Muốn Làm Thằng Cuội: Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích, Soạn Bài

Nội Dung Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội, Nghệ Thuật, Phân Tích. Chia Sẻ Ý Nghĩa Nhan Đề, Giá Trị Tác Phẩm, Cách Soạn Bài, Giáo Án Chi Tiết Nhất.

Giới Thiệu Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội

Bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” của Tản Đà là một tác phẩm nổi bật trong nền văn học Việt Nam, được sáng tác vào năm 1917 và in trong tập “Khối tình con I”. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng có những sáng tạo riêng biệt.

Nội dung bài thơ thể hiện tâm trạng của tác giả, một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng. Giọng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát, pha chút hóm hỉnh và phóng túng, thể hiện rõ nét phong cách lãng mạn và đậm chất ngông của Tản Đà.

Nội Dung Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội bộc lộc tâm trạng buồn chán trần thế, qua đó cũng bộc lộ nỗi buồn trước vận mệnh dân tộc và tình yêu đất nước một cách thầm kín của tác giả. Cùng đọc ngay nội dung bài thơ sau đây nhé!

Muốn làm thằng Cuội
Tác giả: Tản Đà

Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.

Đón đọc thêm tác phẩm☀️ Đập Đá Ở Côn Lôn ☀️Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích

Về Nhà Thơ Tản Đà

Một số thông tin về nhà thơ Tản Đà cho bạn tham khảo.

  • Tản Đà (1889-1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây).
  • Tản Đà xuất thân là một nhà nho. Vì mấy lần đi thi không đỗ nên ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ rồi sớm nổi tiếng, nhất là những năm 20 của thế kỉ XX.
  • Ngoài viết thơ Tản Đà còn nổi tiếng với nhiều bài văn xuôi, tản văn, tùy bút, tự truyện…
  • Những tác phẩm tiêu biểu: Giấc mộng con, Thề non nước, Khối tình con…
  • Thơ Tản Đà tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại vô cùng đậm đà bản sắc dân tộc, thơ ông có những tìm tòi và sáng tạo rất mới mẻ. Thơ Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam

Về Tác Phẩm Muốn Làm Thằng Cuội

Về tác phẩm Muốn làm thằng Cuội, đây là bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng có những mới mẻ và sáng tạo riêng.

Nội dung chính của tác phẩm là lời tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

Bài thơ cũng thể hiện tâm trạng buồn chán cuộc sống trần thế không có niềm vui nào cho con người. Đó là nỗi ưu thời mẫn thế trước sự tồn vong của đất nước, của dân tộc, là nỗi đau nhân sinh trước những cảnh đời éo le, là nỗi cô đơn bế tắc của nhà thơ.

Mời bạn xem thêm 🌿Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Muốn làm thằng Cuội như thế nào? Bài thơ Muốn làm thằng Cuội được in trong tập “Khối tình con I”(xuất bản năm 1917). Bài thơ là sự sáng tạo, mới mẻ với hình thức thất ngôn bát cú đường luật cổ điển, giọng thơ hóm hỉnh, pha một chút ngông của Tản Đà.

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội

Cùng Thohay.vn tìm hiểu chi tiết về ý nghĩa nhan đề bài thơ Muốn làm thằng Cuội ngay sau đây.

Như các bạn đã biết thì Cuội là một nhân vật trong câu truyện cổ tích dân gian. Vì vậy đặt tên bài thơ “Muốn làm thằng Cuội”, tác giả thể hiện ước muốn làm một nhân vật cổ tích, được sánh đôi với chị Hằng trên cung trăng và gửi gắm ước mơ sống ở cõi mộng.

Thực tế, ước muốn đó bắt nguồn từ tâm trạng chán ghét thực tại, cuộc sống với quá nhiều bất công, đau khổ. Vì vậy tác giả muốn rời cõi thực để đến với cõi mơ, được bầu bạn với thần thiên và nhìn xuống nhân gian. Qua đó, cũng thể hiện ước muốn của tác giả về một cuộc sống tốt đẹp hơn

Đón đọc các bài phân tích🍃Bến Quê [Nguyễn Minh Châu] 🍃Chi tiết nhất

Bố Cục Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội

Bố cục bài thơ Muốn làm thằng Cuội được chia làm 4 phần như sau:

  • Hai câu đề: Cuộc sống trần gian nhàm chán, buồn tẻ.
  • Hai câu thực: Cõi mộng tưởng của tác giả.
  • Hai câu luận: Ước mơ thoát li khỏi thực tại.
  • Hai câu kết: Viễn cảnh cuộc sống hạnh phúc.

Giá Trị Tác Phẩm Muốn Làm Thằng Cuội

Giá trị tác phẩm Muốn làm thằng Cuội được thể hiện ở hai khía cạnh chính như sau:

Giá trị nội dung

  •  Bộc lộ tâm sự của tác giả về nỗi buồn nhân thế do bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa. Qua đó, thể hiện khát vọng muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

Giá trị nghệ thuật

  • Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngôn ngữ dân dã đời thường và mang nét mới khi thể hiện cái tôi trong bài thơ.
  • Hồn thơ lãng mạn, pha chút ngông nghênh đáng yêu.
  • Giọng thơ hóm hỉnh, kết hợp giữa tự sự và trữ tình.
  • Sử dụng câu hỏi tu từ, câu cầu khiến, điệp từ, nhân hóa đã thể hiện rõ hơn tâm trạng của nhà thơ

Đón đọc thêm bài 🌻Nói Với Con [Y Phương]🌻 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Dàn Ý Muốn Làm Thằng Cuội

Gợi ý cách lập dàn ý phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội chi tiết nhất.

I. Mở bài

  • Khái quát về tác giả Tản Đà: Một tác giả như một dấu gạch nối giao thời giữa thơ cũ và thơ Mới
  • Giới thiệu chung về bài thơ Muốn làm thằng Cuội: bài thơ là tâm sự của tác giả về thực tại

II. Thân bài

1. Hai câu đầu

  • “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!”: lời cảm thán gợi không gian: Đêm thu, trăng sáng
  • Nhà thơ bộc lộ trực tiếp suy tư của bản thân về trần thế: “buồn lắm”, “Trần thế em nay chán nửa rồi”: Lí do là vì cõi trần lắm bon chen, bất công, đất nước mất độc lập, tự do, thân phận nô lệ.
  • “Chán nửa”: trong sâu thẳm vẫn tha thiết yêu cuộc sống
  • Xưng hô: chị- em (nhún nhường mà bất trị- ngông)

⇒ Biểu cảm trực tiếp, giọng thơ như lời than thở nhấn mạnh tâm trạng buồn sầu da diết, không nguôi, niềm bất hoà sâu sắc với xã hội

2. Bốn câu giữa

  • Bày tỏ mong muốn thoát li lên cung Quế (cung trăng) – nơi đẹp đẽ, thanh cao trong sáng – ở cạnh chị Hằng – người đẹp .

⇒ Ước muốn rất ngông

  • Niềm mong muốn được vui trong cảnh bầu bạn, thả hồn cùng mây gió

⇒ Đó chỉ là niềm vui gượng, vui nhạt vì nó chỉ có trong mộng tưởng.

3. Hai câu kết

  • Cảnh: thi sĩ mãi mãi ở trên cung trăng cùng chị Hằng, đêm rằm trung thu tháng 8 thi sĩ kề vai chị Hằng trông xuống thế gian cười

⇒ Hình ảnh bất ngờ, thi vị thể hiện cao độ hồn thơ ngông của Tản Đà.

  • Thi sĩ thoả mãn vì đã đạt được khát vọng, thoát li mãnh liệt, xa lánh hẳn được cõi trần bụi bặm
  • “Tựa nhau trông xuống thế gian cười” : sự mỉa mai khinh bỉ cõi trần gian

⇒ Khao khát sự đổi thay XH theo hướng tốt đẹp, thoả mãn nhu cầu sống cá nhân.

III. Kết bài

  • Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm: Với Lời lẽ giản dị, trong sáng, giọng điệu nhẹ nhàng hóm hỉnh, sức tưởng tượng phong phú, bài thơ là lời tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường mà xấu xa
  • Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân

Soạn Bài Muốn Làm Thằng Cuội

Hướng dẫn bạn đọc soạn bài Muốn làm Thắng Cuội chi tiết theo các câu hỏi trong sách giáo khoa.

👉Câu 1 (trang 156 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1): Hai câu thơ đầu là tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng. Theo em, vì sao Tản Đà lại có tâm trạng chán trần thế?

Đáp án:

Tản Đà chán trần thế vì bế tắc, bất hòa sâu sắc với xã hội. Xã hội ta thời đó tù hãm, uất ức, đất nước mất chủ quyền những kẻ hãnh tiến thi nhau ganh đua. Ông buồn vì phận tài hoa mà lận đận, không đủ sức thay đổi hiện thực bi kịch.

👉Câu 2 (trang 156 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1): Nhiều người đã nhận xét một cách xác đáng rằng, Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. Em hiểu “ngông” nghĩa là gì?

Đáp án:

  • “Ngông” là thái độ bất cần đời, là dám làm điều trái lẽ thường, không sợ lời đàm tiếu, đó là thái độ phóng túng coi thường khuôn phép trói buộc cá tính.
  • Cái ngông của Tản Đà chính là ước muốn làm thằng Cuội, muốn lên Cung Trăng, những ước muốn người thường không dám mơ tới. Cảnh tượng vẽ ra chị Hằng cùng nhà thơ bầu bạn, trò chuyện gió mây, mọi thứ đều như hư ảo.

👉Câu 3 (trang 156 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1): Phân tích hình ảnh cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Em hiểu cái cười ở đây có ý nghĩa gì?

Đáp án:

– Cái “cười” ở đây của Tản Đà được mang nhiều ý nghĩa:

  • Cười thể hiện niềm vui được thỏa mãn mơ ước lên cõi mộng tưởng.
  • Cười vì nhà thơ thấy thế gian ông từ bỏ vẫn là trần tục tầm thường, buồn chán.
  • Cười thể hiện sự mỉa mai, giễu cợt khi Tản Đà ở vị trí cao hơn cõi trần ông đang sống.

👉Câu 4 (trang 156 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1): Theo em những yếu tố nghệ thuật nào đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ?

Đáp án:

  • Trí tưởng tượng sáng tạo, bay bổng của nhà thơ
  • Cảm xúc dồi dào, ngòi bút phóng khoáng đã tạo ra cuộc trò chuyện tưởng tượng lý thú, hấp dẫn
  • Thái độ sống “ngông” của tác giả tạo ra giọng điệu ngang tàng khác thường
  • Có những cách tân mới khi thể hiện cái “tôi”- khác với thơ Đường cổ điển

Sưu tầm các bài phân tích thơ🌷 Viếng Lăng Bác [Viễn Phương] 🌷 Chi tiết

Giáo Án Muốn Làm Thằng Cuội

Gợi ý cách soạn giáo án bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà.

I. Mục tiêu bài học

1. Kiến thức

  • Học sinh cảm nhận được tâm sự buồn chán thực tại ; ước muốn thoát li rất “ngông” và tấm lòng yêu nước của Tản Đà.
  • Sự đổi mới về ngôn ngữ, giọng điệu, ý tứ, cảm xúc trong bài thơ “ Muốn làm thằng Cuội”

2. Kĩ năng

  • Rèn cho học sinh kĩ năng phân tích tác phẩm để thấy được tâm sự của nhà thơ Tản Đà.
  • Phát hiện so sánh thấy được sự đổi mới trong hình thức thể loại văn học truyền thống.

3. Thái độ: Giáo dục co học sinh lòng yêu nước; gd hs có ý thức thái độ đúng trong học tập.

II. Chuẩn bị tài liệu

1. Giáo viên: Giáo án, nghiên cứu bài, sgk, sgv, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng,đọc sách tham khảo…

2. Học sinh: Chuẩn bị bài, học bài cũ, sgk,nháp, vở ghi…

III. Tiến trình tổ chức dạy học

1. Ổn định tổ chức: Sĩ số:

2. Kiểm tra

H: đọc thuộc bài thơ “ Đập đá ở Côn Lôn” của tác giả Phan Châu Trinh

H: Phân tích 4 câu thơ đầu: Câu thơ đầu: Tạo dưng tư thế sánh ngang trời đất của người trai đứng giữa đất trời Côn Đảo. Cả câu thơ toát lên một vẻ đẹp hùng tráng , biểu lộ một tư thế con người đường hoàng làm chủ mình.

– Câu thơ sau: Tả thực công việc đập đá, khắc hoạ được hình ảnh bậc anh hùng dựng nước hăm hở quả quyết với những hành động mạnh mẽ, phi thường.

“ lừng lẫy”, “đánh tan năm bẩy đống”, “đập bể mấy trăm hòn”, “làm cho lở núi non”=> Bốn câu thơ vừa tả thực cộng việc lao động khổ sai của ng tù cm vừa xây dựng được một tượng đài uy nghi về ng anh hùng khí phách hiên ngang, lẫm liệt sừng sững giữa đất trời với khẩu khí: ngang tàng ngạo nghễ coi thường gian nan.

3. Bài mới

Tản Đà vốn xuất thân từ một gia đình nhà nho nhưng lại sống giữa thời buổi nho học tàn tạ. Ông là nghệ sĩ có tài, có tình, có cá tính độc đáo, nhân cách cao thượng. Tản Đà không muốn hoà mình với xã hội phong kiến xấu xa, nhơ bẩn, hỗn tạp, xô bồ nên đã tìm cách thoát li vào rượu vào thơ, vào cõi mộng, cõi tiên. Để hiểu rõ tâm trạng ấy chúng ta cùng tìm hiểu bài hôm nay.

Hoạt động của GV và HSKiến thức cần đạt
HĐ1. HDHS đọc và tìm hiểu chú thích:
-GV hướng dẫn đọc: rõ ràng, ngắt nhịp 4/3 hoặc 2/2/3.
– GV đọc mẫu, hs đọc.Nhận xét.
H: Theo dõi chú thích sao, nêu vài nét về tác giả?
H :Kể tên một số tác phẩm tiêu biểu của tác giả?
– Khối tình con I,II (thơ – 1917)
– Giấc mộng con I (tiểu thuyết – 1917)
– Thề non nước (tiểu thuyết – 1920)
.- Giấc mộng con II (1932).
– Giấc mộng lớn ( tự truyện – 1932).
I. Đọc và tìm hiểu chú thích:
1. Đọc:
2. Chú thích:
a. Tác giả:
– Tản Đà (1889- 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu.
– Quê : Sơn Tây- Hà Nội.
– Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, đậm đà bản sắc dân tộc, có những tìm tòi và sáng tạo mới mẻ. Ngoài ra Tản đà còn viết văn xuôi : tản văn, tuỳ bút, tự truyện và những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc…
H:Em biết gì về bài thơ “Muốn làm thằng cuội”?
H: Hãy giải nghĩa các từ: Cung quế, thế gian trần thế , chị Hằng!
b. Tác phẩm:
– “Muốn làm thằng cuội” nằm trong “Khối tình con”- 1917.
c. Từ khó:- SGK/ 156
HĐ2. HDHS đọc hiểu văn bản:
H: Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
– Thất ngôn bát cú đường luật.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Thể thơ: thất ngôn bát cú đường luật
H: Hãy chia bố cục cho bài thơ!2. Bố cục: Bài thơ có bố cục hai câu đề hai câu thực hai câu luận và hai câu kết.
– Đọc hai câu thơ đầu
H: Hai câu thơ nhà thơ tâm sự điều gì? Với ai?
– Tâm sự của Tản Đà với chị Hằng.
3. Phân tích:
a. Hai câu đầu:
“ Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi,
– Hai câu thơ là lời tâm của tác giả với chị Hằng trong một đêm thu. Lời thơ như một tiếng than, một nỗi lòng, một tâm trạng trước cảnh đời buồn chán.
H: Vì sao tác giả có tâm trạng đó?
– GV: Xã hội phong kiến Việt đầu thế kỷ XX là một xã hội đen tối ngột ngạt, vì vậy những người có đầu óc, muốn thoát li mà không thoát li nổi họ phải thoát li vào mộng tưởng, vào cõi tiên, vào thơ.
– Vì thực tại bế tắc, ngột ngạt của xã hội, cuộc sống trần thế không có niềm vui cho con người.
H: Tại sao nhà thơ lại bày tỏ với chị Hằng?
H: Em hiểu như thế nào về nội dung hai câu thơ đầu?
– Trong suy nghĩ của nhà thơ, chị Hằng ở trên cao sẽ thấy hết sự tầm thường dưới mặt đất. Đồng thời thể hiện khát vọng thoát khỏi trần gian hướng tới cái đẹp lí tưởng cao rộng.
=> Bằng ngôn ngữ thơ thân mật đến suồng sã, nhà thơ thể hiện tâm trạng bất hoà sâu sắc với xã hội đương thời.
– Gọi hs đọc 4 câu thơ sau.
H: Tản Đà thường nhận mình là “ngông”,em hiểu “ngông” nghĩa là gì?
Ngông : là làm những việc trái với lẽ thường, khác mọi người xung quanh. Trong văn học, ngông là biểu hiện của ngòi bút có cá tính mạnh mẽ, bất hoà sâu sắc với xã hội đương thời, không chịu gò ép mình trong khuôn khổ chật hẹp của lễ nghi, lề thói thông thường.
b. Bốn câu thơ sau:
“ Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió cùng mây thế mới vui”
– Trong văn học, “ngông” là biểu hiện của ngòi bút có cá tính mạnh mẽ, không chịu gò ép mình trong khuôn khổ chật hẹp của lễ nghi, lề thói thông thường.
H: Em hãy phân tích cái ngông của Tản Đà trong 4 câu thơ trên?
– Câu 3: Cung quế.. chửa -> như một câu hỏi thăm dò, cung trăng đã có ai ở đó chưa?
– Câu 4: thể hiện ước muốn được chị Hằng nhắc lên chơi.
( GV liên hệ truyền thuyết sự tích mặt trăng và bài đồng dao chú cuội…)
– Cặp câu 3- 4: Lời hỏi thăm dò: cung trăng đã có ai ở đó chưa. Từ đó thể hiện một lời cầu xin được chị Hằng thả một “cành đa” xuống “nhắc” lên chơi.
H: Cái “ngông” ở cặp câu thơ 5-6 được thể hiện như thế nào?
– Cặp câu 5- 6: thể hiện rõ tính “ngông” , chất đa tình của Tản Đà. Từ cách xưng hô “chị”, “em” có vẻ thân mật đúng đắn đã chuyển sang tình tri kỉ, mong muốn được sánh vai bầu bạn cùng người đẹp Hằng Nga và thiên nhiên mây gió.Bởi lên đấy ông có thể hoàn toàn xa lánh được cái “cõi trần nhem nhuốc” mà ông chán ghét.
– Tác giả từng viết:
Chung quanh những đã cùng cây
Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm.
Hay : Kiếp sau xin chớ làm người
Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay.
– Cõi trần Tản Đà luôn thấy buồn, trống vắng, cô đơn và khắc khoải đi tìm tâm hồn tri kỉ , giờ đây lên cung quế được sánh vai bầu bạn với người đẹp được thoả chí cùng mây gió thì còn gì lí thú hơn.
– Cặp câu 5- 6: thể hiện khát vọng thoát li trần thế, xa lánh được cái “cõi trần nhem nhuốc”; được sánh vai bầu bạn cùng người đẹp Hằng Nga và thiên nhiên mây gió của Tản Đà.
– Đọc hai câu cuối.
H: Em hiểu hình ảnh “Tựa nhau trông xuống thế gian cười” như thế nào?
H: Em hiểu cái cười ở đây có nghĩa là gì?
– Cái cười có thể hiểu theo hai ý nghĩa: thoả mãn vì đã đạt được khát vọng thoát li mãnh liệt, xa lánh hẳn cõi trần bụi bặm.
– Thể hiện sự mỉa mai khinh bỉ cõi trần giờ đây chỉ bé tí khi mình đã bay bổng lên cung trăng.
=> Đó là đỉnh cao của tâm hồn lãng mạn và ngông của Tản Đà.
c. Hai câu thơ cuối:
“ Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian cười”
– Một hình ảnh tưởng tượng đầy ý vị và bất ngờ: đêm trung thu nhà thơ ngồi trên cung trăng , tựa vai chị Hằng cùng ngắm thế gian và “cười”.
– “Cười” ở đây có thể có cả hai ý nghĩa: vừa thoả mãn vì đã đạt được khát vọng thoát li trần thế, vừa thể hiện sự mỉa mai khinh bỉ cái cõi trần gian đáng chán ghét. Đó chính là đỉnh cao của hồn thơ lãng mạn và “ngông” của Tản Đà.
H: Theo em những yếu tố nghệ thuật nào tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ.d. Nghệ thuật:
– Cảm xúc mãnh liệt, dồi dào, phóng túng bay bổng và sâu lắng thiết tha được biểu hiện một cách tự nhiên, thoải mái, nhuần nhuỵ.
– Lời lẽ giản dị, trong sáng.- Sức tưởng tượng phong phú, táo bạo.
– Thể thơ đường luật vẫn tuân thủ vần luật nhưng không gò bó trói buộc hồn thi sĩ, không câu nệ bởi công thức, khuân sáo tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ.
HĐ3. HDHS tổng kết:
H: Em cảm nhận được gì về nội dung và nghệ thuật của bài thơ?
– Gọi hs đọc ghi nhớ SGK
III. Tổng kết:
* Ghi nhớ: SGK/ 157
HĐ4. HDHS luyện tập:
– Đọc bài 1 SGK- 157, nêu yêu cầu.
– Gọi vài em lên chữa bài tập.
HS nhận xét.
GV sửa chữa bổ sung.
IV. Luyện tập:
Bài 1 (157).
– Cặp câu 3- 4 và 5-6 đối nhau về h/a, ý tứ ngôn từ: cung quế/ cành đa.Có bầu có bạn/ cùng gió cùng mây
Đọc bài tập 2, xác định yêu cầu, làm bài.
GV hướng dẫn, bổ sung.
2. Bài 2 (157). So sánh ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ này với “ Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
Giải:
– Bài “Qua Đèo Ngang” tuy chất chứa tâm trạng nhưng giọng điệu mực thước, trang trọng, đăng đối.
– Bài “Muốn làm thằng cuội” giọng nhẹ nhàng thanh thoát pha chút tình tứ, hóm hỉnh có nét phóng túng ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn thoát ly.

4. Củng cố, luyện tập

H: Giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ: “Muốn làm thằng Cuội”; Đọc diễn cảm bài thơ?

5. Hướng dẫn học ở nhà

Học bài cũ, chuẩn bị: Kiểm tra Tiếng Việt.

Sơ Đồ Tư Duy Muốn Làm Thằng Cuội

Các bạn học sinh có thể áp dụng cách học bài tư duy logic thông qua các sơ đồ tư duy bài thơ Muốn làm thằng Cuội sau đây.

Sơ Đồ Tư Duy Muốn Làm Thằng Cuội Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Muốn Làm Thằng Cuội Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Bài Muốn Làm Thằng Cuội
Sơ Đồ Tư Duy Bài Muốn Làm Thằng Cuội
Sơ Đồ Tư Duy Muốn Làm Thằng Cuội Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Muốn Làm Thằng Cuội Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Muốn Làm Thằng Cuội
Sơ Đồ Tư Duy Muốn Làm Thằng Cuội
Sơ Đồ Tư Duy Muốn Làm Thằng Cuội Đơn Giản
Sơ Đồ Tư Duy Muốn Làm Thằng Cuội Đơn Giản

Có thể bạn sẽ quan tâm 🌿Bảo Kính Cảnh Giới [Nguyễn Trãi] 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội Hay Nhất

Tham khảo ngay 5 mẫu phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội hay nhất dưới đây.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội Hay – Mẫu 1

Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độc đáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ngông và đa tình. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã thể hiện rất rõ cá tính ấy của ông.

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1917). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này.

Ngay từ nhan đề của bài thơ đã cho thấy một giọng điệu suồng sã, như là đã giải tỏa được một nhu cầu nói thật, thẳng thắn của nhà thơ và cũng lại cho thấy cái ngông nghênh, bất đắc chí: muốn ở đây như một nhu cầu bức xúc, chẳng cần giấu giếm, vòng vo. Nhưng muốn cái gì? Muốn làm cuội thì đích thực là muốn thoát lên trên rồi. ước vọng lên trên thơ mộng thế mà nói tựa như là muốn ăn, muốn uống, muốn ngủ… thật là thành thực!

Và, nếu muốn thoát tục, lên trên thì thiếu gì những hình mẫu tiên để ước sao cứ phải là thằng Cuội? Thằng chứ không phải chú – cũng là một kiểu nói ngông.

Thế thì chính là thi sĩ đa tình này muốn lên cung trăng rồi!

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi!

Chị Hằng thì phải ở cung trăng chứ còn gì nữa! Thì ra thi sĩ của chúng ta muốn làm thàng Cuội để tâm sự cùng chị Hằng Nga xinh đẹp. Hai câu mở đầu bài thơ như một tiếng kêu than. Chẳng cần phải mượn cái khác để diễn tả nỗi buồn trong lòng mình, thi sĩ bộc bạch ngay nỗi lòng mình. Hai chữ buồn lắm thật chân thành. Thi sĩ chỉ lòng mình ra trong tiếng gọi tha thiết.

Ta thường gặp trong thơ Tản Đà một vẻ buồn chán, cái buồn lan trùm tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới “muốn làm thằng Cuội . Nhưng không phải là cái buồn vô cớ, càng không phải kiếm cớ buồn đẽ được lên tiên. Cái buồn ở đây là cái buồn đời, buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên.

Không ít lần Tản Đà kêu chán đời: “Đời đáng trách biết thôi là đủ – Sự chán đời xin nhủ lại tri âm”, “Gió gió mưa mưa đã chán phèo – Sự đời nghĩ đến lại buồn teo”… Sống trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng Tản Đà buồn chán. Không khí tù hãm, u uất của một dân tộc bị mất nước bao trùm hết thảy, đè nặng tâm trí con người, nhất lại là những con người nhạy cảm như thi nhân.

Tâm trạng buồn chán là tâm trạng của thời đại. Có trăm ngàn vẻ buồn khác nhau song đều thấy điểm chung là sự bế tắc trước thực tại cuộc đời, từ đó mà sinh ra chán nản, bất mãn đối với thời cuộc.

Cái buồn của Tản Đà cũng bắt nguồn từ đấy. Và thế là thi sĩ tìm lối thoát bằng cách thoát li khỏi cuộc đời, sống trong một thế giới khác, thế giới mộng mơ, thần tiên. Thi nhân gọi trăng là chị, xưng với trăng là em thì vừa là muốn thân tình, gần gũi để giãi bày, vừa là chơi ngông. Bốn câu thơ tiếp càng thể hiện cái ngông của Tản Đà:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc. Phải là người yêu đời lắm, tha thiết với cuộc sống lắm thì mới tỏ ra buồn chán đến bất hòa trước cuộc đời đang rối ren, đen tối như thế. Câu 3 của bài thơ là lời ướm hỏi, rồi đến câu 4 là lời đề nghị. Nấu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ buồn mà chị cũng bớt cô đơn. Tính từ đây mà cũng ngang tàng đấy! Xin chị đừng từ chối nhé, bởi vì em có lí lẽ đây này:

Có bầu có bạn, cùng tri kỷ
Cùng gió cùng mây, thế mới vui.

Cái lí của thi nhân thật là thuyết phục. Song trong sự thuyết phục để thoát li, xa lánh trần thế ấy chúng ta thấy một thực trạng buồn vắng, cô đơn của tâm hồn thi sĩ. Vốn đa tình đa cảm nên thi nhân luôn luôn có khát vọng được người tri kỉ, mà cõi trần thì “Chung quanh những đá cùng cây; Biết người tri kỉ nơi đâu mà tìm”.

Cái vui của thi nhân là cái vui được tâm giao, tâm đồng. Gió, mây thơ mộng được không nếu chẳng có bầu có bạn”. Khát vọng lên trên, lánh đời ở đây thực ra là một cách bộc lộ khao khát đồng cảm, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Và cái cách ở đây là ngông. Chưa hết, thi nhân còn vẽ ra viễn cảnh:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Lãng mạn hết mức, tưởng tượng ra cảnh “tựa nhau” cùng chị Hằng thì quả là cái ngông đã đến đỉnh điểm. Tác giả hạ chữ cười ở cuối bài thật đắt. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia. Cười thách thức. Cười ngông.

Bài thơ tuân thủ khuôn mẫu của một bài thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển. Nhưng nguồn cảm xúc tự nhiên, không chừng bay bổng đã tự tìm đến những lời thơ tựa như lời nói hàng ngày: “buồn lắm chị Hằng ơi”, “em nay chán nửa rồi”, “đã ai ngồi đây chưa”, “xin chị nhắc lên chơi”, “thế mới vui”, “tựa nhau trông xuống thế gian cười”; xưng hô khẩu ngữ (chị – em) tự nhiên, không đẽo gọt cầu kì và ngữ điệu biểu hiện đa dạng (ơi, rồi, đó chửa, xin, thế mới).

Lên tiên, thoát tục là thi đề quen thuộc trong thơ cổ, ở đây cái không mới ấy đã được làm mới bằng giọng điệu, bằng lời thơ.

Cái ngông của Tản Đà trong bài thơ này là một hình thức ứng xử vốn nằm trong cốt cách của nhà nho tài tử trong thơ truyền thống. Song, như chúng ta đã thấy, cái ngông ấy lại là thái độ của Tản Đà đối với xã hội ta những năm đầu thế kỉ XX, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái mơ mộng thành ra cái ngông thì quả là đậm chất riêng của Tản Đà.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội Hay Đặc Sắc – Mẫu 2

Sau hơn mười năm đầu thế kỉ XX bước vào thời kì hiện đại hoá với những áng văn chương yêu nước nổi tiếng của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,… nền văn học nước ta bước vào giai đoạn chuyển biến cực kì sôi động.

Từ những nãm 20 trở đi, trên văn đàn xuất hiện các nhà văn mạnh dạn đổi mới cả nội dung lẫn hình thức văn chương. Họ kết hợp những vẻ đẹp của truyền thống với yêu cầu cách tân của thời đại, sáng tác ra những tác phẩm thơ văn đặc sắc mang hơi thở của một lớp người giàu khát vọng, yêu nước, yêu đời, nhưng bế tắc,… Một trong những người mở đầu cho dòng văn chương này là thi sĩ Tản Đà.

Tản Đà đã sáng tác nhiều tác phẩm mà chỉ đọc tên, chúng ta cũng thấy rõ tính độc đáo, đầy mộng mơ, lãng mạn : Khối tình con I, II, III, Giấc mộng lớn, Giấc mộng con,… Trong tập thơ Khối tình con có bài thơ Muốn làm thằng Cuội được nhiều người coi là độc đáo nhất.

Quả đúng như vậy, qua nhan đề tác phẩm và ít phút đọc – hiểu ban đầu, chúng ta đã cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Đây là một ước muốn khác đời, kì quặc, hay dãy là một giấc mơ kì thú, ngông nghênh, lãng mạn? Muốn làm thằng Cuội tức là muốn bay lên cung trăng, muốn thoát li cuộc đời trần giới để sống với trăng sao, tiên cảnh ư ? Tại sao nhà thơ lại có ước muốn ấy ? Ước muốn ấy có ý nghĩa gì ?… Biết bao câu hỏi thú vị hấp dẫn, lôi cuốn chúng ta.

Cũng là thơ thất ngôn bát cú theo luật thơ Đường, cũng viết bằng chữ Nôm, nhưng so với nhiều bài thơ Nôm thời kì vãn học trung đại và hai bài thơ ra đời trước đó ít năm của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, nhưng hồn thơ, giọng điệu và ngôn từ của Muốn làm thẳng Cuội có nhiều nét khác hẳn. Bài thơ mang giọng điệu nhẹ nhàng, thanh thoát pha chút tình tứ hóm hỉnh, có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn, thoát li.

Hai câu thơ đầu (vào đề) là lời thở than buồn và chán của một thi sĩ, một con người trần thế :

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi,

Nét độc đáo dễ thấy là hai đại từ nhân xưng “chị” và “em” nghe thật duyên dáng. Nhân hoá vầng trăng, rồi nữ hoá trăng, gọi bằng cái tên Hằng (theo cách nói của nhiều thi sĩ xưa – Hằng Nga – ả Hằng), kèm theo đại từ “chị”, xưng mình là “em”, nhà thơ tạo ra một quan hệ bất ngờ, thân mật mà dân dã, đúng quan hệ để tâm sự sẻ chia nỗi niềm. Nỗi niềm của nhà thơ bộc bạch trực tiếp bằng hai từ biểu cảm buồn và chán.

Buồn trong đêm thu là tâm trạng quen thuộc của các vãn nhân nghệ sĩ xưa nay. Bởi vì, mùa thu về, dẫn theo hơi thu se lạnh, gió thu nhè nhẹ hiu hiu, cây cỏ mùa thu héo úa, đợi ngày tàn lụi,… Biết bao thi sĩ dân tộc từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Du, từ Hồ Xuân Hương đến Bà Huyện Thanh Quan, rồi Nguyễn Khuyến, Tú Xương,… đã từng thấm nỗi buồn của mùa thu để rồi làm đầm ướt những dòng thơ.

Là một thi sĩ tài danh, nhạy cảm, trước mùa thu, hẳn Tản Đà đã thấm cái hồn thu đất trời, cỏ cây tàn tạ và lây những dòng buồn của văn chương, của các thi sĩ. Đấy là nỗi buồn lãng mạn, nhè nhẹ, bâng khuâng, như vô cớ mà có duyên. Còn tâm trạng “chán nửa rồi” thì không còn là lãng mạn vô cớ kiểu nghệ sĩ nữa. Đó là nỗi buồn chán đẫm chất thế sự của một tâm hồn từng âu lo cho nước cho dân trong cảnh lầm than nô lệ.

Đêm thu… buồn, cộng Trần thế… chán, cảnh đất trời thiên nhiên cộng với cảnh đời tối tăm đau khổ đã xui giục nhà thơ cất tiếng thở than, để tìm người chia sẻ. Có lẽ chưa tìm dược ai xứng với mình, nên dành ngẩng mặt than với mây trời, với trăng sao.

Trong vòm trời đêm mênh mông kia, có lẽ chí mặt trăng dáng làm tri kỉ. Bởi vì trăng sáng ngời, tròn trịa, phúc hậu, vô tư, vô ngôn mà đầy gợi cảm. Dưới đôi mắt, đúng ra là qua trái tim nhạy cảm đa tình của mình, thi sĩ Tản Đà đã thấy ở vầng trăng hình ảnh một mĩ nhân có thể kết bạn tâm giao. Nhà thơ gọi trăng là “chị” – “chị Hằng”, tôn xưng người đối thoại là “chị”, nhận mình là “em” thật khéo, khéo trong ứng xử (nếu “chị Hằng” là có thật) và khéo trong dẫn dát ý thơ.

Hiện lên sau hai câu thơ cấu trúc kiểu lời gọi, tiếng than là một ước nguyện chân thành, tha thiết khiến người nghe, người được cậy nhờ không thể chối từ và người đọc thơ cũng không thể dừng lại.

Đến bốn câu thực và luận, lời ước nguyện, cầu xin trở thành một giấc mơ độc đáo :

Cunq quế đã ai ngồi đó chửa ?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

Nếu xét về luật bố cục và đối xứng Đường thi thì bốn câu trên đã phạm luật, không đúng nội dung của hai câu thực (tả thực) và hai câu luận (suy luận, mở rộng), từng cặp câu cũng chưa thật đối nhau trong ngôn từ và ý nghĩa. Song đọc lên, ta vẫn thấy ngôn ngữ trôi chảy, ý tứ khoáng đạt, hồn thơ phát triển tự nhiên, gắn bó hài hoà với hai câu mở đề, đó là những dòng cách tân Đường luật để ý tình được tung phá, “cái tôi” thi sĩ được bay bổng, tự nhiên.

Bốn câu thơ cất lên những tiếng nói ước nguyện, những dự cảm thật độc đáo. Câu thứ nhất thăm dò “Cung quế đã ai ngồi đó chửa ?”. Câu thứ hai, không đợi trả lời, liền đé đạt, cầu xin mạnh dạn “Cành đa xin chị nhắc lên chơi”.

Những hình ảnh “cung quế”, “cành đa”, “ai ngồi đó” gợi biết bao chuyện huyền thoại về “cung Quáng Hàn” (mặt trăng), về “cây đa, chú Cuội” mà nhiều người Việt Nam đều biết. Đó đâu phải một nơi chốn của con người mà là những địa chỉ siêu nhiên, những con người siêu nhân chí có trong tưởng tượng, trong những giấc mơ. Phải chăng, khi cất lên những tiếng thơ đó, thi sĩ Tản Đà đang ru hồn mình vào trong một giấc mơ!

Ta có cảm giác ông đang bé lại, nhỏ nhắn, tí hon như nhân vật chú Cuội ngày xưa bám vào “cành đa” bay lên, bay lcn, lên đến tận cung trăng, rồi từ từ hạ xuống, ngồi dưới gốc đa, bên cạnh chú Cuội. Sau đó là một cảnh tượng, một bức tranh kì thú :

Có bầu, có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

Nhà thơ đã đến đích, được gặp chị Hằng, chú Cuội, được kết bạn với gió, mây. Hai cụm từ “can chi tủi” và “thế mới vui” thể hiện rõ tâm trạng thoả thuê, quên hết nỗi buồn khổ ở trần gian để tìm nguồn vui nơi tiên giới. Âm điệu của ngôn từ như ngân lên pha chút hóm hỉnh, cười đùa, ngông nghênh mà rất tình tứ.

Có thể nói, tâm hồn lãng mạn của thi nhân đã tìm được một địa chí lí tưởng dể thoát li. Lên tới mặt trăng, ẩn mình trong mây bay, gió cuốn tức là Tản Đà đã hoàn toàn xa lánh được cuộc đời “buồn chán”, xa lánh “cõi trần nhem nhuốc”.

Nhưng ước nguyện của Tản Đà không chí hoàn toàn là trốn chạy, xa lánh. Đó chính là những giấc mơ, những khát vọng chân chính của một con người luôn gắn bó với cuộc dời, luôn mong muốn cuộc đời nói chung, đời mình nói riêng có niềm vui, có hạnh phúc, được gặp những bạn bè nhân hậu, chân tình. Nhà thơ từng than thở :

Chung quanh những đá cùng cây,
Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm.

Và đã từng ước mơ :

Kiếp sau xin chớ làm người,
Lùm đôi chim nhạn tung trời mà hay .

Với ước nguyện Muốn làm thằng Cuội, cái khát vọng chính đáng kia bắt gặp một giấc mộng của hồn thơ đa tinh, trở thành một cách nói có phần ngông nghênh, ngạo đời, lãng mạn. Chán đời, buồn thu, giờ đây được sánh vai bầu bạn với người đẹp Hằng Nga, được vui chơi thoả thích với mây gió, còn gì thú hơn và làm sao còn cô đơn, sầu tủi được !

Cảm hứng lãng mạn của Tản Đà mang đậm dấu ấn thời đại và đi xa hơn người xưa là ở chỗ đó. Dấu ấn thời đại và tầm xa trong hổn thơ Tản Đà được đẩy thêm một bộc, bất ngờ là ở hai câu kết bài thơ :

Rồi cứ mồi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Đêm trung thu, trăng sáng, người người ngẩng dầu chiêm ngưỡng trăng sao, báu trời, thì nhà thơ lại đang ngồi tít mãi trên cung trăng tựa vai người đẹp Hằng Nga nhìn xuống, ngắm nghía trần gian, rồi… cười. Vì sao nhà thơ cười ?

Có thể vì đã đạt được ước mơ, khát vọng thoát li, xa lánh cõi đời trần tục, nên thoả mãn, cười vui. Cũng có thể vì được đứng ớ vị trí tầm cao, đứng trên mọi thói đời nhỏ bé, thấp hèn, nên nhà thơ nhìn rõ những điểu xấu xa, bẩn thỉu, đáng cười, đáng khinh của cõi trần chật hẹp nhỏ nhoi. Cũng có thể đầy là cái cười tự trào, tự giễu mình… chơi ngông, hơn đời, khác đời.

Một chữ cười mà mở ra hai ba nghĩa, thật thú vị. Phải chăng hai câu thơ kết, nhất là từ cuối cùng của bài thơ (“cười”) là đỉnh cao của hồn thơ lãng mạn, phong thái phóng khoáng, ngông nghênh mà rất duyên dáng, đa tình của Tản Đà.

Tóm lại, bài Muốn làm thằng Cuội là tâm sự của một con người bất hoà sâu sắc với xã hội tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng, vui cùng mây gió. Đó là một giấc mơ kì thú, ngông nghênh, lãng mạn.

Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở vẻ đẹp của giấc mơ ấy được thể hiện ở những từ ngữ, những hình ảnh đậm chất dân tộc, ở những tìm tòi đổi mới thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật của Tản Đà. Nhờ những đổi mới trong hồn thơ, tìm tòi trong nghệ thuật, thi sĩ Tản Đà đã góp phần mở ra một giai đoạn cách tân sôi động, hào hứng cho lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội Chọn Lọc – Mẫu 3

Tản Đà là tài năng văn học lớn của Việt Nam, ông là gạch nối giữa văn học trung đại và hiện đại. Muốn làm thằng cuội thể hiện tâm trạng chán nản, bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, muốn thoát li vào thế giới mộng tưởng của tác giả. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện những cách tân mới mẻ, táo bạo trong sáng tác của ông.

Nhan đề bài thơ vô cùng đặc sắc, tác giả sử dụng từ “muốn” thể hiện khát khao chuyển đổi không gian sống và muốn hóa thân thành người khác, cụ thể ở đây là thành chú Cuội. Ngay từ nhan đề đã cho thấy cái tôi ngông nghênh và đa tình của nhà thơ. Một ước muốn xa vời những hết sức thực tế vì tác giả muốn thoát khỏi thực tại tầm thường, thấp kém.

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi.

Thực tại tầm thường, giả dối tác giả không biết tâm sự cùng ai đành tìm đến chị Hằng để giãi bày nỗi lòng của mình. Điều đó cho thấy sự cô đơn, lạc lõng của ông giữa cuộc đời. Đêm thu – thời điểm khơi gợi nỗi buồn trong những tâm hồn nhạy cảm – bởi vậy cõi lòng nhà thơ càng trở nên trống trải, cô đơn hơn.

Không chỉ buồn, sầu, cô đơn Tản Đà còn gửi cả vào câu thơ sự chán chường với cuộc đời. Ở câu thơ tác giả đã thể hiện trực tiếp cái cô đơn của bản thân, điều này vốn rất ít khi được thể hiện trong văn học trung đại. Tản Đà đã phá vỡ quy tắc của thơ ca cổ điển, thể hiện trực tiếp tình cảm cá nhân, đây chính là điểm mới mẻ trong thơ ông.

Chính bởi cuộc sống tầm thường nên tác giả có ao ước được thoát li cuộc đời trần thế. Cách thoát li thực tế của Tản Đà hết sức đặc biệt: muốn lên cung trăng làm bạn với chị Hằng. Câu hỏi thăm dò dường như chỉ là cái cớ: Cung quế đã ai ngồi đó chửa?, không chần chờ, không đợi câu trả lời của chị Hằng, ông đã đề nghị: “Cành đa xin chị nhắc lên chơi”. Cuộc đối thoại trong mộng tưởng của Tản Đà thật thơ mộng và tình tứ. Đồng thời thể hiện cái tôi ngông ngạo của ông.

Đẩy trí tưởng tượng của mình đi xa hơn một bước, tác giả tưởng tượng cảnh mình được ngồi ở cung quế trò chuyện vui đùa cùng chị Hằng. Nơi ấy tác giả thoát khỏi nỗi sầu, nỗi cô đơn vì đã có chị Hằng làm bạn: “Có bầu có bạn can chi tủi/ Cùng gió, cùng mây thế mới vui”. Những hình ảnh gió mây làm cho tâm hồn tác giả càng thêm bay bổng, lãng mạn hơn. Cái ngông của Tản Đà được thể hiện trong nguyện ước được thả hồn cùng gió mây để ngao du trong trời đất.

Hai câu thơ cuối thể hiện nguyện ước được mãi mãi ở nơi cung quế của tác giả. Các chữ “cứ mỗi năm” diễn tả dòng thời gian lặp đi lặp lại thể hiện mơ ước không muốn rời xa nơi đây. Và ở cung quê ông cùng chị Hằng “Tựa nhau trông xuống thế gian cười”, nụ cười của ông có thể hiểu theo nhiều ý nghĩa: cười bởi không thể thỏa mãn được khát vọng thoát li, xa lánh cõi trần gian hay cười vì mỉa mai, khinh bỉ cõi đời xô bồ, đen tối, ngột ngạt. Dù hiểu theo cách nào thì đó cũng thể hiện nỗi sầu của kẻ chán ghét và muốn thoát li thực tại.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, tuân thủ quy tắc về niêm luật nhưng không công thức, gò bó. Ý thơ phóng khoáng, tự do, bay bổng, mang đậm dấu ấn cá nhân. Thủ pháp đối lập cũng được vận dụng tài tình.

Qua bài thơ, Tản Đà đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự của một nguời bất hòa sâu sắc với thực tại xã hội lúc bấy giờ, mong muốn thoát li vào cõi mộng tưởng. Bài thơ hấp dẫn ở giọng thơ ngông ngạo, trí tưởng tượng phong phú, cảm xúc mãnh liệt, bay bổng lại cùng vô cùng thiết tha, sâu lắng

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội Tiêu Biểu – Mẫu 4

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là nhà thơ lớn nhất của dân tộc ta trong những năm đầu thế kỉ XX. Thơ Tản Đà là tiếng lòng của một cái tôi bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, tù túng, muốn tìm cách thoát ly bằng mộng tưởng. Với một hồn thơ vừa phóng túng, vừa sầu mộng và rất ngông, Tản Đà đã thổi một luồng gió lãng mạn vào trong thi ca, dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đang sắp sửa (Hoài Thanh).

Bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” nằm trong cuốn Khối tình con I, xuất bản năm 1917. Bài thơ là lời nhà thơ nói với chị Hằng trong một đêm thu và xin chị cho lên cung trăng cùng chị để tránh xa cái trần thế đáng chán này.Bài thơ vẫn được viết theo thể thơ truyền thống của thi ca lúc bấy giờ: thể Đường luật bát cú.

Đọc kĩ bài thơ, ta thấy nhà thơ vẫn tuân thủ nghiêm chỉnh những quy tắc chặt chẽ của thể thơ cổ điển nhưng không gò bó, khô cứng, mà tự nhiên, thoải mái, lời thơ mặn mà, tình tứ và rất có duyên.Bài thơ mở đầu bằng một lời than thở, một tâm trạng, một nỗi lòng:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi

Trong câu thơ của Tản Đà, ta đọc được một nỗi sầu da diết khôn nguôi. Vì sao Tản Đà, một thanh niên đang phơi phới tuổi xuân, tài danh cũng đã nổi, lại trở nên sầu muộn như thế? Trong bài Giải sầu (1918), Tản Đà cũng đã từng viết: Từ độ sầu đến nay, ngày cũng có lúc sầu, đêm cũng có lúc sầu.

Mưa dầm lá rụng mà sầu, trăng trong gió mát mà càng sầu; một mình tĩnh mịch mà sầu, đông người cười nói mà càng sầu; nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ văn ngâm vịnh mà càng sầu… sầu không có mối, chém sao cho đứt sầu không có khối, đập sao cho tan… Phải chăng cái sầu trong thơ Tản Đà là cái sầu vẩn vơ, vô cớ? Không! Đó là nỗi buồn thời thế, buồn nhân sinh! Nỗi buồn ấy chỉ có thể có được ở những linh hồn cao khiết còn giữ được của một thời cái cốt cách vững vàng, cái phong thái thung dung (Hoài Thanh) như Tản Đà.

Cùng với nỗi buồn, Tản Đà chán ngán cuộc đời: Trần thế em nay chán nửa rồi. Thái độ chán đời của Tản Đà là thái độ bất hòa sâu sắc với cuộc đời, với cái xã hội phong kiến thực dân ngột ngạt tầm thường. Thái độ ấy bộc lộ một cá tính mạnh mẽ của một tâm hồn thanh cao không chịu uốn mình theo một khuôn phép của xã hội, không cam chịu một thân phận nô lệ thấp hèn.

Tâm trạng của Tản Đà, suy cho cùng, là nỗi đau đớn rất đáng quý, là nỗi buồn đẹp để người đời phải ngẫm suy. Bất hòa sâu sắc với thực tại, Tản Đà tìm cách thoát li thực tại. Khát vọng thoát li thực tại không chỉ có ở Tản Đà, mà nó là khát vọng của cả một lớp thanh niên trí thức đang sống trong không khí tù túng, u uất.

Không ít nghệ sĩ đã tìm cách thoát li trong rượu, trong thơ, trong cuộc sống giang hồ tài tử, trong cõi bồng lai tiên cảnh mơ hồ của mộng tưởng. Với Tản Đà, cá tính ngông khiến thi nhân tìm cho mình một cách thoát li cũng rất đặc biệt, rất ngông:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Thật là một địa chỉ thoát li lí tưởng, vừa xa lánh hẳn cái trần thế đáng chán kia, vừa được sống trong một thế giới bồng lai tiên cảnh thành khiết, bên một thiếu nữ đẹp và bao dung như chị Hằng. Còn gì hơn thế!Điều đáng chú ý ở đây là việc bày tỏ khát vọng thoát li. Đầu tiên là một lời ướm hỏi: Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Tiếp đến là một gợi ý: Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Giọng điệu thơ thật tự nhiên, vừa dí dỏm, vừa tha thiết, mặn mà, làm sao nỡ từ chối? Chẳng biết chị Hằng đã đồng ý chưa mà nhà thơ lại thích thú đến thế khi tưởng tượng ra cảnh sống bên cạnh tiên nga:

Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui!

Vì sao Tản Đà cảm thấy sung sướng và hạnh phúc đến thế? Bởi lẽ ông đã tìm được tri kỉ: có bầu, có bạn, được hòa đồng với cuộc sống: cùng gió, cùng mây, không còn phải cô đơn, buồn tủi nữa.Thế có nghĩa là trước đây, ở trần thế, ông luôn cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn, buồn tủi: Đông người cười nói mà càng sầu? Sống giữa chốn phồn hoa đô thị nhộn nhịp, hỏi đã mấy ai hiểu được nỗi lòng thi nhân?

Chung quanh những đá cùng cây
Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm!

Nhớ lại từ thế kỉ trước, Bà Huyện Thanh Quan cũng đã từng phải cô đơn, buồn tủi giữa đám tuỳ tùng, giữa những người xung quanh bà:Một mảnh tình riêng, ta với ta! Nếu như nữ sĩ xưa chỉ biết ôm mối sầu tủi, buồn thương trong lòng, thì Tản Đà không cam chịu, ông tìm đến với chị Hằng, cùng chị làm bầu bạn tâm tình để cho tâm hồn mình thư thái lại, để cho lòng mình rộng mở mà đón nhận thiên nhiên, đón nhận vẻ đẹp thanh tao của cuộc sống không vấy bẩn bụi trần.

Mối u uất trong tâm hồn thi nhân dường như đã được giải toả.Giấc mộng lên cung trăng của thi nhân thật lãng mạn, đầy chất đa tình và ngông. Giấc mộng thoát ly này hẳn phải khiến nhiều người ngỡ ngàng? Trong thơ văn xưa, đã có không ít người mơ lên cung trăng, thả hồn vào cõi tiên, nhưng liệu đã có ai như Tản Đà, đem theo nguyên vẹn cái: thói phong tình bất kính như thế? Mạch cảm xúc lãng mạn và ngông được đẩy lên cao độ bằng một hình ảnh tưởng tượng đầy bất ngờ và ý vị:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.

Trong con mắt của Tản Đà, cõi trần bụi bặm kia giờ đây chỉ còn bé tí. Và nhà thơ bật cười thích thú với cái ý nghĩ đó. Một cái cười vừa thỏa mãn, vừa mỉa mai, bao dung. Thỏa mãn vì đã thực hiện được mộng tưởng thoát li, đã xa lánh được hẳn cái xã hội tầm thường, tù túng. Mỉa mai, bao dung vì cõi trần giờ đây chỉ còn bé tí, đâu có thể giam hãm được một tâm hồn đang bay bổng lên trên nó. Hai câu kết là đỉnh cao của một tâm hồn lãng mạn và ngông của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tiên sinh.

Bài thơ khép lại trong niềm sung sướng đến mãn nguyện của thi nhân vì đã thực hiện được giấc mộng thoát li. Thế mà mấy mươi thập kỉ sau người đời vẫn còn phải bàn luận về nó.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Muốn Làm Thằng Cuội Hay Sâu Sắc – Mẫu 5

Tản Đà (1889-1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu là một người đa tài ông làm thơ, làm văn và còn là một nhà viết kịch nổi tiếng của nước ta. Sở dĩ ông lấy bút danh là Tản Đà cũng là vì ông là một người yêu quê hương đất nước, ông muốn bút danh của mình gắn liền với quê hương, Tản Đà có nghĩa là sự gắn kết giữa núi Tản Viên và sông Đà của quê hương ông.

Ông nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa sáng tạo trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông viết những bài thơ lãng mạn với những ý tưởng rất ngông, đậm chất phóng khoáng, cá tính mạnh mẽ, ông cũng được đánh giá là người chuẩn bị cho sự nghiệp ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là “gạch nối liền giữa hai thời kì văn học cổ điển và hiện đại”. Thơ ông chủ yếu mang đậm màu sắc “ngông” tiêu biểu là bài thơ “Muốn làm thằng Cuội”.

Bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” được ra đời vào năm 1916 in trong tập Khối tình con (1917). Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng nó chịu ảnh hưởng của phong cách thơ ông, thể thơ dù dưới hình thức là thơ cổ nhưng có những dấu hiệu mới mẻ, khác của cảm xúc. Đó là lời tâm sự của tác giả ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ được giảm nhẹ đi phần nào tính trang trọng, nghiêm luật như trước.

Trong ngôn từ cũng vậy sự giản dị cùng với khẩu ngữ tự nhiên đã làm nên cái sáng tạo, cái hay và nét riêng độc đáo cho bài thơ. Bài thơ tuy ngông những vẫn mang giọng điệu nhẹ nhàng, pha thêm chút hóm hỉnh lãng mạn và cả thêm sự phóng túng ở bài thơ.

Ta bắt gặp một giọng điệu suồng sã ở ngay nhan đề của bài thơ, nói lêm cái ý muốn khác người, hay đó là một giấc mơ kì thú, có thêm phần ngồn và tất nhiên có cả lãng mạn.

Tác giả muốn làm thằng Cuội có nghĩa là muốn thoát khỏi thế giới trần tục và lên ở cùng cõi tiên. Làm người thì họ muốn có những ước mơ như sống trong vinh hoa, hưởng lạc trọn đời nhưng còn tác giả tại sao ông lại muốn lên trời sống cũng trăng, sao? Ngay ở phần nhan đề chúng ta đã thấy rất riêng và hấp dẫn thì có lẽ nội dung của tác phẩm còn thú vị hơn nữa. Ở hai câu thơ đầu:

“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi”

Lời thơ tuôn ra như một lời than thở, buồn chán muốn được tâm sự cùng ai đó của một người trần thế. Ta bắt gặp hai đại từ nhân xưng “chị”, “em” tác giả tự nhận mình là em nghe rất thân mật gần gũi như đã quen từ lâu, thật êm tai.

Đến bốn câu tiếp theo đó là lời ước nguyện:

“Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

Ở bốn câu thơ này nếu xét về bố cục và đối xứng Đường thi thì đã phạm luật, không đúng với nội dung của hai câu thực, hai câu thực vốn là tả thực còn hai câu luận (suy luận và mở rộng), từ cặp câu chưa đối nhau trong ngôn từ và ngữ nghĩa. Nhưng ta vẫn thấy cái hay của bài thơ, từ ngữ sáng tạo, ngôn ngữ thơ phát triển tự nhiên ta thấy sự cách tân trong bài thơ này của Tản Đà.

Bốn câu thơ này nói về ước nguyện của tác giả và cầu xin ước mơ độc đáo của ông trở thành hiện thực. Đầu tiên ông hỏi dò xem đã có ai ở trên cung trăng hay là chưa. Sau đó ông tiếp cầu xin ngỏ lời muốn chị Hằng đưa mình lên cành đa chơi. Những hình ảnh trong thơ như “cung quế”, “cành đa”, đó là những nơi chỉ người tiên mới ở được và chỉ có ở trong tưởng tượng của người Việt ta hay thường nhắc tới câu chuyện cây đa chú cuội. Ý thơ như là tác giả đang chìm đắm trong một giấc mơ đẹp.

Và ở hai câu luận tác giả đã được thỏa lòng mong muốn của mình khi được bầu bạn với mây gió và cùng nhau chơi đùa trên cung trăng, thỏa lòng mong muốn “thế mới vui” như là tác giả đã quên đi hết nỗi buồn ở trần gian và được vui ở trốn tiên cảnh. Câu thơ mang cảm giảm hóm hỉnh, tịnh ngịch khiến cho người đọc có cảm giác như đang phưu lưu trên cung trăng cùng tác giả.

Ở hai câu kết còn có sự bất ngờ vô vùng lớn:

“Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian cười”.

Trung thu là đêm hạnh phúc của mỗi gia đình, gia đình xum họp ngoài trời cùng nhau ngắm trăng, trăng đêm trung thu là sáng nhất mọi người cùng nhau vui vẻ trò chuyện. Vậy mà nhà thơ lại khác, nhà thơ đang ngồi trên cung trăng, tựa lưng vào chị Hằng rồi cùng nhau trông xuống thế gian, ngắm nơi trần thế mọi người đang vui vẻ nhưng tại sao nhà thơ lại cười, là tại vì ông vui nên cười hay còn ngụ ý khác?

Đúng vậy nhà thơ cười là đang cười chế diễu vì nhà thơ đang ở tầm cao nên có thể thấy hết mọi chuyện đáng cười, đang khinh ở trên đời, cũng có thể nhà thơ đang tự cười mình có cái ý tưởng ngông nghênh khác đời.

Qua bài thơ “Muốn làm thằng cuội” ta thấy rõ cái ngông của ông trong đó, và cũng thấy được nỗi chán ghét nơi trần thế của ông, ông muốn bỏ nơi đó thật xa, ông muốn được lên ở cõi tiên, ông du dương trong giấc mơ, tưởng tượng của mình để được lên trời cao làm bạn với mây gió. Ta cũng thấy được sự cách tân Đường thi ở bài này, ông đã góp một phần quan trọng trong giai đoạn cách tân đổi mới thơ ca hiện đại Việt Nam.

Phân tích tác phẩm 💚 Bài Thơ Con Cò Của Chế Lan Viên 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất

Viết một bình luận