Bài Thơ Nhớ Của Hồng Nguyên: Đọc Hiểu, Cảm Nhận, Phân Tích

Nội Dung Bài Thơ Nhớ Của Hồng Nguyên, Đọc Hiểu, Cảm Nhận, Phân Tích, Giáo Ánm Soạn Bài Chi Tiết Mời Bạn Đọc Cùng Khám Phá, Thưởng Thức.

Giới thiệu bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên là một tác phẩm nổi tiếng, được sáng tác vào năm 1948, trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ đã trở thành một phần của “Ngũ tư bất tử” – một bộ sưu tập các tác phẩm thơ nổi tiếng về đề tài kháng chiến chống Pháp, cùng thời với những bài thơ như “Đèo cả” của Hữu Loan, “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Tây Tiến” của Quang Dũng, và “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm.

Bài thơ “Nhớ” không chỉ nói lên nỗi nhớ da diết của người lính đối với quê hương, gia đình và người thân, mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng. Những hình ảnh trong bài thơ như “lũ chúng tôi, bọn người tứ xứ” hay “áo vải chân không, đi lùng giặc đánh” đã khắc họa rõ nét cuộc sống gian khổ nhưng đầy ý chí của những người lính trong cuộc kháng chiến.

Bài thơ đã trở thành một hiện tượng và được lan truyền rộng rãi, bám vào trí nhớ của nhiều thế hệ người đọc. Bài thơ “Nhớ” cũng được đưa vào tuyển tập 100 bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ XX.

Tặng bạn tuyển tập 👉 30+ Bài Thơ Nhớ Hay Nhất

Nội Dung Bài Thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Thohay.vn giới thiệu đến bạn đọc Bài Thơ Nhớ của tác giả Hồng Nguyên nổi tiếng nhất sau đây:

Bài thơ Nhớ
Tác giả: Hồng Nguyên

I

Lũ chúng tôi,
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến,
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm.
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
– Đằng nớ vợ chưa?
– Đằng nớ?
– Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp,
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.

II

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng,
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.
Có tiếng gà gáy sớm,
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.
Trăng lên tập hợp hát om nhà
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa,
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui,
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,
Đồng chí mô nhớ nữa,
Kể chuyện Bình Trị Thiên,
Cho bày tôi nghe ví,
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí
– Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.

Đêm đó chúng tôi đi,
Nòng súng nghiêng nghiêng,
Đường mòn thấp thoáng…
Trong điếm nhỏ,
Mươi người trai tráng,
Sờ chuôi lựu đạn,
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng.
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi.
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni,
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!

Ý nghĩa bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên mang một ý nghĩa sâu sắc, phản ánh tâm trạng và tình cảm của người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ không chỉ nói lên nỗi nhớ da diết của người lính đối với quê hương, gia đình, và người thân, mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.

Hồng Nguyên đã sử dụng ngôn từ giản dị nhưng giàu chất thơ để miêu tả hình ảnh người lính cụ Hồ – những người lính từ nhiều miền tổ quốc khác nhau, tập hợp lại với nhau vì một mục tiêu chung. Dù trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, họ vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc.

Bài thơ cũng gợi lên hình ảnh của người vợ trẻ ở hậu phương, với nỗi nhớ và tình yêu thương vô bờ bến dành cho người chồng đi kháng chiến. Những câu thơ như “Mái lều tranh, Tiếng mõ đêm trường, Luống cày đất đỏ, ít nhiều người vợ trẻ, Mòn chân bên cối gạo canh khuya” đã khắc họa một cách sinh động và xúc động tình cảm của người ở lại, cũng như nỗi nhớ của người lính khi xa xứ.

Tóm lại, “Nhớ” của Hồng Nguyên là một bài thơ đầy tính nhân văn, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và tình đồng đội mật thiết giữa những người lính trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm

Xem thêm 💚 Bài Thơ Nhớ Của Nguyễn Đình Thi💚 ngắn hay

Đọc hiểu bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Để đọc hiểu bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên, bạn cần lưu ý đến một số điểm chính sau đây:

  1. Bối cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh tâm trạng và nỗi nhớ của người lính trong thời kỳ này.
  2. Nội dung chính: Bài thơ thể hiện hình ảnh người chiến sĩ quân đội trong thời kì đầu thành lập lực lượng vũ trang, những năm tháng gian khổ, thiếu thốn nhưng tinh thần chiến đấu vẫn tràn đầy quyết tâm.
  3. Phong cách ngôn ngữ: Bài thơ sử dụng phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, với phương thức biểu đạt chủ yếu là tự sự, giúp người đọc dễ dàng hình dung và cảm nhận được cuộc sống và tâm trạng của người lính.
  4. Hình ảnh thơ: Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh giản dị, mộc mạc như “áo vải chân không”, “mái lều gianh”, “tiếng mõ đêm trường”,… những hình ảnh này gợi lên không chỉ không gian, thời gian của quê hương mà còn thể hiện tình cảm sâu sắc của người lính.
  5. Cảm xúc và thông điệp: Bài thơ truyền tải cảm xúc mạnh mẽ và thông điệp về tình yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.
  6. Cấu trúc thơ: Bài thơ có cấu trúc tự do, không theo một quy tắc cụ thể nào, phản ánh sự tự do trong tư duy và cảm xúc của tác giả. Điều này giúp người đọc cảm nhận được sự linh hoạt và sức sống mãnh liệt của người lính trong thời kỳ kháng chiến.

Khi đọc bài thơ, hãy chú ý đến cách mà Hồng Nguyên đã sử dụng ngôn từ và hình ảnh để thể hiện tâm trạng và tình cảm của người lính, cũng như cách mà ông đã xây dựng nên một bức tranh sống động về cuộc sống và tinh thần của họ trong thời kỳ kháng chiến. Đây là một bài thơ giàu chất nhân văn và có giá trị lịch sử sâu sắc.

Tặng bạn chùm 🌷 Thơ Tình Yêu Và Nỗi Nhớ 🌷 nổi tiếng nhất

Cách cảm nhận bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Cảm nhận về bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên có thể rất đa dạng và phong phú, tùy thuộc vào góc nhìn và trải nghiệm cá nhân của mỗi người. Dưới đây là một số cách tiếp cận để cảm nhận sâu sắc hơn về bài thơ này:

  1. Cảm nhận qua nội dung: Bài thơ “Nhớ” phản ánh tâm trạng và nỗi nhớ quê hương, gia đình của người lính trong thời kỳ kháng chiến. Cảm nhận về bài thơ có thể bắt đầu từ việc thấu hiểu nỗi lòng của người lính xa xứ, cũng như tình yêu sâu đậm dành cho quê hương và người thân.
  2. Cảm nhận qua hình ảnh thơ: Hồng Nguyên đã sử dụng nhiều hình ảnh thơ mộng và giàu chất nhân văn, như “mái lều tranh”, “tiếng mõ đêm trường”, hay “luống cày đất đỏ”. Những hình ảnh này không chỉ gợi lên không gian, thời gian của quê hương mà còn thể hiện tình cảm sâu sắc của người lính.
  3. Cảm nhận qua ngôn ngữ thơ: Ngôn ngữ trong bài thơ “Nhớ” giản dị nhưng sâu lắng, phản ánh chân thực cuộc sống và tâm trạng của người lính. Cách cảm nhận này đòi hỏi người đọc phải cảm nhận từng từ ngữ, từng câu thơ để hiểu sâu hơn về ý nghĩa và cảm xúc mà tác giả muốn truyền tải.
  4. Cảm nhận qua cấu trúc thơ: Bài thơ được chia thành các khổ thơ với những mạch cảm xúc riêng biệt. Việc phân tích cấu trúc có thể giúp người đọc hiểu rõ hơn về cách mà tác giả tổ chức và phát triển ý thơ.
  5. Cảm nhận qua âm nhạc của thơ: Nhịp điệu và âm nhạc trong bài thơ cũng là một phần quan trọng để cảm nhận. Âm nhạc của thơ không chỉ qua cách đọc mà còn qua cách mà các từ ngữ được kết hợp với nhau, tạo nên một giai điệu riêng cho bài thơ.

Mỗi người đọc có thể có cách cảm nhận riêng, nhưng quan trọng nhất là sự chân thành và sự đồng cảm với tác phẩm. Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một phần của lịch sử, ghi dấu ấn của một thời kỳ đầy biến động và hào hùng của dân tộc.

Tặng bạn tuyển tập 🌺 Thơ Nhớ Vợ 🌺 hay nhất

8 Bài văn mẫu phân tích, cảm nhận bài thơ Nhớ hay

Thohay.vn chia sẽ bạn tuyển tập các bài văn ,ẫu phân tích, cảm nhận bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên hay nhất, mời bạn đọc cùng thưởng thức.

Cảm nhận bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Ra đời trong hoàn cảnh với những bài thơ viết về đề tài người lính. Bài thơ nhớ của Hồng Nguyên cũng đã đọng lại trong tâm trí người đọc những ấn tượng sâu sắc về đời sống của người lính trong kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ Nhớ gồm 62 dòng, dòng dài nhất của 10 chữ được chia thành ba khổ thơ với ba mạch cảm xúc khác nhau. Nhưng ngay từ giây phút đầu tiên bài thơ đã chọn cho một hình thức thể hiện đất riêng đó là hình ảnh những người chiến sĩ vệ quốc đoàn trong những năm tháng trường kỳ kháng chiến.

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi một hai

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Với những câu thơ ngắn nhà thơ đã giới thiệu những người bạn đồng chí đồng đội của mình thật tốt đẹp và chân thành biết bao. Những hình ảnh người lính đó cũng giống như hình ảnh người lính trong thơ của Chính Hữu. Họ cũng xuất thân từ những cánh đồng chua mặn, từ những miền quê nghèo đất cày nên sỏi đá để rồi theo tiếng gọi của tổ quốc sẵn sàng lên đường. Điều đó thể hiện ý thức đấu tranh giải phóng dân tộc sâu sắc. Trong cuộc hành quân ấy điều đọng lại trong lòng mỗi người lính chính là nỗi nhớ quê hương da diết và tình yêu quê hương luôn vang vọng trong nỗi nhớ. Chỉ với những câu thơ ngắn đã tái hiện được nỗi nhớ da diết xao xuyến của những người lính khi lên đường đi chiến đấu.

Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô

Tháng năm bạn cùng thôn xóm

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kỳ hộ lưng nhau bờ cát trắng

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa

Mặc dù trên chặng đường hành quân có rất nhiều gian nan vất vả, có những lúc các anh đã mơ màng. Đó là hình ảnh của những cô thôn nữ khi về làm dâu, đó là những câu chuyện về vợ con người lính với những tiếng cười vui vẻ. Nỗi nhớ trong bài thơ của Hồng Nguyên còn được thể hiện ở cấp độ cao hơn đó là nỗi nhớ da diết tình yêu con người.

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động

Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng

Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng

Điều đó có thể thấy tình quân dân ở nơi đây thật chân thành và gần gũi biết bao. Có biết bao kỷ niệm của người về những con người những tấm lòng nơi đất khách đã khắc sâu và tâm hồn người lính và những kỷ niệm này sẽ gắn bó và đồng hành cùng những người lính ấy không bao giờ tàn phai.

Bài thơ chính là nỗi nhớ của người lính khi lên đường ra chiến trận. Họ nhớ về quê hương, nhớ về những người thân yêu ruột thịt của mình và hơn hết đó là nỗi nhớ về những ngày hòa bình độc lập.

 Trên đây là một số mẫu phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên luật Minh Khuê xin gửi tới bạn đọc. Mong rằng bài viết trên là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho bạn. Cảm ơn bạn đã quan tâm theo dõi. Chúc các bạn học tốt.

Chia sẽ bạn chùm 💌 Thơ Nhớ Chồng 💌 đầy sâu lắng

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên được sáng tác trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của dân tộc, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra quyết liệt. Tác giả đã khéo léo gửi gắm tinh thần yêu nước và lòng quyết tâm chiến đấu không khuất phục của người lính qua từng câu thơ. Bài văn này sẽ phân tích sâu về cách mà bối cảnh lịch sử ảnh hưởng đến tâm trạng và ngôn từ của bài thơ.

Trong bài thơ “Nhớ”, hình ảnh người lính được Hồng Nguyên miêu tả với nhiều chiều sâu cảm xúc. Bài văn này sẽ tập trung vào việc phân tích các hình ảnh thơ và cách thức mà chúng gợi lên tình cảm, nỗi nhớ và tâm trạng của người lính khi xa quê hương, cũng như sự gắn kết giữa họ với đất nước và nhân dân.

Ngôn ngữ thơ của Hồng Nguyên trong bài “Nhớ” vừa giản dị vừa giàu hình ảnh, tạo nên một phong cách đặc sắc. Bài văn này sẽ phân tích cách tác giả sử dụng ngôn ngữ để thể hiện tâm trạng và tình cảm của người lính, cũng như cách mà ngôn ngữ thơ tạo nên những hình ảnh sống động và đầy ý nghĩa.

Bài thơ “Nhớ” có cấu trúc tự do, không theo một quy tắc cụ thể nào, phản ánh sự linh hoạt và sáng tạo trong tư duy của tác giả. Bài văn này sẽ phân tích về cấu trúc của bài thơ, cách mà các khổ thơ được sắp xếp và kỹ thuật thơ được tác giả sử dụng để tạo nên sức mạnh cho tác phẩm.

Bài thơ “Nhớ” không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn chứa đựng thông điệp và giá trị nhân văn sâu sắc. Bài văn này sẽ phân tích thông điệp mà Hồng Nguyên muốn truyền tải qua bài thơ, cũng như giá trị nhân văn mà bài thơ mang lại cho người đọc và cho lịch sử văn học.

Mỗi bài văn phân tích trên đều mang một góc nhìn riêng biệt, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một phần của lịch sử, ghi dấu ấn của một thời kỳ đầy biến động và hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ Nhớ ngắn gọn

Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên là một tác phẩm văn chương đặc sắc, gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc sâu lắng về anh hùng, về tình yêu quê hương và về lòng dũng cảm của những người lính đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bằng từ ngữ chân thành và sâu lắng, tác giả đã khắc họa nên hình ảnh rõ nét của anh bộ đội cụ Hồ – biểu tượng cho lòng trung hiếu và sự kiên cường không khuất phục trước gian khó. Bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên không chỉ là một tác phẩm văn chương, mà còn là một di sản vô giá, ghi lại những dấu ấn đậm nét của lịch sử dân tộc. Đọc bài thơ này, ta không chỉ được sống lại những kí ức về quá khứ hiền hoà và anh dũng, mà còn được ý thức về trách nhiệm bảo vệ và phát triển đất nước ngày nay.

Bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên là một thông điệp ý nghĩa, khơi gợi lòng tự hào dân tộc và ý thức công dân cao ca. Tóm lại, bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên không chỉ là một tác phẩm văn chương hay một bản ghi chép lịch sử, mà còn là niềm tự hào và nguồn động viên mãnh liệt cho thế hệ mai sau tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước.

Nhất định đừng bỏ lỡ tập 💚 Thơ Nhớ Em 💚 đầy ngọt ngào

Cảm nhận bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên hay

Bài thơ có đầu đề là Nhớ, tác giả viết năm 1948, nghĩa là chỉ hai năm sau Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ. Tác giả nhớ lại những kỷ niệm về đời lính trong hai năm đầu cuộc kháng chiến đó. Nếu không ghi năm bài thơ ra đời thì người đọc vẫn biết nói về người lính chống Pháp, chứ không phải thời chống Mỹ, chỉ riêng chi tiết “gặp nhau từ hồi chưa biết chữ” cũng đủ để khẳng định điều đó. Thời chống Mỹ, những người lên đường nhập ngũ hầu như không còn ai mù chữ, phần đông đã tốt nghiệp cấp hai, cấp 3, không ít người đã tốt nghiệp đại học.

Còn trang bị cho người lính có những gì? “Lột sắt đường tàu rèn thêm đao kiếm”, bởi súng ống quá thiếu thốn, có khi cả tiểu đội, thậm chí trung đội mới có được một vài khẩu súng. Buổi đầu nhập ngũ, phần lớn phải dùng gậy, không chỉ thay súng để luyện tập, mà ngay cả khi hành quân ra trận. Bởi thế có đao, kiếm được rèn từ tà vẹt, đường ray của vùng “tiêu thổ kháng chiến” là quý lắm rồi. Còn trang bị cá nhân ra sao? “Áo vải, chân không…”!

Với bạn đọc bây giờ, khái niệm “áo vải” hơi khó hiểu, nhưng thời kháng chiến chống Pháp trở về trước, nói áo vải là nói loại áo bình dân, rẻ tiền của người lao động, đối lập lụa là, gấm vóc của giới quyền quý. Người ta gọi Nguyễn Huệ là người “anh hùng áo vải” cũng theo nghĩa ấy. Còn “chân không” thì ai cũng hiểu được: Chân trần, không giày dép. Trang bị thiếu thốn như vậy mà người lính vẫn lạc quan “Lòng vẫn cười vui kháng chiến”, vẫn chủ động tiến công kẻ thù: “Đi lùng giặc, đánh”!

Thời chống Mỹ, nhiều nhà phê bình khen các nhà thơ như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu… đã đưa được nhiều chi tiết sinh hoạt của người lính vào thơ. Điều ấy đúng, nhưng người tiên phong việc này phải kể đến Hồng Nguyên trong bài thơ này. “Chúng tôi đi/ Nắng mưa sờn mép ba lô…”. Nếu tác giả không phải là người lính thì cũng phải lăn lộn nhiều năm với lính mới có mắt nhìn và nhận xét chính xác này. Với ba lô, các mép do cộm lên vì hai lần vải, nên bao giờ cũng sờn trước!

Nhà thơ Hồng Nguyên có con mắt quan sát thật tỉ mỉ, cụ thể trên bước đường hành quân của người lính và ghi lại những hình ảnh điển hình vừa tự nhiên, vừa đẹp, vừa nói được tình đồng đội trong thiếu thốn gian khổ:

“Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa”

Ba câu trên có thể quan sát bằng mắt, riêng câu thứ tư, nếu tác giả chưa từng trải thì khó có thể viết được “Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa”. Lính ta hành quân, đêm khi được dừng nghỉ lại, do mệt mỏi nên ngủ ngon lành. Nhưng đêm trời mưa, không có chăn đắp nên rét, chân vô thức quờ tìm hơi ấm. Mỗi lần đọc, mỗi lần thương!

Trong bài thơ này, tác giả đưa vào nhiều lời đối thoại, trước hết là đối thoại hết sức ngắn gọn, thân mật của người lính với cách xưng hô dân dã chứ không “điều lệnh” một chút nào khi gọi đồng chí của mình là “đằng nớ” và tự xưng là “tớ”! Nhưng qua câu trả lời “tớ còn chờ độc lập” nói lên được ý nghĩ của người lính thời chống Pháp.

Ngày đó chúng ta có khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết”. Người lính gác chuyện riêng tư để lên đường giết giặc, cứu nước. Đó không chỉ là ý nghĩ của người lính, mà của mọi người, kể cả dân quân, du kích, như mấy câu ca dao: “Chị em du kích Thái Bình/ Ca lô đội lệch vừa xinh, vừa dòn/ Người ta hỏi chuyện chồng con/ Lắc đầu nguây nguẩy: Em còn đánh Tây”.

Còn hậu phương người lính thì sao? “Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường…/ Ít nhiều người vợ trẻ/ Mòn chân trên cối gạo canh khuya”, heo hút buồn, khác rất xa cảnh hậu phương làm ăn tập thể thời chống Mỹ, cứu nước. Nói về tình quân dân, không chỉ câu: “Có mẹ hiền bắt rận/ cho những đứa con xa” là nét đặc trưng thời ấy, ai cũng hiểu được, nhưng câu “giường kê cánh cửa” thì không dễ lĩnh hội đối với nhiều người.

Tôi nhớ, trong chương trình “Tiếng thơ” của Đài Tiếng nói Việt Nam, một nghệ sĩ ngâm thơ nổi tiếng đã ngâm thành “giường kê cạnh cửa”, vì đối với bà, như thế mới hiểu được! Sự thật, “giường kê cánh cửa” là hình ảnh thật hay, thật xúc động nói về tình cảm quân dân thời ấy, “chật nhà nhưng rộng tình thương”. Nhà chật, không có giường thì gia chủ tháo cánh cửa nhà mình xuống kê thành giường cho bộ đội nghỉ, một cử chỉ rất quen thuộc ở địa phương khu Bốn thời chống Pháp.

Hậu phương thời ấy còn có những người dân quân mới làm quen vũ khí, được tác giả khắc họa thật cụ thể: “Trong điếm nhỏ mươi người trai tráng/ Sờ chuôi lựu đạn/ Ngồi thổi nùn rơm/ Thức vừa rạng sáng…”. “Sờ chuôi lựu đạn” ở đây không phải để sẵn sàng chiến đấu, mà vì lựu đạn mới được phát, chưa quen mang, nên mọi động tĩnh đều hết sức thận trọng với thứ vũ khí này!

Với thể thơ tự do phóng túng, bài thơ ôm chứa được nhiều chi tiết sống động. Như chúng ta đã biết, thể thơ tự do đã xuất hiện trước đó trong “phong trào Thơ Mới”, nhưng khi đó mức độ “tự do” còn hạn chế vì số chữ trong các câu thường như nhau, chỉ sau Cách mạng Tháng Tám và đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, thể thơ này mới phát triển hết cỡ, tiên phong là các nhà thơ quê Thanh Hóa như Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên và Hữu Loan.

Dù bài thơ có nhược điểm là dùng hơi nhiều tiếng địa phương khu Bốn trong một số câu đối thoại có thể làm khó hiểu đối với bạn đọc các vùng khác, nhưng “Nhớ” của Hồng Nguyên vẫn là một trong số những bài thơ hay nhất viết về người lính chúng ta trong gần bảy chục năm qua.

(Theo Văn nghệ Quân đội)

Dành tặng bạn chùm những bài 🌹 Thơ Nhớ Anh 🌹 sâu sắc và đầy tình cảm

Phân tích bài thơ Nhớ của tác giả Vương Hồng Hoan

“Nhớ” là một bài thơ hay của Hồng Nguyên. Hồng Nguyên tên thật là Nguyễn Văn Vượng, sinh năm 1922, mất năm 1954. Bài thơ “Nhớ” được viết vào năm 1946 khi nhà thơ sắp lên đường vào Vinh làm việc ở tờ báo Dân Mới. Bài thơ ” Nhớ” gắn với bút danh Hồng Nguyên từ đó để thời gian vẫn nhớ tới một gương mặt thơ tài hoa mà đoản mệnh của xứ Thanh.

Nói đến bài thơ “Nhớ”, Nhà thơ Hà Quang Nguyên, PCT Hội Văn Nghệ Thanh Hoá cho rằng:” Nhớ” là một sự lột xác tài tình. Hồng Nguyên chưa bao giờ viết trục trặc phá luật như thế mà vẫn được cái hay, cái khí phách của người lính vệ quốc. Từ ngạc nhiên đến hứng thú, “Nhớ” làm tôi ứa nước mắt khi nghe đọc ở Hội trường Tam Lạc.Trong một bài báo viết về bè bạn, nhà báo Minh Ðệ viết:” Cái còn lại trong lòng người thân bè bạn và những người yêu thơ là bài thơ “Nhớ”. Rất ít có những nhà thơ với một tấc phẩm duy nhất đã gây được trong lòng người đọc như Hồng Nguyên với bài thơ ” Nhớ”.

Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên là vậy. Với ông, thơ là ký ức của cuộc đời.”Nhớ” chính là ký ức về cuộc đời chiến sĩ, một cuộc đời lưu động với bao kỷ niệm khó quên, nhớ thương da diết của thuở ban đầu bước vào cuộc kháng chiến, là điểm tụ, điểm gặp gỡ quen thân của người chiến sĩ.

  Lũ chúng tôi
  Bộ người tứ xứ.
  Gặp nhau hồi chưa biết chữ
  Quen nhau từ buổi một hai


Ðiểm tụ phát ra những tia sáng đầu tiên cho nỗi nhớ khác với bài thơ “Ðồng chí” của Chính Hữu bắt đầu từ những điểm rời, từ những điểm phân tán ” Quê hương anh nước mặn đồng chua. Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá” để đi tới cái ta, cái chung”Ðồng chí”

Tình đồng chí được thể hiện trong ” Nhớ” là hình ảnh người chiến sĩ gắn bó với nhau từ trận đánh đầu tiên trong cuộc kháng chiến chín NĂM.” LỘT SẮT ĐƯỜNG TÀU RÈN THÊM DAO,KIẾM.ÁO VẢI CHÂN KHÔNG ĐI TÌM GIẶC ĐÁNH”. HÌNH ẢNH THẬT RẮN RỎI sinh động. Hơi thở thật chắc khỏe, hào hùng. Tất cả đều tạc vào nỗi nhớ những ấn tượng khó quên.
Kỷ niệm về tình đồng đội của những người lính vệ quốc quân gắn liền với những hình ảnh bình dị mà đẹp lạ lùng:

Kỳ hộ lưnh nhau, ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa

Chi tiết “Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa” vừa gần gũi, thiết thực đối với cuộc sống đầy gian lao của những người lính vệ quốc năm xưa. Hồng Nguyên thực sự tài hoa khi ông viết về những cung bậc tình cảm người lính trong những ngày hành quân ra trận. Nỗi nhớ nhà, nhớ vợ con luôn thôi thúc người lính. Tình thương vừa cụ thể, vừa khái quát, lại dân dã lại đầy xao động.

Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Nỗi nhớ hiện hữu ngay cả trong tiếng cười trẻ trung trong sángcủa người lính từ vùng quê nghèo khó ra đi.

Ðằng nớ vợ chưa.
-Ðằng nớ?
-Chưa.Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.


Ðộc lập, niềm khát khao mơ ước và hạnh phúc. Ðó là điểm tụ thứ hai của người lính về với người lính, để người lính trở về với nhân dân, và để nỗi nhớ lại cháy lên tia sáng mạnh mẽ tiếp theo.

Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Tôi nhớ giường kê cánh cửa
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ri
Dân chúng cầm tay lắc lắc
Ðộc lập nhớ ghé viền chơi cho chắc
.

Tình đồng chí, đồng đội là nguồn mạch cho nỗi nhớ. Và hơn thế nữa đã làm nên sức mạnh của dân tộc, của cuộc kháng chiến, là khát vọng của độc lập, tự do. Những kỷ niệm bừng lên, lan toả miên man qua những con đường mòn thấp thoáng, những xóm làng,lưng đèo, dốc nắng của người lính”Nắng mưa sơn mép ba lô” để lại trở về với hình ảnh” Dânchúng cầm tay lắc lắc. Ðộc lập nhớ ghé viền chơi cho chắc”

“Nhớ” như một bản nhạc hay, giàu tiết tấu, giai điệu , lay động lòng người. Nhịp thơ biến tấu theo những câu dài ngắn kaác nhau, có những câu chỉ hai âm tiết, cũng có những câu nhiều âm tiết nhằm diễn đạt những cung bậc tình cảm và cảm xúc của nhà thơ.”Nhớ”  được viết theo thể thơ tự do, tự do như nỗi nhớ, như cuộc đời giản dị mộc mạc chân thành tha thiết.Những câu hỏi câu kể đầy tính khẩu ngữ mang bản sắc của một địa phương, một vùng đất, thuật ngữ chính trị một thời “khai hội”, “yêu cầu”, ” chất vấn” vẫn được dung nạp vào thơ vừa tự nhiên thanh thoát, vừa gợi cảm.

Sau Cách Mạng Tháng Tám, đi vào kháng chiến với những hình ảnh cuộc sống và con người mới, Hồng Nguyên đã thành công bài thơ “Nhớ”- một trong số không nhiều những bài thơ hay nhất của kháng chiến chín năm hào hùng và đã cháy sáng trong nền thơ Việt Nam mấy chục năm qua.

Xem thêm tuyển tập 🌈 Thơ Nhớ Người Yêu 🌈 hay nhất

Cảm nhận bài thơ Nhớ hay nhất

Cuộc kháng chiến thần kì của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược không chỉ là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là một dấu mốc đáng nhớ của văn học Việt Nam. Bởi lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam xuất hiện những con người mới tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng: Đó là anh bộ đội cụ Hồ – anh bộ đội của thời kì đầu kháng Pháp với biết bao khó khăn gian khổ. 

Khổ thơ gợi lên không khí những năm đầu kháng chiến chống Pháp, thanh niên cùng lứa tuổi từ nhiều miền quê khác nhau hăng hái nhập ngũ. Họ là những người sống chân thực, khiêm tốn và cũng luôn náo nức với bao niềm vui của tuổi trẻ và trong cuộc đời mới. Trong nhũng năm kháng chiến chống Pháp hình tượng người chiến sĩ có một vị trí quan trọng trong văn thơ. Ở họ qui tụ nhiều phẩm chất đẹp của quần chúng cách mạng. Văn học giai đoạn này tập trung viết nhiều về người chiến sĩ quân đội. Trong văn có Trần Đăng, Hồ Phương, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi. Trong thơ có Tố Hữu, Chính Hữu, Hồng Nguyên, Quang Dũng. Bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên được giải nhất trong cuộc họp Ban Văn nghệ Lam Sơn năm 1948 ở Thanh Hóa.

Bài thơ thể hiện lên được vẻ đẹp của anh bộ đội chân thực hình ảnh người chiến sĩ quân đội trong thời kì đầu thành lập lực lượng vũ trang, những năm tháng gian khổ, thiếu thốn nhưng tinh thần chiến đấu vẫn tràn đầy quyết tâm. Viết về người chiến sĩ, các nhà thơ thường tìm tiếng nói gần gũi nhất với người chiến sĩ, Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ đã để cho chính người chiến sĩ nói về mình:

“Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ

Lúc này lực lượng võ trang mới hình thành. Có một cái gì rất thân mật, gần gũi trong không khí tập thể của quân đội. Tuy là những người tứ xứ, không hẹn mà quen, nhưng không hề có không khi xa lạ. Cụm từ “lũ chúng tôi” không có ý xem nhẹ hoặc thiếu tôn trọng với đối tượng miêu tả mà đây là cách nói về mình một cách gần gũi tự nhiên. Họ vốn là những thanh niên nông dân mặc áo lính, gắn bó với ruộng đồng, quen thuộc vối cuộc sống thanh bình, không quen chuyện binh đao. Trong giai đoạn này người lính còn bị hạn chế về trình độ văn hóa, nhiều người còn chưa biết chữ, rồi đây tất cả sẽ được khắc phục trong những năm tháng ở quân đội. Cái quan trọng nhất mà họ nhiệt tình yêu nước và tinh thần lạc quan. Không hề ngập ngừng, sợ hãi, họ chủ động tìm giặc mà đánh với những vũ khí thô sơ.

Chính vì trong lòng luôn có sẵn niềm tin, niềm yêu như vậy nên dù bao khó khăn, thiếu thốn các anh vẫn vững vàng, chủ động, đi tìm giặc mà đánh. Những câu thơ thật khoẻ khoắn, mạnh mẽ:

“ Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh” 

Đây có thể xem là đoạn thơ tiêu biểu nhất cho quyết tâm giết giặc của những chiến sĩ trong giai đoạn này. Người lính dường như chỉ có tay không này sẽ tạo nên tất cả, thiếu giáo gươm họ sẽ rèn nên gươm giáo, thiếu súng đạn sẽ tìm ra súng đạn. Bài thơ biểu thị khí thế của cuộc chiến tranh nhân dân; nhân dân khi đã được giác ngộ lí tưởng cách mạng, với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần căm thù địch, mọi người đều thể hiện dũng khí trong chiến đấu. Đến với quân ngũ, người lính đã để lại ở hậu phương, gia đình và những người thân yêu:

“Mái lều tranh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya” 

Người lính trong bài thơ không chỉ làm ta khâm phục mà còn khiến ta mến thương bởi ân tình của các anh đối với quê hương. Tình cảm với hậu phương là một tình cảm phổ biến của người ra đi chiến đấu và đã được các nhà thơ thể hiện với nhiều sắc thái khác nhau. Trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi bộc lộ tâm trạng người lính:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Chính Hữu trong Đồng chi cũng miêu tả tấm lòng và nỗi nhớ của hậu phương:

“Giếng nước gốc đa
Nhớ người ra lính”

Đời sống nơi quê hương còn nhiều khó khăn. Những người chiến sĩ nghĩ về hậu phương với tình cảm nhớ thương chia sẻ nhưng không hề có sự tủi buồn và nản lòng, trong tấm lòng nhớ về hậu phương thì tha thiết nhất là tình cảm nhớ thương người vợ. Hồng Nguyên cũng đã nói đến tình cảm trên qua một hình ảnh cụ thể gợi cảm: “ít nhiều người vợ trẻ, mòn chân bên cối gạo canh khuya”. Người lính ra đi chiến đấu nhớ thương vợ, nghĩ đến hình ảnh người vợ vất vả sớm hôm trong trách nhiệm của người phụ nữ với gia đình và trách nhiệm của hậu phương với tiền tuyến.

Hai chữ “mòn chân” gợi nhiều xúc động nhớ thương của người ra đi với người thân yêu ở hậu phương.

Nhớ là một bài thơ nói về người chiến sĩ thông qua nhiều mối quan hệ, bài thơ đã nói lên chân thực, sinh động tình đồng đội và sinh hoạt của người chiến sĩ trong quân ngũ, đời sống còn khó khăn nhưng họ rất vui, lạc quan. Tình đồng đội được biểu hiện sâu sắc, đằm thắm trong sinh hoạt hằng ngày. Trên những chặng đường hành quân còn ghi lại bao kỉ niệm, bình dị mà ân tình sâu sắc:

“Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kì hộ lưng nhau, ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa …
– Đằng nớ vợ chưa? Đằng nớ
-Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu”

Bài thơ cũng bộc lộ sâu sắc tình quân dân. Làng quê trong những năm đầu kháng chiến được miêu tả với tình cảm thân thiết, khai thác được nhiều cái mới của sinh hoạt tập thể, từ hình ảnh “nắng chiều đột kích mấy hàng cau” đến buổi “khai hội, yêu cầu, chất vấn”. Từ hình ảnh người mẹ già bắt rận cho những đứa con xa đến phút chia tay đầy lưu luyến và có sắc thái riêng độc đáo về động tác và ngôn từ:

Chúng tôi đi, nhớ nhất câu nì
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
“Độc lập nhớ rẽ viền với chắc”.

Độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau , lời dặn dò đơn sơ mang phong vị miền Trung ấy từ lâu đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ yêu thơ. Bởi nó nói được niềm tin chiến thắng, khát vọng hoà bình của cả dân tộc bằng những câu thơ vô cùng giản dị. Làm sao không nhớ được những làng quê đẹp, bình dị, giàu tình người như thế. Hồng Nguyên đã thành công trong việc khai thác bức tranh quê đẹp chan chứa ân tình.

Bài thơ đã khép lại nhưng còn đọng mãi trong mỗi chúng ta hình ảnh anh bộ đội của thời kì đầu kháng Pháp với những đặc điểm riêng biệt thật khó quên nhưng luôn sáng mãi những phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ.

Xem thêm chùm những bài 💚 Thơ Nhớ Người Yêu Không Ngủ Được 💚 ngắn hay

Lời bình bài thơ Nhớ của nhà thơ Trịnh Thanh Sơn

Lời bình của nhà thơ Trịnh Thanh Sơn về bài thơ “Nhớ” (Hồng Nguyên)

Xuất hiện vào thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, gần như cùng lúc với Đèo cả của Hữu Loan, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhớ của Hồng Nguyên đã làm nên bộ “ngũ tư bất tử” của thơ chống Pháp nói riêng và trong lịch sử thi đàn Việt Nam nói chung.

Ngay từ khi mới xuất hiện, Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi và bám vào trí nhớ của nhiều người, nhiều lớp người dọc theo năm tháng.

Vì sao bài thơ lại có sức ám ảnh và vang động như vậy trong lòng người đọc? Lý giải điều đó tưởng không dễ dàng, song không phải là không làm được, nhất là sau hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày bài thơ ra đời. (1948?)

Bài thơ có tất cả 62 dòng thơ, dòng dài nhất có 10 chữ (Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa), dòng ít nhất có hai chữ (- Đằng nớ?) và được chia làm ba khổ thơ mạch lạc, khúc triết, có mở có khép và có phát triển ở khoảng giữa thân bài. Cả bài thơ giống như “kịch bản phân cảnh” của một bộ phim tài liệu, nói về một cuộc hành quân chiến đấu của những người lính Vệ quốc đoàn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Vậy trong đoàn quân ấy có bao nhiêu người, họ là những ai? Vào đầu bài thơ, nhà thơ không ngần ngại, giới thiệu luôn:

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một, hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sư mươi bài

Rồi nhà thơ hồn nhiên hạ ngay một lời bình về tinh thần đoàn quân ấy:

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Thế đấy, chúng tôi tự giới thiệu về chúng tôi như thế đấy! Số lượng của chúng tôi không được công bố cụ thể (có lẽ vì bí mật quân sự), nhưng chúng tôi khá đông đảo (lũ, bọn) và trình độ văn hoá còn thấp (chưa biết chữ), trình độ quân sự cũng chưa cao (súng bắn chưa quen), song chúng tôi có nhiệt tình cách mạng, có ý chí chiến đấu và rất lạc quan (lòng vẫn cười vui kháng chiến).

Bằng giọng tự trào đầy hóm hỉnh, nhà thơ đã tự giới thiệu về đồng đội của mình vừa chuẩn xác, vừa chân thành và đáng yêu biết bao. Những con người ấy vừa từ luống cày bước ra, từ sau luỹ tre làng bước tới cũng hệt như những người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu, từ nước mặn đồng chua, từ đất đồi cày lên sỏi đá, tụ tập về đây theo một tiếng gọi thiêng liêng và trở thành đồng đội. Ngoài tinh thần lạc quan và ý chí chiến đấu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, họ hầu như chả có trang bị, vũ khí gì đáng kể:

Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh…

Tôi không có cứ liệu trong tay để chứng minh bài thơ được viết vào năm 1948, nhưng tôi có câu thơ của Hồng Nguyên nói rõ điều đó:

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Nếu tính từ mùa Thu Tháng Tám 1945, ba năm rồi gửi lại quê hương, ắt phải là năm 1948, mà cũng mùa thu nữa kia. Sao vậy? Bởi vì đến những ngày kỷ niệm cách mạng, các nhà thơ mới hay làm thơ! Thơ để in báo, thơ để tuyên truyền, cần phải trúng dịp, chứ sao!

Trong cuộc hành quân liên miên của đoàn quân ấy, thỉnh thoảng trong tâm trí mỗi người, hình ảnh quê là cũng hiện lên trong nỗi nhớ:

Mái lều gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Nói theo ngôn ngữ điện ảnh, đây là một cảnh phim “phục hiện” có sức khái quát và ám ảnh rất cao. Cú máy đặc tả gót chân người vợ trẻ:

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Cái tình thương nhớ thiết tha đau đáu chỉ diễn tả bằng hình, một khuôn hình đặc tả, tài vậy thay! Và đây là phim câm, phim không lời!

Cuộc hành quân vẫn tiếp tục, với những gian khổ, nhọc nhằn, nhưng cũng đầy lạc quan phấn khởi, có khi còn thơ mộng nữa, nếu như được nhìn thấy “mấy o thôn nữ cuối nương dâu”, nếu như, vào lúc nghỉ ở lưng đèo, những người lính trẻ nói chuyện bù khú về vợ con và cười sảng khoái, cười đến vang ruộng bắp:

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chán tìm hơi ấm đêm mưa
– Đằng nớ vợ chưa?
– Đằng nớ?
– Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu…

Sang đoạn thơ thứ hai, bài thơ mở ra với những câu thơ dài rộng, thể hiện sự tiếp xúc và lớn vượt của đoàn quân với nhân dân và đất nước. Tầm mắt mở rộng hơn, tâm hồn mở rộng hơn và nhờ thế lòng lạc quan, yêu đời cũng càng thêm phơi phới. Bao nhiêu gặp gỡ, tiếp xúc, bao nhiêu cảnh sắc, nếp sinh hoạt ở từng miền quê lũ lượt ùa vào thơ như những cánh phim toàn rộng. Lời thơ thanh thoát, thảnh thơi, hơi thở điệp trùng, cuồn cuộn:

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng
… Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau

Tình quân dân cá nước giản dị mà vô cùng thắm thiết, gần gũi:

… Có tiếng gà gáy sớm
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”
Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa…
Trăng lên tập họp hát om nhà.

Bao nhiêu kỷ niệm về những làng quê, về những con người và những tấm lòng thơm thảo của những miền đất lạ đã in đậm trong tâm hồn người chiến sĩ. Những kỷ niệm ấy sẽ vĩnh viễn không phai mờ theo năm tháng, bởi vì nó cụ thể, nó hiển hiện trước mắt ta như sờ thấy được:

Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ…

Tuy nhiên, đường hành quân còn dài, sau những phút giây nghỉ ngơi, đoàn quân lại lên đường, lặng lẽ vào một đêm trăng lu, “nòng súng nghiêng nghiêng, đường mòn thấp thoáng”. Các anh ra đi vì nhiệm vụ nặng nề mà đất nước giao cho, nhưng tấm lòng còn ở lại:

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
“Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”

Câu thơ ấy chợt gợi nhớ đến câu thơ rất hay, rất đồng vọng của Hoàng Trung Thông:

Các anh đi đến khi nào trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong…
(Bộ đội về làng)

Và một cộng hưởng của thơ Hữu Loan:

Một làng xa nho nhỏ
Đẹp như nơi hẹn hò
Có đôi lòng gắn bó
Những lời chưa nói ra…
(Những làng đi qua)

Cái mô típ: Những người lính hành quân – Những xóm làng đi qua – Những kỷ niêm thôn làng – Hẹn ngày trở lại, ta gặp rất nhiều trong thơ kháng chiến chống Pháp thời kỳ đầu.

Tuy nhiên, cùng mô típ ấy, ở mỗi nhà thơ thể hiện mỗi khác và có những thành công khác nhau. Với Nhớ của Hồng Nguyên, bằng việc mạnh dạn đưa ồ ạt tiếng địa phương và khẩu ngữ vào thơ, bằng việc chuyển hẳn thơ từ giọng ngâm sang giọng nói, ông đã góp phần làm cho thơ Việt chuyển hẳn sang một nội hàm và thi pháp mới.

Chính vì vậy, bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên mãi mãi là viên ngọc sáng trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Điều thú vị nhất là, chỉ cần đem phân cảnh rồi quay phim, chúng ta sẽ có một bộ phim tên là Nhớ. Tôi tin là rất hay!

Phân tích bài thơ nhớ của Hồng Nguyên súc tích

Chủ đề người lính luôn là một nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn nhà thơ viết. Có rất nhiều các tác phẩm viết và ca ngợi về hình ảnh kiên cường bất khuất của người lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhớ của Hồng Nguyên là một bài thơ tiêu biểu trong số những bài thơ về đề tài người lính.

Nhớ là một bài thơ hay của Hồng Nguyên. Ông tên thật là Nguyễn Văn Vượng. Nhớ được viết vào năm 1946 khi nhà thơ sắp lên đường vào Vinh làm việc với tờ báo dân mới. Bài thơ Nhớ gắn với bút danh Hồng Nguyên kể từ đó để cho tới nay thời gian vẫn nhớ tới một gương mặt tài hoa mà đoản mệnh của xứ Thanh. Với Hồng Nguyên nhớ chính là ký ức của cuộc đời. Nhớ chính là ký ức về người chiến sĩ, một cuộc đời với bao kỷ niệm khó quên, sự nhớ thương da diết của thuở ban đầu bước vào cuộc kháng chiến là điểm gặp gỡ quen thân của những người chiến sĩ.

 Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi một hai

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Khổ thơ gợi lên không khí của những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Khi những chàng thanh niên đang lứa tuổi thiếu niên từ nhiều miền quê khác nhau đã hăng hái lên đường nhập ngũ, họ là những con người khiêm tốn, trung thực, luôn hào hứng với những niềm vui của tuổi trẻ và với cuộc sống mới. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính có một vị trí quan trọng trong văn học và thơ ca. Ở họ ta thấy được nhiều phẩm chất cao đẹp của người quần chúng cách mạng. Đoạn thơ đã thể hiện chân thực hình ảnh người lính bộ đội cho những ngày đầu mới thành lập lực lượng vũ trang, trong những ngày tháng còn gian khổ thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần chiến đấu của họ vẫn luôn dâng cao và hừng hực khí thế.

Khi mới được thành lập mọi người đều ở những vùng quê với những hoàn cảnh khác nhau. Thế nhưng ta vẫn cảm nhận được có cái gì đó rất thân mật gần gũi. Họ là những thanh niên nông dân trong bộ quân phục gắn bó với nông thôn, đang quen với cuộc sống thanh bình và trong thời kỳ này rất nhiều người còn mù chữ và tất cả những khó khăn đó đều được khắc phục trong những năm tháng ở quân ngũ. Một điểm chung của họ đó chính là lòng yêu nước nồng nàn và sự lạc quan, không sợ hãi, không ngại khó khăn thử thách, luôn chủ động tìm địch và chiến đấu bằng vũ khí thô sơ.

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Với ý chí quyết tâm đánh giặc của mình mặc dù họ là những người với hai bàn tay trắng để đánh địch nhưng họ có thể rèn kiếm, không có súng thì kiếm súng. Giống như trong tác phẩm Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành một câu bất hủ mà cụ Mết đã nói chúng nó dùng súng thì mình phải dùng giáo. Quả thực đúng như thế đó là một triết lý của thời đại, muốn đánh giặc phải có vũ khí. Đoạn thơ là sự tiêu biểu cho khí thế chiến tranh nhân dân, khi đồng bào đã giác ngộ lý tưởng cách mạng với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần xung kích đều thể hiện sự dũng cảm trong chiến đấu. Khi đã sẵn sàng lên đường nhập ngũ người lính phải bỏ lại người thân, gia đình, mái tranh..

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Tình cảm hậu phương chính là tình cảm chung của những người đã khuất đã được nhà thơ thể hiện dưới nhiều màu sắc khác nhau. Cuộc sống nơi quê hương còn nhiều khó khăn người lính khi nhớ đến những người hậu phương với một niềm nhớ nhung tha thiết. Hình ảnh người phụ nữ lao động sớm hôm luôn là hình ảnh thao thức trong mỗi người lính thì lên đường đi chiến đấu.

Nhớ là bài thơ viết về người lính. Bài thơ đã nói lên sự chân thực sinh động về tình đồng chí và nét sinh hoạt của những người lính trong quân đội. Cuộc sống còn nhiều khó khăn phức tạp nhưng ở họ rất vui tươi lạc quan yêu đời. Tình đồng đội được thể hiện sâu sắc đáng yêu của các hoạt động hàng ngày. Có rất nhiều những kỷ niệm được ghi lại trong những chuyến hành quân.

Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô

Tháng năm bạn cùng thôn xóm

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa

Những người lính còn nhớ về tình quân dân ấm áp

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động

Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng

Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng

Đọc tác phẩm nhớ ta như được sống trong những giây phút hào hùng của những ngày đất nước còn trong khói lửa chiến tranh, về sự lạc quan, yêu đời của người lính. Dù trong gian khổ họ vẫn luôn hướng về một niềm tin đất nước  độc lập.

Viết một bình luận