi,
970Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
971Con kia đã bán cho ta,
972Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
973Lão kia có giở bài bây,
974Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
975Cớ sao chịu tốt một bề,
976Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
977Phải làm cho biết phép tao!
978Chập bì tiên rắp sấn vào ra tay.Bì tiên: Cái roi bằng da.
979Nàng rằng: Trời thẳm đất dày!
980Thân này đã bỏ những ngày ra đi.
981Thôi thì thôi có tiếc gì!
982Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.
983Sợ gan nát ngọc liều hoa!
984Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.
985Thương ôi tài sắc bậc này,
986Một dao oan nghiệt đứt dây phong trần.Phong trần: Cõi đời gió bụi. ý nói: Một nhát dao oan nghiệt cắt đứt quan hệ với cuộc đời phong trần tức là chết.
987Nỗi oan vỡ lở xa gần,
988Trong nhà người chật một lần như nêm.
989Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
990Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
991Vực nàng vào chốn hiên tây,
992Cắt người coi sóc chạy thầy thuốc thang.
993Nào hay chưa hết trần duyên,Trần duyên: Nhân duyên cõi trần, cõi đời.
994Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
995Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
996Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
997Số còn nặng nợ má đào,
998Người dầu muốn quyết trời nào đã cho.
999Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
1000Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau.Tiền đường: Tên một con sông chảy qua gần Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
1001Thuốc thang suốt một ngày thâu,
1002Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan.
1003Tú bà chực sẵn bên màn,
1004Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:
1005Một người dễ có mấy thân!
1006Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài.Hoa xuân đương nhuỵ: Hoa xuân đương lên nhuỵ, tức mới nở. ý nói Kiều còn trẻ trung.
1007Cũng là lỡ một lầm hai,
1008Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây!Đá vàng: Đây chỉ lòng kiên trinh của phụ nữ.
1009Lỡ chân trót đã vào đây,
1010Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non.Khoá buồng xuân: Khoá kín vẻ xuân trong buồng, như nói cấm cung. Đợi ngày đào non: Đợi ngày lấy chồng.
1011Người còn thì của hãy còn,
1012Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà.
1013Làm chi tội báo oán gia,Tội báo: Như nói là ác báo. Oan gia: Kẻ oán thù, cừu thù.
1014Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?
1015Kề tai mấy mỗi nằn nì,
1016Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi.Thị phi rạch ròi: Lẽ phải, lẽ trái phân minh. Đại ý: Kiều nghe lời Tú Bà nói cũng có lý.
1017Vả suy thần mộng mấy lời,Thần mộng: Lời báo mộng của quỉ thần (tức Đạm Tiên).
1018Túc nhân âu cũng có trời ở trong.Tức nhân: Nhân duyên có sẵn từ trước, như nói duyên số tiền định.
1019Kiếp này nợ trả chưa xong,
1020Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!
1021Lặng nghe, thấm thía gót đầu,
1022Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này?
1023Được như lời, thế là may,
1024Hẳn rằng mai có như rày cho chăng!
1025Sợ khi ong bướm đãi đằng,Đãi đằng: Tiếng cổ, nghĩa là giãi bày. Ca dao: Cá buồn cá lội tung tang, Em buồn em biết dãi dằng cùng ai. Ở đây đãi đằng có nghĩa là điều ra tiếng vào của những người khách chơi.
1026Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!
1027Mụ rằng: Con hãy thong dong,Thong dong: ở đây có nghĩa là khoan tâm, thư tâm.
1028Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
1029Mai sau ở chẳng như lời,
1030Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.
1031Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,
1032Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.
1033Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,Ngưng bích: Tên cái lầu mà Tú Bà dành cho Kiều ở. Ngưng Bích: Nghĩa là đọng (tụ) lại màu biếc.
1034Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung.
1035Bốn bề bát ngát xa trông,
1036Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.Bụi hồng: Đây chỉ những đám bụi bốc lên ở trên đường.
1037Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,Bẽ bàng: Chán ngán, buồn tủi.
1038Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.
1039Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,Chén đồng: Chén đồng tâm, tức chén rượu thề nguyền đồng tâm với nhau.
1040Tin sương luống những rày trông mai chờ.
1041Bên trời góc bể bơ vơ,
1042Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.Tấm son: Tấm lòng son, đây chỉ tấm lòng thuỷ chung.
1043Xót người tựa cửa hôm mai,
1044Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?Quạt hồng, ấm lạnh: Quạt khi nồng, ấp khi lạnh, do chữ đông ôn hạ sảnh ở Kinh Lễ.
1045Sân Lai cách mấy nắng mưa,Sân Lai: Sân Lão Lai. Theo sách Cao Sĩ truyện: “Lão Lai Tử, người nước Sở, đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài bảy mươi, mà còn cha mẹ già, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, ra múa ở trước sân, rồi giả cách ngã, khóc, như trẻ con, để làm cho cha mẹ vui”. Đây nói bóng sân nhà cho mẹ, tức nhà mình.
1046Có khi gốc tử đã vừa người ôm?Gốc tử: Gốc cây tử (loài cây thị). Đây dùng chỉ cha mẹ, “gốc tử đã vừa người ôm” nói bóng cha mẹ đã già rồi.
1047Buồn trông cửa bể chiều hôm,
1048Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
1049Buồn trông ngọn nước mới sa,
1050Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
1051Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
1052Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
1053Buồn trông gió cuốn mặt ghềnhGhềnh: Vực sâu, vũng biển.
1054Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị
1055Chung quanh những nước non người,
1056Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu.
1057Ngậm ngùi rủ bước rèm châu,Rèm châu: do chữ Châu liêm, rèm kết bằng ngọc châu.
1058Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần.
1059Một chàng vừa trạc thanh xuân,
1060Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
1061Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,Mạch: Dòng dõi.
1062Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
1063Bóng nga thấp thoáng dưới mành,Bóng nga: Bóng người đẹp, chỉ Kiều.
1064Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai.Đeo đai: Vương vấn ra vẻ quyến luyến.
1065Than ôi! Sắc nước hương trời,
1066Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
1067Giá đành trong nguyệt trên mây,Trong nguyện trên mây: ý nói có một phẩm giá khác đời, như Hằng nga trong cung nguyệt hay tiên nữ trên cung mây.
1068Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa?
1069Tức gan riêng giận trời già,
1070Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?Chữ lòng ở đầu câu là Sở Khanh tự nói lòng mình còn chữ lòng ở cuối câu là Sở Khanh hỏi lòng Kiều, hai chữ chỉ riêng hai người.
1071Thuyền quyên ví biết anh hùng,
1072Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi!
1073Song thu đã khép cánh ngoài,Song thu: Cửa sổ mùa thu (nói thời tiết khi ấy).
1074Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.
1075Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
1076Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ.
1077Những là lần lữa nắng mưa,
1078Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi?
1079Đánh liều nhắn một hai lời,
1080Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.Tế độ: Cứu vớt. Trầm luân: Chìm đắm, đắm đuổi. ý Kiều muốn nhờ Sở Khanh cứu mình thoát nạn thanh lâu như Phật cứu vớt chúng sinh khỏi bể trầm luân.
1081Mảnh tiên kể hết xa gần,Mảnh tiên: Mảnh giấy hoa tiên, tức tờ thư.
1082Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài.Nỗi nhà báo đáp: Nông nỗi phải báo đáp ơn nhà, bán mình chuộc cha.
1083Tan sương vừa rạng ngày mai,
1084Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang.Tiện hồng: Thuận tiện cánh chim hồng, tức là nhân có người mà gửi thư. Chữ hồng đây dùng như chữ nhạn, chỉ tin tức thư từ.
1085Trời tây lãng đãng bóng vàng,
1086Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi.Tiên mai: Do chữ mai tiên, tờ tiên có vẽ cành hoa mai.
1087Mở xem một bức tiên mai,
1088Rành rành tích việt có hai chữ đề.
1089Lấy trong ý tứ mà suy:
1090Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?Tuất thì: Giờ tuất, tức tám, chín giờ tối hiện nay. Hai chữ tích việt của Sở Khanh, đem tản ra theo lối tản tự, thì thành những chữ trấp nhất naật tuất lẩu, nghĩa là ngày hai mươi mốt, giờ tuất, chạy trốn. Đó là Sở Khanh bí mật hẹn ngày giờ đi trốn mà Kiều đã lấy ý tứ suy đoán ra.
1091Chim hôm thoi thót về rừng,Thoi thót: Chim từng con lần lượt bay về, con này rồi đến con khác.
1092Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.Ngậm trăng nửa vành: ý nói buổi tối, vầng trăng chiếu vào hoa trà mi ngậm lấy nửa vành trăng.
1093Tường đông lay động bóng cành,
1094Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào.
1095Sượng sùng đánh dạn ra chào,
1096Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần.Ân cần: ở đây có nghĩa là khẩn khoản.
1097Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,Bèo bọt: Như bèo hay bọt trôi nổi trên mặt nước, ngụ lý lưu lạc lẻ loi.
1098Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh.Yến anh: Đây chỉ gái nhà chứa. ý Kiều nói: nàng như con chim lạc đàn, lại mang lấy cái nợ làm gái nhà chứa.
1099Dám nhờ cốt nhục tử sinh,Cốt nhục tử sinh: Do chữ sinh tử nhục cốt. Tả chuyện: Sở vị sinh tử cốt đã (thế gọi là làm sống lại người chết, làm mọc thịt nắn xương khô – làm cho người đã chết sống lại, xương đã khô mọc thịt ra). Do đó, người ta thường chỉ sự làm ơn rất sâu sắc, to lớn.
1100Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau!Kết cỏ ngậm vành: Tả chuyện: Nguỵ Thù nước Tấn, có tột người thiếp yêu, khi sắp chết còn dặn con là Nguỵ Khoả phải đem cả người thiếp chôn theo. Nguỵ Thù chết, Nguỵ Khoả cho người thiếp về không đem chôn theo. Sau Nguỵ Khoả làm tướng đi đánh giặc nước Tần, gặp tướng Tần là Đỗ Hồi, khoẻ mạnh có tiếng, đang lúc đánh nhau, tự nhiên Đỗ Hồi vấp phải đám cỏ mà ngã, bị Nguỵ Khoả bắt được. Đêm về, Nguỵ Khoả mộng thấy một ông già đến nói rằng: “Tôi là cha người thiếp, cảm ơn ông không chôn con gái tôi, nên tôi kết cỏ quấn chân Đỗ Hồi cho nó ngã vấp để báo ơn”. Tục Tề hài ký: Dương Biểu đến chơi núi Hoa Âm cứu sống được một con chim. Đêm ấy có một đồng tử mặc áo vàng đến tặng bốn chiếc vòng và nói rằng: “Ta là sứ giả của Tây Vương mẫu may được chàng cứu mạng, xin cảm tạ đại ân”. Do đó, người ta thường nói “kết cỏ ngậm vành” để chỉ sự đền ơn trả nghĩa.
1101Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu:
1102Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng!
1103Nàng đà biết đến ta chăng,
1104Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi!
1105Nàng rằng: Muôn sự ơn người,
1106Thế nào xin quyết một bài cho xong.
1107Rằng: Ta có ngựa truy phong,Truy phong: Đuổi theo gió, nói con ngựa đi rất nhanh.
1108Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi.Dưới trướng: Do chữ trướng hạ, nguyên chỉ quân sĩ thuộc quyền chỉ huy của một vị soái. Đây dùng để chỉ kẻ thủ hạ của Sở Khanh. Kiện nhi: Người trẻ tuổi mà có sức khỏe. Sở Khanh khoe nhà y có ngựa tốt và thủ hạ khỏe mạnh, là có ý bảo Kiều nếu chạy trốn thì sẽ sẵn phương tiện và người hộ vệ chắc chắn không phải lo ngại gì.
1109Thừa cơ lẻn bước ra đi,
1110Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.Ba mươi sáu chước: “Tam thập lục” là một danh từ chỉ chung tất cả các chước. Câu này Sở Khanh bảo Kiều chỉ có một kế hay nhất là chạy trốn.
1111Dù khi gió kép, mưa đơn,Gió kép mưa đơn: ý nói dù có những trở ngại bất trắc…
1112Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!
1113Nghe lời nàng đã sinh nghi,
1114Song đà quá đỗi, quản gì được thân.Quá đỗi: Quá mức, quá đà, ý nói việc đã trót dở dang rồi.
1115Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
1116Mà xem con tạo xoay vần đến đâu!
1117Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,
1118Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.
1119Đêm thâu khắc lậu canh tàn,Lậu: Đồng hồ nhỏ giọt. Thời xưa thường dùng “đồng hồ nước” để tính thời khắc. Đó là một cái đồng hồ bằng đồng, dưới có đục lỗ nhỏ, trong chứa nước, giữa đựng một cái tên có khắc độ;nước trong hồ do lỗ nhỏ giọt ra, thì những độ số ở cái tên cũng dần dần lộ ra, xem đó, biết được thời khắc của ngày đêm. Danh từ đồng hồ ngày nay còn quen gọi là gốc ở đó.
1120Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.
1121Lối mòn cỏ nhợt mù sương,
1122Lòng quê đi một bước đường, một đau.Lòng quê: Lòng nhớ quê hương.
1123Tiếng gà xao xác gáy mau,
1124Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.Dậy dàng: Xôn xao ồn ào nổi lên.
1125Nàng càng thổn thức gan vàng,Gan vàng: Có nghĩa như “lòng vàng”. Kiều đoán có người đuổi theo phía sau nên hồi hộp sợ hãi…
1126Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!
1127Một mình khôn biết làm sao,
1128Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng.Dặm rừng: Đường rừng, lối đi trong rừng.
1129Hóa nhi thật có nỡ lòng,
1130Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau!Lắm nau: Lắm nao, có nghĩa là đến như thế sao!
1131Một đoàn đổ đến trước sau,
1132Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời.Vuốt: Móng sắc của loài thú. ý nói không thoát lối nào được.
1133Tú bà tốc thẳng đến nơi,
1134Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà.
1135Hung hăng chẳng nói chẳng tra,
1136Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời.
1137Thịt da ai cũng là người,
1138Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.
1139Hết lời thú phục, khẩn cầu,Thú tội, chịu tội. Khẩn cầu: Khẩn khoản, cầu xin.
1140Uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa.
1141Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
1142Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.Nước non ý nói cách trở nước non, tức là nơi ở xa xôi.
1143Bây giờ sống chết ở tay,
1144Thân này đã đến thế này thì thôi!
1145Nhưng tôi có sá chi tôi,
1146Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
1147Thân lươn bao quản lấm đầu,
1148Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!
1149Được lời mụ mới tùy cơ,
1150Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu.Bảo lĩnh: Người đứng ra đảm bảo, chịu trách nhiệm thay. Cung chiêu: Cung khai, nhận tội Tú bà muốn bắt buộc Kiều giữ lời hứa, nên bắt làm tờ cung chiêu nhận tội, và bắt người đứng bảo lĩnh về lời cam kết của nàng.
1151Bày vai có ả Mã Kiều,Bày vai: Cùng hàng cùng lứa.
1152Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan.Chịu đoan: Chịu nhận trách nhiệm về Kiều.
1153Mụ càng kể nhặt, kể khoan,
1154Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha.
1155Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
1156Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
1157Thôi đà mắc lận thì thôi!
1158Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
1159Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
1160Một tay chôn biết mấy cành phù dung!Phù dung: Hoa phù dung, ví với người đẹp.
1161Đà đao lập sẵn chước dùng,Đà đao: Khi đánh giặc, giả thua chạy để người ta đuổi theo, rồi thình lình quăng dao lại chém, gọi là “đà dao”. “Đà đao” đây là một chước lửa.
1162Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!Mộ cốt một đồng: Nói Tú bà với Sở Khanh thông đồng hiệp mưu với nhau để đánh lừa Kiều.
1163Có ba mươi lạng trao tay,
1164Không dưng chi có chuyện này, trò kia!Không dưng: Nếu không thì tự nhiên làm chi có…
1165Rồi ra trở mặt tức thì,
1166Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời!Sân si: Phân bua, cãi cọ. Mã Kiều khuyên Kiều nên nén nỗi tức giận, chớ nên đôi có với Sở Khanh mà thiệt mình.
1167Nàng rằng: Thề thốt nặng lời,
1168Có đâu mà lại ra người hiểm sâu!
1169Còn đương suy trước, nghĩ sau,
1170Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào.
1171Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
1172Rằng nghe mới có con nào ở đây.
1173Phao cho quyến gió rủ mây,Quyến gió rủ mây: Quyến rũ mây gió đi theo. ý nói quyến rũ Kiều.
1174Hãy xem có biết mặt này là ai?
1175Nàng rằng: Thôi thế thì thôi!
1176Rằng không, thì cũng vâng lời là không!
1177Sở Khanh quắt mắng đùng đùng,
1178Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay,Thị hùng: Cậy sức mạnh mà ra oai đánh đập người.
1179Nàng rằng: Trời nhé có hay!
1180Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?Anh yến: Chỉ chung những người con gái.
1181Đem người giẩy xuống giếng khơi,Giếng khơi: Giếng sâu.
1182Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!Ăn lời: Nuốt lời, tức không giữ lời.
1183Còn tiên tích việt ở tay,
1184Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?Mặt ấy, mặt này: Mấy tiếng này, Kiều xỉa xói vào mặt Sở Khanh mà nói, đối đáp lại tiếng “mặt mày” của Sở Khanh ở trên.
1185Lời ngay, đông mặt trong ngoài,
1186Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương!Vô lương: Cũng như bất lương, không lương thiện, không có lương tâm.
1187Phụ tình án đã rõ ràng,
1188Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui.
1189Buồng riêng, riêng những sụt sùi:
1190Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân.
1191Tiếc thay trong giá trắng ngần,Trong giá trắng ngần: Do câu tục ngữ: Trong như giá, trắng như ngần, trong như băng trắng như bạc (ngần là do chữ ngân).
1192Đến phong trần, cũng phong trần như ai!
1193Tẻ vui cũng một kiếp người,
1194Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!
1195Kiếp xưa đã vụng đường tu,
1196Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
1197Dù sao bình đã vỡ rồi,
1198Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!
1199Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,
1200Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
1201Nghề chơi cũng lắm công phu,
1202Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.
1203Nàng rằng: Mưa gió dập dìu,
1204Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!
1205Mụ rằng: Ai cũng như ai,
1206Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
1207Ở trong còn lắm điều hay,
1208Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.Khép mở, riêng chung: Chỉ giọng nói tỉ tê, nửa khép nửa mở, mối tình nỉ non, như riêng như chung, tức những mánh khoé quyến rũ.
1209Này con thuộc lấy nằm lòng,
1210Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.Vành ngoài bảy chữ: Bảy cách đối với khách ở bề ngoài để cho khách say mê. Vành trong tám nghề: Tám cách đối đãi trong khi ăn nằm với khách, đối với mỗi hạng người, dùng một lối riêng để làm vừa lòng họ.
1211Chơi cho liễu chán, hoa chê,
1212Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.
1213Khi khóe hạnh, khi nét ngài,Khoé hanh: Khoé mắt;mắt sắc như lá hạnh. Khi khoé hạnh, khi nét ngài: ý nói khi mắt liếc, khi mày đưa.
1214Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.
1215Đều là nghề nghiệp trong nhà,
1216Đủ ngần ấy nết, mới là người soi.Người soi: Người sành sỏi, lịch lãm, biết ngón chơi.
1217Gót đầu vâng dạy mấy lời,
1218Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng.Nét nguyệt: Nét lông mày hình vành trăng. Vẻ hồng: Vẻ mặt hồng.
1219Những nghe nói, đã thẹn thùng,
1220Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe!Khắt khe: ở đây như nói éo le, quái ác.
1221Xót mình cửa các, buồng khuê,Các khuê: Do chữ khuê các.
1222Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
1223Khéo là mặt dạn, mày dày,
1224Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
1225Thương thay thân phận lạc loài,
1226Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?
1227Lầu xanh, mới rủ trướng đào,Trướng đào: Màn màu đỏ, phụ nữ thường dùng.
1228Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
1229Biết bao bướm lả, ong lơi,
1230Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
1231Dập dìu lá gió, cành chim,Lá gió cành chim: Lá đưa gió, cành đón chim, chỉ sự đưa đón khách chơi.
1232Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.Tổng Ngọc: Người nước Sở, đời chiến quốc, đẹp trai, có những bài Cao đường phú, Thần nữ phú, nói về chuyện mây mưa của thần núi Vu Sơn. Tràng Khanh: (Chính là chữ Trưởng nhưng thường đọc là Trường hay Tràng): Tên tự của Tư Mã Tương Như, người Hán, yêu sắc đẹp của Trác Văn Quân, gảy đàn cầm gợi tình, làm cho nàng đang đêm bỏ nhà chốn theo mình. Tống Ngọc và Tràng Khanh đều giỏi từ phú, là hai người tài tử, do đó, câu này ngụ ý khách đến chơi toàn những hạng phong lưu quý phái.
1233Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
1234Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
1235Khi sao phong gấm rủ là,
1236Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
1237Mặt sao dày gió dạn sương,
1238Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
1239Mặt người mưa Sở, mây Tần,Mưa Sở mây Tần: Chỉ sự ái ân trai gái.
1240Những mình nào biết có xuân là gì!
1241Đôi phen gió tựa, hoa kề,Gió tựa, hoa kề: ý nói những cảnh vui thú ở chốn thanh lâu.
1242Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.Tuyết ngậm: Bóng trăng tỏ soi khắp bốn bề. Hai câu 1241-1242 tả bốn cảnh: “gió, hoa, tuyết, trăng” (phong, hoa, tuyết nguyệt).
1243Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
1244Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
1245Đòi phen nét vẽ, câu thơ,
1246Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa,Trong nguyệt: Trong bóng trăng. Dưới hoa: Dưới dàn hoa. Hai câu 1245-1246 tả bốn thú chơi: gẩy đàn, đánh cờ, ngâm thơ, vẽ tranh, (cầm, kỳ, thi, hoa).
1247Vui là vui gượng kẻo mà,
1248Ai tri âm đó, mặn mà với ai?
1249Thờ ơ gió trúc, mưa mai,Gió trúc mưa mai: Mưa gió chỉ sự ái ân (như nghĩa mưa gió dập vùi) trúc mai chỉ sự bạn. Đây tiếp ý trên: Kiều thờ ơ với tất cả những chuyện mưa gió, trúc mai…
1250Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân.Giùi mài: Như nói mòn mỏi, thui thủi. Cũng có ý như là bị dập vùi.
1251Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
1252Chẳng vò mà rối, chẳng giần mà đau!
1253Nhớ ơn chín chữ cao sâu,Bóng dâu: Bóng mặt trời xế trên ngọn dâu. Sách Hoài nam nữ nói: Mặt trời xế về phía phương Tây, gác bóng trên ngọn cây. Người sau mượn chữ bóng dâu để ví tuổi già.
1254Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
1255Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,Dặm nghìn: Tức nghìn dặm.
1256Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
1257Sân hòe đôi chút thơ ngâySân hoè: Sân có trồng cây hoè. Vương Hựu đời Tống tự tay trồng ba cây hoè ở sân nhà và nói: “Con cháu ta sau này thế nào cũng làm đến chức tam công” (Thời xưa, ở phía trước sân chầu nhà vua, chỗ ngồi của tam công, có trồng ba cây hoè, nên Vương Đán làm đến tể tướng. Nhân đó, người ta thường nói sân hoè để chỉ những nhà có con cái hiển đạt). Đôi chút thơ ngây: Chỉ Thuý Vân và Vương Quan.
1258Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?Trân cam: Những thức ăn quý báu, ngon ngọt. Hai câu này, ý Kiều nói: Cha mẹ mỗi ngày một già, mà con cái trong nhà, thì sau khi nàng đi iồi, chỉ còn hai em nhỏ dại, lấy ai là người phụng dưỡng trân cam thay mình.
1259Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
1260Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
1261Khi về hỏi liễu Chương đài,Chương Đài: theo sách Thái bình quảng ký: Hàn hoành, đời Đường lấy một danh kỳ là Liễu thị ở đường phố Chương Đài, Trường An, sau đi làm quan xa, để vợ ở lại đó ba năm, không đón đi được,có gửi cho Liễu thị bài từ rằng: Chương Đài Liễu, Chương Đài Liễu, đã ưng nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thuỳ, đã ưng phan chiết tha nhân thủ! (Cây liễu Chương Đài, cây liễn Chương Đài, ngày trước xanh xanh, nay còn không? Cho dù cành dài vẫn buông rủ như cũ, song có lẽ đã vin vào tay người khác rồi!). Đây ý nói: Khi Kim Trọng đi Liêu Dương hộ tang chú trở về, sẽ hỏi người tình nhân cũ (là Thuý Kiều).
1262Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.Cành xuân: Cành xanh đẹp..
1263Tình sâu mong trả nghĩa dày,Tình sâu: chỉ tình chị em, Nghĩa dày: Chỉ nghĩa vợ chồng. ý Kiều mong Thuý Vân lấy tình chị em thay mình, trả nghĩa cho Kim Trọng.
1264Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?Hoa kia, cành này: “Hoa kia” chỉ Thuý Vân, “cành này” chỉ Kim Trọng.
1265Mối tình đòi đoạn vò tơ,
1266Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.Hương quan: Quê hương. Giấc hương quan: Giấc mộng về quê hương.
1267Song sa vò võ phương trời,Song ca: cũng như song the. Xem chú thích 240
1268Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng.Hoàng hôn: Về chiều tối, khi mặt trời sắp lặn, có ánh vàng vàng, gọi là hoàng hôn.
1269Lần lần thỏ bạc ác vàng,Thỏ bạc, ác vàng: Như nói “thỏ lặn, ác tà” tức ngày và đêm lần lượt qua đi.
1270Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!
1271Đã cho lấy chữ hồng nhan,
1272Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!
1273Đã đày vào kiếp phong trần,
1274Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
1275Khách du bỗng có một người,Khách du: Khách đi chơi, đi du lãm.
1276Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.Kỳ tâm: Tên của họ Thúc, theo truyện Thanh tâm tài nhân thì Kỳ Tầm là tên tự của Thúc sinh.
1277Vốn người huyện Tích châu Thường,Huyện Thích, Châu Thường: tức huyện Vô Tích, phủ Thường Châu, thuộc tỉnh Giang Tô (Trung Quốc).
1278Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri.Nghiêm đường: Tức cha. Cha tính nghiêm nghị, mẹ tính hiền từ, nên người ta gọi cha là “nghiêm đường”, “nghiêm phụ”, mẹ là “từ mẫu”, “từ thân”.
1279Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,Thiếp hồng: Do chữ hồng tiên, thứ thiếp hồng gửi thăm người đẹp. Hương khuê: Phòng hương, phòng ở của phụ nữ, tục xưa phụ nữ hay dùng hương thơm, nên gọi là “hương khuê”.
1280Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.
1281Trướng tô giáp mặt hoa đào,Trưởng tô: do chữ lưu tô trưởng, thứ màn có tua kết bằng lông chim năm sắc.
1282Vẻ nào chẳng mặn nét nào chăng ưa?
1283Hải đường mơn mởn cành tơ,
1284Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.
1285Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,
1286Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
1287Lạ gì thanh khí lẽ hằng,Lẽ hằng: Lẽ thường như thế.
1288Một dây một buộc ai giằng cho ra.
1289Sớm đào tối mận lân la,Đào mận: Nói bóng sắc đẹp của người con gái.
1290Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.Đá vàng: Chỉ sự đồng tâm gắn bó với nhau.
1291Dịp đâu may mắn lạ dường,
1292Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
1293Sinh càng một tỉnh mười mê,
1294Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
1295Khi gió gác khi trăng sân,
1296Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ.Chuốc: So chữ Chước, rót rượu mời nhau. Nối thơ: Nối câu thơ, do chữ “liên cú” một lối chơi của các tao nhân mặc khách thời xưa, thường hai người, hoặc nhiều người nối lời nhau làm chung một bài thơ.
1297Khi hương sớm khi trà trưa,Hương sớm, trà trưa: Xông hương buổi sớm, uống trà buổi trưa.
1298Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.Bàn vây: Bàn cờ vây. Trung Quốc có hai lối chơi cờ: Vi kỳ: Cờ vây. Tượng kỳ: tức cờ tướng.
1299Miệt mài trong cuộc truy hoan,Truy hoan: Theo đuổi sự vui chơi.
1300Càng quen thuộc nết càng dan díu tình.
1301Lạ cho cái sóng khuynh thành,Sóng khuynh thành: Chỉ cái liếc nhìn của người đàn bà đẹp.
1302Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.
1303Thúc sinh quen thói bốc rời,Bốc rời: Tiền rời cứ bốc từng nắm mà chi, không cần đếm là bao nhiêu, ý nói vung phí không tiếc tiền.
1304Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
1305Mụ càng tô lục chuốt hồng,
1306Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê.Hơi đồng: Tức mùi tiền bạc. Thời xưa, tiền tiêu đúc bằng đồng, nên nói “đồng” tức là tiền.
1307Dưới trăng quyên đã gọi hè,
1308Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.Lửa lựu: Hoa lựu khi nó nở trông đỏ chói như lửa chỉ cảnh mùa hè.
1309Buồng the phải buổi thong dong,
1310Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
1311Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
1312Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.Kiều có một thân thể đầy đặn xinh đẹp.
1313Sinh càng tỏ nét càng khen,
1314Ngụ tình tay thảo một thiên luật đường.Luật Đường: Tức lối thơ ngữ ngôn luật (luật năm chữ) hay thất ngôn luật (luật bảy chữ), mỗi bài tám câu, năm vần, theo đúng niêm luật bằng trắc. Lối này có từ đời Đường, nên gọi là luật Đường.
1315Nàng rằng: Vâng biết ý chàng.
1316Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
1317Hay hèn lẽ cũng nối điêu,Nối điêu: Nối đuôi con điêu. “Điêu” là một loài chuột ở rừng núi miền lạnh, đuôi to, lông dài đến một tấc, màu vàng hoặc đen tía. Đời Hán, theo quan chế, các quan hầu cận vua đều đội thứ mũ có cắm đuôi con điêu làm ngù. Đến đời Tần, Triệu Vương Luân cướp ngôi Huệ đế, phong quan tước cho bọn tôi tớ, mỗi khi triệu hội, ngồi đẩy những người đội mũ đuôi điêu, nên người thời ấy đã chê giếu: Điêu bất tức, cầu vĩ tục (đuôi điêu không đủ, lấy đuôi chó nối vào). Người sau nhân chữ cẩu vĩ tục điêu (nối điêu) để chỉ sự việc gì có tính chất học đòi. Chữ “nối điêu” ở đây, là lời Kiều tự khiêm về việc họa lại thơ Thúc sinh.
1318Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.Nỗi quê: Nỗi lòng nhớ quê hương.
1319Lòng còn gửi áng mây Vàng.Mây vàng: Nói ý nhớ nhà, do câu thơ cổ: Tần Trung đa bạch vân. Thục trung đa hoàng vân, cố tư gia giả vị chi cư hoàng vân (đất Tần nhiều mây trắng, đất Thục nhiều mây vàng, cho nên nhớ nhà gọi là nhớ mây vàng).
1320Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.
1321Rằng: Sao nói lạ lùng thay!
1322Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?Cành kia, cỗi này: Chỉ Kiều và Tú bà. Thúc sinh tưởng Kiều là con đẻ của Tú bà.
1323Nàng càng ủ đột thu ba,Thu ba: Sóng mùa thu, chỉ con mắt (nói con mắt trong suốt như suối mùa thu).
1324Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh:
1325Thiếp như hoa đã lìa cành,
1326Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.
1327Chúa xuân đành đã có nơi,Chúa xuân: Người chủ vường xuân, chủ hoa xuân, đây chỉ Thúc sinh. Câu này ý nói: Thúc Sinh ở nhà đã có vợ rồi.
1328Vắn ngày thôi chớ dài lời làm chi.
1329Sinh răng: Từ thuở tương tri,Tương tri: Hiểu biết nhau thông cảm với nhau.
1330Tấm riêng riêng những nặng vì nước non.Nước non: Sông núi tức lời thề nguyền kết làm vợ chồng.
1331Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
1332Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
1333Nàng rằng: Muôn đội ơn lòng.
1334Chút e bên thú bên tòng dễ đâu.Thú, tòng: Thú là “thú thiếp”: lấy vợ lẽ, chỉ bên Thúc sinh;tòng “tòng lương”: trở về lương, tức bỏ chỗ lầu xanh để trở về, đi lấy chồng, chỉ bên Kiều. Hai bên cùng gặp nhiều khó khăn.
1335Bình Khang nấn ná bấy lâu,Bình khang: Đời Đường, ở kinh thành Trường an, gần cửa Bắc, có một xóm gọi là Bình Khang cho kỹ nữ ở, sau nhân dùng làm danh từ chỉ chung xóm kỹ nữ.
1336Yêu hoa yêu được một màu điểm trang.
1337Rồi ra lạt phấn phai hương,
1338Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
1339Vả trong thềm quế cung trăng,Thềm quế: Thềm điện quế. Dâu đương tạp trở chép: Trên mặt trăng có cây quế tiêu, cao năm trăm trượng, do đó, khi tả mặt trăng, người ta thường dùng chữ điện quế, cung quế.
1340Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong.Chị Hằng: Chị Hằng Nga, người chủ trương trong điện quế, nói bóng vợ cả Thúc sinh.
1341Bấy lâu khăng khít dải đồng,Giải đồng: Giải đồng tâm.
1342Thêm người người cũng chia lòng riêng tây.Thêm người, người cũng… chữ người chỉ Kiều, chữ người dưới chỉ Thúc sinh.
1343Vẻ chi chút phận bèo mây,Bèo mây: Nói thân phận trôi nổi bất định như bèo mặt nước, mây trên không.
1344Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.Bể ái: Bể ân ái, tức tình yêu vợ chồng.
1345Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
1346Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
1347Như chàng có vững tay co,Vững tay co: Cái tay co vững. Kiều nói: Nếu chàng có cứng tay, tức có quyền lực đối với vợ cả.
1348Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
1349Thế trong dầu lớn hơn ngoài,Trong ngoài: Chỉ vợ cả và Thúc sinh. Theo lễ giáo xưa: Nam t ự ngoại, nữ tự nội: Đàn ông trong coi việc bên ngoài, đàn bà trông coi việc trong nhà. ý Kiều nói: Nếu thế lực vợ cả lớn hơn thế lực chàng.
1350Trươc hàm sư tử gửi người đằng la.Hàm sư tử: Đời Tống, Trần Tháo, hiệu Long Khâu cư sĩ, hay nói chuyện đạo Phật, vợ là Liễu thị, tính dữ tợn mà cả ghen, mỗi khi Tháo thết tiệc tân khách, có ca kỹ, thì ở trong nhà, Liễu thị lấy gậy đập vào vách, hò hét, khách phải giải tán. Tồ Thức, Bạn Tháo, viết mấy câu thơ đùa:”Thuỳ tự Long Khâu cư sĩ hiền, Đàm không thuyết hữu dạ bất miên, Hốt văn Hà Đông sư tử hồng. Trụ trượng lạc thủ tấm mang nhiên”. Dịch nghĩa: “Ai giỏi như Long Khâu cư sĩ, Nói những thuyết không, thuyết có, đếm không ngủ. Bỗng nghe sử tử Hà Đông rống lên. Tay rơi gậy chống, lòng bàng hoàng.”. Đằng la: Những loài dây leo (chính nghĩa là dây bim, dây tơ hồng) dây dùng như chữ cát đằng dây bìm, ví với phận lẽ mọn.
1351Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
1352Giấm chua lại tội băng ba lửa nồng.Một số cố lão ở Nghệ – Tĩnh thuộc hai chữ đầu câu này là Dấm vùi hay Nhúm vùi. ý nói: lửa bếp vùi âm ỉ cháy (chỉ thói ghen tuông) còn khó chịu hơn cả lửa hồng.
1353Ở trên còn có nhà thông,Nhà thông: Nhà thung, đọc chệch ra, tức nhà xuân, do chữ xuân đường chỉ bố Thúc sinh.
1354Lượng trên trong xuống biết lòng có thương?
1355Sá chi liễu ngõ hoa tường?Liễu ngõ, hoa tường: Nói ví gái lầu xanh như liễu bên đường, hoa đầu tường, ai vin ai hái cũng được.
1356Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh.
1357Lại càng dơ dáng dại hình,
1358Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng.
1359Thương sao cho vẹn thì thương.
1360Tính sao cho vẹn mọi đường xin vâng.
1361Sinh rằng: Hay nói đè chừng!
1362Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao?
1363Đường xa chớ ngại Ngô Lào,Ngô, Lào: Nước Ngô (Trung Quốc), nước Lào (Ai Lao) tác giả dùng nghĩa bóng. ý nói: Đừng nghĩ ngợi xa xôi, quanh quẩn làm gì.
1364Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
1365Đã gần chi có điều xa?
1366Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều.Phong ba: Sóng gió, chỉ sự bất trắc xẩy ra.
1367Cùng nhau căn vặn đến điều,
1368Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
1369Nỉ non đêm ngắn tình dài,
1370Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.Non đoài: Núi ở phía tây.
1371Mượn điều trúc viện thừa lương,Trúc viện: Viện trúc, nơi nghỉ mát có trồng trúc xung quanh. Thừa lương: Hóng mát, nghỉ mát, Thúc sinh mượn cớ là đưa Kiều đi hóng mát.
1372Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
1373Chiến hòa sắp sẵn hai bài,Chiến, hoà: ở đây, chiến là dịa chuyện kiện cáo, hoà là lựa cách điều đình. Theo Kim vân Kiều truyện của Thanh Tầm: Thúc sinh đưa Kiều về ở nhà Hoa Dương, một tay hào phú xứ ấy, rồi một mặt cậy Hoa Dương rêu rao về tội mua con gái nhà lương thiện về làm gái điếm, một mặt mượn Bộ Tần đến đièu đình việc chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh.
1374Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.
1375Bắn tin đến mặt Tú bà,
1376Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao.Thua cơ: Thua mưu, thua mẹo của Thúc sinh.
1377Rõ ràng của dẫn tay trao,
1378Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công.Hoàn lương: Gái đĩ bỏ nghề cũ trở về đời lương thiện.
1379Công tư đôi lẽ đều xong,
1380Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.Trần ai: Bụi bậm chỉ cảnh lầu xanh.
1381Một nhà sum họp trúc mai,Trúc, mai: Chỉ sự giao kết thân mật của vợ chồng.
1382Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
1383Hương càng đượm lửa càng nồng,Hương lửa: Chỉ tình duyên vợ chồng.
1384Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.Ngọc sen: Hai câu tỏ ý “sum họp” mai trúc đã về một nhà.
1385Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
1386Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.Sân ngô: Sân có trồng cây ngô đồng. Ngô đồng là một loài cây cao, cành lá xanh biếc, nên thường gọi là bích ngô chen lá vàng giữa chòm lá xanh biếc, tức trời đã sang thu.
1387Giậu thu vừa nảy giò sương,Giậu thu: Giậu hoa mùa thu. Giò sương: giò hoa chịu được sương, ý chỉ hoa cúc.
1388Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
1389Phong lôi nổi trận bời bời,Phong lôi: gió, sấm, nói cơn giận nổi lên dữ dội như gió, như sấm.
1390Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.Nặng lòng e ấp: Thúc ông trong lòng lấy làm e sợ về việc để cho con gái lầu xanh như thế, vì không những làm xấu thanh danh nhà mình, mà đối với Hoạn thư cũng sẽ có chuyện lôi thôi.
1391Quyết ngay biện bạch một bề,Biện bạch: ở đây nghĩa là phán bảo minh mạch, rành rọt.
1392Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
1393Thấy lời nghiêm huấn rành rành,Nghiêm huấn: Lời dạy của bố.
1394Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.
1395Rằng: Con biết tội đã nhiều,
1396Đẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.Sấm sét: Do chữ lôi đình, chỉ sự ra uy, như quát mắng đánh đập. Búa rìu: Do chữ phủ việt, chỉ dự gia hình, ý cả câu: Dẫu đánh mắng hay giết chết cũng xin chịu.
1397Trót vì tay đã nhúng chàm,Tay đã nhúng chàm: Cái tay đã nhúng vào chàm, thì dù rút ra cũng bị nhuốm chàm xanh rồi.
1398Dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
1399Cùng nhau vả tiếng một ngày,
1400Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.Đã lấy nhau thành vợ chồng thì nỡ nào lại lìa bỏ, cũng như nỡ ôm đàn cầm mà gẩy thì nỡ nào lại đứt dây cho được.
1401Lượng trên quyết chẳng thương tình,
1402Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi.Bạc đen: Chưa thực rõ nghĩa. Có người giải bạc đen là sống chết cũng liều.
1403Thấy lời sắt đá tri tri,
1404Sốt gan ông mới cáo quì cửa công.Sốt gan: Nóng gan, như nói nóng tiết. Cáo quỳ: Cáo là thưa trình, quì là quì gối, tức quì gối mà đề đơn thưa trình. Lệ xưa, ai vào quan thưa trình việc gì, phải quì gối trước công đường đầu đội lá đơn.
1405Đất bằng nổi sóng đùng đùng,Đất bằng nối sóng: Do chữ Bình địa ba đào.
1406Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.Phủ đường: Dinh quan phủ, ở đầy chỉ quan phủ. Phiếu hồng: Tờ trát của quan. Thôi tra: Đòi lên xét hỏi.
1407Cùng nhau theo gót sai nha,
1408Song song vào trước sân hoa lạy quì.Sân hoa: Sân phủ đường (chữ hoa ở đây chỉ đặt cho đẹp lời)
1409Trông lên mặt sắt đen sì,Mặt sắt: Do chữ thiết diện, mặt đen và cứng rắn như sắt, thường mượn để chỉ một vị quan cương trực, nghiêm nghị.
1410Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:
1411Gã kia dại nết chơi bời,
1412Mà con người thế là người đong đưa.
1413Tuồng chi hoa thải hương thừa,
1414Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.
1415Suy trong tình trạng nguyên đơn,Nguyên đơn: Đơn của người nguyên cáo, tức Thúc ông (Thúc sinh và Kiều là bị cáo).
1416Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.
1417Phép công chiếu án luận vào.
1418Có hai đường ấy muốn sao mặc mình.
1419Một là cứ phép gia hình,Gia hình: Gia hình có nghĩa là bắt phải chịu tội, hình phạt, ở đây là phạt trượng tức dùng trường (gậy) mà đánh.
1420Một là lại cứ lầu xanh phó về.
1421Nàng rằng: đã quyết một bề!
1422Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần.Kiều nói: Đã quyết tình hoàn lương rồi, không muốn lại lần nữa mắc vào cảnh lầu xanh, như con nhện lại vướng víu vào lưới tơ thêm một lần nữa.
1423Đục trong thân cũng là thân.Đục, trong: ý nói: dù đục hay trong, dù dở hay hay.
1424Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình!Yếu thơ: Yếu ớt, thơ dại. Lôi đình: Sấm sét, chỉ hình phạt.
1425Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
1426Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.Ba cây: Do chữ tam mộc là thứ hình cụ thể bằng gỗ thời xưa, tức già, nữu giới (cái gông cổ, cái kẹp tay và cái cùm chân). ở đây, chữ bạ cây, chỉ các hình phạt dồn vào cái thân yếu ớt của Kiều. Mẫu đơn: Cành hoa đẹp ví nói Kiều.
1427Phận đành chi dám kêu oan,
1428Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
1429Một sân lầm cát đã đầy,
1430Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.
1431Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
1432Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa.
1433Khóc rằng: Oan khốc vì ta!
1434Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau.
1435Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu.
1436Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai.
1437Phủ đường nghe thoảng vào tai,Phủ đường: chỉ vào quan phủ.
1438Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.
1439Sụt sùi chàng mới thưa ngay,
1440Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân:Cầu thân: Cầu làm thân, nói việc định lấy nhau.
1441Nàng đà tính hết xa gần,
1442Từ xưa nàng đã biết thân có rày.
1443Tại tôi hứng lấy một tay,
1444Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.
1445Nghe lời nói cũng thương lời,
1446Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi.Giải vi: Cởi, gỡ vòng vây ra, đây ý nói gỡ cho ra lối thoát để giải quyết việc rắc rối này.
1447Rằng: Như hẳn có thế thì
1448Trăng hoa song cũng thị phi biết điều.
1449Sinh rằng: Chút phận bọt bèo,
1450Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.
1451Cười rằng: đã thế thì nên!
1452Mộc già hãy thử một thiên trình nghề.Mộc già: Cái gông. Đầu đề bài thơ là vịnh cái gông.
1453Nàng vâng cất bút tay đề,
1454Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
1455Khen rằng: Giá đáng Thịnh đường!Giá đáng Thình Đường: ý nói tương đương với thơ Thịnh Đường. Thịnh Đường: là giai đoạn phồn thịnh nhất thơ của triều đại nhà Đường, Trung Quốc;
1456Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!
1457Thật là tài tử giai nhân,
1458Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?Châu Trần: ở châu Từ, về huyện Phong, xưa kia có họ Châu và họ Trần, đời đời làm thông gia với nhau, về sau người ta dùng hai chữ Châu Trần để nói sự lấy nhau đẹp đôi xứng lứa.
1459Thôi đừng rước dữ cưu hờn,Rước dữ cưu hờn: Mua rước lây điều dữ và cưu mang lây sự hờn giận.
1460Làm chi lỡ nhịp cho đòn ngang cung.
1461Đã đưa đến trước cửa công,
1462Ngoài thì là lý song trong là tình.
1463Dâu con trong đạo gia đình,
1464Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.
1465Kíp truyền sắm sửa lễ công,
1466Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao.
1467Bày hàng cổ xúy xôn xao,Cổ xuý: Cổ là những nhạc khí dùng để đánh như chiêng, trống. Xuý là những nhạc khí để thổi, như kèn sáo.
1468Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.Trường đào: Màn hoa đào, đây tức là buồng cưới.
1469Thương vì hạnh trọng vì tài,
1470Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.Huệ lan: Hoa huệ, hoa lan, ngụ ý nói cảnh sum họp.
1471Huệ lan sực nức một nhà,
1472Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa.
1473Mảng vui rượu sớm cờ trưa,Mảng: Tiếng cổ có ý nói mải mê về một việc gì mà quên đi. ở đây là nghĩa này.
1474Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh.Hết mùa xuân và bắt đầu sang mùa hạ
1475Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
1476E tình nàng mới bày tình riêng chung:
1477Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
1478Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.Chim én (mùa xuân) chim nhạn (mùa thu), đổi thay nhau, ý nói từ mùa nọ sang mùa kia. ở đây ý nói thời gian trôi thấm thoắt gần được một năm.
1479Tin nhà ngày một vắng tin,
1480Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.Tao khang: bã rượu cám. Người vự cùng ăn bã, ăn cám với nhau, tức là – người vợ cả lấy từ lúc còn hàn vi. Vua Quang Vũ nhà Hán muốn đem người chị gái mới goá là công chúa Hồ Dương gả cho Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có vợ. Vua hỏi ý Hoằng, Hoằng thưa: Tao khang chi thê, bất hạ đường, nghĩa là người vợ lấy trong lúc ăn tấm, ăn cám, không thể để xuống dưới nhà, ý nói không thể khinh rẻ, phụ bạc. Vua biết ý vậy, liền thôi.
1481Nghĩ ra thật cũng nên đường,
1482Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?
1483Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
1484Ở vào khuôn phép nói ra mối đường.
1485E thay những dạ phi thường,Phi thường: khác với người thường, ý nói người sâu sắc, hiểm độc.
1486Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
1487Mà ta suốt một năm ròng,
1488Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào.
1489Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
1490Hoặc là trong có làm sao chăng là?
1491Xin chàng kíp liệu lại nhà,
1492Trước người đẹp ý sau ta biết tình.
1493Đêm ngày giữ mức giấu quanh,
1494Rày lần mai lữa như hình chưa thông.
1495Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
1496Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang.Hồi trang: Về quê.
1497Rạng ra gửi đến xuân đường,
1498Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.Ninh gia: Về thăm nhà.
1499Tiễn đưa một chén quan hà,Quan hà: Quan cửa ải, hà là sông. Chén quan hà: Chén rượu tiễn biệt.
1500Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.Xuân đình: Có thể hiểu là nơi xum họp, vui vẻ. Cao đình: Cổ thi: Cao đình tương biệt xứ, chỗ biệt nhau ở Cao đình.
1501Sông Tần một dải xanh xanh,Sông Tần: Sông ở đất Tần Xuyên, mạn tỉnh Cam Túc. Theo Tản Đà thì sông Tần là sông Tần Hoài, thuộc tỉnh Giang Tồ, quê Thúc Sinh (Vô Tích).
1502Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan.Dương quan: Tên một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây, mạn tây bắc Trung Quốc.
1503Cầm tay dài ngắn thở than,
1504Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời.
1505Nàng rằng: Non nước xa khơi,
1506Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
1507Dễ lòa yếm thắm trôn kim,Yến thắm trôn kim: Chưa thực rõ nghĩa. Đại ý câu này nói: Kiều cho rằng việc hai người lấy nhau là việc không thể dấu kín được.
1508Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!Bưng mắt bắt chim: Bưng mắt lại thì không thể nào bắt được chim. ý nói không thể nào che giấu nổi việc có vợ lẽ.
1509Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,Đèo bòng: Có nghĩa là vương vít tình duyên.
1510Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.Nói sòng: Tức nói thẳng, nói trắng ra, không quanh co giấu giếm.
1511Dù khi sóng gió bất tình,
1512Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
1513Hơn điều giấu ngược giấu xuôi.
1514Lại mang những việc tày trời đến sau.
1515Thương nhau xin nhớ lời nhau,
1516Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
1517Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
1518Chén mừng xin đợi ngày này năm sau!
1519Người lên ngựa kẻ chia bào,Bào: áo. Thường thường trong khi ly biệt người ta hhay nắm lấy áo nhau, tỏ tình quyến luyến. Chia bào tức là buông áo.
1520Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.Phong: Một loại cây ở Trung Quốc, lá chia ra nhiều cành, gần giống lá cây thầu dầu ở bên ta, đến mùa thu thì sắc lá hoá đỏ. Quan san: Quan ải, núi non, thường được dùng để chỉ sự xa xôi cách trở.
1521Dặm hồng bụi cuốn chinh an,Dặm hồng: Dặm đường đi giữa bụi hồng. Chinh là đi đường xa, an là yên ngựa. Người ta thường dùng hai chữ chinh an để chỉ việc đi đường xa.
1522Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
1523Người về chiếc bóng năm canh,
1524Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
1525Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
1526Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
1527Kể chi những nỗi dọc đường,
1528Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà:Buồng trong: Chỉ vào người vợ. Cây này đại ý nói: Bây giờ hãy nói đến người vợ Thúc sinh làm chủ gia đình ở quê nhà.
1529Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
1530Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.Lại bộ: Bộ lại, tức là quan trọng nhất trong sáu bộ của triều đình phong kiến.
1531Duyên đằng thuận nẻo gió đưa,Duyên Đằng: Cổ thi: Thời lai phong tống Đằng vương các (Thời vận đến, gí đưa lại gác Đằng Vương). ý nói gặp cơ hội may mắn.
1532Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
1533Ở ăn thì nết cũng hay,
1534Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.Ràng buộc: Có nghĩa là thắt buộc, cho người khác vào khuôn, vào phép của mình.
1535Từ nghe vườn mới thêm hoa,Vườn mới thêm hoa: ý nói Thúc sinh có thêm vợ lẽ.
1536Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
1537Lửa tâm càng dập càng nồng,
1538Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:Đen bạc: Cùng nghĩa như bạc bẽo, phụ bạc. Trăng hoa: Do chữ hoa nguyệt mà ra, ý chỉ sự chơi bời trai gái.
1539Ví bằng thú thật cùng ta,
1540Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
1541Dại chi chẳng giữ lấy nền,Nền: Nền nếp của người trên, tư thế của mình là người bề trên.
1542Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
1543Lại còn bưng bít giấu quanh,
1544Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
1545Tính rằng cách mặt khuất lời,
1546Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
1547Lo gì việc ấy mà lo,
1548Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
1549Làm cho nhìn chẳng được nhau,
1550Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
1551Làm cho trông thấy nhãn tiền,Nhãn tiền: Trước mắt.
1552Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.Tục ngữ: Chưa thăm ván đã bán thuyền. ở đây chỉ Thúc sinh là người mới nới cũ.
1553Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
1554Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
1555Tuần sau bỗng thấy hai người,
1556Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
1557Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
1558Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
1559Chồng tao nào phải như ai,
1560Điều này hẳn miệng những người thị phi!Thị phi: Có nghĩa là việc phải thì nói thành trái, việc trái thì nói thành phải, thêu dệt phải trái làm cho người nghe mắc lầm.
1561Vội vàng xuống lệnh ra uy,
1562Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
1563Trong ngoài kín mít như bưng.
1564Nào ai còn dám nói năng một lời!
1565Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
1566Ra vào một mực nói cười như không.
1567Đêm ngày lòng những dặn lòng,
1568Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.Lầu hồng: Do chữ hồng lâu, nhà ở bọn quyền quý, cũng dùng để chỉ chỗ ở của hạng phụ nữ giàu sang.
1569Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
1570Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
1571Tẩy trần vui chén thong dong,Tẩy trần: Rửa bụi. Tục xưa, khi có người đi xa về thì đặt tiệc “tẩy trần”, ý nói rửa sạch bụi bặm trong lúc đi đường.
1572Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
1573Chàng về xem ý tứ nhà,
1574Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
1575Mấy phen cười nói tỉnh say,
1576Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
1577Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
1578Nào ai có khảo mà mình đã xưng?Khảo: Tra khảo.
1579Những là e ấp dùng dằng,
1580Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.Rút dây động rừng: Tục ngữ, ý nói rút một sợi dây làm rung chuyển đến cả một khu rừng. Câu này ý nói: Thúc sinh sợ nói lộ câu chuyện lấy Kiều ra sẽ gây nên sóng gió trong gia đình.
1581Có khi vui chuyện mua cười,
1582Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu.
1583Rằng: Trong ngọc đá vàng thau,Đại ý nói ngọc hay đã, vàng hay thau đôi ta đều đã biết phân biệt rạch ròi, không thể nào lầm lẫn được.
1584Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
1585Khen cho những chuyện dông dài,
1586Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
1587Thiếp dù bụng chẳng hay suy,
1588Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!
1589Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
1590Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
1591Những là cười phấn cợt son,
1592Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.
1593Thú quê thuần hức bén mùi,Thuần: là một thứ rau, hức là một thứ cá. Trương Hàn đời nhà Tấn, đang lúc làm quan ở xa, thấy cơn gió thu, sực nhớ đến canh rau thuần và chả cá hức ở quê nhà, bèn bỏ quan mà về. Vì thế, người ta thường dùng hai chữ thuần hức để chỉ thú vui chơi nơi quê nhà.
1594Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.Cổ thi: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cọng tri thu: (chỉ một lá ngô đồng rụng mà ai cũng biết là thu sang). Câu này đại ý nói: Thúc sinh ở quê nhà vừa bén mùi rau cá thì trời đã bắt đầu sang thu.
1595Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
1596Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.Quan tái: cũng như quan ải, chỉ nơi núi non bờ cõi.
1597Tình riêng chưa dám rỉ răng,
1598Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
1599Cách năm mây bạc xa xa,Mây bạc: Do chữ bạch vân mà ra. Định Nhân Kiệt đời Đường đi làm quan xa, thường chỉ đám mây trên núi Thái Hàng mà nói: “Nhà cha mẹ ta ở đây”. ở đây dùng để nói Thúc sinh có cha ở xa.
1600Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn.
1601Được lời như cởi tấc son,
1602Vó câu chẳng ruổi nước non quê người.
1603Long lanh đáy nước in trời,
1604Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
1605Roi câu vừa gióng dặm trường,
1606Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.Xe hương: Do chữ Hương xa, chỉ xe của phụ nữ. Quy ninh là về hỏi thăm sức khoẻ của cha mẹ.
1607Thưa nhà huyên hết mọi tình,
1608Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
1609Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen,Thành ngữ: Ngứa ghẻ hờn ghen ý nói hai điều khó chịu nhất.
1610Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
1611Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
1612Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
1613Lâm Tri đường bộ tháng chầy,
1614Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.Hải đạo: Đường biển.
1615Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
1616Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
1617Làm cho cho mệt cho mê,
1618Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
1619Trước cho bõ ghét những người,
1620Sau cho để một trò cười về sau.
1621Phu nhân khen chước rất mầu,Mầu: Mầu nhiệm: Mẹ Hoạn thư khen cái mưu ấy rất điệu rất hay.
1622Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
1623Sửa sang buồm gió lèo mây,Buồm: Lá buồm. Lèo: dây treo buồm.
1624Khuyển ưng lại chọn một bầy côn quang.Khuyển: chó, Ưng: chim cắt, hai loài vật dùng để đi săn. ở đây dùng để đặt tên cho bọn tôi tớ trung thành của họ Hoạn. Côn quang: Cũng như côn đồ, dùng để chỉ bọn vô lại.
1625Dặn dò hết các mọi đường,
1626Thuận phong một lá vượt sang bến Tề.Thuận phong: Thuận gió. Một lá: Một lá buồm, Kiều lúc ấy đang ở Lâm Tri, Lâm Tri nguyên là kinh đô nước Tề xưa, nên gọi là bến Tề.
1627Nàng từ chiếc bóng song the,
1628Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
1629Bóng đâu đã xế ngang đầu,
1630Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.Ấm lạnh: Do chữ Ôn sảnh (Đông ôn hạ sảnh), ngọt bùi do chữ cam chỉ, ý nói làm con phải quạt nồng ấm lạnh và phụng dưỡng những thức ngon lành cho cha mẹ.
1631Tóc thề đã chấm ngang vai,
1632Nào lời non nước nào lời sắt son.Lời non nước: Lời chỉ non thề biển. Lời sắt son: Lời trung thành vững chắc như sắt như son.
1633Sắn bìm chút phận cỏn con,Sắn bìm: Do chữ cát đằng mà ra. Xem chú thích 902
1634Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
1635Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
1636Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!Cung Quảng: Cung Quảng hàn trong mặt trăng, ả Hằng tức ả Hằng Nga trong cung. Hằng Nga là vợ Hậu Nghệ, trộm thuốc trường sinh của chồng rồi chạy lên ở một mình trên cung trăng;Câu này đại ý nói: Thôi thì liều sống một mình như Hằng Nga trong cung Quảng Hàn vậy.
1637Đêm thu gió lọt song đào,
1638Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.Ba sao: Do chữ Kinh Thi: Tam tinh tại thiên (ba sao ở trời). ở đây tác giả chỉ mượn câu ấy để nói đêm đó ngoài song gió thổi, giữa trời có trăng có sao v.v…
1639Nén hương đến trước Phật đài,
1640Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
1641Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
1642Ầm Ầm khốc quỷ kinh thẦn mọc ra.Khốc quỷ kinh thần: Quỷ thần khóc, thần phải sợ, ý nói rất ghê sợ.
1643Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
1644Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
1645Thuốc mê đâu đã rưới vào,
1646Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
1647Vực ngay lên ngựa tức thì,
1648Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
1649Sẵn thây vô chủ bên sông,
1650Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
1651Tôi đòi phách lạc hồn bay,
1652Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
1653Thúc ông nhà cũng gần quanh,
1654Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
1655Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
1656Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
1657Gió cao ngọn lửa càng cao,
1658Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
1659Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
1660Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
1661Chạy vào chốn cũ phòng hương,
1662Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
1663Tình ngay ai biết mưu gian,
1664Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai!
1665Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
1666Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
1667Di hài nhặt gói về nhà,Di hài: Hài cốt sót lại.
1668Nào là khâm liệm nào là tang trai.Khâm liệm: Lễ mặc quần áo mới và bọc vải lụa cho người chết trước khi bỏ vào áo quan. Tang trai: Lễ đưa ma và làm chay.
1669Lễ thường đã đủ một hai,
1670Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.Lục trình: Đi đường bộ.
1671Bước vào chốn cũ lầu thơ,
1672Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
1673Sang nhà cha tới trung đường,Trung đường: Nhà chính giữa.
1674Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.Linh sàng: Giường thờ. Bài vị: Mảnh gỗ viết tên người chết để thờ.
1675Hỡi ôi nói hết sự duyên,
1676Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan!
1677Gieo mình vật vã khóc than:
1678Con người thế ấy thác oan thế này.
1679Chắc rằng mai trúc lại vầy,
1680Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!Vĩnh quyết: Cũng như vĩnh biệt, từ biệt hẳn, không bao giờ gặp nhau nữa.
1681Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
1682Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây.
1683Gần miền nghe có một thầy,
1684Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.Phi phù trí quỷ: đốt bùa mà gọi được quỷ đến. Thông huyền: Thông cảm được với cõi huyền bí, tức cõi quỷ thần.
1685Trên tam đảo dưới cửu tuyền,Tam đảo: Ba đảo tiên: Bồng lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Người ta thường dùng để chỉ cõi thiêng liêng hoặc cõi tiên. Cửu tuyền: Chín suối, tức là âm phủ.
1686Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
1687Sắm sanh lễ vật rước sang,
1688Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
1689Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,Đạo nhân: cũng như đạo sĩ, chỉ ông thấy pháp. Tĩnh đàn: Đàn thờ thần thánh của bọn thầy pháp.
1690Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.Xuất thần: Linh hồn thầy pháp thoát ra ngoài thể xác để đi vào cõi thần linh.
1691Trở về minh bạch nói tường:
1692Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
1693Người này nặng kiếp oan gia,
1694Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho!
1695Mệnh cung đang mắc nạn to,Mệnh cung: Cung là bản mệnh, một trong 12 cung của số Tử vi. Sách số có câu: Cung mệnh mà có sao Bột chiếu vào thì người ấy mắc nạn. Câu này đại ý nói: Xem số Thuý Kiều thì đang mắc nạn to.
1696Một năm nữa mới thăm dò được tin.
1697Hai bên giáp mặt chiền chiền,Chiền chiền: Tiếng cổ, có nghĩa là rành rành, hoặc liền liền.
1698Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
1699Điều đâu nói lạ dường này,
1700Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
1701Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,Đồng cốt: Ông đồng, bà cốt, những người làm nghề câu đồng, câu bóng.
1702Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
1703Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
1704Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
1705Nước trôi hoa rụng đã yên,
1706Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
1707Khuyển ưng đã đắt mưu gian,
1708Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
1709Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,Cảnh suyền: Cánh buồm đi nhanh.
1710Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
1711Dỡ đò lên trước sảnh đường,
1712Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
1713Vực nàng tạm xuống môn phòng,
1714Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
1715Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,Hoàng Lương: Kê vàng. Xưa Lư sinh đời Đường đi thi gặp ông già họ Lã cho mượn cái gối nằm ngủ. Chàng mơ thấy mình thi đỗ, làm quan vinh hoa phú quý hơn 20 năm. Lúc tỉnh giấc thì nồi kê của nhà hàng nấu chưa chín. Người sau bèn dùng hai chữ hoàng lương để chỉ giấc mơ. Hồn mai: Xưa có người gặp cô gái trong rừng, cùng uống rượu, sáng dậy thấy mình nằm dưới gốc cây mai. Đây chỉ có ý nói là giấc mơ màng.
1716Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
1717Bàng hoàng giở tỉnh giở say,
1718Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
1719A hoàn trên dưới giục mau,A hoàn: các đầy tớ gái trẻ tuổi.
1720Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
1721Ngước trông tòa rộng dãy dài,
1722Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên.Thiên quang trủng tể: Thiên quang là loại quan đứng đầu sáu lại quan do nhà Chu đặt ra. Trủng tể tức là chức tể tướng.
1723Ban ngày sáp thắp hai bên,
1724Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.Thất bảo: Bảy sản vật quý như vàng, bực, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, trân châu. ở đây chỉ cái giường có khảm các vật quý.
1725Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
1726Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa.
1727Bất tình nổi trận mây mưa,
1728Mắng rằng: Những giống bơ thờ quên thân!
1729Con này chẳng phải thiện nhân,
1730Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
1731Ra tuồng mèo mả gà đồng,Mèo mả gà đồng: Mèo hoang sống ở mồ mả;gà hoang sống ở ngoài đồng, người ta thường dùng để ví với hạng người lông bông, giang hồ.
1732Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
1733Đã đem mình bán cửa tao,
1734Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.
1735Nào là gia pháp nọ bay!Gia pháp: Phép tắc trong nhà để trừng phạt gia nhân và tôi tớ.
1736Hãy cho ba chục biết tay một lần.
1737A hoàn trên dưới dạ ran,
1738Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào.
1739Trúc côn ra sức đập vào,Trúc côn: Gậy tre.
1740Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.
1741Xót thay đào lý một cành,Đào lý: Cây đào, cây lý, thường dùng để chỉ phụ nữ.
1742Một phen mưa gió tan tành một phen.
1743Hoa nô truyền dạy đổi tên,
1744Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.Phiên thị tỳ: Thị tỳ ở nhà quyền quý rất nhiều, chia ra từng ban và từng phiên mà hầu hạ, nên gọi là phiên thị tỳ.
1745Ra vào theo lũ thanh y,Thanh ly: áo xanh. Đầy tớ gái các nhà giàu sang đời xưa đều mặc áo xanh, nên gọi là thanh y.
1746Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
1747Quản gia có một mụ nào,Quản gia: Trong gia đình quan lại phong kiến đời xưa thường dùng những người đàn bà đứng tuổi trông coi việc nhà và cai quản số hầu gái, gọi là quản gia.
1748Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
1749Khi chè chén khi thuốc thang,
1750Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.Phương tiện: ở đây có nghĩa là đối đãi, xử trí mọi việc. Hiếu sinh: Quí trọng sinh mệnh, ý nói tránh cho người ta con đường khổ sở chết chóc.
1751Dạy rằng: May rủi đã đành,
1752Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.Liễu và bồ là hai giống cây mềm yếu thường được dùng để chỉ phụ nữ.
1753Cũng là oan nghiệp chi đây,Oan nghiệp: Tiền oan, nghiệp chướng, có ý nói có oan thù và tội lỗi từ thời trước để lại.
1754Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
1755Ở đây tai vách mạch rừng,Tai vách mạch rừng: Do câu thành ngữ: Rừng có mạch vách có tai.
1756Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
1757Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
1758Con ong cái kiến kêu gì được oan?
1759Nàng càng giọt ngọc như chan,
1760Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:
1761Phong trần kiếp chịu đã đầy,Phong trần: Nghĩa đen là gió bụi, thường được dùng để chỉ sự khổ sở mà người đời phải chịu.
1762Lầm than lại có thứ này bằng hai.
1763Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
1764Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.
1765Đã đành túc trái tiền oan,Túc trái tiền oan: Nợ nần, oán thù từ kiếp trước để lại.
1766Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
1767Những là nương náu qua thì,
1768Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
1769Mẹ con trò chuyện lân la,
1770Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
1771Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
1772Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.
1773Lãnh lời nàng mới theo sang,
1774Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu.Địa ngục, thiên đường: Theo giáo lý đạo Phật thì những người độc ác sau khi chết phải xuống địa ngục để chịu tội, còn hồn những người lương thiện thì được lên thiên đường. ở đây ý nói nơi khổ ải và nơi sung sướng.
1775Sớm khuya khăn mắt lược đầu,
1776Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
1777Phải đêm êm ả chiều trời,
1778Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.Trúc tơ: Do chữ ty trúc: ty là tơ để làm dây đàn, trúc là tre để làm ống sáo. Hai chữ này thường được dùng để chỉ các thứ âm nhạc nói chung.
1779Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
1780Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
1781Tiểu thư xem cũng thương tài,
1782Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
1783Cửa người đày đọa chút thân,
1784Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng.
1785Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng,
1786Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.Tương phùng: Gặp nhau. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ rằng tình nghĩa giữa mình với Thúc Sinh muốn nối lại thì hoạ chăng chỉ ở kiếp khác.
1787Bốn phương mây trắng một màu,Thuý Kiều trông ra bốn bể thì thấy đâu cũng man mác một màu mây trắng mà không thấy quê nhà.
1788Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.Cố quốc: Nguyên nghĩa là nước cũ, sau cũng dùng như chữ cố hương (quê cũ).
1789Lần lần tháng trọn ngày qua,
1790Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
1791Lâm Tri từ thuở uyên bay,Uyên: do chữ uyên ương, giống chim ở với nhau từng đôi, nên người ta thường dùng để chỉ vợ chồng. Uyên bay: ý nói Thuý Kiều không còn nữa (con chim uyên đã bay mất).
1792Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
1793Mày ai trăng mới in ngần,Trăng mới: Trăng đầu tháng. Câu nói đại ý nói: Thúc sinh trông thấy mặt trăng lưỡi liềm đầu tháng giống như lông mày người gái đẹp mà tưởng nhớ đến Kiều.
1794Phần thừa hương cũ bội phần xót xa.Câu này đại ý nói: Thuý Kiều không còn nữa. Thúc sinh trông thấy phấn hương của nàng còn sót lại mà thương tâm.
1795Sen tàn cúc lại nở hoa,
1796Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
1797Tìm đâu cho thấy cố nhân?Cố nhận: Người quen biết cũ. ở đây chỉ Thuý Kiều.
1798Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
1799Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,Gia hương: Nhà và làng, tức quê nhà. ở đây chỉ quê hương của Thúc sinh ở huyện Vô Tích.
1800Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
1801Tiểu thư đón cửa giãi giề,
1802Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
1803Nhà hương cao cuốn bức là,Nhà hương: Do chữ Hương khuê.
1804Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
1805Bước ra một bước một dừng,
1806Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
1807Phải chăng nắng quáng đèn lòa,
1808Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
1809Bây giờ tình mới rõ tình,
1810Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
1811Chước đâu có chước lạ đời?
1812Người đâu mà lại có người tinh ma?
1813Rõ ràng thật lứa đôi ta,
1814Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
1815Bề ngoài thơn thớt nói cười,
1816Mà trong nham hiểm giết người không dao.Thành ngữ: Giết người không dao. ở đây chỉ mưu mẹo nham hiểm.
1817Bây giờ đất thấp trời cao,
1818Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?
1819Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
1820Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
1821Sợ uy dám chẳng vâng lời,
1822Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
1823Sinh đà phách lạc hồn siêu:Phách lạc hồn xiêu: Do chữ hồn phi phách tán, ý nói sợ hãi một cách ghê gớm.
1824Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây?
1825Nhân làm sao đến thế này?
1826Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
1827Sợ quen dám hở ra lời,
1828Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
1829Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
1830Mới về có việc chi mà động dong?Động dong: Biến đổi sắc mặt, ý nói động lòng.
1831Sinh rằng hiếu phục vừa xong,Hiếu phục: Tang trở cha mẹ. ở đây chỉ thúc sinh vừa hết tang mẹ.
1832Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên.Trắc dĩ: Kinh thi có câu Trắc bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mâu hề (lên núi Dĩ trông ngóng mẹ). Người sau bèn dùng hai chữ Trắc Dĩ để nói thương nhớ mẹ. Chung thiên: Suốt đời, ý nói không bao giờ quên.
1833Khen rằng: Hiếu tử đã nên!Hiếu tử: Người con có hiếu với cha mẹ.
1834Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu.Giải phiền: Làm cho khuây khoả sự phiền não.
1835Vợ chồng chén tạc chén thù,Thù: Chén rượu do chủ nhà rót mời khách. Tạc: Chén rượu do khách rót cho người chủ để đáp lại. ở đây nói vợ chồng Thúc sinh uống rượu và mời mọc nhau.
1836Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.Trì hồ: Bưng bầu rượu. ý nói bắt Kiều đứng hầu một bên để rót rượu cho hai vợ chồng Thúc sinh uống.
1837Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
1838Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.
1839Sinh càng như dại như ngây,
1840Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
1841Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
1842Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.
1843Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
1844Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.
1845Sinh càng nát ruột tan hồn,
1846Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.Bồ hòn để ám chỉ người có việc buồn khổ mà không nói ra được. ở đây ý nói: chén rượu Kiều đưa mời chàng thấy đắng như bồ hòn, nhưng vì sợ Kiều bị liên luỵ phải uống hết ngay.
1847Tiểu thư cười nói tỉnh say,
1848Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
1849Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,
1850Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.
1851Nàng đà tán hoán tê mê,
1852Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
1853Bốn dây như khóc như than,
1854Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
1855Cùng chung một tiếng tơ đồng,
1856Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.Người ngoài là người ngoài cuộc, thi Hoạn thư: người trong là người trong cuộc chỉ Thúc sinh và Kiều.
1857Giọt châu lã chã khôn cầm,
1858Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
1859Tiểu thư lại thét lấy nàng:
1860Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi?
1861Sao chẳng biết ý tứ gì?
1862Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.
1863Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
1864Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
1865Giọt rồng canh đã điểm ba,Giọt rồng: có nghĩa là thời giờ, thời khắc.
1866Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm.Cam tậm: Thoả lòng, hả dạ.
1867Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:
1868Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.
1869Sinh thì gan héo ruột đầy,
1870Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
1871Người vào chung gối loan phòng,Loan phòng: Phòng nằm của đôi vợ chồng;
1872Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:
1873Bây giờ mới rõ tăm hơi,
1874Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
1875Chước đâu rẽ thúy chia uyên,Thuý: Chim chả. Uyên: Chim uyên ương. ở đây chỉ việc Hoạn Thư dùng mưu chia rẽ đôi lứa Thúc sinh và Thuý Kiều.
1876Ai ra đường nấy ai nhìn được ai.
1877Bây giờ một vực một trời,
1878Hết điều khinh trọng hết lời thị phi.
1879Nhẹ như bấc nặng như chì,
1880Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên?
1881Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
1882Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
1883Một mình âm ỉ đêm chày,
1884Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.
1885Sớm trưa hầu hạ đài doanh,Đài dinh: Đài các, dinh thự, chỉ chỗ ở của bọn quyền quý. ở đây mượn để chỉ nhà ở của Thúc sinh và Hoạn thư.
1886Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
1887Lựa lời nàng mới thưa qua:
1888Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
1889Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
1890Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
1891Sinh đà rát ruột như bào,
1892Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
1893Những e lại lụy đến nàng,
1894Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
1895Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
1896Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.Thân cung: Cung khai, khai trình.
1897Diện tiền trình với Tiểu thư,Diện tiền: Trước mặt.
1898Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
1899Liền tay trao lại Thúc Sinh,
1900Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!
1901Ví chăng có số giàu sang,
1902Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
1903Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
1904Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!
1905Sinh rằng: Thật có như lời,
1906Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
1907Nghìn xưa âu cũng thế này,
1908Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
1909Tiểu thư rằng: ý trong tờ,
1910Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không.Cửa không: Do chữ không môn. Vì đạo Phật cho mọi vật trên thế gian đều là “không” nên người ta gọi đạo Phật là “Không môn”.
1911Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
1912Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
1913Sẵn Quan âm các vườn ta,Quan âm các: Cái chùa thờ Phật Quan thế âm Bồ tát. Đây là chùa riêng của nhà Hoạn Thư.
1914Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.
1915Có cổ thụ, có sơn hồ,Cổ thụ: Cây lâu năm. Sơn hồ: Núi giả và hồ đào ra để làm cảnh.
1916Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.
1917Tàng tàng trời mới bình minh,Tàng tàng: Tang tảng sáng.
1918Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.Ngũ cúng: Năm vật cúng Phật, tức hương, hoa, đăng, trà, quả.
1919Đưa nàng đến trước Phật đường,
1920Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia.Tam quy: Ba lễ “qui y” tức quy y phật, quy y pháp, quy y tăng, nghĩa là đem cả tâm và thân mà theo đạo Phật. Ngũ giới: Năm điều răn, tức là răn sát sinh, răn ăn rộm, răn tà dâm, răn nói càn, răn uống rượu. Xuất gia: Ra khỏi nhà tức đi tu.
1921Áo xanh đổi lấy cà sa,Áo xanh: Thanh y, áo các hầu gái mặc. Cà sa: áo nhà sư mặc.
1922Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.Pháp danh: Tên đặt theo tập tục tôn giáo. Trạc Tuyền là pháp danh do Hoạn thư đặt cho Kiều.
1923Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,
1924Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.Xuân, thu: Tên hai người đầy tớ gái do Hoạn thư sai đến Quan âm các ở với Kiều để giúp việc hương đèn.
1925Nàng từ lánh gót vườn hoa,
1926Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.Rừng tía: Do chữ tư trúc lâm, chỗ ở của Phật Quan âm Bồ tát. Bụi hồng: Do chữ hồng trần, tức cõi trần tục, cõi đời.
1927Nhân duyên đâu lại còn mong,Nhân duyên: Duyên vợ chồng. ở đây chỉ duyên phận giữa Kiều và Thúc sinh.
1928Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
1929Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
1930Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.Thủ tự: Chữ viết tay. Tâm hương: Hương lòng. Nén hương dân lên do tấm lòng thành kính.
1931Cho hay giọt nước cành dương,Giọt nước cành dương: Do chữ dương chi thuỷ. Theo sách Phật thì Phật Quan âm có cành dương liễu và bình nước cam lộ, khi muốn cứu ai thì lấy cành dương liễu dúng nước trong bình mà rảy vào người ấy. ở đây giọt nước cành dương dùng để chỉ phép màu nhiệm của Phật.
1932Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.Lửa lòng: do chữ tâm hoả, chỉ mọi thứ dục vòng do lòng người sinh ra. Trần duyên: Duyên nợ ở cõi trần.
1933Nâu sồng từ trở màu thiền,
1934Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu,
1935Cửa thiền, then nhặt, lưới mau,
1936Nói lời trước mặt, rời châu vắng người.
1937Gác kinh viện sách đôi nơi,Gác kinh: Cái gác viết kinh, chỉ chỗ ở của Kiều. Viện sách: Tức thư viện, phòng đọc sách, chỉ chỗ ở của Thúc sinh.
1938Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
1939Những là ngậm thở nuốt than,
1940Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.Vấn an: Hỏi thăm sức khoẻ.
1941Thừa cơ, sinh mới lẻn ra,
1942Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
1943Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng,
1944Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh:Áo xanh: Do chữ thanh sam, chỉ thứ áo xanh mà các nhà nho sĩ xưa thường mặc.
1945Đã cam chịu bạc với tình,
1946Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
1947Thấp cơ thua trí đàn bà,
1948Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
1949Vì ta cho lụy đến người,
1950Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!Cát lầm ngọc trắng: ý nói Kiều như “ngọc trắng” mà bị cát vùi dập.
1951Quản chi lên thác xuống ghềnh,
1952Cũng toan sống thác với tình cho xong.
1953Tông đường chút chửa cam lòng,Tông đường: Nhà tổ tông. ở đây dùng với nghĩa: “nối dõi tông đường”. ý nói Thúc sinh nghĩ mình chưa có con trai để nối dõi tông đường.
1954Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.
1955Thẹn mình đá nát vàng phai,
1956Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
1957Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào,Dông tố: Cơn mưa to gió lớn. ở đây chỉ sự giận giữ ghê gớm của Hoạn thư.
1958Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
1959Chút thân quằn quại vũng lầy,
1960Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
1961Cũng liều một giọt mưa rào,
1962Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
1963Xót vì cầm đã bén dây,
1964Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
1965Liệu bài mở cửa cho ra,
1966Ấy là tình nặng Ấy là ân sâu!
1967Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu,
1968Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
1969Nữa khi giông tố phũ phàng,
1970Thiệt riêng đó cũng lại càng cực đây.
1971Liệu mà xa chạy cao bay,
1972Ái ân ta có ngần này mà thôi!
1973Bâu giờ kẻ ngược người xuôi,
1974Biết bao giờ lại nối lời nước non?
1975Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
1976Con tằm đến thác cũng còn vướng tơ!
1977Cùng nhau kể lể sau xưa,
1978Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.
1979Mặt trông tay chẳng nỡ rời,
1980Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.
1981Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra,
1982Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.
1983Cười cười, nói nói ngọt ngào,
1984Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi?
1985Dối quanh Sinh mới liệu lời:
1986Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.
1987Khen rằng: Bút pháp đã tinh,Bút pháp: Phép viết chữ.
1988So vào với thiếp Lan đình nào thua!Thiếp Lan – đình: Do chữ Lan-đình thiếp là bản bút tích rất tốt của nhà văn Vương Hy Chi, đời Tần.
1989Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
1990Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!
1991Thiền trà cạn chén hồng mai,Thiền trà: Nước trà của nhà chùa. Hông mai: Gỗ cây mai già dùng để nấu làm nước uống, sắc nước đỏ hồng, nên gọi là hồng mai.
1992Thong dong nối gót thư trai cùng về.Thư trai: Nhà đọc sách, cũng như thư viện.
1993Nàng càng e lệ ủ ê,
1994Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.
1995Hoa rằng: Bà đã đến lâu,
1996Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ.
1997Rành rành kẽ tóc chân tơ,
1998Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
1999Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,
2000Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
2001Ngăn tôi đứng lại một bên,
2002Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
2003Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
2004Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
2005Ấy mới gan Ấy mới tài,
2006Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
2007Người đâu sâu sắc nước đời,
2008Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!Bó tay: Chữ hán là thúc thủ. Đặt hai chữ “bó tay” sau chữ “Thúc” là một cách chơi chữ của tác giả.
2009Thực tang bắt được dường này,
2010Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
2011Thế mà im chẳng đãi đằng,Đãi đằng: ở đây lại có nghĩa là nói năng, làm ầm ĩ lên.
2012Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!
2013Giận dầu ra dạ thế thường,
2014Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu!Cổ nhân có câu: Nộ giả thường tình, tiếu giả bất khả t rắc, nghĩa là: Giận dữ là thói thường, cười thì không thể lường được. Câu này dùng ý ấy.
2015Thân ta ta phải lo âu,
2016Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!
2017Ví chăng chắp cánh cao bay,
2018Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!Câu này ý nói: Bị giam giữ ở đây lâu, thế nào cũng có ngày mình bị hành hạ điêu đứng hơn, hoặc bị trừ khử.
2019Phận bèo bao quản nước sa,
2020Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ thân phận của mình như cánh bèo trên mặt nước, ở đâu thì cũng là lênh đênh cả, không còn quản gì.
2021Chỉn e quê khách một mình,
2022Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
2023Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
2024Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.Kim ngân: Vàng bạc, chỉ các đồ thờ như chuông, khánh đúc bằng vàng bạc.
2025Bên mình giắt để hộ thân,
2026Lần nghe canh đã một phần trống ba.
2027Cất mình qua ngọn tường hoa,
2028Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
2029Mịt mù dặm cát đồi cây,
2030Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
2031Canh khuya thân gái dặm trường,
2032Phần e đường xá, phần thương dãi dầu!
2033Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
2034Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
2035Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
2036Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.Chiêu ấn: Tên ngôi chùa, nghĩa là chiêu nạp những người ẩn dật.
2037Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
2038Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong.Trụ trì: Cư trú và chủ trì mọi công việc trong một ngôi chùa.
2039Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
2040Giác duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
2041Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
2042Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
2043Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,Tiểu thiền: Cũng như tiểu tăng, là người đi tu nhỏ mọn (Lời Kiều tự khiêm).
2044Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu.Qui sư, qui phật: Theo thầy, theo Phật, cũng như nói “qui tăng, qui phật”.
2045Bản sư rồi cũng đến sau,Bản sư: Vị sư thầy học mình.
2046Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.Pháp bảo: Chỉ các đồ thờ cúng quý giá. Sư huynh: Vị sư đàn anh, lời xưng hô giữa các vị sư với nhau.
2047Rày vâng diện hiến rành rành,Diện kiến: Đem dâng ngày trước mặt.
2048Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
2049Xem qua sư mới dạy qua:
2050Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình.Hằng Thuỷ: Tên hiệu một vị sư nữ khác mà Kiều mạo xưng là thầy học mình. Hậu tình: Tình nghĩa đối xử hậu hĩ, thân mật.
2051Chỉ e đường sá một mình,
2052Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.
2053Gửi thân được chốn am mây,Am mây: Do chữ Vân phòng, chỗ ở nhà sư ở.
2054Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
2055Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
2056Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.
2057Sớm khuya lá bối phướn mây,
2058Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
2059Thấy nàng thông tuệ khác thường,Thông tuệ: Thông minh, sáng suốt;
2060Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
2061Cửa thuyền vừa tiết cuối xuân,
2062Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời.Vẻ ngân: ánh bạc, ánh trăng sáng như bạc.
2063Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
2064Có người đàn việt lên chơi cửa Già.Đàn việt: Người đứng ra bố thí, thường thường để chỉ người có công với nhà chùa, hay người đi vãn cảnh chùa. Cửu già: Tiếng Phạn gọi chùa là già lam.
2065Giở đồ chuông khánh xem qua,
2066Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!
2067Giác Duyên thực ý lo lường,
2068Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
2069Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
2070Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
2071Bây giờ sự đã dường này,
2072Phận hèn dù rủi, dù may, tại người.
2073Giác Duyên nghe nói rụng rời,
2074Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
2075Rỉ tai nàng mới giãi lòng:
2076Ở đây cửa Phật là không hẹp gì;
2077E chăng những sự bất kỳ,
2078Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
2079Lánh xa, trước liệu tìm đường,
2080Ngồi chờ nước đến, nên đường còn quê!
2081Có nhà họ Bạc bên kia,
2082Am mây quen lối đi về dầu hương.
2083Nhắn sang, dặn hết mọi đường,
2084Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
2085Những mừng được chốn an thân,
2086Vội vàng nào kịp tính gần tính xa.
2087Nào ngờ cũng tổ bợm già,
2088Bạc bà học với Tú bà đồng môn!Đồng môn: cùng học một thầy, một trường, ý nói Bạc hà cũng một phường chủ lầu xanh như Tú bà.
2089Thấy nàng mặt phấn tươi son,
2090Mừng thầm được mối bán buôn có lời.
2091Hư không đặt để nên lời,
2092Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen.
2093Mụ càng xua đuổi cho liền,
2094Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
2095Rằng: Nàng muôn dặm một thân,
2096Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa.Tục ngữ: Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Ở đây mượn ý ấy để nói Thuý Kiều đã mang tiếng trốn chúa và ăn cắp, thế nào cũng bị người ta dị nghị.
2097Khéo oan gia, của phá gia,Oan gia: Bạc bà địa đặt ra mà nói Kiều là một oan gia kiếp trước vào nhà mình để chực gây tai hoạ cho mình. Phá gia: Phá nhà.
2098Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây!
2099Kíp toan kiếm chốn xe dây,Xe dây: Cũng như xe tơ, nghĩa là lấy chồng.
2100Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
2101Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
2102Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
2103Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
2104Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai.
2105Cửa hàng buôn bán châu Thai,
2106Thực thà có một, đơn sai chẳng hề.
2107Thế nào nàng cũng phải nghe,
2108Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai.Thành thân: Làm lễ hợp hôn, thành vợ chồng. Châu thai: Chỗ Bạc Hạnh buôn bán, thuộc tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
2109Bấy giờ ai lại biết ai,
2110Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
2111Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
2112Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau.
2113Nàng càng mặt ủ mày chau,
2114Càng nghe mụ nói, càng đau như dần.
2115Nghĩ mình túng đất, sẩy chân,
2116Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
2117Thiếp như con én lạc đàn,
2118Phải cung rày đã sợ làn cây cong!Cổ ngữ: Thương cung chi điểu, kiến khúc mộc nhi cao phi, nghĩa là con chim đã bị thương vì cung thì thấy cái cong cũng sợ mà bay cao.
2119Cùng đường dù tính chữ tòng,
2120Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
2121Nữa khi muôn một thế nào,
2122Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu?
2123Dù ai lòng có sở cầu,Sở cầu: Cầu đến, hỏi đến, ý nói muốn cưới làm vợ.
2124Tâm mình xin quyết với nhau một lời.Tân minh: Lấy lòng thực mà thề với nhau.
2125Chứng minh có đất, có Trời,
2126Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?
2127Được lời mụ mới ra đi,
2128Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
2129Một nhà dọn dẹp linh đình,
2130Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.
2131Bạc sinh quì xuống vội vàng,
2132Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công.Thành hoàng thổ công: ý nói: Bạc Hạnh thề rằng: Nếu mình không tốt với Kiều thì xin thành hoàng, thổ công chứng giám.
2133Trước sân lòng đã giãi lòng,
2134Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.Lễ tơ hồng: Tức là Nguyệt lão, vị thần xe dây cho người nên vọ nên chồng.
2135Thành thân mới rước xuống thuyền,
2136Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai.
2137Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
2138Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
2139Cũng nhà hành viện xưa nay,Hành viện: Tên gọi khác của nhà chứa.
2140Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
2141Xem người định giá vừa rồi,
2142Mối hàng một, đã ra mười, thì buông.
2143Mượn người thuê kiệu rước nường,
2144Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa!
2145Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
2146Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
2147Đưa nàng vào lạy gia đường,
2148Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
2149Thoắt trông nàng đã biết tình,
2150Chim lồng khốn lẽ cất mình bay cao.
2151Chém cha cái số hoa đào,Theo nhà thuật số đờ xưa thì đào hoa làm một hung tịch, chiếu vào cung mệnh con trai thì bệnh tật, chiếu vào cung mệnh con gái thì phải làm đĩ.
2152Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi!
2153Nghĩ đời mà chán cho đời,
2154Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen!
2155Tiếc thay nước đã đánh phèn,
2156Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
2157Hồng quân với khách hồng quần,Hồng quân: Chỉ con tạo. Hồng quần: Cái quần đỏ, được dùng để chỉ người con gái.
2158Đã xoay đến thế, còn vần chửa tha.
2159Lỡ từ lạc bước bước ra,
2160Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
2161Đầu xanh đã tội tình chi?
2162Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
2163Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
2164Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.Mặt phấn: Mặt trát phấn, ý thân phận người con gái.
2165Lần thu gió mát trăng thanh,
2166Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi,Biên đình: Nơi biên ải xa xôi.
2167Râu hùm, hàm én, mày ngài,Râu hùm, hàm én, mày ngài: Tướng mại của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
2168Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
2169Đường đường một đấng anh hào,Anh hào: Anh hùng hào kiệt.
2170Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.Côn quyền: Món võ đánh bằng gậy. Quyền: Món võ đánh bằng tay. Lược thao: Mưu lược về các dùng binh, do chữ Lục thao, Tam lược là hai pho binh thư đời xưa mà ra.
2171Đội trời đạp đất ở đời,
2172Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông.Việt Đông: Chỉ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) ở về phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
2173Giang hồ quen thú vẫy vùng,
2174Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
2175Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
2176Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng.Tấm lòng nhi nữ: ý nói: Người đẹp. Lầu hồng: do chữ hồng lâu.
2177Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
2178Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
2179Từ rằng: Tâm phúc tương cờTâm phúc tương cờ: Tương cờ tức tương kỳ. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỷ chứ không phải là cái tình yêu đương trăng gió tạm bợ.
2180Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
2181Bấy lâu nghe tiếng má đào,
2182Mắt xanh chẳng để ai vào có không?Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn, trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói: Từ Hải hỏi Kiều, xưa nay nàng chưa hề xem trọng ai có phải không?
2183Một đời được mấy anh hùng,
2184Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi!Cá chậu chim lồng: Chỉ hạng người tầm thường, sống tron vòng giam hãm câu thúc.
2185Nàng rằng: Người dạy quá lời,
2186Thân này còn dám xem ai làm thường!
2187Chút riêng chọn đá thử vàng,
2188Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?
2189Còn như vào trước ra sau,
2190Ai cho kén chọn vàng thau tại mình.
2191Từ rằng: Lời nói hữu tình,
2192Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.Bình-nguyên quân: Chính tên là Triệu Thắng, một trong thần nhà Triệu, đời Chiến quốc được phong đất ở Bình Nguyên nên gọi là Bình nguyên quân, nổi tiếng là người hiếu khách. Cao Thích đời Đường có câu: Vị trí can đảm hướng thuỳ thị, linh nhân khước ức Bình Nguyên quân, nghĩa là chẳng biết gan mật hướng vào ai, khiến người ta lại nhớ Bình Nguyên quân.
2193Lại đây xem lại cho gần,
2194Phỏng tin được một vài phần hay không?
2195Thưa rằng: Lượng cả bao dong,
2196Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.Tấn Dương: Tên đất, nơi Đường Cao tổ khởi binh đánh nhà Tuỳ, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói: Thuý Kiều tin tưởng là Từ Hải sẽ làm nên sự nghiệp đế vương.
2197Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
2198Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!
2199Nghe lời vừa ý gật đầu,
2200Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người!Tri kỷ: Người hiểu biết mình.
2201Khen cho con mắt tinh đời,
2202Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!Trần ai: Bụi bậm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vụ gì để phân biệt với người thường.
2203Một lời đã biết tên ta,
2204Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!Nghìn tứ do chữ thiên tứ, nghìn cỗ xe chỉ cảnh giàu sang.
2205Hai bên ý hợp tâm đầu,Ý hợp tâm đầu: Tâm tình và ý nghĩa đều tương đắc với nhau.
2206Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân!
2207Ngỏ lời nói với băng nhân,
2208Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.Nguyên ngân: Số tiền bỏ ra khi trước. Phát hoàn: Đưa trả lại.
2209Buồn riêng sửa chốn thanh nhàn,
2210Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.Bát tiên: Tám vị tiên là Chung Ly Quyền, Lã Động Tần, Trương Quả Lão, Lý Thiết Quái, Lam Thái Hoà, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử. Người ta hay vẽ hình tám vị tiên này trên màn trướng.
2211Trai anh hùng, gái thuyền nguyên,
2212Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.Sánh phượng, cưỡi rồng: Xưa Kính Trọng, người nước Tần, được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: Phượng hoàng vu phi… (Chim phượng hoàng cung bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này dùng ý hai điển ấy để nói Từ Hải, Thuý Kiều đẹp duyên với nhau.
2213Nửa năm hương lửa đương nồng,
2214Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.Trượng phu: ở đây có nghĩa là đàn ông tài giỏi, có chí lớn.
2215Trông vời trời bể mênh mang,
2216Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong.
2217Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
2218Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!
2219Từ rằng: Tâm phúc tương tri,Tâm phúc tương tri: Biết nhau từ trong thâm tâm, hiểu rõ bụng dạ của nhau.
2220Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?Nữ nhi thường tình: cái tính thông thường của đàn bà, con gái.
2221Bao giờ mười vạn tinh binh,
2222Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đườngChiêng: Tức chính cổ, chỉ chung chiêng trống. Tinh: Tức tinh kỳ, chỉ chung cờ quạt, tượng trưng cho nghi vệ và đội ngũ quân lính ngày xưa.
2223Làm cho rõ mặt phi thường,
2224Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,Nghi gia: Do chữ nghi kỳ thất gia ở Kinh Thi, ý nói vợ chồng hoà hợp. ở đây, hai chữ nghi gia có nghĩa là gái về nhà chồng.
2225Bằng ngay bốn bể không nhà,
2226Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
2227Đành lòng chờ đó ít lâu,
2228Chầy chăng là một năm sau vội gì?
2229Quyết lời rứt áo ra đi,
2230Cánh bằng tiện gió cất lìa dậm khơi.Bằng : Một loại chim rất lớn. Sách Trang Tử có câu Bằng chi tỉ ư Nam minh đã, đoàn phù dạo nhi thường giả cửu vạn lý (Chim bằng khi rời biển Nam, vỗ cánh trong làn gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm tầng không). Người ta thường dùng hình ảnh ấy để chỉ người anh hùng có địa bàn hoạt động rộng rãi, có mưu đồ sự nghiệp lớn lao.
2231Nàng thì chiếc bóng song mai,
2232Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây.
2233Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy,
2234Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
2235Đoái thương muôn dặm tử phầnHán Cao tổ quê ở Phần Du, sau khi làm vua có về làng ấy chơi. Người sau bèn dùng hai chữ phần du để chỉ quê nhà, ở đây hợp với chũ tang tử thành tử phần để chỉ quê nhà.
2236Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa;Thơ Hàn Dũ đời Đường: Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại? Nghĩa là: Mây che ngang núi Tần, biết quê nhà ở đâu? ý nói Kiều nhớ nhà.
2237Xót thay huyên cỗi xuân già,
2238Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi.
2239Chốc là mười mấy năm trời,
2240Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
2241Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
2242Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng!Kiều tuy dứt tình với Kim Trọng, nhưng lòng vẫn không quên chàng, cũng vì như ngó sen bị bẻ gãy, mà sợi tơ vẫn liền với nhau.
2243Duyên em dù nối chỉ hồng,
2244May ra khi đã tay bồng tay mang.
2245Tấc lòng cố quốc tha hương,Cố quốc tha hương: Có nghĩa là quê nhà đất khách.
2246Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
2247Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
2248Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
2249Đêm ngày luống những âm thầm,
2250Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương,Lửa binh: Do chữ binh hoả nghĩa là giặc giã.
2251Ngất trời sát khí mơ màng,Sát khí : Cái khí dữ dội của cảnh chém giết, thường được dùng để chỉ cảnh binh đao sát phạt.
2252Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.Kình ngạc : Hai giống cá to, dữ, thường được dùng để chỉ những tay kiệt hiệt trong đám giặc giã. Giáp binh : áo giáp và binh khí, đây dùng để chỉ quân lính.
2253Người quen kẻ thuộc chung quanh
2254Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
2255Nàng rằng: Trước đã hẹn lời,
2256Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa.
2257Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ
2258Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa.
2259Giáp binh kéo đến quanh nhà,
2260Đồng thanh cùng gửi: nào là phu nhân?Phu nhân: Tiếng xưng hô đối với vợ các người tôn quí. Đây chỉ Thuý Kiều.
2261Hai bên mười vị tướng quân,
2262Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.
2263Cung nga, thể nữ nối sau,Cung nga : Gái hầu trong cung, cung nữ. Thế nữ : Loại gái hầu kém cung nữ một bậc, ở đây tác giả dùng những danh từ ấy là có ý xem Từ Hải như một vị đế vương.
2264Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.
2265Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,Phượng liễn loan nghi: Xe, kiệu và đồ nghi trượng có chạm khắc thêu vẽ hình loan, chim phượng.
2266Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng.Hoa quan: Mũ hoa. Hà y: áo mầu hồng như ràng mặt trời..
2267Dựng cờ, nổi trống lên đàng,
2268Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau.
2269Hỏa bài tiền lộ ruổi mau,Hoả bài: Cái thẻ bài hoả tốc, cầm đi trước để báo tin.
2270Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.Nam đình: Triều đình phương Nam do Từ Hải lập ra. Đại doanh: Doanh trại lớn, nơi đóng đại quân của Từ Hải.
2271Kéo cờ lũy, phát súng thành,
2272Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài.Thân nghênh: Tự mình đích thân ra đón.
2273Rỡ mình, là vẻ cân đai,Cân: Khăn (mũ);đai: Cái đai vòng quanh áo lễ. Câu này ý nói Từ Hải lúc này ăn mặc không phải như lần gặp Kiều khi còn hàn vi, mà đã ăn mặc theo cung cách đế vương.
2274Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
2275Cười rằng: Cá nước duyên ưa,Cá nước duyên ưa: Do câu ngư thuỷ duyên hài, ý nói vợ chồng đẹp duyên với nhau.
2276Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
2277Anh hùng mới biết anh hùng,
2278Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
2279Nàng rằng: Chút phận ngây thơ,
2280Cũng may dây cát được nhờ bóng cây.
2281Đến bây giờ mới thấy đây,
2282Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
2283Cùng nhau trông mặt cả cười,
2284Dan tay về chốn trướng mai tự tình.Trướng mai: Trướng có thêu hoa mai, chỉ phòng nằm của vợ chồng.
2285Tiệc bày thưởng tướng khao binh
2286Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân.
2287Vinh hoa bõ lúc phong trần,
2288Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.
2289Trong quân có lúc vui vầy,
2290Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
2291Khi Vô Tích, khi Lâm Tri,
2292Nơi thì lừa đảo, nời thì xót thương.
2293Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
2294Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.
2295Từ Công nghe nói thủy chung,
2296Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
2297Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,Nghiêm quân: Chỉnh đốn hàng ngũ quân lính. Tuyển tướng: Lựa chọn tướng tá.
2298Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.Ruổi sao: Do chữ tinh trì, ý nói đi nhanh như sao đổi ngôi.
2299Ba quân chỉ ngọn cờ đào,Ba quân: Danh từ chỉ chung quân đội. Đời xưa các nước chư hầu có ba quân, mỗi quân 12500 người. Và các nước thường chia quân đội làm ba bộ phận: trung quân, tả quân, hữu quân;hoặc: trung quân, thượng quân, hạ quân.
2300Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri,
2301Mấy người phụ bạc xưa kia,
2302Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
2303Lại sai lệnh tiễn truyền qua,Lệnh tiễn: Cờ lệnh có cắm mũi tên sắt của các tướng soái dùng để làm hiệu lệnh hoặc để làm tin.
2304Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
2305Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,
2306Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
2307Thệ sư kể hết mọi lời,Thệ sư: Lời tuyên cáo và hiểu dụ quân sĩ trước lúc xuất quân.
2308Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy!Chấp uy: Chấp hành uy lệnh.
2309Đạo trời báo phục chỉn ghê,Báo phục: Bảo trả lại, ý nói làm ân thì sẽ được trả ân, làm oán thì sẽ có lúc bị người ta trả oán.
2310Khéo thay! Một mẻ tóm về đầy nơi,
2311Quân trung gươm lớn áo dài,
2312Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi.Cơ, về: Tên gọi các đơn vị quân lính đời xưa. Thị lập: Đứng chầu. Song phi: Dàn làm hai hàng.
2313Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
2314Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân.Bác đồng: Súng bằng đồng.
2315Trướng hùm mở giữa trung quân,Trường hùm: Dịch chữ hổ trướng. Xưa thường dùng da hùm làm thành cái màn lớn để chủ soái họp bàn với các tướng, nên người sau quen dùng chữ “hổ trướng” để chỉ chỗ làm việc của các tướng soái. Trung quân: Đội quân đóng ở giữa, do chính chủ tướng chỉ huy.
2316Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.
2317Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi
2318Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.Cửa viên: Viên là cái càng xe. Đời xưa lúc quân đội cắm trại thường dùng xe làm cửa, nên cửa doanh trại của quân đội gọi là “viên môn”.
2319Từ rằng: Ân, oán hai bên,
2320Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh
2321Nàng rằng: Nhờ cậy uy linh,
2322Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
2323Báo ân rồi sẽ trả thù.
2324Từ rằng: Việc ấy phó cho mặc nàng.
2325Cho gươm mời đến Thúc lang,
2326Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run.Chàm đổ: Mặt xanh như màu chàm đổ vào. Giẽ run: Mình run như chim giẻ.
2327Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non,
2328Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
2329Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,Sâm và Thương: Theo nhận thức của người xưa, thì sao Sâm ở phương tây sao Thương ở phương đông, sao này lặn sao kia mới mọc. Hai sao này không bao giờ gặp nhau, nên người ta dùng để chỉ cảnh xa cách mỗi người một nơi. Đối chiếu thiên văn học hiện nay đó là hai sao Orion và Scorpion.
2330Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
2331Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
2332Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là!
2333Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
2334Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!Tục ngữ: Kẻ cắp gặp bà già, ý nói hai kẻ ranh ma quỷ quái lại gặp phải nhau.
2335Kiến bò miệng chén chưa lâu,
2336Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
2337Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
2338Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm.
2339Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
2340Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
2341Mụ già, sư trưởng thứ hai,Mụ già: Chỉ bà quản gia nhà họ Hoạn. Sư trưởng: Chỉ Giác Duyên.
2342Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên:
2343Dắt tay mở mặt cho nhìn:
2344Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
2345Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,
2346Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
2347Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
2348Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân?Phiếu mẫu: Bà làm nghề giặt sợi ở bến nước. Hàn Tín đời Hán lúc hàn vi được bà Phiếu mẫu đãi một bữa cơm, sau làm đến tước vương, tạ ơn nghìn vàng.
2349Hai người, trông mặt tần ngần,
2350Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui.
2351Nàng rằng: Xin hãy dốn ngôi,
2352Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!
2353Kíp truyền chư tướng hiến phù,Hiến phù: Dâng nộp những người bắt được.
2354Lại đem các tích phạm tù hậu tra.Hậu tra: Chờ để tra xét.
2355Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
2356Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
2357Thoạt trông nàng đã chào thưa:
2358Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
2359Đàn bà dễ có mấy tay,
2360Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
2361Dễ dàng là thói hồng nhan,
2362Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!
2363Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
2364Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.
2365Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
2366Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,
2367Nghĩ cho khi gác viết kinh,
2368Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
2369Lòng riêng riêng những kính yêu;
2370Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.
2371Trót lòng gây việc chông gai,
2372Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?
2373Khen cho: Thật đã nên rằng,
2374Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,
2375Tha ra thì cũng may đời,
2376Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
2377Đã lòng tri quá thì nên,Tri quá: Biết lỗi, từ mình biết nhận rằng mình có lỗi.
2378Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay.
2379Tạ lòng lạy trước sân may,
2380Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào,
2381Nàng rằng: Lồng lộng trời cao,
2382Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta?Hại nhân, nhân hại: Làm người thì sẽ bị người làm hại.
2383Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
2384Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
2385Tú bà cùng Mã Giám Sinh,
2386Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
2387Lệnh quân truyền xuống nội đao,Nội đao: Quân đao phủ, chuyên việc chém người.
2388Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
2389Máu rơi thịt nát tan tành,
2390Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
2391Cho hay muôn sự tại trời,
2392Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta!
2393Mấy người bạc ác tinh ma,
2394Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
2395Ba quân đông mặt pháp trường,Pháp trường: Chỗ để hành hình người có tội.
2396Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi.Thanh thiên bạch nhật: Trời xanh ngày trắng, ý nói giữa ban ngày ban mặt, ai cũng được chứng kiến.
2397Việc nàng báo phục vừa rồi,
2398Giác Duyên vội vã gởi lời từ qui.Từ qui: Từ giã ra về.
2399Nàng rằng: Thiên tải nhất thì,Thiên tải nhất thì: Ngàn năm mới có một dịp. Câu này thường dùng để chỉ dịp may hiếm có. Bàn hoàn: Đây có nghĩa là gặp gỡ trò chuyện.
2400Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
2401Rồi đây bèo hợp mây tan,
2402Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!
2403Sư rằng: Cũng chẳng bao lâu,
2404Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.Hạc nội: Chim hạc ở ngoài đồng nội. Mây ngàn: Đám mây bay trên rừng núi. ý nói nay đây mai đó, nơi ở không nhất định.
2405Nhớ ngày hành cước phương xa,Hành cước: Đi bộ, tiếng nhà Phật, chỉ việc các nhà sư đi vân du.
2406Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.Tiên tri: Biết trước mọi việc chưa xảy ra.
2407Bảo cho hội ngộ chi kỳ,Hội ngộ chi kỳ: Cái kỳ hẹn gặp gỡ nhau.
2408Năm nay là một nữa thì năm năm.
2409Mới hay tiền định chẳng lầm,Tiền định: Đã định sẵn từ trước.
2410Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
2411Còn nhiều ân ái với nhau,
2412Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
2413Nàng rằng: Tiền định tiên tri,
2414Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
2415Họa bao giờ có gặp người,
2416Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân.Chung thân: Trọn đời, ý nói Kiều muốn hỏi số phận của mình suốt đời ra sao.
2417Giác Duyên vâng dặn ân cần,
2418Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài.
2419Nàng từ ân oán rạch ròi,
2420Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
2421Tạ ân lạy trước Từ công:
2422Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
2423Trộm nhờ sấm sét ra tay,
2424Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!
2425Chạm xương chép dạ xiết chi,Khắc xương ghi dạ: Do chữ minh tâm khắc cốt: ý nói ơn sâu của Kiều xin ghi vào lòng, khắc vào xương không bao giờ quên.
2426Dễ đem gan óc đền nghì trời mây!Nghì trời mây: Ơn nghĩa cao cả như trời mây.
2427Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay,Quốc sĩ: Kẻ sĩ tài giỏi có tiếng trong nước.
2428Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
2429Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
2430Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!Cố ngữ: Lộ kiến bất bình, bạt dao tương trợ, ý nói người anh hùng nghĩa hiệp, giữa đường đi mà thấy điều gì không công bằng thì tuốt gươm ra mà giúp sức cho người bị áp bức. Câu này mượn ý ấy.
2431Huống chi việc cũng việc nhà,
2432Lọ là thâm tạ mới là tri ân.Thâm tạ: Tạ ơn một cách sâu sắc. Tri ân: Biết ơn của người khác đối với mình.
2433Xót nàng còn chút song thân,
2434Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.Việt: Một xứ ở Đông nam Trung Quốc;Tần: Một xứ ở bắc Trung Quốc. Kẻ Việt người Tần có nghĩa là cách biệt xa xôi.
2435Sao cho muôn dặm một nhà,
2436Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
2437Vội truyền sửa tiệc quân trung,
2438Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.Tẩy oan: Rửa tội oan, ý nói Từ Hải sai mở tiệc để làm hội rửa sạch tội oan cho Kiều.
2439Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
2440Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.Bình uy: Uy thế của quân đội. Câu này ý nói: Uy thế của quân Từ Hải từ đó vang dội trong ngoài như sấm dậy.
2441Triều đình riêng một góc trời,
2442Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
2443Đòi phen gió quét mưa sa,
2444Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam.Huyện thành: Thành trì của một huyện. Câu này ý nói: Quân Từ Hải đánh chiếm được năm huyện phía Nam Trung Quốc.
2445Phong trần mài một lưỡi gươm,
2446Những loài giá áo túi cơm sá gì!Giá áo túi cơm: Cái giá để mắc áo, cái túi để đựng cơm ý nói người vô dụng hèn kém.
2447Nghênh ngang một cõi biên thùy,
2448Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!Cô và quả: Tiếng tự xưng của bọn vua chúa đời xưa. Bá Vương cũng nghĩa như vua chúa. Câu này ý nói: Từ Hải cũng xưng cô xưng quả, làm vương làm bá một phương chứ không kém gì ai.
2449Trước cờ ai dám tranh cường,Tranh cường: Đua tranh về sức mạnh. Câu này ý nói: Trước ngọn cờ của Từ Hải không ai dám chống lại.
2450Năm năm hùng cứ một phương hải tần.Hùng cứ: Lấy sức mạnh mà chiếm giữ. Hải tần: Đất ven biển.
2451Có quan tổng đốc trọng thần,
2452Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.Kinh luân: Nghĩa đen là quay tơ và bện tơ, người ta thường dùng để nói tài sắp xếp chính sự, kinh bang tế thế.
2453Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,Đẩy xe: Do chữ thôi cốc (đẩy bánh xe). Đời xưa, khi sai tướng đi đánh giặc, vua thường tự mình đẩy vào xe của viên tướng một cái, để tỏ ý tôn trọng. Câu này ý nói: vua nhà Minh sai Hồ Tôn Hiến đi đánh Từ Hải là một việc rất quan trọng.
2454Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung.Tiện nghi bát tiễu: Tuỳ tiện mà đánh đẹp. Đổng nhung: Trông coi, đốc suất việc quân.
2455Biết Từ là đấng anh hùng,
2456Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
2457Đóng quân làm chước chiêu an,Chiêu an: Kêu gọi chiêu dụ cho giặc đầu hàng.
2458Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
2459Lại riêng một lễ với nàng,
2460Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân.
2461Tin vào gởi trước trung quân,
2462Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.
2463Một tay gây dựng cơ đồ,
2464Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
2465Bó thân về với triều đình,
2466Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
2467Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
2468Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
2469Sao bằng riêng một biên thùy,
2470Sức này đã dễ làm gì được nhau?
2471Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
2472Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
2473Nàng thời thật dạ tin người,
2474Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
2475Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
2476Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
2477Bằng nay chịu tiếng vương thần,Vương thần: Bề tôi của nhà vua.
2478Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!Thanh vân: Mây xanh, người xưa thường dùng để chỉ con đường công danh.
2479Công tư vẹn cả hai bề,
2480Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
2481Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,Mệnh phụ: Vợ các quan to đời xưa, được vua ban sắc mệnh phong cho làm phu nhân.
2482Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
2483Trên vì nước dưới vì nhà,
2484Một là đắc hiếu hai là đắc trung.Đắc hiếu: Tròn đạo hiếu với cha mẹ. Đắc trung: Tròn đạo trung với vua.
2485Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,Chiếc bách: Do chữ bách châu có nghĩa là mảnh thuyền, ý nói thân phận lênh đênh.
2486E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa.
2487Nhân khi bàn bạc gần xa,
2488Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
2489Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào,
2490Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
2491Bình thành công đức bấy lâu,Bình thành: Do chữ địa bình thiên thành ở Kinh thư, ý nói nhà vua sửa sang việc nước cho trời đất được bằng phẳng.
2492Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.
2493Ngẫm từ gây việc binh đao,
2494Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.Vô định: Tên một con sông ở biên thuỳ tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Ngày xưa ở con sông ấy đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giữa người Hán và người Hồ, làm cho rất nhiều người bị chết.
2495Làm chi để tiếng về sau,
2496Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!Hoàng Sào: Một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa cuối đời Đường, đã từng vây hãm kinh đô Trường An, tung hoành trong mười năm trời, sau bị thủ hạ giết chết.
2497Sao bằng lộc trọng quyền cao,
2498Công danh ai dứt lối nào cho qua?
2499Nghe lời nàng nói mặn mà,
2500Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
2501Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
2502Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.Thúc giáp: Bó áo giáp lại. Giải binh: Cho quân đội nghỉ ngơi không chiến đấu nữa.
2503Tin lời thành hạ yêu minh,Thành hạ yêu minh: Cùng nhau ăn thề dưới thành để tỏ ý không làm hại nhau và thật thà tuân theo đúng những điều đã ước hẹn.
2504Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
2505Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
2506Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.Vương sư: quân của nhà vua, tức quân của Hồ Tôn Hiến.
2507Hồ công quyết kế thừa cơ,Quyết kế thừa cơ: Quyết định cái mưu là nhân cơ hội Từ Hải trễ tràng việc quân để đánh.
2508Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công.Lễ tiên bình hậu: Phía trước thì đàn nghi lễ để chiêu hàng, phía sau thì phục sẵn binh mã để phản công. Khắc cờ: ấn định kỳ hạn. Tập công: Đánh úp.
2509Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,Chiêu phủ: Kêu gọi, vỗ về, để cho quy hàng. Tiên phong: Toán quân đi trước. Câu này ý nói: Hồ Tôn Hiến lập mưu cho kéo cờ “chiêu phủ” đi trước.
2510Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.
2511Từ công hờ hững biết đâu,
2512Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.Đại quan lễ phục: Ăn bận theo phục sức của vị quan lớn không mặc binh phục.
2513Hồ công ám hiệu trận tiền,
2514Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
2515Đương khi bất ý chẳng ngờ,
2516Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
2517Tử sinh liều giữa trận tiền,
2518Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
2519Khí thiêng khi đã về thần,
2520Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
2521Trơ như đá vững như đồng,
2522Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
2523Quan quân truy sát đuổi dài.
2524Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang.
2525Trong hào ngoài lũy tan hoang,
2526Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
2527Trong vòng tên đá bời bời,
2528Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.
2529Khóc rằng: Trí dũng có thừa,Trí dũng: Trí khôn và sức mạnh.
2530Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
2531Mặt nào trông thấy nhau đây?
2532Thà liều sống thác một ngày với nhau!
2533Dòng thu như dội cơn sầu,Dòng thu: Đây là chỉ nước mắt.
2534Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
2535Lạ thay oan khí tương triền!Oan khí tương triền: Cái oan khí ức vấn vít lại với nhau. ý nói: Giữa Từ Hải và Thuý Kiều hình như cùng chung mối uất ức.
2536Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
2537Quan quân kẻ lại người qua,
2538Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
2539Đem vào đến trước trung quân,
2540Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
2541Rằng: Nàng chút phận hồng nhan,
2542Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương!Binh cách: Binh là binh khí. Cách là áo giáp và mũ đầu mâu. Người ta thường dùng hai chữ binh cách để chỉ cuộc binh đao chinh chiến.
2543Đã hay thành toán miếu đường,Thành toán miếu đường: Mưu chước đã sắp đặt sẵn ở nơi tốn miếu triều đường. Câu này ý nói: đành hay triều đình đã có mưu kế sẵn, nhưng cũng nhờ lời nàng nói giúp mới nên việc.
2544Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
2545Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
2546Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?
2547Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
2548Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
2549Rằng: Từ là đấng anh hùng,
2550Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi!
2551Tin tôi nên quá nghe lời,
2552Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.Bách chiến: Trăm trận đánh, ý nói Từ Hải là một người dạn dày trong chiến trận.
2553Ngỡ là phu quý phụ vinh,Phu quí phụ vinh: Chồng làm nên quan sang thì vợ cũng được vinh hiển.
2554Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
2555Năm năm trời bể ngang tàng,Ngang tàng: Cũng cú nghĩa như hiên ngang, ý nói người tung hoành ngang trời dọc đất.
2556Đem mình đi bỏ chiến trường như không.
2557Khéo khuyên kể lấy làm công,
2558Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
2559Xét mình công ít tội nhiều,
2560Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
2561Xin cho tiện thổ một doi,Tiện thổ: Mướng đất xấu.
2562Gọi là đắp điếm cho người tử sinh.
2563Hồ công nghe nói thương tình,
2564Truyền cho cảo táng di hình bên sông.Cảo táng: Chôn một cách sơ sài, không có khâm liệm quan quách gì. Di hình: Cũng như di hài.
2565Trong quân mở tiệc hạ công,Hạ công: Mừng công (Thắng trận).
2566Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
2567Bắt nàng thị yến dưới màn,Thị yến: Hầu hạ bên bàn tiệc.
2568Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
2569Một cung gió thảm mưa sầu,
2570Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
2571Ve ngâm vượn hót nào tày,
2572Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
2573Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
2574Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!
2575Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này,
2576Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
2577Cung cầm lựa những ngày xưa,
2578Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!
2579Nghe càng đắm ngắm càng say,
2580Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
2581Dạy rằng: Hương lửa ba sinh,Hương lửa ba sinh: Do chữ tam sinh hương hoả, ý nói duyên nợ vợ chồng từ kiếp xưa để lại.
2582Dây loan xin nối cầm lành cho ai.Dây loan: Chỉ việc nối lại nhân duyên vợ chồng.
2583Thưa rằng: Chút phận lạc loài,
2584Trong mình nghĩ đã có người thác oan.
2585Còn chi nữa cánh hoa tàn,
2586Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân.Tiểu lân: Tên nàng Phùng Thục Phi, vợ vua Hậu chủ nước Tề, đời Nam Bắc triều. Sau khi nước Tề mất, nàng về tay người khác, nhân lúc dây đàn đứt, nàng làm bài thơ cảm hoài trong đó có câu: Dục trí tâm đoạn tuyệt, ưng khan tất thương huyền. Nghĩa là muốn biết tơ lòng dứt nát, nên xem cái dây trên đầu gối thì rõ. Câu này mượn ýcâu thơ ấy.
2587Rộng thương còn mảnh hồng quần,
2588Hơi tàn được thấy gốc phần là may!Gốc phần: Do chữ phần du.
2589Hạ công chén đã quá say,
2590Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra.
2591Nghĩ mình phương diện quốc gia,Phương diện quốc gia: vị quan đảm đang công việc một vùng đất nước.
2592Quan trên nhắm xuống người ta trông vào.
2593Phải tuồng trăng gió hay sao,
2594Sự này biết tính thế nào được đây?
2595Công nha vừa buổi rạng ngày,
2596Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài.Công nha: Chỗ làm việc quan, cũng như công môn đườngv.v.
2597Lệnh quan ai dám cãi lời,
2598Ép tình mới gán cho người thổ quan.Thổ quan: Cũng như thổ tù, viên quan người ở bản thổ, có thể ở vùng dân tộc ít người.
2599Ông tơ thực nhẽ đa đoan!
2600Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
2601Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
2602Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao.
2603Nàng càng ủ liễu phai đào,
2604Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
2605Đành thân cát lấp sóng vùi,
2606Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh!
2607Chân trời mặt bể lênh đênh,
2608Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào,
2609Duyên đâu ai dứt tơ đào,Tơ đào: Cũng như tơ hồng. Câu này ý nói: Ai đã chia rẽ nhân duyên của mình, đối nghĩa với câu dưới: “Nợ đâu, ai đã giắt vào tận tay?”. Nợ đây tức là việc “ép tình mới gán cho người thổ quan”.
2610Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay!
2611Thân sao thân đến thế này?
2612Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
2613Đã không biết sống là vui,
2614Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
2615Một mình cay đắng trăm đường,
2616Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi!
2617Mảnh trăng đã gác non đoài,
2618Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
2619Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,Triều: Nước thuỷ triều. ở cửa sông Tiền Đường (Trung Quốc) khi triều lên thì có tiếng sóng đùng đùng.
2620Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường.
2621Nhớ lời thần mộng rõ ràng,Thần mộng: Lời báo mộng của thần, ý nói lời Đạm Tiên dặn trong chiêm bao, lúc Kiều tự vẫn ở nhà Tú Bà: “Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau”.
2622Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!
2623Đạm Tiên nàng nhé có hay!
2624Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.
2625Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
2626Một thiên tuyệt bút gọi là để sau.Tuyệt bút: Bút tích cuối cùng, viết trước khi chết để kể nỗi tâm tình của mình cho người sau biết.
2627Cửa bồng vội mở rèm châu,Cửa hồng: Cửa thuyền. Rèm châu: Rèm có trang sức châu báu, hoặc rèm sơn màu đỏ.
2628Trời cao sông rộng một màu bao la.
2629Rằng: Từ công hậu đãi ta,
2630Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
2631Giết chồng mà lại lấy chồng,
2632Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
2633Thôi thì một thác cho rồi,
2634Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!
2635Trông vời con nước mênh mông,Con nước: Tiếng quen gọi của dân chài lưới để chỉ nước thủy triều lên xuống.
2636Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang.
2637Thổ quan theo vớt vội vàng,
2638Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi!Người xưa thường dùng hai chữ hương ngọc để chỉ phụ nữ.
2639Thương thay cũng một kiếp người,
2640Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
2641Những là oan khổ lưu ly,
2642Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!
2643Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
2644Làm gương cho khách hồng quần thử soi!
2645Đời người đến thế thì thôi,
2646Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay.Âm cực dương hồi: Khi khí âm đến hết mực thì khí dương lạ trở về. Câu này cũng nghĩa như câu bĩ cực thái lai, ý nói con người ta khi vận đen đã hết thì vận đỏ trở lại.
2647Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
2648Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!
2649Giác Duyên từ tiết giã màng,
2650Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.Bầu: Quả bầu khô rút ruột đi để đựng nước. Níp: Cái tráp đan bằng tre để đựng quần áo sách vở. Hai vật thường dùng của những người đi đường thời xưa. Vân du: Danh từ nhà Phật, ý nói nhà sư đi lang thang nay đây mai đó như đám mây bay vô định.
2651Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
2652Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
2653Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
2654Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
2655Sư rằng: Phúc họa đạo trời,Phúc hoạ đạo trời: Nói người ở đời gặp phúc hay gặp hoạ đều do ý trời, không phải ngẫu nhiên.
2656Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
2657Có trời mà cũng tại ta,
2658Tu là cõi phúc tình là dây oan.
2659Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
2660Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
2661Lại mang lấy một chữ tình,
2662Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
2663Vậy nên những chốn thong dong,
2664Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
2665Ma đưa lối quỷ đem đường,
2666Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
2667Hết nạn ấy đến nạn kia,
2668Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.Thanh lâu: Gái điếm. Thanh y: Gái hầu. Thuý Kiều làm gái điếm một lần ở Lâm Tri, một lần ở Châu Thai và làm gái hầu một lần ở nhà Hoạn bà, một lần ở nhà Hoạn Thư.
2669Trong vòng giáo dựng gươm trần,
2670Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.Hùm sói: Người xưa thường dùng hai chữ hùm sói để chỉ các tướng giặc. Đây muốn nói Kiều phải sống với bọn ác độc.
2671Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
2672Trước hàm rồng cá gieo mồi thủy tinh.
2673Oan kia theo mãi với tình,
2674Một mình mình biết một mình mình hay.
2675Làm cho sống đọa thác đầy,
2676Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
2677Giác Duyên nghe nói rụng rời:
2678Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!
2679Sư rằng: Song chẳng hề chi,
2680Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.Nghiệp duyên: Danh từ nhà Phật có nghĩa là mối duyên nợ do bản thân mình làm nên từ kiếp trước.
2681Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
2682Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm,
2683Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,Tình thân: Do câu phụ tử tình thân. Câu này ý nói: Thuý Kiều đến bối ơn nghĩa sâu sắc của cha mẹ.
2684Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
2685Hại một người cứu muôn người,
2686Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
2687Thửa công đức ấy ai bằng?Thửa công đức: Nghĩa là cứ xem như công đức ấy.
2688Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!Túc khiên: Tội lỗi kiếp trước.
2689Khi nên trời cũng chiều người,
2690Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
2691Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
2692Tiền Đường thả một bè lau rước người.
2693Trước sau cho vẹn một lời,
2694Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!
2695Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
2696Lân la tìm thú bên sông Tiền đường,
2697Đánh tranh chụm nóc thảo đường,Thảo đường: Nhà lợp bằng gianh, bằng cỏ.
2698Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
2699Thuê năm ngư phủ hai người,Ngư phủ: Người làm nghề chài lưới.
2700Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.
2701Một lòng chẳng quảng mấy công,
2702Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
2703Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,Duềnh ngân: Dòng nước bạc.
2704Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
2705Ngư ông kéo lưới vớt người,Ngư ông: Ông lão đánh cá, tức “ngư phủ” nói trên.
2706Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!
2707Trên mui lướt mướt áo là,
2708Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
2709Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
2710Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
2711Mơ màng phách quế hồn mai,Phách quế hồn mai: Do chữ quế phách mai hồn. Hai chữ “quế mai” ở đây dùng cho đẹp lời văn.
2712Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
2713Rằng: Tôi đã có lòng chờ,
2714Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
2715Chị sao phận mỏng phúc dày,
2716Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
2717Tâm thành đã thấu đến trời,
2718Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
2719Một niềm vì nước vì dân,
2720Âm công cất một đồng cân đã già!Âm công: Công đức cứu người làm ngấm ngầm, không ai biết.
2721Đoạn trường sổ rút tên ra,
2722Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
2723Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
2724Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
2725Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao,
2726Trạc Tuyền! Nghe tiếng gọi vào bên tai.
2727Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
2728Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
2729Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
2730Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
2731Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
2732Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.Thảo lưu: Nhà tranh cũng nghĩa như thảo đường.
2733Một nhà chung chạ sớm trưa,
2734Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
2735Bốn bề bát ngát mênh mông,
2736Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
2737Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
2738Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
2739Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
2740Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
2741Từ ngày muôn dặm phù tang,Phù tang: Phù trì đám tang, cũng nghĩa như hộ tang.
2742Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà.
2743Vội sang vườn Thúy dò la,Vườn Thuý: Chính nghĩa là cái vườn có hiên “Lãm Thuý” chỗ Kim Trọng trọ học lúc trước. Nhưng ở đây chỉ nơi hai người đi về tình tự lúc trước.
2744Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
2745Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
2746Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
2747Trước sau nào thấy bóng người,
2748Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kỳ ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong có câu: nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cự tiểu đông phong. Nghĩa là: mặt người không biết đi đằng nào, hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ. Cây này dùng câu ý thơ ấy để nói không thấy bóng dánh nàng Kiều ở đâu, chỉ thấy hoa đào vẫn cười với gió đông như năm xưa mà thôi.
2749Xập xè én liệng lầu không,
2750Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
2751Cuối tường gai góc mọc đầy,
2752Đi về này những lối này năm xưa.
2753Chung quanh lặng ngắt như tờ,
2754Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
2755Láng giềng có kẻ sang chơi,
2756Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
2757Hỏi ông ông mắc tụng đình,Tụng đình: Sân kiện, nơi xử kiện. ở đây dùng với nghĩa việc chỉ kiện cáo.
2758Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
2759Hỏi nhà nhà đã dời xa,
2760Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
2761Đều là sa sút khó khăn,
2762May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
2763Điều đâu sét đánh lưng trời,
2764Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
2765Vội han di trú nơi cao,Di trú: Dời đi ở chỗ khác.
2766Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.
2767Nhà tranh vách đất tả tơi,
2768Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
2769Một sân đất cỏ dầm mưa,
2770Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường!
2771Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
2772Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.
2773Dắt tay vội rước vào nhà,
2774Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
2775Khóc than kể hết niềm tây:
2776Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
2777Kiều nhi phận mỏng như tờ,
2778Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
2779Gặp cơn gia biến lạ dường,Gia biến: Tai biến của gia đình.
2780Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
2781Dùng dằng khi bước chân ra,
2782Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
2783Trót lời hẹn với lang quân,Lang quân: Tiếng dùng để chỉ người chồng trẻ và chỉ những người trai trẻ nói chung.
2784Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
2785Gọi là trả chút nghĩa người,
2786Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
2787Kiếp này duyên đã phụ duyên,
2788Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.Lai sinh: Kiếp sau. Câu này ý nói: nếu như chết mà thiêng thì kiếp sau xin đền bù lại.
2789Mấy lời ký chú đinh ninh,Ký chú đinh ninh: Ghi chú, dặn dò cặn kẽ.
2790Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
2791Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
2792Chàng Kim về đó con thì đi đâu?
2793Ông bà càng nói càng đau,
2794Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
2795Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
2796Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai!
2797Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
2798Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.
2799Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
2800Nhẫn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên:
2801Bây giờ ván đã đóng thuyền,Ván đã đóng thuyền: ý nói Thuý Kiều bây giờ đã về tay người khác.
2802Đã đành phận bạc khôn đền tình chung!
2803Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
2804Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?
2805Dỗ dành khuyên giải trăm chiều,
2806Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền.
2807Thề xưa giở đến kim hoàn,Kim hoàn: Vòng vàng, vật Kim Trọng đưa cho Thuý Kiều làm tin lúc mới gặp nhau (Câu 318: Xuyến vàng đi chiếc, khăn là một vuông).
2808Của xưa lại giở đến đàn với hương.
2809Sinh càng trông thấy càng thương.
2810Gan càng tức tối ruột càng xót xa.
2811Rằng: Tôi trót quá chân ra,
2812Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.
2813Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
2814Những điều vàng đá phải điều nói không!
2815Chưa chăn gối cũng vợ chồng,
2816Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
2817Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
2818Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi!
2819Nỗi thương nói chẳng hết lời,
2820Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra.
2821Vội về sửa chốn vườn hoa,
2822Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
2823Thần hôn chăm chút lễ thường,
2824Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa.Dưỡng thân: Nuôi cha mẹ. Câu này ý nói: Kim Trọng thay Kiều phụng dưỡng vợ chồng Vương ông như cha mẹ mình.
2825Đinh ninh mài lệ chép thơ,
2826Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe.
2827Biết bao công mướn của thuê,
2828Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi.Lâm thanh: Mã Giám Sinh nói dối là quê ở đó, nên Kim Trọng mới sai người đến đây hỏi thăm tin Kiều.
2829Người một nơi hỏi một nơi,
2830Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
2831Sinh càng thảm thiết khát khao,
2832Như nung gan sắt như bào lòng son.
2833Ruột tằm ngày một héo don,
2834Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve.
2835Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê,
2836Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.
2837Xuân huyên lo sợ biết bao,
2838Quá ra khi đến thế nào mà hay!
2839Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
2840Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng.
2841Người yểu điệu kẻ văn chương,
2842Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì,
2843Tuy rằng vui chữ vu quy,
2844Vui nào đã cất sầu kia được nào!
2845Khi ăn ở lúc ra vào,
2846Càng âu duyên mới càng dào tình xưa.
2847Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
2848Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
2849Có khi vắng vẻ thư phòng,
2850Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
2851Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
2852Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
2853Dường như bên nóc trước thềm,
2854Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng,
2855Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
2856Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.
2857Những là phiền muộn đêm ngày,
2858Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
2859Chế khoa gặp hội trường văn.Chế khoa: Khoa thi do ý vua mà mở ra, khác với khoa thi thường lệ.
2860Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.Bảng xuân: Do chữ xuân bảng, bảng thi về mùa xuân. Chiếm bảng xuân tức là thi đỗ.
2861Cửa trời rộng mở đường mây,Cửa trời: Do chữ thiên môn, tức là cửa nhà vua. Đường mây: Do chữ vân lộ hay thanh vân lộ, ý nói đường công danh, sĩ hoạn.
2862Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.Ngõ hạnh: Tức Hạnh Viên ở kinh đô Tràng An. Đời nhà Đường các tân khoa tiến sĩ được dự tiệc và xem hoa ở đây. Dặm phần: Do chữ phần du mà ra, ý nói quê nhà. Xem chú thích 2235. Câu này tả cảnh vinh hoa của Kim, Vương khi thi đỗ và về vinh qui.
2863Chàng Vương nhớ đến xa gần,
2864Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.Chu tuyền (hay chu toàn): Làm cho được tròn vẹn. Câu này ý nói: Vương quan làm rể họ Chung.
2865Tình xưa ân trả nghĩa đền,
2866Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần.
2867Kim từ nhẹ bước thanh vân,
2868Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương.
2869Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
2870Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?Ngọc đường: Đời Tống Thái Tồng, vua đề ở dinh Hàn Lâm ba chữ Ngọc đường thự. Đời sau bèn dùng những chữ Kim mã ngọc đường để nói chung cảnh quan gia phú quý.
2871Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
2872Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly.
2873Vâng ra ngoại nhậm Lâm truy,Ngoại nhậm: Làm quan ở cõi ngoài (không phải ở huyện nhà).
2874Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn.Thê nhi: Vợ con.
2875Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,Phụ tử Tiện đời Xuân thu, làm quan huyện, thường hay gảy đàn, người sau bèn gọi đinh quan huyện là cầm đường.
2876Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.Triệu Biên đời Tống, đi làm quan, chỉ đem theo một con hạc và một cây đàn, tổ ra người liêm khiết cao thượng.
2877Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
2878Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
2879Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
2880Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi.
2881Họ Lâm Thanh với Lâm Truy,
2882Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm.
2883Trong cơ thanh khí tương tầm,Thanh khí: Câu này ý nói: Thuý Vân, Thuý Kiều là hai chị em ruột, cho nên dễ cảm thông với nhau.
2884Ở đây hoặc có giai âm chăng là?Giai âm: Tin tốt.
2885Thăng đường chàng mới hỏi tra,Thăng đường: Ra ngồi làm việc ở công đường.
2886Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
2887Sự này đã ngoại mười niên,
2888Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
2889Tú bà cùng Mã Giám sinh,
2890Đi mua người ở Bắc kinh đưa về.
2891Thúy Kiều tài sắc ai bì,
2892Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ.
2893Kiên trinh chẳng phải gan vừa,Kiên trinh: Kiên quyết giữ gìn trinh tiết.
2894Liều mình thế ấy phải lừa thế kia.Liều mình: Chỉ việc Thuý Kiều tự vẫn lúc mới đến nhà Tú Bà. Phải lừa chỉ việc sợ bị Sở Khanh lừa đưa đi trốn.
2895Phong trần chịu đã ê chề,
2896Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang.
2897Phải tay vợ cả phũ phàng,
2898Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa.
2899Rứt mình nàng phải trốn ra,
2900Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
2901Thoắt buôn về thoắt bán đi,
2902Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
2903Bỗng đâu lại gặp một người,
2904Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh.
2905Trong tay mười vạn tinh binh,
2906Kéo về đóng chật một thành Lâm Truy.
2907Tóc tơ các tích mọi khi,Tóc tơ: Kẽ tóc chân tơ, ý nói hỏi rất tỷ mỷ.
2908Oán thì trả oán ân thì trả ân.
2909Đã nên có nghĩa có nhân,
2910Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen.
2911Chưa từng được họ được tên,
2912Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường.
2913Nghe lời đô nói rõ ràng,
2914Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh.
2915Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
2916Chồng con đâu tá tính danh là gì?
2917Thúc rằng: Gặp buổi loạn ly,
2918Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ.
2919Đại vương tên Hải họ Từ,
2920Đánh quen trăm trận sức dư muôn ngườị
2921Gặp nàng khi ở châu Thai,
2922Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên.Thiên tài: Tài trời phú cho.
2923Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
2924Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.Động địa kinh thiên: Sôi trời nổi đất.
2925Đại quân đồn đóng cõi đông,
2926Về sau chẳng biết vân mồng làm sao.Vân mồng: Tiếng cổ, nghĩa là tin tức, manh mối.
2927Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,Tiên hao: Cùng nghĩa với tăm hơi, tin tức.
2928Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ.
2929Xót thay chiếc lá bơ vơ,
2930Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong?
2931Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
2932Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan!
2933Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
2934Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
2935Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
2936Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
2937Bình bồng còn chút xa xôi,Bình: Bèo, Bồng: Cỏ bồng. Hai vật này thường hay trôi nổi theo nước và gió. ở đây để chỉ tấm thân phiêu bạt của Kiều.
2938Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!Đỉnh chung: Đỉnh: Cái vạc để nấu thức ăn. Chung: Cái chuông để đánh báo hiệu giờ ăn. Đỉnh chung ở đây dùng để chỉ cảnh vinh hiển phú quý.
2939Rắp mong treo ấn từ quan,Treo ấn từ quan: Treo trả cái ấn tại công đường mà bỏ về, không làm quan nữa.
2940Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
2941Dấn mình trong án can qua,
2942Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
2943Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
2944Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!Năm mấy: Do chữ Ngũ vân, ý nói tờ chiếu có vẽ mây năm sắc;chiếu trời là chiếu nhà vua.
2945Những là nấn ná đợi tin,
2946Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ
2947Năm mây bỗng thấy chiếu trời,
2948Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.Khâm ban: Chữ khâm, nguyên có nghĩa là kính, sau được dùng để chỉ nhà vua. Ví dụ: như nói khâm sai, khâm định… Sắc chí: Tờ sắc ban bố mệnh lệnh của nhà vua.
2949Kim thì cải nhậm Nam Bình,Cải nhậm: Đổi đi làm nơi khác. Nam – bình: Tên huyện, thuộc tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền Đường và Hàng Châu.
2950Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu Dương.Châu Dương: Tức Dương Châu, tên phủ thuộc tỉnh Giang Tồ (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền Đường và Hàng Châu.
2951Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
2952Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.Phó quan: Đi đến chỗ làm quan, đi nhậm chức.
2953Xảy nghe thế giặc đã tan,
2954Sóng êm Phúc Kiến lửa tàn Chiếc Giang.Phúc Kiến, Chiết Giang: Hai tỉnh phía đông nam Trung Quốc, nơi cát cứ cũ của Từ Hải.
2955Được tin Kim mới rủ Vương,
2956Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa.
2957Hàng Châu đến đó bây giờ,Hàng Châu: Tên phủ, nay là thủ phủ tỉnh Chiết Giang.
2958Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
2959Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
2960Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.Thất cơ: Để lỡ cơ mưu, làm sai quân cơ, tức là bị mắc mưu địch. Thu linh: thu khí thiêng, ý nói chết.
2961Nàng Kiều công cả chẳng đền,
2962Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.Thổ tù: Người tù trưởng ở địa phương, cùng như chữ Thổ quan.
2963Nàng đà gieo ngọc trầm châu,Ngọc và châu: Thường được dùng để chỉ cái đẹp, cái quý giá: “Gieo ngọc trầm châu” ở đây chỉ việc Thuý Kiều trầm mình.
2964Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan!
2965Thương ôi! Không hợp mà tan,
2966Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
2967Chiêu hồn thiết vị lễ thường,Chiêu hồn: Gọi hồn. Thiết vị: Đặt bài vị viết tên hiệu người chết mà thờ cúng. Đàn tràng: Đàn làm lễ giải oan.
2968Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
2969Ngọn triều non bạc trùng trùng,
2970Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.Cánh hồng: Cánh chim hồng. Cũng hiểu là phong thái nhẹ nhàng của cô gái đẹp.
2971Tình thâm bể thảm lạ điều,
2972Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?Tinh vệ: Tên một loài chim nhỏ, sống ở bãi bể. Theo sách Thuật dị ký: Xưa con gái vua Viêm đế chết đuối ở biển, hồn hoá thành con chim tinh vệ, hàng ngày ngậm đá ở núi Tây Sơn vứt xuống biển để hòng lấp biển. ở đây ví Thuý Kiều trầm mình nên mượn điểm ấy.
2973Cơ duyên đâu bỗng lạ sao,Cơ. Cơ trời. Duyên: duyên may. Câu này ý nói: Cơ trời xui khiến, duyên số lạ lùng.
2974Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
2975Trông lên linh vị chữ bài,Linh vị: Bài vị thờ linh hồn người chết.
2976Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
2977Với nàng thân thích gần xa,
2978Người còn sao bỗng làm ma khóc người?
2979Nghe tin ngơ ngác rụng rời,
2980Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra:
2981Này chồng này mẹ này cha,
2982Này là em ruột này là em dâu.
2983Thật tin nghe đã bấy lâu,
2984Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường!Pháp sư: Tiếng đồn xưng những tăng ni, đạo sĩ cấp trên.
2985Sư rằng: Nhân quả với nàng,Nhân quả: ở đây có nghĩa như là nhân duyên, duyên nợ.
2986Lâm Truy buổi trước Tiền Đường buổi sau.
2987Khi nàng gieo ngọc trầm châu,
2988Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,
2989Cùng nhau nương cửa bồ đề,Cửa bồ đề: Cửa Phật.
2990Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.Thảo am: Chùa lợp tranh.
2991Phật tiền ngày bạc lân la,Phật tiền: Trước bàn thờ Phật.
2992Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.
2993Nghe tin nở mặt nở mày,
2994Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
2995Từ phen chiếc lá lìa rừng,
2996Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
2997Rõ ràng hoa rụng hương bay,
2998Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
2999Minh dương đôi ngả chắc rồi,Minh dương: Cõi tối và cõi sáng, tức âm phủ và dương gian.
3000Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên!Cửu nguyên: Tên một xứ ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc) đời Xuân Thu là chỗ chôn các quan khánh và đại phu nhà Tần, người sau bèn dùng chữ cửu nguyên để chỉ mộ địa nói chung.
3001Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
3002Bộ hành một lũ theo liền một khi.
3003Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
3004Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
3005Quanh co theo dải giang tân,Giang tân: Ven sông;
3006Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.
3007Giác Duyên lên tiếng gọi nàng,
3008Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra.
3009Trông xem đủ mặt một nhà:
3010Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi.
3011Hai em phương trưởng hòa hai,Phương trưởng: Khôn lớn và trưởng thành.
3012Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!
3013Tưởng bây giờ là bao giờ,
3014Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
3015Giọt châu thánh thót quẹn bào,
3016Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình!
3017Huyên già dưới gối gieo mình,
3018Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi:
3019Từ con lưu lạc quê người,
3020Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm!Trần tạ: Bày tỏ lòng tạ ơn. Từ bi: Thương người, chữ của nhà Phật.
3021Tính rằng sông nước cát lầm,
3022Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!
3023Ông bà trông mặt cầm tay,
3024Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
3025Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
3026Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
3027Nỗi mừng biết lấy chi cân?
3028Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu!
3029Hai em hỏi trước han sau,
3030Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi.
3031Quây nhau lạy trước Phật đài,
3032Tái sinh trần tạ lòng người từ bi.
3033Kiệu hoa giục giã tức thì,
3034Vương ông dạy rước cùng về một nơi.
3035Nàng rằng: Chút phận hoa rơi,
3036Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
3037Tính rằng mặt nước chân mây,
3038Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
3039Được rày tái thế tương phùng.Tái thế tương phùng: Gặp nhau ở đời thứ hai, ý nói thân Kiều như chết đi sống lại để gặp gỡ gia đình.
3040Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
3041Đã đem mình bỏ am mây,
3042Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừạ
3043Mùi thiền đã bén muối dưa,
3044Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
3045Sự đời đã tắt lửa lòng,
3046Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
3047Dở dang nào có hay gì,
3048Đã tu tu trót quá thì thì thôi!
3049Trùng sinh ân nặng bể trời,Trùng sinh: Đẻ lại lần thứ hai, ý nói làm cho mình sống lại. Chỉ vào ơn của Giác duyên.
3050Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
3051Ông rằng: Bỉ thử nhất thì,Bỉ thứ nhất thì: Do câu Bỉ nhất thì, thử nhất thì ý nói xưa kia là một thì, bây giờ là một thì, hoàn cảnh khác nhau không thể câu nệ được.
3052Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.Tòng quyền: Theo quyền biến, ý nói phải thay đổi việc làm cho thích nghi, không thể nhất nhất giữ đạo thường được.
3053Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
3054Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
3055Độ sinh nhờ đức cao dày,
3056Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.Lập am: Dựng chùa, ý nói sẽ làm ngôi chùa riêng, mời Giác Duyên về ở chung.
3057Nghe lời nàng cũng chiều lòng,
3058Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.
3059Một nhà về đến quan nha,
3060Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.
3061Tàng tàng chén cúc dở say,
3062Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.
3063Rằng: Trong tác hợp cơ trời.Tác hợp: Do chữ Kinh thi: Thiên tác chỉ hợp, ý nói duyên trời xui khiến cho Kim Trọng, Thuý Kiều gặp gỡ và kết hợp với nhau.
3064Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
3065Gặp cơn bình địa ba đào,Bình địa ba đào: ý nói những sự bất trắc trong đời người, chẳng khác gì đất bằng lại nổi sóng.
3066Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.
3067Cũng là phận cải duyên kim,
3068Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?Tục ngữ: Máu chảy ruột mềm, ý nói giữa bà con ruột thịt có sự tương quan mật thiết, như máu với ruột, hễ máu chảy thì ruột mềm.
3069Những là rày ước mai ao,
3070Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
3071Bây giờ gương vỡ lại lành,Gương vỡ lại lành: Dịch chữ Phá kính trùng viên. Nguyên đời Trần (Trung Quốc) Từ Đức Ngôn lấy Lạc Xương công chúa. Khi biết nước nhà sắp bị diệt, vợ chồng thế nào cũng bị phân ly, bèn đập vỡ cái gương, mỗi người giữ một nửa, dùng làm của tin để tìm gặp nhau, sau quả nhiên hai người lại nối được tình nghĩa vợ chồng. Câu này dùng điển ấy.
3072Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
3073Còn duyên may lại còn người,
3074Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
3075Quả mai ba bảy đương vừa,Kinh Thi: Phiếu hữ mai, kỳ thực nhất hề… Phiếu hữu mai, kỳ thực tam hề…(Mơ rụng xuống, quả còn bảy phần…, mơ rụng xuống, quả còn ba phần) ý nói tiết xuân đã muộn nên kíp lo liệu việc hôn nhân. ở đây Thuý Vân muốn nói Kiều vẫn còn vừa tuổi đi lấy chồng.
3076Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
3077Dứt lời nàng vội gạt đi:
3078Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
3079Một lời tuy có ước xưa,
3080Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều.
3081Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
3082Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!
3083Chàng rằng: Nói cũng lạ đời,
3084Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
3085Một lời đã trót thâm giao,Thâm giao: Giao ước với nhau một cách ân cần, cốt thiết.
3086Dưới dày có đất trên cao có trời!
3087Dẫu rằng vật đổi sao dời,Vật đổi sao dời: ý nói mọi việc trên đời đều thay đổi.
3088Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh!Câu thơ này ý nói: trước khi đã có lời thề sống chết với nhau thì dù sống, dù chết cũng phải giữ lấy lời thề ấy.
3089Duyên kia có phụ chi tình,
3090Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai?
3091Nàng rằng: Gia thất duyên hài,Gia thất: Tả truyện có câu: Nam hữu thất, nữ hữu gia. Nghĩa là con trai có vợ, con gái có chồng. Gia thất duyên hài: Đẹp duyên vợ chồng.
3092Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng.
3093Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
3094Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương.Câu này ý nói: Con gái lấy chồng phải như là hoa còn phong nhị, vầng trăng chưa khuyết ý nói trinh tiết còn nguyên vẹn.
3095Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
3096Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa.Đuốc hoa: Câu này ý nói: Nếu trinh tiết còn nguyên thì đêm hợp hôn mới không hổ thẹn.
3097Thiếp từ ngộ biến đến giờ.Ngộ biến: Gặp phải tai biến.
3098Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
3099Bấy chầy gió táp mưa sa.
3100Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.
3101Còn chi là cái hồng nhan,
3102Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?
3103Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
3104Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!Trần cấu: Bụi nhơ.
3105Đã hay chàng nặng vì tình,
3106Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
3107Từ rày khép cửa phòng thu,
3108Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
3109Chàng dù nghĩ đến tình xa,
3110Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.Cầm sắt: Kinh thi: Thê tử hảo hợp như cổ sắt cầm. (Vợ con hoà hợp như gảy đàn sắt, đàn cầm). Người sau bèn dùng hai chữ cầm sắt để chỉ tình vợ chồng. Cầm cờ: Khi bầu bạn gặp nhau thường gảy đàn, đánh cờ làm vui, cho nên người ta thường dùng hai chữ cầm kỳ để chỉ tình bạn hữu. Câu này ý nói: Nên đem tình vợ chồng đổi làm tình bầu bạn.
3111Nói chi kết tóc xe tơ,
3112Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!
3113Chàng rằng: Khéo nói nên lời,
3114Mà trong lẽ phải có người có ta!
3115Xưa nay trong đạo đàn bà,
3116Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,
3117Có khi biến có khi thường,
3118Có quyền nào phải một đường chấp kinh.Quyền: Quyền biến, nghĩa là theo hoàn cảnh mà thay đổi các xử sự. Chấp kinh: Giữ theo đạo thường, lê thường.
3119Như nàng lấy hiếu làm trinh,
3120Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
3121Trời còn để có hôm nay,
3122Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
3123Hoa tàn mà lại thêm tươi,
3124Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
3125Có điều chi nữa mà ngờ,
3126Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu!Chàng Tiêu: Do chữ Tiêu Lang, tiếng xưng hô của người con gái đối với tình nhân. Tình sử chép: Thôi Giao, đời Đường, có người yêu bị người ta bắt bán cho quan Liên suý. Chàng buồn rầu làm bài thơ, trong có câu: Hầu môn nhất nhập thâm tự hải, tòng thử Tiêu làng thị lộ thân (Cửa hầu vào rồi thấy sâu như biển, từ đấy chàng Tiêu là người khách qua đường). Câu này ý nói: Nỡ nào lại hững hờ không nhận người yêu cũ hay sao.
3127Nghe chàng nói đã hết điều,
3128Hai thân thì cũng quyết theo một bài.
3129Hết lời khôn lẽ chối lời,
3130Cúi đầu nàng những vắn dài thở than.
3131Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,
3132Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.
3133Cùng nhau giao bái một nhà,
3134Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi.
3135Động phòng dìu dặt chén mồi,
3136Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa.
3137Những từ sen ngó đào tơ,
3138Mười lăm năm mới bây giờ là đây!
3139Tình duyên ấy hợp tan này,
3140Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao.Câu này ý nói: Kim Trọng, Thuý Kiều cùng nhau kể lể những chuyện buồn, chuyện vui mãi cho đến khi đêm đã khuya, trăng đã cao.
3141Canh khuya bức gấm rủ thao,
3142Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.
3143Tình nhân lại gặp tình nhân,
3144Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
3145Nàng rằng: Phận thiếp đã đành,
3146Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
3147Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
3148Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may.Xướng tuỳ: Do câu Phu xướng phụ tuỳ (Chồng xướng vợ nghe theo). Đấy dùng để thay cho chữ phu phụ (vợ chồng).
3149Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
3150Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi!
3151Những như âu yếm vành ngoài,
3152Còn toan mở mặt với người cho qua.
3153Lại như những thói người ta,
3154Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa.
3155Khéo là giở nhuốc bày trò,
3156Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi!
3157Người yêu ta xấu với người,
3158Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau!
3159Cửa nhà dù tính về sau,
3160Thì còn em đó lọ cầu chị đây.Câu này ý nói: Nếu Kim Trọng nghĩ đến việc sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường về sau thì đã có Thuý Vân.
3161Chữ trinh còn một chút này,Kiều ngầm ý nói rằng: Nàng sở dĩ bị cảnh ong qua bướm lại là do hàon cảnh bắt buộc, chứ tâm hồn nàng thì vẫn trong trắng. Chữ Trinh đây hiểu về phương diện tinh thần chứ không phải về thể xác.
3162Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan!
3163Còn nhiều ân ái chan chan,
3164Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?
3165Chàng rằng: Gắn bó một lời,
3166Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau.
3167Xót người lưu lạc bấy lâu,
3168Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều!
3169Thương nhau sinh tử đã liều,
3170Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình.
3171Chừng xuân tơ liễu còn xanh,
3172Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân.
3173Gương trong chẳng chút bụi trần,
3174Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm!
3175Bấy lâu đáy bể mò kim,Đáy bề mò kim: Dịch câu Hải đề lao châm, ý nói làm một việc rất khó khăn, mất nhiều công phu.
3176Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa?Câu này ý nói: Bấy lâu đi tìm nàng là đeo đuổi lời thề vàng đá, không phải là tìm thú trăng hoa.
3177Ai ngờ lại họp một nhà,
3178Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!
3179Nghe lời sửa áo cài trâm,
3180Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng:Cao thâm: Cao sâu, ý nói Kiều cảm tạ cái nghĩa cao ơn sâu của Kim Trọng.
3181Thân tàn gạn đục khơi trong,
3182Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
3183Mấy lời tâm phúc ruột rà,
3184Tương tri dường ấy mới là tương tri!
3185Chở che đùm bọc thiếu chi,
3186Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!
3187Thoắt thôi tay lại cầm tay,
3188Càng yêu vì nết càng say vì tình.
3189Thêm nến giá nối hương bình,
3190Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan.
3191Tình xưa lai láng khôn hàn,
3192Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa.
3193Nàng rằng: Vì mấy đường tơ,
3194Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!
3195Ăn năn thì sự đã rồi!
3196Nể lòng người cũ vâng lời một phen.
3197Phím đàn dìu dặt tay tiên,
3198Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.
3199Khúc đâu đầm ấm dương hòa,Dương hoà: Khí dương đầm ấm của mùa xuân.
3200Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.Hồ điệp: Con bướm. Trang sinh: Tức Trang Chu, hay Trang Tử. đời Chiến Quốc. Xưa Trang Chu nằm chiêm bao thấy mình hoá thành con bướm tung bay nhởn nhơ, tỉnh dậy bàng hoàng tự hỏi: Không hiểu ta hoá thành bướm, hay chính bướm đương hoá thành ta. ở đây nói khúc đàn tiêu dao, phiêu dật.
3201Khúc đâu êm ái xuân tình,
3202Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?Thục đế: Vua nước Thục. Đỗ quyên: Con chim quốc. Tương truyền xưa vua nước Thục buồn vì mất nước, chết hoá thành con chim đỗ quyên, tiếng kêu ai oán.
3203Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,Duềnh quyên: Vũng nước biển sáng đẹp.
3204Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông!Lam Điền: Tên một hòn núi ở tỉnh Thiểm Tây, chỗ sản sinh nhiều ngọc quí.
3205Lọt tai nghe suốt năm cung,
3206Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
3207Chàng rằng: Phổ ấy tay nào,
3208Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
3209Tẻ vui bởi tại lòng này,
3210Hay là khổ tận đến ngày cam lai?Khổ tận cam lai: Đắng hết ngọt đến, ý nói vận khổ đã qua, vận sướng bắt đầu tới.
3211Nàng rằng: Ví chút nghề chơi,
3212Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
3213Một phen tri kỷ cùng nhau,
3214Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa.
3215Chuyện trò chưa cạn tóc tơ,
3216Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông.
3217Tình riêng chàng lại nói sòng,
3218Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao.
3219Cho hay thục nữ chí cao,Thục nữ chí cao: Người con gái hiền thục có tâm chí cao thượng.
3220Phải người tối mận sớm đào như ai?Sớm mận tối đào: Sớm ấp mận, tối ôm đào, ý nói người trăng gió, tình yêu không chuyên nhất. Xem chú thích 1289
3221Hai tình vẹn vẽ hòa hai,
3222Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ.
3223Khi chén rượu khi cuộc cờ,
3224Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
3225Ba sinh đã phỉ mười nguyền,
3226Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
3227Nhớ lời lập một am mây,
3228Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên.
3229Đến nơi đóng cửa cài then,
3230Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà,
3231Sư đà hái thuốc phương xa,
3232Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?
3233Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,
3234Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai.
3235Một nhà phúc lộc gồm hai,
3236Ngàn năm dằng dặc quan giai lần lần.Quan giai: Cấp bậc quan lại, ý nói Kim Trọng làm quan được lần lần thăng chức.
3237Thừa gia chẳng hết nàng Vân,Thừa gia: Đảm đương việc nhà, cũng có nghĩa là sang dòng nối dõi tông đường.
3238Một cây cù mộc một sân quế hòe.Cù mộc: Chỉ vợ cả. Xem chú thích 902. Quế hoè: Xưa họ Đậu, đời Tống, có năm người con trai đều hiển đạt, Vương Đạo có câu thơ khen: Đan quế ngũ chi phương (Quế đỏ năm cành thơm). Xem thêm điển Vương Hữu. Câu này dẫn mấy điển ấy để nói Kim Trọng có đông con cháu hiển đạt sau này.
3239Phong lưu phú quý ai bì,
3240Vườn xuân một cửa để bia muôn đời
3241Ngẫm hay muôn sự tại trời,
3242Trời kia đã bắt làm người có thân.
3243Bắt phong trần phải phong trần,
3244Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
3245Có đâu thiên vị người nào,
3246Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
3247Có tài mà cậy chi tài,
3248Chữ tài liền với chữ tai một vần.
3249Đã mang lấy nghiệp vào thân,
3250Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
3251Thiện căn ở tại lòng ta,
3252Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
3253Lời quê chắp nhặt dông dài,
3254Mua vui cũng được một vài trống canh.

Cập nhật thông tin đầy đủ 🔰Thơ Nguyễn Du 🔰 Bên Cạnh 3254 Câu Thơ Truyện Kiều

Hoàn Cảnh Sáng Tác Truyện Kiều

Đọc xong 3254 câu thơ Truyện Kiều thì hãy cùng Thohay.vn tìm hiểu thêm về hoàn cảnh sáng tác Truyện Kiều ngay sau đây nhé!

Về hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều, có nhiều giả thuyết xoay quanh. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820) (ý kiến của nhà nghiên cứu văn học Hoàng Xuân Hãn). Hoàng Xuân Hãn cho rằng, Nguyễn Du đi xứ Trung Quốc đã tiếp cận được với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Trên cơ sở đó, đã tiếp biến mà viết ra Truyện Kiều.

Có thuyết lại cho rằng Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng cuối Lê đầu Tây Sơn (ý kiến của học giả Đào Duy Anh). Học giả Đào Duy Anh căn cứ vào những ghi chép trong Đại Nam liệt truyện và đưa ra nhận định. Sách này có đoạn: “Ông giỏi thơ lại sành quốc âm, sau khi đi xứ về có Bắc hành thi tập và truyện Thúy Kiều còn lại đến ngày nay”.

Đào Duy Anh phản bác: “Liệt truyện căn cứ vào khẩu truyền thiếu chính xác nên đã ghi là Bắc hành thi tập và truyện Thúy Kiều như nhân gian thường gọi chứ không ghi chính xác là Bắc hành tạp lục và Đoạn trường tân thanh đúng tên gốc của nó”.

Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn. Các học giả bằng việc khảo cứu tài liệu trong và ngoài nước tiếp tục truy nguyên nguồn gốc ra đời của Truyện Kiều. Dựa trên đó có thể khẳng định chắc chắn rằng Nguyễn Du có tiếp cận và tiếp biến cốt truyện tác phẩm Kim-Vân-Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Còn việc Nguyễn Du viết truyện Kiều khi nào vẫn còn chưa xác định được rõ.

Chia sẻ các mẫu phân tích🔰 Truyện Kiều [Nguyễn Du] 🔰 Bên Cạnh 3254 Câu Thơ Truyện Kiều

Bình Giải Truyện Kiều

3254 câu thơ Truyện Kiều được mệnh danh là thi phẩm tiếng Việt được đọc nhiều nhất mọi thời đại. Đọc bài bình giải sau đây để hiểu hơn về ý nghĩa cũng như cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du thông qua truyện Kiều.

Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này. Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt. Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du thấm nhuần trong trang thơ Truyện Kiều.

Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người. Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều được thể hiện qua sự trân trọng vẻ đẹp của con người, thương xót cho số phận đau thương của con người, tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người và thấu hiểu ước mơ của con người.

Nguyễn Du rất trân trọng vẻ đẹp con người. Nguyễn Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật. Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái:

“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn tả hết:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật, nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải “thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.

Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:

“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo hiếu:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Và đức tính thủy chung:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa

“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”

Và một tấm lòng bao dung, độ lượng:

“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên”

Tiến bộ hơn các nhà thơ thời Trung Đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:

“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”

Thương xót cho số phận đau thương của con người. Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”

Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.

Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn – một kẻ không biết “thương hoa tiếc ngọc”: 

“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”

Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:

“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
“Cò kè bớt một thêm hai”

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả, đó cũng chính là tinh thần nhân đạo của tác phẩm, ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương, tình người, lòng tự tôn.

Ngoài 3254 Câu Thơ Truyện Kiều, Gợi Ý Phân Tích Thêm ❤️️ Cảnh Ngày Xuân ❤️️Chi Tiết

Viết một bình luận