Viếng Lăng Bác [Viễn Phương] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Lưu Lại Các Sơ Đồ Tư Duy, Gợi Ý Soạn Bài, Hoàn Cảnh Sáng Tác.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Viếng Lăng Bác
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ Viếng lăng Bác. Xem đầy đủ nội dung bài thơ Viếng lăng Bác bên dưới nhé.
Viếng lăng Bác
Tác giả: Viễn Phương
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm ✨ Mùa Xuân Nho Nhỏ [Thanh Hải] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Về Nhà Thơ Viễn Phương
Nhất định đừng bỏ lỡ một số thông tin chính về nhà thơ Viễn Phương.
- Viễn Phương (1928 – 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang.
- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ.
- Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước.
- Một số tác phẩm chính: Chiến thắng hòa bình (trường ca, 1952), Anh hùng mìn gạt (truyện kí, 1968), Mắt sáng học trò (thơ, 1970), Như mây mùa xuân (1978), Quê hương địa đạo (truyện và kí, 1981), Sắc lụa Trữ La (1988)…
Về Tác Phẩm Viếng Lăng Bác
Về tác phẩm Viếng lăng Bác, bài thơ này của Viễn Phương được sáng tác theo thể thơ tự do với thể thơ tám chữ xen lẫn những dòng thơ bảy chữ hoặc chín chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng.
Bài thơ Viếng lăng Bác là tiếng lòng thành kính, xót thương, biết ơn vô hạn của nhà thơ cũng như của đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ – người cha già kính yêu của dân tộc. Viếng là đến chia buồn với thân nhân người đã mất.
Khám phá thêm bài 💚 Bài Thơ Con Cò Của Chế Lan Viên 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Viếng Lăng Bác
Chia sẻ cho bạn đọc hoàn cảnh sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác.
- Năm 1976, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội cũng vừa được khánh thành.
- Viễn Phương nhân dịp này ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Ông dã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác và in trong tập Như mây mùa xuân (thơ, 1978).
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Viếng Lăng Bác
Cùng Thohay.vn khám phá ý nghĩa nhan đề bài thơ Viếng lăng Bác bên dưới.
- “Viếng lăng Bác” là một nhan đề ngắn gọn nhưng để lại ý nghĩa sâu sắc.
- “Viếng” – chỉ hành động thăm hỏi, chia buồn khi có người mất.
- “Lăng Bác” là một địa danh ở Hà Nội.
=> Như vậy, trước hết nhan đề cho người đọc biết được sự kiện nhà thơ nhân dịp đất nước thống nhất đã ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Đồng thơ qua đó, Viễn Phương cũng bộc lộ tình cảm thành kính, yêu thương nhưng cũng đầy xót xa đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 🌼 Khóc Dương Khuê 🌼 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Giá Trị Tác Phẩm Viếng Lăng Bác
Ngay sau đây là những giá trị tác phẩm Viếng lăng Bác.
Giá trị nội dung
- Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.
Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ tự do: thể thơ tám chữ xen lẫn những dòng thơ bảy chữ hoặc chín chữ
- Giọng điệu thơ trang trọng tha thiết
- Nhiều hình ảnh thơ đẹp lãng mạn gợi nhiều xúc cảm
Bố Cục Bài Thơ Viếng Lăng Bác
Bố cục bài thơ Viếng lăng Bác được chia làm 4 phần chính:
- Phần 1. Khổ thơ thứ nhất: Khung cảnh ngoài lăng Bác.
- Phần 2. Khổ thơ thứ hai: Hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác và cảm xúc của nhà thơ.
- Phần 3. Khổ thơ thứ ba: Hình ảnh Bác Hồ và cảm xúc của nhà thơ.
- Phần 4. Khổ thơ cuối. Cảm xúc và ước nguyện của nhà thơ khi ra về.
Nhất định đừng bỏ lỡ tác phẩm 🌱 Bài Thơ Ánh Trăng [Nguyễn Duy] 🌱 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Dàn Ý Viếng Lăng Bác
Xem thêm dàn ý Viếng lăng Bác chi tiết bên dưới.
I. Mở bài
– Viễn Phương là một nhà thơ tiêu biểu của miền Nam. Tháng 4/1976 sau một năm giải phóng đất nước. Khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành, nhà thơ cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thăm Hà Nội vào lăng viếng Bác.
– Bài thơ Viếng lăng Bác được Viễn Phương viết với tất cả tấm lòng thành kính biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của một người con từ miền Nam ra viếng Bác lần đầu.
II. Thân bài
1. Khổ thơ thứ nhất
– Tác giả đã mở đầu bằng câu thơ tự sự “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”:
- “Con” và “Bác” là cách xưng hô ngọt ngào thân thương rất Nam Bộ. Nó thể hiện sự gần gũi, kính yêu đối với Bác.
- Con ở miền Nam xa xôi nghìn trùng, ra đây mong được gặp Bác. Nào ngờ đất nước đã thống nhất, Nam – Bắc đã sum họp một nhà, vậy mà Bác không còn nữa.
- Nhà thơ đã cố tình thay từ viếng bằng từ thăm để giảm nhẹ nỗi đau thương mà vẫn không che giấu được nỗi xúc động của cảnh từ biệt sinh li.
- Đây còn là nỗi xúc động của một người con từ chiến trường miền Nam sau bao năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác.
– Hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và là một dấu ấn đậm nét là hàng tre quanh lăng Bác: Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
- Hình ảnh “hàng tre trong sương” đã khiến câu thơ vừa thực vừa ảo. Đến lăng Bác, nhà thơ lại gặp một hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê đất Việt: là cây tre. Cây tre đã trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam.
- “Bão táp mưa sa” là một thành ngữ mang tính ẩn dụ để chỉ sự khó khăn gian khổ. Nhưng dù khó khăn gian khổ đến mấy cây tre vẫn đứng thẳng hàng. Đây là một ẩn dụ mang tính khẳng định tinh thần hiên ngang bất khuất, sức sống bền bỉ của dân tộc.
2. Khổ thơ thứ hai
– Hai câu thơ đầu: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng/Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
- Hai câu thơ được tạo nên với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi. Câu trên là một hình ảnh thực, câu dưới là hình ảnh ẩn dụ.
- Ví Bác như mặt trời là để nói lên sự trường tồn vĩnh cửu của Bác, giống như sự tồn tại vĩnh viễn của mặt trời tự nhiên.
- Ví Bác như mặt trời là để nói lên sự vĩ đại của Bác, người đã đem lại cuộc sống tự do cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi đêm dài nô lệ.
- Nhận thấy Bác là một mặt trời trong lăng rất đỏ, đây chính là sáng tạo riêng của Viễn Phương, nó thể hiện được sự tôn kính của tác giả, của nhân dân đối với Bác.
– Ở hai câu thơ tiếp theo: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ/Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
- Đó là sự hình dung về dòng người đang nối tiếp dài vô tận hàng ngày đến viếng lăng Bác bằng tất cả tấm lòng thành kính và thương nhớ, hình ảnh đó như những tràng hoa kết lại dâng người. Hai từ ngày ngày được lặp lại trong câu thơ như tạo nên một cảm xúc về cõi trường sinh vĩnh cửu.
- Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như tràng hoa, dâng lên Bác. Cách so sánh này vừa thích hợp và mới lạ, diễn ra được sự thương nhớ, tôn kính của nhân dân đối với Bác.
- Tràng hoa là hình ảnh ẩn dụ những người con từ khắp miền đất nước về đây viếng Bác giống như những bông hoa trong vườn Bác được Bác ươm trồng, chăm sóc nảy nở rộ ngát hương về đây tụ hội kính dâng lên Bác.
3. Khổ thơ thứ ba
– Khung cảnh và không khí thanh tĩnh như ngưng kết cả thời gian và không gian trong lăng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
- Cả cuộc đời Bác ăn không ngon, ngủ không yên khi đồng bào miền Nam còn đang bị quân thù giày xéo. Nay miền Nam đã được giải phóng, đất nước thống nhất mà Bác đã đi xa. Nhà thơ muốn quên đi sự thực đau lòng đó và mong sao nó chỉ là một giấc ngủ thật bình yên.
- Từ cảm xúc thành kính ngưỡng mộ, ở khổ thơ thứ ba là những cảm xúc thương xót và ước nguyện của nhà thơ. Hình ảnh Bác như vầng trăng sáng dịu hiền trong giấc ngủ bình yên là một hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp thanh thản, phong thái ung dung và thanh cao của Bác. Người vẫn đang sống cùng với nhân dân đất nước Việt Nam thanh bình tươi đẹp. Mạch cảm xúc của nhà thơ như trầm lắng xuống để nhường chỗ cho nỗi xót xa qua hai câu thơ: vẫn biết… ở trong tim…
- Hình ảnh trời xanh là hình ảnh ẩn dụ nói lên sự trường tồn bất tử của Bác. Trời xanh thì còn mãi mãi trên đầu, cũng giống như Bác vẫn còn sống mãi mãi với non sông đất nước. Đó là một thực tế.
- Thế nhưng, nhìn di hài của Bác trong lăng, cảm thấy Bác đang trong giấc ngủ ngon lành, bình yên mà vẫn thấy đau đớn xót xa mà sao nghe nhói ở trong tim! Dù rằng Người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước, nhưng sự ra đi của Bác vẫn không sao xoá đi được nỗi đau xót vô hạn của cả dân tộc, ý thơ này diễn tả rất điển hình cho tâm trạng và cảm xúc của bất kì ai đã từng đến viếng lăng Bác.
4. Khổ thơ cuối
– Cảm xúc của nhà thơ khi trở lại miền Nam đối với Bác vô cùng chân thành và xúc động Mai về miền Nam thương trào nước mắt.
- Câu thơ như bộc lộ rất chân thành nỗi xót thương vô hạn bị kèm nén cho tới phút chia tay và tuôn thành dòng lệ.
- Trong cảm xúc nghẹn ngào, tâm trạng lưu luyến ấy, nhà thơ như muốn được hoá thân để mãi mãi bên Người.
III. Kết bài
– Với lời thơ cô đọng, giọng thơ trang nghiêm thành kính, tha thiết và rất giàu cảm xúc, bài thơ đã để lại ấn tượng rất sâu đậm trong lòng người đọc. Bởi lẽ, bài thơ không những chỉ bộc lộ tình cảm sâu sắc của tác giả đối với Bác Hồ mà còn nói lên tình cảm chân thành tha thiết của hàng triệu con người Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Soạn Bài Viếng Lăng Bác
Gợi ý bạn đọc soạn bài Viếng lăng Bác đầy đủ.
👉Câu 1 (trang 60 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
– Cảm xúc bao trùm của tác giả : niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn xót xa khi vào viếng lăng Bác.
– Mạch cảm xúc đi theo trình tự vào viếng lăng Bác : bên ngoài lăng (dòng người, hàng tre), bên trong (xúc động thấy Bác trong giấc ngủ bình yên), và khi sắp phải trở về (mong ước mãi bên Bác).
👉Câu 2 (trang 60 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Hình ảnh hàng tre bên lăng Bác xanh xanh, thẳng hàng trong bão táp gần gũi, biểu tượng cho dân tộc Việt Nam với sức mạnh bền bỉ, kiên cường, bất khuất. Cây tre trong câu thơ cuối bài thể hiện sự lưu luyến, thiết tha muốn lòng mình mãi bên Bác.
👉Câu 3 (trang 60 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Tình cảm nhà thơ và mọi người với Bác qua khổ thơ 2, 3, 4 :
– Lòng thành kính của người viếng lăng : dòng người…thương nhớ.
– Mặt trời trong lăng : hình ảnh ẩn dụ, Bác to lớn, vĩ đại như Mặt trời thiên nhiên tỏa sáng sự sống muôn loài.
– Nỗi nhớ thương và xót xa vô hạn của mọi người thể hiện trong khổ 3 :
+ Vầng trăng sáng dịu hiền gợi nhớ đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
+ Trời xanh là mãi mãi : Bác ra đi nhưng vẫn còn mãi với quê hương đất nước, như trời xanh còn mãi.
+ Câu thơ biểu hiện cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót vì sự ra đi của Người : Mà sao nghe nhói ở trong tim!
– Khổ cuối diễn tả chân thành, mộc mạc tình cảm của nhà thơ, bày tỏ niềm mong mỏi, muốn hóa thân vào những cảnh vật bên lăng Bác : trào nước mắt, làm con chim, đóa hoa, cây tre.
👉Câu 4 (trang 60 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Sự thống nhất giữa nội dung tình cảm, cảm xúc với nghệ thuật :
– Giọng điệu trang nghiêm, đau xót, tự hào thể hiện đúng cảm xúc tác giả, nhịp điệu chậm, thành kính, lắng đọng, khổ cuối nhanh thể hiện sự tha thiết và lưu luyến.
– Thể thơ tám chữ (nhưng có dòng thơ 7 hoặc 9 chữ) với hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo và gợi cảm, vừa quen thuộc vừa sâu sắc, ngôn ngữ bình dị, cô đúc… tất cả đều góp phần vào việc diễn tả tâm trạng, tình cảm, cảm xúc của nhà thơ.
Có thể bạn sẽ quan tâm 🔻 Khúc Hát Ru Những Em Bé Lớn Trên Lưng Mẹ 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Dàn Ý
Giáo Án Viếng Lăng Bác
Tham khảo nội dung giáo án Viếng lăng Bác ngay sau đây nhé.
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
– Giúp HS nắm được niềm xúc động t/liêng, tấm lòng t/tha, thành kính, vừa tự hào, vừa đau xót của t/giả.
– Thấy được đ/điểm nghê thuật của bài thơ: giọng điệu trang trọng, mà thiết tha, lời thơ dung dị mà cô đúc, giàu h.ảnh mà vẫn lắng đọng.
2. Kĩ năng
– Rèn kĩ năng cảm thụ và phân tích thơ.
3. Thái độ
– Trân trọng, kính yêu biết ơn Bác – người cha vĩ đại của dân tộc VN
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên
SGK, Sgv đọc các tài liệu tham khảo liên quan,chuẩn kiến thức kĩ năng, soạn bài.
2. Học sinh
Chuẩn bị bài, đọc và trả lời câu hỏi đọc hiểu SGK.
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức
Sĩ số:
2. Kiểm tra đầu giờ: Việc chuẩn bị bài của học sinh.
H: Phân tích ý nghĩa của hình tượng Con cò ở 3 đoạn thơ
Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ ?
3. Bài mới: GV giới thiệu bài.
Ngày 2 – 9 – 1969 Bác ra di mãi mãi và để lại nỗi xót thương vô hạn cho nhân dân VN nói chung đồng bào MN nói riêng . Nhưng đến mãi khi MN được giải phóng nhà thơ Viễn Phương mới cùng đồng bào MN mới có dịp ra thủ đô Hà Nội và vào viếng lăng Bác.
Xúc động, bồi hồi, xót xa, nghẹn ngào nhà thơ đã viết: “Viếng lăng Bác”. Bài thơ là nỗi lòng thành kính là nén hương thơm t/giả kính dâng lên Bác. Để hiểu được nõi ấy chúng ta cùng tìm hiểu bài thơ.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1. HDHS đọc và tìm hiểu chú thích: – GV hướng dẫn đọc bài – Gọi HS đọc bài thơ. H: Nêu những hiểu biết của em về tác giả ? | I. Đọc và tìm hiểu chú thích: 1. Đọc: 2. Chú thích: a. Tác giả: 1. Tác giả: Viễn Phương tên khai sinh: Phan Thanh Viễn (1928- 2005) – Tên khai sinh: Phan Thanh Viễn. – Quê: An Giang. – Là nhà thơ có mặt sớm nhất của lực lượng VN giải phóng ở MN thời kì chống Mĩ. |
H: Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ? | 2. Tác phẩm: – Năm 1976- nước nhà thống nhất, lăng chủ tịch HCM vừa khánh thành. Nhà thơ ra thăm Bắc vào viếng lăng Bác Hồ. Bài thơ “ Viếng lăng Bác ra đời trong hoàn cảnh ấy và được in trong tập “Như mấy mùa xuân” (1978) |
HĐ2. HDHS đọc hiểu văn bản: H: Xác định thể thơ? H: Chia bố cục bài thơ? | II. Đọc hiểu văn bản: 1. Thể thơ: Thơ tự do (biểu cảm) 2. Bố cục: 3 phần: Theo trình tự của mạch cảm xúc khi tác giả vào viếng lăng Bác. |
– HS đọc khổ thơ đầu: H: Nhận xét về cách xưng hô của t/giả trong đoạn thơ? H: Ấn tượng đầu tiên của t/giả khi đến thăm lăng Bác là hàng tre. Cách m/tả hàng tre có gì đáng chú ý? ý nghĩa của cách tả đó? | a. Khổ thơ đầu: “ Con…Bác” – Cách xưng hô trong gia đình của người con với cha mẹ. Câu thơ gọn như 1 lời thông báo, nhưng gợi ra tâm trạng xúc động của 1 người từ chiến trường MN sau bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng lăng Bác. – Hình ảnh hàng tre bát ngát Không chỉ tả thực, còn nhân hóa, l/tưởng tượng trưng → Hàng tre b/tượng cho cây cối mang màu xanh đ/ nước, sức sống bền bỉ, dẻo dai của d/tộc đã tập trung về chung quanh Bác, canh cho giấc ngủ của Người. ⇒ Niềm xúc động thành kính. |
H: em đọc được cảm xúc gì của nhà thơ ở khổ thơ đầu? H: Khi vào lăng t/giả đã m/tả khung cảnh, không khí nơi Bác yên nghỉ ntn? | b. Khổ thơ thứ 2,3:“ Ngày ngày…lăngThấy một…đỏ” → Điệp từ: thời gian lặp lại. – H/ả mặt trời ẩn dụ → Bác vĩ đại như một vầng mặt trời soi sáng đường cho d/tộc VN, thể hiện sự tôn kính của n/dân và t/giả đối với Bác. “ Ngày ngày…nhớ”→ Tả thực dòng người đi trong không gian hết sức đặc biệt – không gian thương nhớ vào viếng Bác “Kết tràng hoa…xuân” → ẩn dụ → sự sáng tạo của nhà thơ. Dòng người như vô tận vào viếng Bác trở thành tràng hoa dâng lên Bác với tấm lòng thành kính thiêng liêng. |
H: Tác giả cảm nhận điều gì trong lòng khi ngắm nhìn Bác trong lăng? Tâm trạng và cảm xúc của t/giả? | – Bác nằm …yên… dịu hiền → Bác nằm t/thản như đang ngủ – một giấc ngủ rất đỗi bình yên trong ánh sáng dịu như vầng trăng trong lăng → Tác giả diễn tả chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm dưới ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của k/gian trong lăng Bác. H/ảnh v/trăng gợi nghĩ đến t/hồn thanh cao đẹp đẽ , s/trong của Bác và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người. “ Vẫn biết …mãi mãi Mà sao nghe nhói…tim” – Bác còn sống mãi với non sông đ/nước, như trời xanh còn mãi trên đầu. Người đã hóa thành t/nhiên, đất nước, dân tộc. |
H: Vì sao tác giả lại thấy con tim mình đau nhói? H: Nhận xét về cảm xúc của nhà thơ? | → Mặc dù vẫn biết như thế nhưng trái tim lại nhói đau vì một sự thật phũ phàng : Bác không còn nữa, không thể không đau xót vì sự ra đi của Người ⇒ T/cảm xót xa, chân thành, xúc động khi lần đầu tiên nhìn thấy Bác trong lăng. |
– HS đọc khổ thơ thứ tưH: Rời lăng Bác tâm trạng, cảm xúc và ước nguyện của nhà thơ ntn? – Nghệ thuật gì được sử dụng trong đoạn thơ? | c. Khổ thơ thứ 4:“ Mai về…nước mắt” – Niềm xúc động trào dâng, xót thương không muốn rời xa. – Muốn làm con chim hót .. đóa hoa tỏa hương , cây tre trung hiếu → được bên Bác canh giấc ngủ cho Người→ Điệp ngữ, ẩn dụ → ước nguyện chân thành của nhà thơ .→ Tâm trạng lưu luyến, t/cảm thành kính, thiêng liêng của 1 người con MN đối với Bác- Người cha già kính yêu của d/tộc. |
H: Nhận xét của em về h/ả cây tre ở cuối bài thơ? | ⇒ Sự lặp lại h/ả cõy tre tạo cho bài thơ có kết cấu đầu – cuối tương ứng, làm đậm nét về hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn. |
HĐ3. HDHS tổng kết: H: Cảm nhận của em về nội dung bài thơ? H: Nêu đ/sắc ND và NT của bài thơ? | III. Tổng kết: 1. ND: Bài thơ t/hiện niềm thành kính, niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người với Bác. 2. NT: Cách gieo vần linh hoạt, tạo nên 1 giọng điệu phù hợp với n/dung t́nh cảm, c/xúc. Giọng thơ vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa t/tha, đau xót, tự hào. H/ảnh thơ sáng tạo, kết hợp cả h/ảnh thực, h/ảnh ẩn dụ, b/tượng. |
4. Củng cố, luyện tập:
– Đọc d/cảm bài thơ? Nêu cảm nghĩ của em sau khi học xong b/thơ này?
– Viết 1 đoạn văn bình khổ thơ thứ 2?
5. Hướng dẫn HS về nhà:
– Học thuộc lòng bài thơ và nắm ND của bài.
– Xem trước bài: Cách làm bài văn NL về 1 v/đề tư tưởng, đạo lí – đọc và trả lời câu hỏi bài tập.
Sơ Đồ Tư Duy Viếng Lăng Bác
Tổng hợp các sơ đồ tư duy Viếng lăng Bác.
Xem thêm về phân tích 🌿 Bài Thơ Bếp Lửa [Bằng Việt] 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Hay Nhất
Chia sẻ cho bạn đọc 5 mẫu phân tích bài thơ Viếng lăng Bác hay nhất.
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Ấn Tượng – Mẫu 1
Bác Hồ đã ra đi mãi mãi để lại niềm tiếc thương vô cùng cho hàng triệu con người Việt Nam. Người ra đi khi mà miền Nam còn chưa được độc lập, đất nước Việt Nam còn chưa được thống nhất. Mong muốn mãnh liệt là đi miền Nam của Bác cũng không kịp thực hiện.
Vậy nên, năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc thắng lợi và lăng Bác được khánh thành thì nhà thơ Viễn Phương – một người con của miền Nam yêu dấu đã thay mặt nhân dân miền Nam ra thăm và viếng lăng Bác. Cũng ở dịp này, ông đã sáng tác nên bài thơ “Viếng lăng Bác” và in trong tập thơ Như mây mùa xuân.
Bài thơ Viếng lăng Bác là niềm cảm xúc dạt dào, chân thành của một người con từ miền Nam xa xôi lặn lội ra thăm người Cha già của dân tộc, vừa thành kính lại tha thiết, sâu nặng. Bài thơ được viết bằng thể thơ tám chữ với bốn khổ thơ. Mỗi khổ thơ lại là những cảm xúc khác nhau kể từ khi nhà thơ nhìn thấy lăng Người cho tới khi trước lúc rời xa lăng Bác để trở về quê hương.
Bài thơ được mở đầu bằng những cảm xúc rất đỗi nghẹn ngào, chân thành của nhà thơ khi từ xa nhìn về lăng của Người:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Lời giới thiệu trực tiếp chứa chan niềm xúc động của nhà thơ. Nhà thơ giới thiệu mình là người con từ “miền Nam” xa xôi ra “thăm” Người. Bởi lẽ, miền Nam luôn là nơi Bác Hồ luôn đau đáu thuở còn sinh thời, tới tận khi cuối đời, Người luôn mong mỏi về một miền Nam độc lập và Người sẽ được vào thăm nhân dân miền Nam yêu quý. Thế nhưng, chưa kịp thực hiện thì Người đã mãi ra đi.
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Tố Hữu)
Cách xưng hô con-bác thể hiện sự gần gũi, gắn bó thân thiết. Tác giả đã sử dụng từ “thăm” chứ không phải “viếng” một cách tinh tế, ý nhị. Đó không chỉ là cách nói giảm nói tránh để vơi bớt đi nỗi tiếc thương mà với nhà thơ Viễn Phương, chuyến đi này là một cuộc thăm hỏi, gặp gỡ thân tình của những người con Việt Nam với vị cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc.
Từ xa nhìn lại, lăng Bác ẩn hiện trong làn sương và trong làn sương ấy lại thấp thoáng “hàng tre bát ngát”. Trước hết đây là hình ảnh tả thực về những hàng tre xanh ngát trước lăng Bác. Không chỉ vậy, hàng tre trong câu thơ “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát” mang ý nghĩa biểu tượng.
Tre với người Việt Nam từ bao đời nay đã trở nên quen thuộc, đã trở thành biểu tượng cho sự kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam. Cây tre xuất hiện từ thời Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân đến thời kháng chiến, nó trở thành những cây chông để ngăn bước chân thù.
Tre gắn bó với cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu, tre đi vào đời sống tinh thần qua những câu ca dao, những áng thơ văn. Và giờ đây, quanh lăng Bác, hàng tre ấy lại hiện lên mênh mông, bát ngát chứa đựng hồn cốt, vẻ đẹp của con người Việt Nam.
Hàng tre xanh bát ngát cũng như hàng triệu con người Việt Nam, luôn ở bên Bác, bảo vệ chốn nghỉ bình yên của Người. Nguồn xúc cảm mãnh liệt đã khiến cho mạch thơ ở đây thật bồi hồi, thật xúc động. Và từ đó, nó biến thành sự cảm thán nghẹn ngào:
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Nhìn hàng tre thấp thoáng trong sương nơi lăng Bác nhà thơ lại chợt liên tưởng tới những con người Việt Nam với ý chí kiên cường. Thán từ “ôi” đặt đầu câu đã nhấn mạnh sự xúc động, niềm tự hào của tác giả trước vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam giữa bão táp lịch sử.
Hàng tre ấy như bao thế hệ con người Việt Nam, lớp này nối tiếp lớp kia, hiên ngang “đứng thẳng” giữa đất trời, dù có khó khăn, dù có thử thách cam go!
Bao trọn khổ thơ đầu tiên là cảm xúc của nhà thơ khi lần đầu tiên được nhìn thấy lăng Bác. Niềm cảm xúc ấy vừa có sự đau xót, thương tiếc chân thành đối với vị lãnh tụ kính yêu của đất nước, vừa có niềm tự hào dân tộc về ý chí, về con người Việt Nam.
Hai khổ thơ tiếp theo là những xúc cảm của nhà thơ khi đứng trước vị Cha già dân tộc. Đó là sự đau xót, là niềm biết ơn, sự thành kính chân thành của Viễn Phương đối với Bác Hồ.
Theo chân nhà thơ, chúng ta bước dần vào trong lăng Bác trong không khí trang nghiêm, thành kính.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Sự gặp gỡ của mặt trời của thiên nhiên và “mặt trời” của dân tộc, con người Việt Nam đã mang đến những cảm xúc thật xúc động, tự hào. Một mặt trời của thiên nhiên vũ trụ “ngày ngày” luân chuyển tạo thành đêm và ngày “đi qua trên lăng”. Còn một “mặt trời” khác đang nằm trong lăng, “mặt trời” ấy cũng rất “đỏ”, rực rỡ và chiếu sáng khắp non sông đất nước ta, “mặt trời” đó chính là Bác Hồ.
Đây là một hình ảnh so sánh, ẩn dụ hết sức đặc sắc của nhà thơ. Nếu như mặt trời ngoài kia “ngày ngày” đi qua trên lăng Bác, toả ánh sáng, sưởi ấm cho Bác thì Bác cũng là “mặt trời”, là ánh sáng chỉ đường cho dân tộc Việt Nam ta. Ánh sáng ấy là nguồn sáng chói lòa rực rỡ, đưa cả đất nước ta bước ra khỏi lầm than.
Không ít nhà thơ đã lấy hình ảnh “mặt trời” để so sánh với Người, như Tố Hữu cũng đã từng so sánh Bác trong bài thơ Sáng tháng năm:
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng”.
Thế nhưng, không thể phủ nhận rằng hình ảnh so sánh sáng tạo của Viễn Phương mang một vẻ đẹp, một sắc thái hoàn toàn riêng biệt. Hình ảnh so sánh mộc mạc, giản dị nhưng lại chứa đựng cảm xúc dạt dào, mãnh liệt.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Tiếp theo là hình ảnh của đoàn người vào “thăm” viếng Bác. Đoàn người ấy xếp thành hàng dài, lặng lẽ tiến từng bước chậm bước vào trong lăng. Họ đều mang trong lòng nỗi thương nhớ, sự xót xa, tiếc thương đối với Người.
Tác giả đã cố tình đặt ở đầu câu thơ điệp từ “ngày ngày” để diễn tả sự lặp lại, thường xuyên, vô tận những dòng người vào lăng viếng Bác trong niềm thương tiếc. Nếu mặt trời của thiên nhiên “ngày ngày” đều đi qua lăng Bác lặng lẽ, đều đặn sưởi ấm cho Người thì những dòng người xếp hàng vào lăng viếng Người trong nỗi thương nhớ cũng đều đặn, lặng lẽ như thế!
Và có lẽ, hình ảnh kết tinh đẹp đẽ nhất bài thơ là hình ảnh:
“Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.
Đây là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo của nhà thơ, “dòng người” đang lặng lẽ ngoài lăng, giống như một “tràng hoa” lớn đang được kết lại và dâng lên Người. Đó là tràng hoa của lòng người, của lòng biết ơn, trân trọng của con người Việt Nam với Bác. “Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ số tuổi của Người. Cả cuộc đời Bác đều cống hiện trọn vẹn từng phút giây cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam, không một phút ngơi nghỉ.
Bác Hồ đã mãi mãi ra đi, thế nhưng, với nhà thơ Bác chỉ như đang “nằm trong giấc ngủ bình yên”. Người dường như chỉ đang vừa chợp mắt sau những giờ làm việc căng thẳng và mệt mỏi. Người nằm dưới ánh sáng của đèn điện bao quanh, thế nhưng, nhà thơ lại tưởng đó là ánh sáng của “vầng trăng sáng dịu hiền”.
Hình ảnh “một vầng trăng sáng dịu hiền”: liên tưởng thú vị của nhà thơ gợi liên tưởng đến tâm hồn thanh cao, giản dị của Bác đồng thời gợi nhớ đến những bài thơ ngập ánh trăng của Người.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
(Cảnh khuya)
Hay:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
(Vọng nguyệt)
Cuộc đời Bác là hoà quyện của sự thanh cao, vĩ đại mà gần gũi, giản dị vô cùng. Có lẽ vì thế mà khi nhà thơ được nhìn thấy Bác, trong lòng Viễn Phương đã dâng lên một niềm xúc động mãnh liệt:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Ông biết quy luật của thiên nhiên, của tạo hoá thì cái chết là điều không tránh khỏi, thế nhưng sự ra đi của Bác Hồ là một sự mất mát to lớn, một niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Vẫn biết Bác vẫn còn mãi trong trái tim mỗi người con Việt Nam giống sự bất tử của trời xanh “trời xanh là mãi mãi” thế nhưng đối diện với sự thật đau lòng, tác giả vẫn “nhói” lên nỗi đau đớn khôn cùng.
Sự ra đi của Bác là hoá thân vào đất trời, vào thiên nhiên để cùng trường tồn với dân tộc, thế nhưng, nỗi đau vẫn còn đó, trong lòng nhà thơ, trong lòng tất cả con người Việt Nam. Câu thơ nghe như một sự cảm thán, một sự trách cứ với quy luật của thiên nhiên. “Vẫn biết” quy luật sinh tử là không thể tránh khỏi, nhưng đau đớn quá, tê tái quá!
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng tới hồi kết, và cuộc viếng thăm của Viễn Phương cũng vậy. Giờ phút nói lời từ biệt với Bác, trong lòng ông dâng lên một cảm xúc mãnh liệt, những nỗi niềm đau xót từ ban đầu giờ đây biến thành tiếng nấc đầy nghẹn ngào:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ngày mai thôi là nhà thơ phải rời khỏi nơi đây, rời xa vị Cha già dân tộc mà không biết bao giờ có thể gặp lại. Chính vì thế, những nỗi nghẹn ngào đã bật thành tiếng khóc, bật thành những giọt nước mắt bịn rịn, lưu luyến. Và tận sâu trong lòng nhà thơ bật lên những ước nguyện thật nhỏ bé:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Tác giả muốn trở thành “chim”, thành “hoa”, thành những cây “tre” nơi đây dù là bé nhỏ thôi, để được gần cạnh Người, bầu bạn cùng Người. Ước nguyện của nhà thơ thật mãnh liệt và cháy bỏng khi liên tục lặp lại ba lần điệp từ “muốn làm”. Nhịp thơ ở đây chậm hơn những khổ thơ trước như muốn kéo dài giây phút chia xa. Và cuối bài thơ, hình ảnh “cây tre” lại một lần nữa xuất hiện.
Hình ảnh “cây tre trung hiếu” là biểu tượng cho con người Việt Nam kiên trung, là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của con người, luôn “trung với Đảng, hiếu với dân”. Nhà thơ muốn được hoá thành một cây tre nhỏ, “trung hiếu” để được bên Bác, được Bác soi đường và dẫn lối.
Qua đó, Viễn Phương muốn khẳng định sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam trước những lý tưởng và chân lý mà Bác đã mở đường cho chúng ta.
Bài thơ khép lại nhưng vẫn còn lưu lại trong chúng ta tình cảm dạt dào của một người con phương Nam khi tới thăm lăng Bác. Với lối thơ tám chữ, chậm rãi như đang kể một câu chuyện, Viễn Phương đã giúp người đọc cùng cảm nhận sự đau xót, thương tiếc cũng như niềm tự hào trong lòng ông.
Những hình ảnh đẹp, những ẩn dụ sáng tạo đã làm sống dậy trong lòng mỗi người đọc chúng ta niềm kính yêu vô bờ trước vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Và dù Người đã đi xa hơn năm mươi năm nhưng những lý tưởng và tấm gương của Người sẽ còn sáng mãi trong lòng người dân Việt Nam.
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Đặc Sắc – Mẫu 2
Thời gian có thể phủ bụi dường như tất cả nhưng có những chân giá trị, những con người càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại cống hiến và hy sinh cả cuộc đời mình cho quốc gia, dân tộc – vẫn chiếm trọn tình cảm của mỗi người con Việt Nam.
“Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị. Màu quê hương bền bỉ đậm đà. Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta…” (Tố Hữu). Và một lần nữa, ta lại không khỏi bồi hồi trước những dòng thơ trong bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ chính là tấm lòng “tủy cốt chung tình” nhất không chỉ của tác giả, mà còn của toàn thể đồng bào Việt.
Nhắc đến Viễn Phương, Mai Văn Tạo có lần từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắc, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến “Tiếng tù và trong sương đêm”, “Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều” hay “Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước”…
Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ” Quả thật như vậy, các sáng tác của Viễn Phương đã thể hiện rất rõ điều đó. Ông có rất nhiều thi phẩm hay nhưng nổi bật nhất phải kể đến Viếng lăng Bác.
Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978 với những dòng cảm xúc chân thành, sâu sắc, niềm thành kính và biết ơn của nhà thơ cũng như toàn thể đồng bào miền Nam, của nhân dân toàn quốc dành cho người cha vĩ đại của dân tộc. Bởi lẽ đó, bài thơ cũng được coi như một nén tâm hương chân thành dâng lên Người. Trước hết có thể thấy hiện lên ở khổ thơ đầu là cảm xúc tự hào, niềm xúc động khi được đến thăm lăng Bác để thỏa nỗi lòng của thi nhân:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ mở đầu thay cho một lời chào, một lời giới thiệu về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra Hà Nội thăm Bác Hồ kính yêu. Cách xưng hô “con -Bác” của người Nam Bộ gợi đến những tình cảm rất thân thương và gần gũi. Nó cho thấy mối quan hệ giữa Bác và những đứa con tựa như tình cha con ruột thịt.
Tác giả như một đứa con lâu ngày mới có dịp về thăm vị cha già kính yêu. Với từ “thăm”- một cách nói giảm nói tránh, tác giả cố giấu đi, nén lại trong lòng cảm xúc đau thương mất mát không thể nào bù đắp được của cả dân tộc và cũng như để nói với tự lòng mình: Bác còn sống mãi với non sông đất nước, còn sống mãi “như trời đất của ta”, trong “từng ngọn lúa mỗi nhành hoa” (Tố Hữu).
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” hiện ra trong sương mờ buổi sớm trên con đường đến thăm Bác, đó là hình ảnh tả thực, hình ảnh của quê hương thân thương, yên bình, gần gũi luôn ở bên Người. Một câu cảm thán tác giả sử dụng để bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng về hình ảnh hàng tre:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Đó là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp cho người dân Việt Nam, là biểu tượng cho dân tộc Việt Nam trải qua “bão táp mưa sa”- thành ngữ chỉ muôn vàn khó khăn gian khổ để rồi thi nhân như khẳng định chắc nịch rằng: mỗi cây trẻ như một con người Việt Nam bền bỉ, kiên trung, vững vàng nay trở về kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của Bác. Ba hình ảnh đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị: Lăng Bác hiện lên như một làng quê yên bình với những con người bình dị, gần gũi vô cùng.
Chầm chậm theo dòng người vào trong lăng, nơi Bác đang yên nghỉ, tâm hồn nhà thơ chứa chan lòng thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc đối với Bác Hồ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
“Mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên ngày ngày sưởi ấm Trái Đất, mang lại sự sống cho vạn vật muôn loài. Tác giả cũng nhận ra, trong lăng cũng có một “mặt trời”, một “mặt trời rất đỏ”. Đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính yêu vì Bác như vầng mặt trời có công lao to lớn cho toàn thể dân tộc, dìu dắt ta từ chỗ lầm than đến ngày tự do huy hoàng.
Đồng thời phép ẩn dụ cũng như một cách thể hiện tấm lòng thành kính của chính tác giả với Bác Hồ. Cụm từ “ngày ngày” đã khẳng định quy luật bất biến của con người cũng như tự nhiên: nơi lăng Bác dòng người nối dài vô tận không ngừng nghỉ, lặng lẽ, kính cẩn, trang nghiêm để được vào lăng viếng Bác.
Dòng người ấy là tấm gương điển hình trên các mặt trận lao động, sản xuất, chiến đấu, đại diện cho gần sáu mươi dân tộc anh em từ khắp nơi trên mọi miền Tổ quốc tụ họp lại đây. Họ kết thành hình ảnh một “tràng hoa” – hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa tượng trưng cho những gì tốt đẹp nhất, tinh túy nhất của thiên nhiên, của con người Việt Nam thành kính dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”.
Phép hoán dụ, cũng là cách nói trang trọng nhằm diễn đạt ý tứ sâu xa: bảy mươi chín tuổi đời của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, một cuộc đời đẹp và tràn đầy ý nghĩa. Bác đã đem lại cho ta một mùa xuân vĩnh hằng, mùa xuân của độc lập tự do và hạnh phúc.Với những cảm xúc và suy nghĩ của riêng mình, lời thơ của Y Phương đã chạm vào trái tim của tất cả chúng ta khi nghĩ về Bác:
Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên Người Hồ Chí Minh.
Mạch cảm xúc của tác giả tiếp tục với những dòng cảm xúc tiếc thương vô hạn, cho dù cố giấu đi những dòng cảm xúc ấy nhưng vẫn đủ sức lay động trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Vẫn là phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên”, tác giả như cố gắng muốn xua đi sự thật phũ phàng: Bác không còn nữa. Hai câu thơ như tái hiện trước mắt độc giả hình ảnh chân thực: Bác đang nằm trên kính, ánh đèn hồng chiếu xuống khiến cho gương mặt Bác trở nên hồng hào và sáng dịu hiền như vầng trăng.
“Trời xanh” và “ánh trăng” được nhắc đến vừa là hình ảnh thực, vừa có ý nghĩa ẩn dụ thể hiện sự bất diệt và trường tồn của thiên nhiên. Kết hợp với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao”, tác giả như muốn lấy quy luật của tự nhiên để khẳng định quy luật của con người, nhằm tự trấn an lòng mình: vẫn biết Bác luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật phũ phàng rằng Bác đã ra đi mãi mãi khiến tác giả thấy “nghe nhói ở trong tim”.
Từ “nghe nhói” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác một cách rõ nét nhất cảm giác đau đớn tột cùng của tác giả khi nghĩ sự thật rằng Bác không còn nữa. Đó là nỗi đau quá lớn khiến tác giả không giấu nổi nghẹn ngào. Có lẽ cũng bởi vậy mà mới nghĩ đến việc ngày mai phải xa Bác kính yêu, lòng tác giả và những đứa con miền Nam đã dâng niềm xúc động bồi hồi:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Lời thơ nghẹn ngào, nức nở, cảm xúc nhớ thương được bộc lộ một cách trực tiếp, “thương trào nước mắt” không chỉ là cảm xúc của Viễn Phương mà ông như đang nói hộ tấm lòng của muôn vàn những trái tim ấm nóng khác khi phải xa chốn thiêng liêng.
Để rút ngắn khoảng cách không gian, nhà thơ đã bày tỏ niềm ước muốn chân thành, thiết tha, xúc động bằng một loạt các động từ “muốn làm” kết hợp với hình ảnh thiên nhiên đầy ẩn dụ tượng trưng: làm con chim để dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây trẻ thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người.
Đó không chỉ là hình ảnh tinh túy của thiên nhiên mà còn là hình ảnh kết tinh vẻ đẹp sức sống con người kính dâng lên Bác. Bình dị, khiêm nhường, không ồn ào khoa trương, ước nguyện của nhà thơ cũng là ước nguyện của chúng ta: Ai cũng muốn ở bên Bác, muốn làm điều gì đó dẫu là nhỏ bé cho Bác vui lòng.
Đặc biệt hơn cả là hình ảnh “cây tre trung hiếu” kết thúc bài thơ tạo ra kết cấu đầu cuối tương ứng. Đồng thời còn là hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ mang ý nghĩa khái quát, nhất là đặt trong hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ, câu thơ khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào miền Nam. Cứ thế, bước chân đi nhưng lòng còn níu lại. Cảm xúc của nhà thơ thật chân thành, xúc động đã chạm vào dây đồng cảm của tất cả chúng ta.
Cùng với tất cả những tác phẩm ca ngợi về hồ chủ tịch, bài thơ Viếng lăng Bác đã để lại dòng cảm xúc xót thương biết bao trong lòng người đọc suốt bốn mươi năm qua bởi thành công rực rỡ về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ, hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng.
Trong đó, đặc sắc nhất là những biện pháp như: nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ… được tác giả sử dụng linh hoạt, hiệu quả cao về giá trị thẩm mỹ. Bài thơ bởi lẽ đó đã mang đến cho ta những cảm xúc sâu sắc về Bác Hồ kính yêu với những công lao vĩ đại mà Người đã cống hiến, hy sinh cho dân tộc.
Với ý nghĩa đó, bài thơ thực sự trở thành nén tâm hương thành kính của nhà thơ cũng như của nhân dân cả nước kính dâng lên Bác. Bên cạnh đó, Viễn Phương đã góp phần lớn của mình vào đề tài ca ngợi lãnh tụ. Một bài thơ hay, một cảm xúc chân thành, lắng đọng trong lòng người đọc.
Cùng với rất nhiều bài thơ ca ngợi Bác, Viếng lăng Bác của Viễn Phương mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng. Bài thơ đã thể hiện trong lòng ta những cảm xúc tự hào, biết ơn vô hạn với vị cha già vĩ đại của dân tộc.
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Tiêu Biểu – Mẫu 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam. Người để lại hình ảnh một người Cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết, người hiện thân cho những gì cao đẹp và mạnh mẽ của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Biết bao nhà thơ đã làm thơ về Người, về lăng Người. “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với Người. Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Lời thơ giản dị chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Sinh thời, Người luôn nghĩ đến miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha
(Bác ơi)
Lời bài thơ đúng là lời của người con miền Nam ra thăm lăng Bác, nơi yên nghỉ của người Cha già dân tộc. Tình cảm trong bài đúng là tình cảm của người con ở xa mà nỗi niềm nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức. Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã biết bao xúc động:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Nhà thơ hẳn phải đến rất sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn bao phủ quanh lăng. Theo con đường quanh quanh dẫn tới lăng nổi lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc mà bao năm đã in hẳn tiềm thức: “hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Một tình cảm vừa thân quen, vừa thương xót và tự hào. Thân quen vì người Việt Nam nào mà không biết tre. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa, và tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương sa mà liên tưởng đến bão táp, mưa sa cũng rất tự nhiên. Từ cây tre mà nghĩ đến Việt Nam, rồi sẽ nghĩ đến Bác cũng là tự nhiên, bởi từ lâu “cây tre”, ‘Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ ngữ có mối liên hệ nội tại.
Khổ thứ hai nói tới cảm xúc trước cảnh đoàn người xếp hàng vào lăng. Hẳn là đoàn người rất dài, tốc độ đi rất chậm. Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Mặt trời trên lăng lại gợi lên một liên hệ mới:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen, nhưng đem so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời “rất đỏ” làm nhớ đến trái tim, trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân. Ngắm nhìn dòng người vào viếng, nhà thơ lại nghĩ đến vòng hoa:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Tràng hoa là chuỗi hoa vòng kết thành tròn. Từng đoàn người đi viếng di chuyển từ phía sau lăng, qua bên lăng, vòng ra trước lăng rồi quay vào chính diện của lăng, đúng là tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ nghĩ đến tràng hoa. Bởi vì con người là hoa của đất, những con người từng được Bác Hồ quan tâm.
Mọi người hình như không phải đến viếng một người đã từ trần, viếng một thi hài, mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Ở đây tác giả không chỉ liên tưởng sâu sắc, mà còn dùng từ tinh tế, đầy tình cảm nâng niu, quý trọng.
Những chữ “ngày ngày” được lặp lại hai lần gây cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh viễn, không bao giờ ngừng, như tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác.
Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi đã vào đến trong lăng. Đây là nơi ngự trị của cái im lặng trang nghiêm của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết rất đỗi chân thực và thơ mộng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng sáng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muốn cảm nhận đây là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ giữa ban ngày, nhưng mặt khác không thể không thấy một sự thật rằng con người đang nằm kia đã vĩnh viễn ra đi:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi.
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Dù biết Bác sống vĩnh viễn như trời xanh thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào. Khổ thơ cuối cùng là cảm xúc trước khi ra về:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi, nhí nhảnh bên một người đã hy sinh cả gia đình, tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng, một làn hương như thực như hư “đâu đây”, thoang thoảng.
Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi ước muốn đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm khuây, làm vợi nỗi lạnh lẽo của con người đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt.
Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm từ cõi hằng ngày lên cõi cao cả.
Tình cảm đối với Bác chỉ có thể là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc.
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Nổi Bật – Mẫu 4
Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc ta. Để viết về Bác có lẽ chẳng bao giờ có thể ghi hết được công lao to lớn của Người dành cho dân tộc. Ngay cả sau khi Bác mất, rất nhiều bài thơ hay về Bác đã ra đời. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.
Cũng như nhiều người dân khác của nước Việt Nam, mỗi lần nhắc đến Bác Hồ là trong lòng lại trào dâng một nỗi xúc động lớn lao. Sự ra đi của Bác là nỗi tiếc thương cho toàn thể dân tộc Việt. Chính vì vậy mà trong mỗi vần thơ đều có hàm chứa sự biết ơn, lòng tôn kính đối với Người. Và bài thơ Viếng Lăng Bác đã thể hiện rất rõ điều đó.
Mở đầu bài thơ, tác giả cho ta thấy được xuất xứ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Lòng tôn kính dành cho Bác đã thôi thúc người chiến sĩ Viễn Phương từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Không quản ngại đường xa gian khó. Đến được với Bác là một điều tuyệt vời và có ý nghĩa hơn cả. Nhìn từ đằng xa qua lớp sương mù bao phủ nhưng nhà thơ đã thấy rõ hàng tre:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Thán từ “ôi” gợi lên cho người đọc bao nỗi xúc động lớn lao. Dù chưa gặp Bác mà mới chỉ thấy hàng tre thôi đã khiến cho tác giả nghẹn lòng. “Hàng tre xanh xanh Việt Nam”, một hình ảnh tượng trưng vô cùng tuyệt vời. Người Việt Nam vốn gắn bó với lũy tre xanh.
Nhìn thấy tre, ta liên tưởng đến những con người Việt Nam cần cù, chịu khó hai sương, một nắng. Cho dù phải hứng chịu biết bao bom đạn của những năm tháng chiến tranh thì tre và người đều đứng hiên ngang, thẳng hàng.
Hai câu thơ tiếp theo mới thật là đặc sắc:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Chúng ta đều biết, trong tự nhiên chỉ có một mặt trời. Điệp từ “ngày ngày” cho ta thấy sự diễn biến liên tục của thời gian. Dường như không có một ngày nào mặt trời không đi qua trên lăng Bác. Mặt trời bao trùm lên không gian bên ngoài lăng Bác.
Còn không gian bên trong thì đã có một mặt trời khác soi rọi. Mặt trời ấy chính là Bác Hồ. Nhà thơ Viễn Phương đã có sự ví vón vô cùng tinh tế bởi Bác Hồ khi còn sống là người đã chỉ đường cho chúng ta tìm thấy ánh sáng của sự tự do. Màu sắc “rất đỏ” càng làm nổi bật thêm hình ảnh con người Bác.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Hai câu thơ tiếp theo, Viễn Phương vẫn sử dụng điệp từ “ngày ngày” để chỉ sự liên tục tiếp diễn của những dòng người tới viếng lăng Bác. Không riêng gì nhà thơ, ai ai cũng muốn tới thăm Bác một lần để tưởng nhớ người anh hùng của dân tộc.
Động từ “dâng” cho thấy sự biết ơn và lòng kính trọng của người dân đối với Bác. Ở đây, tác giả không nói dâng hoa lên Bác mà là “bảy mươi chín mùa xuân” ý chỉ số tuổi của Bác. Bác của chúng ta đã nằm xuống ở tuổi bảy mươi chín.
Khổ thơ thứ ba miêu tả sự bình yên của Bác.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Sau bao nhiêu năm tháng lăn lộn vì Tổ quốc, giờ đây Bác nằm xuống, đôi mắt nhắm tưởng như là đang ngủ. Đó là một giấc ngủ sâu và kéo dài mãi mãi. Nhìn thì bình yên vậy nhưng lòng người ở lại vẫn cứ thấy nhói đau. Đọc câu thơ thôi mà chúng ta cũng thấy gợn trong lòng. Đó là một sự mất mát quá lớn, một nỗi tiếc thương mà bao nhiêu năm cũng chẳng thể nào nguôi ngoai.
Khổ thơ cuối khép lại với lời chào tạm biệt Bác của nhà thơ. Đồng thời, nhà thơ cũng mong ước được hóa thân vào làm chim, làm hoa, làm cây tre để được ở mãi bên cạnh Người.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Qua 4 khổ thơ với giọng điệu chân thành, bình dị, người đọc cảm nhận được tình cảm của nhà thơ miền Nam dành cho Bác kính yêu. Bài thơ khép lại nhưng vẫn đọng lại trong lòng người đọc những nỗi ám ảnh và những nỗi tiếng thương. Nhà thơ Viễn Phương không chỉ nói lên được tình cảm của mình mà còn nói thay cho toàn dân tộc. Thật đáng quý biết bao.
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Chọn Lọc – Mẫu 5
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam thường nói “Miền Nam trong trái tim” hẹn ngày thống nhất Bác sẽ vào thăm. Vậy mà khi miền Nam giải phóng, nước nhà thống nhất thì Bác lại không còn nữa.
Những người con miền Nam nhớ Bác cũng chỉ biết vào lăng viếng Bác và Viễn Phương là một trong những người con đó. Với cảm xúc dâng trào của đứa con về thăm cha, Viễn Phương đã cho ra đời bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện tình cảm của nhà thơ, của những đứa con dân tộc, của tiếng lòng kính yêu dâng lên Bác.
Đây là một trong những bài thơ cảm động và xuất sắc nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, gồm 4 khổ, mỗi khổ có 4 câu. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động, thành kính là lòng biết ơn và tự hào, xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra Viếng lăng Bác.
Giọng điệu thành kính, trang nghiêm của bài thơ rất phù hợp với cảm xúc, và cũng phù hợp với không khí trang nghiêm nơi lăng Bác. Mạch cảm xúc vận động theo trình tự thời gian kết hợp với không gian của một chuyến viếng thăm.
Vì vậy, đọc bài thơ mà như ta theo chân tác giả vào lăng viếng Bác. Khổ 1 cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng tập trung ở hình ảnh hàng tre; khổ 2-3 từ dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ cảm xúc và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Khổ 4 là cảm xúc khi sắp phải trở về miền Nam, nhà thơ mong muốn lòng mình được mãi mãi ở lại nơi lăng Bác.
Hai câu thơ đầu như một lời tự sự đã chứa đựng bao nhiêu cảm xúc:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Bác đã vĩnh viễn ra đi khi đất nước còn chia cắt. Câu thơ của Viễn Phương mang theo niềm xúc động của đứa con miền Nam sau bao ngày mong mỏi lần đầu tiên được ra viếng lăng Bác. Cách xưng hô “con” và “Bác” vừa gần gũi vừa thân thương, vừa trân trọng, vừa thành kính như một đứa con đã lâu nay được trở về thăm cha. Vì vậy, tác giả đã dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” như dấu đi một nỗi đau đang chất chứa trong lòng mình.
Cũng trong khổ thơ này, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tác giả về cảnh quanh lăng Bác là hàng tre. Nhà thơ cảm nhận đó là linh hồn quen thuộc của quê hương Việt:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng.
Hình ảnh những hàng tre quen thuộc đi vào mạch cảm xúc rất tự nhiên mà có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ liên tưởng đến cây tre Việt Nam, đến bản lĩnh, sức sống bền bỉ kiên cường của dân tộc Việt Nam. Tre vừa được hiểu theo nghĩa thực, vừa được hiểu theo nghĩa ẩn dụ.
Vì vậy, Lăng Bác như ở giữa làng quê Việt Nam và trở nên gần gũi và giản dị, và lăng Bác cũng như đang ở giữa lòng dân tộc, thật ấm áp vô cùng! Nói đến tre là nói đến Việt Nam, nói đến Việt Nam là liên tưởng ngay đến Bác. Một sự kết nối khó có thể hiểu khác được!
Khổ thơ thứ hai được bắt đầu từ hình ảnh “Mặt trời”:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Có hai “mặt trời”: “mặt trời” trong câu thơ trên là hình ảnh thực, “mặt trời” trong câu thơ dưới là hình ảnh ẩn dụ. Bác chính là mặt trời sáng rực, vừa thể hiện cái vĩ đại bất diệt, vừa sự sống cho nhân loại; vừa là mặt trời sáng rực của cách mạng vô sản… Lấy “mặt trời” để ví với Bác, nhà thơ thể hiện niềm tôn kính của mình, cũng là sự tôn kính của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu.
Sự tôn kính ấy còn thể hiện trong hình ảnh dòng người ngày ngày vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Người vào thăm Bác, mang hoa viếng Bác, đó là một hình ảnh thực. Nhưng nhà thơ lại muốn nói đến một “tràng hoa” khác. Nhìn dòng người bất tận nối tiếp nhau, nhà thơ thấy giống như một tràng hoa dâng Bác. Lại là một sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tô đậm niềm tôn kính của nhân dân đối với Bác Hồ.
Đến khổ thơ thứ 3, nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Khổ thơ gồm 4 câu 7 chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí thiêng liêng và thanh tịnh trong lăng. Không gian và thời gian như ngừng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà thơ cảm nhận như Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”. Đó cũng là ấn tượng thật của mọi người khi được vào thăm lăng, viếng Bác.
Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể liên tưởng ấy bắt đầu từ ánh sáng rất dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi đã xuất hiện thành hình ảnh thơ, “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
Từ hình ảnh “vầng trăng”, nhà thơ lại tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “trời xanh”. Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. “Trời xanh”, “vầng trăng”, “mặt trời” trở thành một mối tổng hoà của một vũ trụ bao la, kì vĩ.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Bác sống như trời đất của ta”. Bác ra đi, nhưng vẫn còn mãi với quê hương đất nước, như trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Câu thơ biểu hiện cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức của một câu hỏi tu từ.
Và đến khổ thơ cuối, nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến khi sắp phải trở về miền Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
“Mai về miền Nam”, nhớ thương Bác đến “trào nước mắt”. Câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp ngữ “muốn làm”, bày tỏ niềm mong ước, tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào niềm mong ước thiết tha muốn hoá thân vào cảnh vật bên lăng Bác: “muốn làm con chim hót”, “muốn làm bông hoa toả hương,” và hơn hết, “muốn làm cây tre trung hiếu” nhập vào “hàng tre bát ngát” quanh lăng Bác.
Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu được lặp lại ở cuối bài, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, tô đậm hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
Bài thơ có giọng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Với thể thơ tám chữ xen lẫn những dòng thơ bảy chữ hoặc chín chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng.
Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của lòng mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ- biểu tượng như “Mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “vầng trăng”, “trời xanh”… vừa thân thuộc vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và tình cảm của cả dân tộc đối với vị lãnh tụ kính yêu.
Viếng lăng Bác đã để lại trong lòng bạn đọc những cảm xúc sâu lắng và tha thiết. Với những hình ảnh ẩn dụ độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ, Viễn Phương đã thay nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác niềm cảm xúc chân thành, lòng tôn kính thiêng liêng.
Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những thế hệ kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của một con người vĩ đại mà giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời:
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa