Cư Trần Lạc Đạo Phú Của Trần Nhân Tông [Tư Tưởng + Phân Tích Bài Thơ]

Cư Trần Lạc Đạo Phú [Trần Nhân Tông] ❤️️ Tư Tưởng, Phân Tích Bài Thơ ✅ Chia Sẻ Những Mẫu Phân Tích Bài Thơ Hay Nhất.

Nội Dung Bài Thơ Cư Trần Lạc Đạo Phú Chữ Hán

Cư trần lạc đạo là một bài thiền kệ được trích trong bài phú cùng tên của Giác hoàng Trần Nhân Tông, được xem là biểu tượng trí tuệ tâm linh của Phật giáo Việt Nam trong thời đại nhà Trần. Dưới đây là nội dung bài thơ Cư trần lạc đạo phú chữ Hán.

居 塵 樂 道 (Cư trần lạc đạo)
Tác giả: Trần Nhân Tông

居塵樂道且隨緣,
饑則飧兮困則眠。
家中有宝休尋覓,
對鏡無心莫問禪。

Thohay.vn tặng bạn tuyển tập 🔰THƠ TRẦN NHÂN TÔNG 🔰 HAY NHẤT

Phiên Âm + Dịch Nghĩa Bài Thơ Cư Trần Lạc Đạo Của Trần Nhân Tông

Chia sẻ thêm cho bạn đọc bản phiên âm, dịch nghĩa của bài thơ Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông sau đây.

Phiên âm:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối kính vô tâm mạc vấn thiền.

Dịch nghĩa:

Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với Đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với mọi cảnh giới mà vẫn vô tâm, thì cần chi hỏi  đến thiền.

Dịch thơ:

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền

Mời bạn xem thêm tuyển tập ❤️️ THƠ THẦY THÍCH NHẤT HẠNH ❤️️

Cư Trần Lạc Đạo Là Gì

Cư trần lạc đạo là gì? Cùng Thohay.vn tìm hiểu chi tiết sau đây nhé!

“Cư trần lạc đạo” là bài kệ được trích từ bài phú cùng tên của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, được xem là “tài sản” quý báu của Phật giáo Việt Nam đời Trần. Bài phú được viết bằng chữ Nôm, dài 10 hội, cuối bài là 4 câu kệ bằng chữ Hán nổi tiếng như sau:

Đây là một tác phẩm mang triết lý sâu sắc giữa đạo và đời. Bởi thông qua bài kệ, người đọc có thể hiểu và áp dụng được những phương pháp tu tâm ngay giữa chốn trần gian nhiều phiền não.

“Cư trần lạc đạo” của đức Phật hoàng Trần Nhân Tông đã trở thành một triết lý sống kết hợp đạo với đời linh hoạt, thổi thêm sức sống cho Phật giáo đương thời tăng trưởng như tôn giáo nhập thế, “hòa quang đồng trần” cùng dân tộc Đại Việt, vừa với tư cách tôn giáo chính thống, vừa như một sức sống nội sinh của dân tộc.

Giải nghĩa “Cư trần lạc đạo”: ở đời mà vui đạo, là giác ngộ ngay giữa cuộc đời, giác ngộ không phải xa lánh cuộc đời hay quên đời.

Tặng bạn 🌿 Chùm Thơ Thiền Về Kiếp Nhân Sinh Hay Nhất 🌿

Những Triết Lý Và Tư Tưởng Cư Trần Lạc Đạo

Bài kệ tuy chỉ gồm bốn câu thơ Đường luật nhưng giá trị triết lý nhập thế của nó đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Dưới đây là những triết ý và tư tưởng trong bài Cư trần lạc đạo.

Tinh Thần Siêu Việt Thế Tục

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Khi nghe đức Phật dạy: “… già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, ái biệt ly là khổ, oán tắng hội là khổ, cầu bất đắc là khổ…” thì chúng ta cũng thầm hiểu và trực nhận rằng: chưa già là hạnh phúc, không bệnh là hạnh phúc, còn sống là hạnh phúc và oán tắng không hội tụ, thương yêu không chia lìa, cầu mong được toại ý… là hạnh phúc.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải hiểu thêm rằng: những hạnh phúc, an lạc này mà chúng ta đang có là hết sức tạm thời và tương đối. Thường, lạc, ngã, tịnh hay niết bàn mới là hạnh phúc chân thật và tuyệt đối.

Cư trần lạc đạo (sống đời vui đạo) – Lạc ở đây là niết bàn tại thế, là niềm vui, pháp lạc, hạnh phúc chân thật, xuất phát từ nội tâm, từ sự trực ngộ được thể tính thanh tịnh của tự tâm. Nghe được đạo và hiểu được đạo mới chỉ là cấp độ đầu tiên; phải tu theo đạo, thực hành theo đạo thì từ đó mới thực chứng và cảm nhận được hương vị giải thoát, an lạc của đạo, gọi là lạc đạo. Lạc đạo chính là cảnh giới cao nhất của tu đạo. Tất nhiên, niềm vui đạo này sẽ giá trị và tuyệt diệu hơn, nếu nó được lớn lên và hiện hữu sống động giữa cuộc đời:

“Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc,
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công”.
(Hội thứ ba)

Cư trần lạc đạo là minh triết siêu việt thế tục, là một phương châm sống, là khí phách siêu thoát, phóng dật của bậc trượng phu đã thật sống và thấm hiểu luận đề nổi tiếng: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác” của ngài Huệ Năng.

Sống với đời nhưng vẫn vui với đạo hay vui với đạo nhưng vẫn sống với đời, người làm được điều này phải là bậc siêu việt thế tục, vượt lên thế tục, không mắc vướng thế tục, chứ không phải chán đời, trốn tránh cuộc đời.

Đã sống trong thế gian, đã làm người thì không ai có thể thoát khỏi thế gian được, kể cả những bậc ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc. Phải thật sự hiểu đời thì mới có khả năng siêu việt vượt lên cuộc đời. Nhờ hiểu bản chất cuộc đời mà không bị thị phi, danh lợi của đời chi phối, đưa đẩy. Đồng thời, cũng nhờ thật sự hiểu đạo và đời thì mới tự tại sống trong bụi bặm trần ai và vẫn ung dung giữ vui niềm cao quý, trong sáng, lâu bền, chứ không vui cái vui tạm bợ, hư giả của cuộc đời.

Những con người hào khí Đông A – anh hùng một thuở của Phật giáo thời Trần mà tiêu biểu là Trần Nhân Tông đều là mẫu hình Đời – Đạo song toàn như thế. Thế nên, có người đã ví Trần Nhân Tông bằng một hình tượng khá sinh động: con chim đại bàng vương có hai đôi cánh đạo và đời hoàn chỉnh, mạnh khoẻ và lộng lẫy lạ thường.

Tùy Duyên Bất Biến – Chìa Khoá Mở Cửa Vào Cuộc Sống An Lạc

Cuộc sống đáng quý nhưng thật không dễ dàng, để vui với đạo khi ở với đời một cách trọn vẹn thì con người phải biết và sống nhậm vận tùy duyên: “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”.

Trên phương diện chân đế, đạo và đời tuy khác nhau nhưng cốt tủy chỉ là một, đều tựa một lý tính nhất như, bình đẳng. Nhưng trên bình diện tục đế, đạo là đạo, đời là đời mặc dầu khoảng cách giữa đời và đạo là không thể phân cắt. Đạo cần đến đời để duy trì, truyền thừa như dòng nước cần không gian để chảy. Đời cần đến đạo để có thêm sức sống như cây xanh cần đến nước để khỏi cạn kiệt, khô cằn.

Đói ăn, khát uống, mệt ngủ là nếp sống quy củ, thường nhật của con người giữa chốn phù sinh. Dẫu là xuất thế, thì trong đời sống chân đế không thể thiếu đời sống tục đế. Thế nên, ai biết tùy duyên thì người đó dễ sống, ngược lại, không biết tùy duyên thì quả thật khó sống: “Cơ tắc xan hề khốn tắc miên”.

Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu thế và làm được như thế. Đói ăn, mệt ngủ là chuyện nhỏ, chuyện dễ nhưng thật ra cũng không phải dễ chút nào. Thực tế thì những con người đầy thủ trước như chúng ta vẫn ăn không ra ăn, ngủ không ra ngủ; thậm chí, cố chấp hơn, đói không chịu ăn, mệt không chịu ngủ.

Tinh thần tùy duyên này hết sức giản dị nhưng đã gói trọn cái tinh yếu của đạo Phật. Cuộc sống là một dòng thiên lưu chuyển động bất tận. Tất cả vạn pháp đều do duyên sinh, duyên khởi tương tục và tương tác. “Chư pháp tùng duyên sinh, diệc tùng nhân duyên diệt”. Nắm vững chân lý này thì con người có thể sống tùy duyên tự tại.

Tất nhiên, tùy duyên ở đây không phải là tùy duyên phi đạo lý hay một nếp sống phóng túng, thả nổi như lục bình trôi sông mà là tùy duyên bất biến, là sự tĩnh thức để tắm mát trong dòng chảy hiện sinh. Đó là con đường cư trần lạc đạo hay chìa khoá mở cánh cửa vào cuộc sống hạnh phúc, an lạc.

Chính Người Là Phật Và Nguyên Tắc Không – Truy – Tầm

Lục tổ Huệ Năng khi nghe Ngũ tổ Hoằng Nhẫn giảng kinh Kim Cương đến câu “Ưng vô sở trú nhi sinh kì tâm” thì hoát nhiên đại ngộ, biết rằng vạn pháp không rời tự tính, mới bạch với Ngũ tổ rằng: “Hà kì tự tính bổn lai thanh tịnh” (Nào ngờ tự tính vốn tự thanh tịnh)

Tự tính thanh tịnh ấy chính là giác tính, ở Phật không tăng, ở chúng sinh không giảm. Người học đạo, hiểu đạo, tu đạo và đạt đạo sở dĩ có khả năng sống tự tại tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên là bởi vì họ nhận ra một điều đơn giản rằng Phật vốn là lòng thanh tịnh hay mọi người đều có sẵn tính giác mà nói như Phật hoàng Trần Nhân Tông trong thi kệ: “Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch”.

Con người vẫn thường rong ruổi suốt theo cảnh trần hoàn để nhằm tìm kiếm và thoả mãn mong muốn nào đó. Còn mong muốn, còn ước mơ đối tượng chứng tỏ đối tượng đó chưa có mặt, chưa đủ. Bản chất của sự tìm kiếm là cảm giác thiếu vắng, khát khao. Tính ra thì con người đã và đang thậm chí sẽ tìm, luôn tìm nhiều thứ: tài, danh, sắc, thực, thụy, v.v… để thỏa mãn những bản năng, mong muốn trần thế của mình.

Và trong những người xuất trần không phải là không có người cũng đang truy tầm những đối tượng mong muốn vi tế nơi chính mình như thần thông, trí tuệ, sự giải thoát hay những mẫu hình lý tưởng của mình như Thần Tiên, La Hán, Bồ Tát, Phật đà:

“Con đã đi tìm Thế tôn
Từ hồi còn ấu thơ
Con đã nghe tiếng gọi của Thế tôn
Từ khi mới bắt đầu biết thở”.
(Nhất Hạnh – Tìm nhau)

Ngọc báu trong mình mà không biết đem ra tiêu dùng, cũng như Phật tính sẵn có trong mỗi chúng sinh mà không biết trau dồi tu sửa để lâu ngày bị bụi trần che lấp đến nỗi phải vất vả kiếm tìm, hay nói như dân gian: “Phật nhà không cầu, đi cầu Thích Ca ngoài đường”.

Trong phẩm Thọ ký của kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng nói đến viên ngọc trong chéo áo. Tuy nhiên, ngọc báu trong chéo áo ở phẩm kinh này mới chỉ là Phật tính: cái mầm giác ngộ hay khả tính thành Phật, chưa phải là Phật. Ngọc báu trong nhà ở Cư trần lạc đạo phú có khác. Ngọc này chính là Phật hay chân Phật.

Nói như nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi: “Phật không phải chỉ là ở trong tâm người, mà chính là người Phật”(6). Một cách dễ hiểu hơn, con người thật của chúng ta là Phật. Còn con người chúng ta tưởng là thật, với cái tâm tham, sân, si là con người giả, cái Ta giả.

Vấn đề tu hành không phải là đi tìm một con người nào khác, mà là bỏ con người giả, cái Ta giả trở về cái Ta thật, con người thật của chúng ta. Sự giác ngộ đạt đạo, thế nên, phải thực hiện được ngay trong cuộc đời, bởi vì, thành Phật không có gì khác là nhận chân con người thật của mình chính là Phật: Phật thành đạo là ta thành người. (Trụ Vũ – Phật thành đạo)

Tư tưởng khẳng định bản thân mình là Phật, người người là Phật hay tôn vinh con người ngang hàng với Phật ở Cư trần lạc đạo phú cũng là đặc trưng tư tưởng của Phật giáo thời Trần, thể hiện xuyên suốt từ Trần Thái Tông đến Diệu Nhân ni sư.

Khi Trần Thái Tông bỏ ngai vàng lên núi gặp thiền sư Viên Chứng để cầu đạo, cầu làm Phật, Thiền sư trả lời rằng: “Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm. Tâm tịch nhi tri, thị danh chân Phật”(7) (Trong núi vốn không có Phật. Phật chỉ trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó là ông Phật thật).

Mọi sự tìm kiếm ông Phật từ bên ngoài sẽ là nỗ lực dã tràng xe cát, là việc truy tìm lông rùa sừng thỏ. Muốn tìm Phật thì hãy hướng vào bên trong mình mà cầu tìm Phật, hay nói đúng hơn, nhận chân mình chính là Phật. Khi đã nhận chân mình chính là Phật rồi thì chẳng còn vấn đề tìm kiếm thần thông, trí tuệ, sự giải thoát hay những mẫu hình lý tưởng của mình như Thần Tiên, La Hán, Bồ Tát, Phật đà nữa.

Trăng Sáng Giếng Xưa Hay Thể Tính Tâm Không Cảnh Tịch

Tâm vốn không, cảnh vốn lặng, nhưng do con người cứ mãi quen theo sự chấp nhân thủ ngã khiến cho cảnh và tâm đều thành xao động, chướng ngại. Thế nên, con đường thiền học theo yếu chỉ “phản quan tự kỷ”, “phản văn văn tự tính” chính là con đường “vô tâm đối cảnh” để thật sự sống với con người thật của mình giữa cuộc đời duyên sinh giả hợp.

Đúng như có người đã nhận định, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã định nghĩa Thiền một cách hết sức đơn giản: “Thiền là sáu căn đối với sáu trần mà tâm không dấy động”, là tâm không vọng động khi đối cảnh bên ngoài, là đối cảnh vô tâm hay căn trần bất nhiễm. Đến đây, chắc sẽ có gạn hỏi, vô tâm ở đây đã phải là đạo chưa?

Xuất phát từ lời kinh Di Giáo: “Thí như mục ngưu chấp trượng thi chi, bất linh túng vãng, phạm nhân miêu giá”, mười hoạ phẩm mục ngưu đồ đã phác thảo ước lệ về con đường tu chứng và hành hóa của thiền giả giữa cuộc đời.

Con trâu ở đây là biểu tượng của Tâm. Con đường giác ngộ ấy gồm có ba giai đoạn: sai tâm bắt tâm – tâm vô tâm – bình thường tâm. Tìm sâu, bắt được trâu, thuần phục nó và cưỡi trâu về nhà, tức đưa tâm về chỗ ban sơ. Lúc đầu tiên nay, người ta tưởng tâm ở ngoài ta, nên ngoại cầu, sai tâm đi bắt tâm. Tâm đi bắt này là tâm phân biệt.

Sau giai đoạn ngoại cầu là giai đoạn tự tri tự giác. Giai đoạn này, hành giả quán sát cái tâm ở trong ta cũng vốn không thật – người trâu đều quên. Đó là tâm vô tâm. Biết cái tâm không tâm, ấy là hiểu suốt đạo Phật.

Tuy nhiên, vô tâm chưa phải là đạo, mà còn phải một cửa ải nữa là thỏng tay vào chợ: trở về với trời đất, nhập vào trật tự tự nhiên vô thủy vô chung của trời đất, trở về với thế tục, trộn lẫn ánh sáng vào cát bụi của cuộc đời (hòa kỳ quang, đồng kỳ trần), trở thành một người bình thường, một “con người vô sự” hay một “vô vị chân nhân”. Đó là bình thường tâm – “bình thường tâm thị đạo”.

Trở lại thi kệ yết hậu thu tóm những tinh túy tư tưởng thiền học của Cư trần lạc đạo phú, chúng ta thấy hiện rõ bốn vấn đề chính: cư trần lạc đạo, nhậm vận tùy duyên, gia trung hữu bảo, đối cảnh vô tâm. Bốn vấn đề này tồn tại trong mối liên hệ duyên khởi, giải thích cho nhau, liên hệ với nhau không thể tách rời.

Sở dĩ Cư trần lạc đạo được là nhờ biết sống nhậm vận tùy duyên. Sở dĩ biết sống nhậm vận tùy duyên là do trong nhà đã sẵn có ngọc báu. Sở dĩ biết và nhận ra gia trung hữu bảo là vì luôn luôn vô tâm đối cảnh. Vì đạt được tâm không mà người tu thiền có khả năng ở với trần vui với đạo:

Chia sẽ bạn 🔰Chùm Thơ Thầy Minh Niệm 🔰 HAY NHẤT

2 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Cư Trần Lạc Đạo Hay Nhất

Sưu tầm các mẫu phân tích bài thơ Cư trần lạc đạo hay nhất, tham khảo ngay nhé!

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Cư Trần Lạc Đạo Hay – Mẫu 1

Đức Vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là một vị vua không chỉ để lại những tấm gương chiến công lừng lẫy trong lịch sử dựng nước và giữ nước mà còn là sơ Tổ dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đặc trưng của Việt Nam đã làm rạng danh Phật giáo đời Trần, như một trong những đỉnh cao hưng thịnh của Phật giáo dân tộc.

“Cư Trần Lạc Đạo” của Đức Vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là một triết lý sống kết hợp đạo với đời, thổi thêm sức sống cho Phật giáo đương thời tăng trưởng như tôn giáo nhập thế, luôn đồng hành cùng dân tộc Đại Việt.

Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên,
Khát uống, đói ăn, mệt ngủ liền
Báu sẵn trong nhà, đừng kiếm nữa
Vô tâm trước cảnh hỏi chi Thiền.

“Cư trần” Sống trong cõi đời, Đức Vua – Phật hoàng đã thừa nhận sự tồn tại của huyển thân. Cõi trần là một giả cảnh, chỉ là một chặng đường trong luân hồi nhưng lại là một giai đoạn không thể bỏ qua, chính là giai đoạn để giác ngộ chân lý.

“Lạc đạo” vui với đạo là một tâm thế hành đạo, thuận theo lẽ đạo, tùy duyên mà hành đạo, tùy duyên nhưng bất biến.

Mỗi người đều có Phật tính, như trong nhà ai cũng có của báu. Giáo pháp của đạo Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, giống như nhiều dòng sông về chung một bến bờ giác ngộ và giải thoát. Các giáo phái khác dựa vào kinh điển, giáo lý Phật dạy để tu trì, Giáo phái Thiền chủ trương dùng tâm mà truyền tâm. Phật tại tâm. Tâm tức Phật. Phật tức Tâm.

Nếu ai thấy được tâm tịnh thì lập tức thành Phật. Thiền phái cho rằng tất cả kinh điển chẳng qua như ngón tay chỉ mặt trăng. Đến như mặt trăng chân lý thì chúng ta không thể dùng văn tự ngôn ngữ mà diễn tả hay hiểu rõ được. Vì thế, người tu hành theo pháp môn thiền định đứng ngoài kinh luận.

Chỉ dùng phép tâm ấn của Phật tổ để làm phương pháp truyền tâm cho thế hệ sau. Chỉ khi nào đôi bên hiểu nhau, thông cảm đạo lý, truyền thụ được chân lý thì mới thực hiện được phép tâm truyền.

Người tu thiền đạt đạo có được những quyền năng siêu việt mà người thường không dễ gì có được. Truyền thuyết Phật giáo truyền rằng: Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Mục Kiền Liên có khả năng xuất thần du hành các cõi Phật.

Xuống cả địa ngục để quan sát chúng sinh, bay qua mười ức cõi Phật đến quốc độ của đức Phật Thích Ca có tầm âm vang xa. Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Phú Lâu Na cùng Mục Kiều Liên đã từng vâng mệnh của đức Phật Thích Ca xuât thân từ hư không bay vào trong ngục, giảng thuyết pháp yếu và truyền trao tâm pháp yếu cho Vua Tần-Đà-Ta La là vua nước Ma-Kiệt-Đà đang bị giam cầm.

Tôn Giả A Na Luật tuy bị mù lòa có khả năng thiên nhãn thông (nhìn xa ngàn dặm). Tôn giả Xá Lợi phất mắt có thể nhìn thấy 60 tiểu kiếp người về trước, Tôn giả A Nan Đà nhìn thấy cõi Tây Phương cực lạc mà ở đó Đức Phật A Di Đà đã phóng ra muôn vàn ánh hào quang rực rỡ. Đức Thích Ca Mâu Ni có phép tha tâm thông nên từ xa đã đọc được tư tưởng của đại đệ tử Tu-Bồ-Đề.

Các nhà sư tu thiền khẳng định rằng: tuy ngồi thiền trong am cỏ Ngọa Vân trên đỉnh núi Yên Tử. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã dùng hào quang định lực của mình mà quán chiếu trong, ngoài, trên dưới, mọi sự với Ngài đều thông tỏ.

Từ chức vụ cao sang của Nhà Vua, Vua Trần Nhân Tông trở về ngôi tôn quý của nhà Phật. Vua từ cái nhất thời, hữu hạn mà trở về cái vô hạn, vĩnh hằng. Không phải lúc băng hà, Vua Trần Nhân Tông mới hóa Phật. Danh hiệu Vua Phật Hoàng đã được tôn vinh cho Vua Trần khi Ngài còn tại thế.

Trẫm thầm nhủ: “Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội, con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của tiên thánh.”

“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm lặng mà biết đó chính là tâm Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”.(Thiền Tông Chỉ Nam)

“Cư trần lạc đạo” nghĩa là ở đời mà vui đạo, là giác ngộ ngay giữa cuộc đời, giác ngộ không phải xa lánh cuộc đời hay quên đời. “Cư trần lạc đạo” của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã, đang và sẽ sống mãi cùng dân tộc, trong lòng dân tộc.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Cư Trần Lạc Đạo Chọn Lọc – Mẫu 2

Việc phân tích về nội dung của bài kệ này sẽ giúp ta thấy rõ được diện mạo của triết học Phật giáo Việt Nam như triết học nhập thế, vẫn còn tính ứng dụng trong thời đại ngày nay. Mỗi câu thơ là một triết lý hành trì. Tổng hợp bốn câu này lại, ta có triết lý nhập thế, rất năng động và tích cực.

Triết lý ở đời vui đạo của bài kệ cho phép ta phân nhóm, hạnh phúc thế gian là vui đời, hạnh phúc tâm linh là vui đạo. Nền tảng của hai phương diện hạnh phúc này xoay quanh đời sống mà con người có mặt như là một hữu thể, đã phải đối diện với rất nhiều sự thật khổ đau của kiếp sống như già, bệnh, chết, thương yêu mà phải chia lìa, ghét nhau mà phải gặp gỡ, ước muốn không được thành tựu… 

Khái niệm “ở đời” cho thấy đạo Phật không trốn chạy với thực tại, mà dạy con người bản lĩnh nhìn lại những gì đang diễn ra xung quanh để tìm ra nguyên nhân của nó, bao gồm những khó khăn, bế tắc, khổ đau, trở ngại và những chướng duyên, để từ đó, ta làm mới nhận thức, cảm xúc, đạo đức từ khổ đau.

Lúc đó bản chất của việc ở đời, sống trong môi trường của thế gian vốn nhiều sự tranh đấu, khổ đau, phiền lụy, hận thù, khủng bố, nhiều thiên tai (bao gồm sóng thần, động đất, lũ lụt, hạn hán, mất mùa, bệnh dịch) và nhiều tai nạn do chính con người tạo ra, bởi sự vô minh, sân hận, tham lam, chỉ là sự trải nghiệm với trách nhiệm nhân quả.

Trong môi trường có nhiều sự bất hạnh như vậy, dù là ở quốc gia nào, mà ta tìm được chất liệu vui đời cũng là điều hạnh phúc lắm rồi. Vui đời có hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất là chiều hướng nhân bản tích cực, sống một cách chân thành: có đạo đức, có hạnh phúc, thuận với luật pháp, lương tâm và quy luật của đời sống.

Nhờ ta sống bản lĩnh nên có được niềm vui. Đỉnh cao của niềm vui thế gian là thỏa mãn các giá trị khoái lạc giác quan, phục vụ cho mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý tưởng.

Hạnh phúc lớn nhất mà con người đạt được không phụ thuộc vật chất, vì vật chất chỉ là phương tiện tạo ra cảm giác thoải mái. Điều chính yếu là chúng ta đạt được giá trị hạnh phúc bên trong, vốn tồn tại tương đối lâu dài.

Hạn chế một cách tối đa tính điều kiện dẫn đến hạnh phúc, ta có hạnh phúc bền vững hơn. Tiếp nhận “vui đời” bằng chuỗi các điều kiện thì sự bền bỉ của nó là một thách đố: Khi điều kiện hội đủ thì hạnh phúc có mặt, khi các điều kiện không hội đủ thì hạnh phúc bị thay đổi.

Giá trị nhân quả của đạo Phật nằm ở chỗ giúp ta cách giải nghiệp, chứ không chấp nhận định mệnh đã được an bài.

Theo đó, ta làm mới cuộc sống hàng giờ, hàng phút. Nếu trong bối cảnh ở đời vui đời mà ta hiểu được bản chất của niềm “vui đời” là có giới hạn, thì việc đánh mất tự chủ sẽ làm ta rơi vào tình trạng gánh trách nhiệm nhân quả trước lương tâm và luật pháp. Nỗ lực hồi đầu sẽ giúp ta hướng về giá trị vui đạo. Là Phật tử, ta không thỏa mãn và không dừng lại ở kết quả “vui đời”.

Giá trị vật chất đạt được, chỉ có thể là đỉnh cao của các khoái lạc giác quan, phục vụ con người như nhu cầu cần có. Nhiều người không thỏa mãn, không hài lòng với hạnh phúc vật chất nên đi tìm kiếm những giá trị tâm linh. Ở nhà rộng rãi, có sân trước sân sau, có một góc tâm linh với bàn thờ Phật trang nghiêm, người Phật tử vẫn cố gắng dành thời gian trở về chùa tu học. Đó là cách ta đang tìm kiếm những giá trị về đạo.

Mặc dù đạo có mặt ở khắp mọi nơi, sự có mặt của ta ở chùa tạo ra sự cộng hưởng tâm linh, ít nhất có giá trị khích lệ và sách tấn lẫn nhau trên phương diện hành trì, tạo niềm vui với những giá trị đóng góp cho những mảnh đời bất hạnh, cho các hoạt động văn hóa, cho các chiều kích tâm linh và nhiều hoạt động mà sự đóng góp hay có mặt của chúng ta làm cho giá trị tùy hỷ điều tốt phát triển ở mức độ lớn hơn, thì đó đều là cách thức ta vui đạo.

Triết lý quan trọng trong ứng xử thế gian được thiền sư Trần Nhân Tông dạy là ba chữ “hãy tùy duyên”. Đây là học thuyết nhập thế về phương diện xã hội, mà ta không thể tìm thấy trong ngôn ngữ Pali hay Sanskrit. Hãy tùy duyên là một phần ứng dụng của thuyết Bồ tát đạo trong Phật giáo.

Tùy duyên của Phật pháp khác với cái hiểu dân gian là “cuốn theo chiều gió”, hay “nắng bên nào thì che bên đó”, hoặc “để vận mệnh trôi như lục bình trôi”. Cuốn theo và chạy theo là “chạy theo duyên” chớ không phải tùy duyên. Tùy duyên là học thuyết ứng xử khôn ngoan trong bất kỳ hoàn cảnh thuận hay nghịch, ta vẫn có thể sống “ở đời vui đời” và “ở đời vui đạo” được.

Những người không có tinh thần tùy duyên thì khi thuận, cảm thấy hạnh phúc, lúc nghịch thì cảm thấy khổ đau, bị ám ảnh bởi nỗi khổ đau trong quá khứ, khổ đau trong hiện tại và khổ đau trong tương lai, làm mất hết các năng lực tìm kiếm giải pháp trị liệu cho bản thân. Ta phải xem nghịch cảnh là phương tiện, mà sự hỗ trợ của nó có thể làm cho chí nguyện của ta ngày càng lớn hơn, bản lĩnh chịu đựng ngày càng vững chãi hơn, kinh nghiệm ngày càng già giặn hơn và con đường tâm linh có chiều sâu hơn.

Khi Thiền sư Trần Nhân Tông dạy: “Khát uống, đói ăn, mệt ngủ liền” không có nghĩa bảo ta muốn hưởng thụ cái gì thì thỏa mãn nó, muốn cái gì thì xả láng cái đó. Ngài dạy cách thuận theo quy luật tự nhiên, đừng để cho tâm bị kẹt trong sự hưởng thụ tự nhiên đó. Làm như thế gọi là tu. Người tu ở trong ăn-mặc-ngủ khác với người không tu ở chỗ là không được đắm nhiễm.

Câu thơ thứ 3: “Báu sẵn trong nhà, đừng kiếm nữa” là tiến trình nhận thức, giúp ta quay vào bên trong, thay vì tìm kiếm bên ngoài. Gia tài gồm có 2 loại: Gia tài vật chất bao gồm nhà cửa, của báu, tiền bạc. Cất của báu ở nhà đôi lúc trở thành sự mời gọi rắc rối (trộm cắp). Người phương Tây có thói quen không cất giữ tiền tại nhà, mà gửi vào ngân hàng. Còn ở Việt Nam người ta ít gởi ngân hàng, mà cất tiền mặt tại nhà, bởi vì mua bán ở Việt Nam là mua đứt bán đoạn, nếu không có tiền mặt thì hầu như các giao dịch bị trở ngại.

Việc đi tìm kiếm của báu vật chất chỉ tô bồi đời sống vật dục, có khả năng mang lại phước báu và sự thuận lợi. Thái độ “thôi tìm kiếm” được Thiền sư Trần Nhân Tông nêu ra trong bài kệ này là nhằm khẳng định rằng mỗi người đã sẵn tuệ giác hay Phật tính bên trong, không phải nhọc công tìm kiếm. Chỉ cần nhận diện là bắt gặp và sống an lạc với nó.

Khi có tầm nhìn quay về, sống với tuệ giác vốn có, ta không còn là kẻ tha hương đi tìm kiếm con đường tâm linh ở Thiên đường hay cõi Cực lạc sau khi chết. Chỉ cần sống trong hiện tại này một cách có ý nghĩa cho mình và cho người, thì cái được gọi là của báu sẽ là cái mà ta hưởng được hiện tiền.

Theo đạo Phật, tương lai có mặt ở hiện tại. Đầu tư hạnh phúc trong hiện tại, ta không cần cầu nguyện, van xin, nó vẫn có như thực tại. Tương lai sẽ có mặt tất yếu. Đây là giá trị đạo đức tâm linh đã được Đức Phật dạy trong kinh Diệu pháp liên hoa qua phẩm “Tùng địa dõng xuất” (Từ dưới đất vọt lên) như một ngụ ngôn nổi tiếng.

Vô tâm trước cảnh, hỏi chi thiền” là lời giải đáp về bản chất của thiền Phật giáo. Có nhiều người hiểu nôm na về phương diện nghĩa đen, thiền là ngồi tĩnh tọa. Sự tĩnh tọa trong khi ngồi là một phương tiện cần, chứ không phải là đủ và duy nhất của thiền, bởi vì có nhiều người lớn tuổi không thể ngồi xếp bằng theo thế hoa sen trọn vẹn hay nửa hoa sen.

Mấu chốt của thiền là làm cho tâm được bình an. Lúc mới thực tập thiền, ta cần ngồi trong tư thế mắt không liếc qua trái, phải, thân không có cử động, các giác quan tĩnh lặng. Nhờ đó, có cơ hội tập trung vào các đề tài thiền quán nhiều hơn, niềm hạnh phúc nội tại, theo đó, bắt đầu được xuất hiện và dâng trào. Niềm vui của “ở đời vui đạo” theo Trần Nhân Tông là đời sống nội tại này.

Trọng tâm của tĩnh tọa là vô tâm. Khi đi đứng nằm ngồi, nói nín động tịnh, co duỗi, thậm chí trong lúc thức và lúc ngủ, ta phải giữ được trạng thái “vô tâm”.

Nói tóm lại, bài kệ “Cư trần lạc đạo” của Thiền sư Trần Nhân Tông là tiến trình nhập thế năng động, tích cực, nhẹ nhàng mà hiệu quả cao. Sự thực tập đó đã được vua Trần Nhân Tông áp dụng cho chính Ngài và truyền dạy cho đệ tử của Ngài. Ngai vàng mà Ngài có được quan niệm như là đôi dép quăng bỏ, ngài không màng đến thế quyền, mà cao nhất là vương quyền, vì đó là đầu mối của sự tranh chấp, hơn thua, hận thù rồi tạo ra các bế tắc.

Thohay.vn chia sẽ bạn 👉 Chùm Thơ Phật Giáo Về Vô Thường

Viết một bình luận