Thơ Trần Nhân Tông ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ ✅ Tìm Hiểu Về Cuộc Đời, Sự Nghiệp Sáng Tác, Phong Cách Làm Thơ Của Trần Nhân Tông.
NỘI DUNG CHÍNH
Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông không chỉ là vị minh quân mà còn là nhà quân sự lỗi lạc, nhà ngoại giao tài tình. Ngài còn là nhà văn hoá, nhà tư tưởng uyên thâm, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đồng thời Ngài còn là một nhà văn, nhà thơ vô cùng tài hoa. Dưới đây là phần khái quát về tiểu sử cuộc đời của tác giả Trần Nhân Tông.
- Trần Nhân Tông sinh ngày 7/12/1258, mất ngày 16/12/ 1308, tên thật là Trần Khâm, tự là Thanh Phúc, con trưởng của Trần Thánh Tôn, là vị vua thứ ba của nhà Trần nước Đại Việt.
- Ông trị vì từ ngày 8 tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời.
- Ông là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi vẻ vang.
- Là một vị Hoàng đế anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng lãnh thổ đất nước.
- Vào năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con và nhận tước vị Thái thượng hoàng. Từ đây ông bắt đầu đi sâu vào Phật học.
- Trần Nhân Tông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Năm 1299, ông về tu ở chùa Yên tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
- Trần Nhân Tông là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Chia sẻ thông tin về 🌿Thơ Trần Hữu Thung 🌿 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ
Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Trần Nhân Tông
Điểm qua những nét chính trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Trần Nhân Tông.
- Trần Nhân Tông được xem là một nhà thơ, nhà văn hóa tiêu biểu của Đại Việt thời trung đại.
- Tác phẩm thơ của Trần Nhân Tông trải qua nhiều thời kỳ loạn lạc chiến tranh đã bị thất tán khá nhiều. Đến nay, di sản thơ của Ngài đã được sưu tập và lưu giữ chỉ còn khoảng trên dưới 35 bài và một số câu thơ lẻ nằm rải rác ở các bài giảng, ngữ lục, phú…
- Tuy số lượng thơ còn lại khá khiêm tốn, nhưng giá trị về nội dung tư tưởng, nghệ thuật trong thơ Trần Nhân Tông được người đương thời, cũng như các thế hệ đời sau rất tâm đắc, ca ngợi và ngưỡng mộ.
Tác phẩm của ông bao gồm:
- Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền).
- Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng).
- Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá), được vua Trần Anh Tông cho chép vào Đại Tạng kinh để lưu hành.
- Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm).
- Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông).
- Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc bình quân Nguyên xâm lược.
Các tác phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại khoảng trên dưới 35 bài thơ.
Phong Cách Sáng Tác Của Trần Nhân Tông
Tìm hiểu thêm về phong cách sáng tác thơ của Trần Nhân Tông ngay dưới đây nhé.
- Thơ của ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ.
- Đồng thời, thơ của ông cũng thể hiện sự hoà hợp khó chia tách giữa một ngòi bút vừa cung đình vừa bình dị, dân dã, có cả những kiến thức sách vở uyên bác lẫn với sự từng trải lịch lãm.
Đón đọc tập 🌿Thơ Hoàng Trung Thông 🌿 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ
Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Trần Nhân Tông
Thohay.vn chia sẻ cho bạn tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ Trần Nhân Tông.
- Đệ nhất hội
- Đệ nhị hội
- Đệ tam hội
- Đệ tứ hội
- Đệ ngũ hội
- Đệ lục hội
- Đệ thất hội
- Đệ bát hội
- Đệ cửu hội
- Đệ thập hội
- Kệ vân
*Các tác phẩm khác
- Đại Lãm Thần Quang tự
- Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
- Đăng Bảo Đài sơn
- Đề Cổ Châu hương thôn tự
- Đề Phổ Minh tự thuỷ tạ
- Động Thiên hồ thượng
- Hoạ Kiều Nguyên Lãng vận
- Hữu cú vô cú
- Khuê oán
- Lạng Châu vãn cảnh
- Mai
- Nguyệt
- Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
- Quân tu ký
- Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
- Sơn phòng mạn hứng kỳ 1
- Sơn phòng mạn hứng kỳ 2
- Sư đệ vấn đáp
- Tán Tuệ Trung thượng sĩ
- Tảo mai kỳ 1
- Tảo mai kỳ 2
- Tặng bắc sứ Lý Tư Diễn
- Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
- Thiên Trường phủ
- Thiên Trường vãn vọng
- Tống bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
- Tống bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
- Trúc nô minh
- Tức sự (I)
- Tức sự (II)
- Vũ Lâm thu vãn
- Xuân cảnh
- Xuân hiểu
- Xuân nhật yết Chiêu Lăng
- Xuân vãn
Gửi thêm cho bạn ❤️️Thơ Nguyễn Khoa Điềm ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ
15 Bài Thơ Thơ Thiền Trần Nhân Tông Hay Nhất
Mời bạn đọc cùng thưởng thức 15 bài thơ thiền Trần Nhân Tông hay nhất vừa được sưu tầm dưới đây.
Kệ Vân
偈云
居塵樂道且隨緣,
饑則飧兮困則眠。
家中有宝休尋覓,
對境無心莫問禪。
Phiên âm:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch thơ:
Sống đời vui đạo tuỳ duyên
Đói thì ăn mệt ngủ liền sá chi
Nhà ta châu báu thiếu gì
Vô tâm với cảnh biết khi nào thiền.
Đại Lãm Thần Quang Tự
大覽神光寺
神光寺杳興偏幽,
撐兔飛烏天上遊。
十二樓臺開畫軸,
三千世界入詩眸。
俗多變態雲蒼狗,
松不知年僧白頭。
除卻炷香參佛事,
些餘念了總休休。
Phiên âm:
Thần quang tự diểu hứng thiên u.
Sanh thố phi ô thiên thượng du.
Thập nhị lâu đài khai hoạ trục.
Tam thiên thế giới nhập thi mâu.
Tục đa biến thái vân thương cẩu,
Tung bất tri niên tăng bạch đầu.
Trừ khước chú hương tham Phật sự,
Tá dư niệm liễu tổng hưu hưu.
Dịch thơ:
Chùa vắng thần quang, hầu nhã hứng,
Chơi mây, thỏ ngọc, quạ vàng đưa.
Lâu đài chín cõi bày tranh vẽ,
Thế giới ba ngàn lọt mắt thơ.
Biển hoá thành dâu buồn thói tục,
Tùng không biết tuổi bạc đầu sư.
Ngoài câu cúng Phật, tuần nhang thắp,
Lo nghĩ bao điều, mấy cũng ngơ!
Xuân Cảnh
春景
楊柳花深鳥語遲,
畫堂簷影暮雲飛。
客來不問人間事,
共倚欄杆看翠微。
Phiên âm:
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Hoạ đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thuý vi.
Dịch thơ:
Chim kêu hoa liễu nở đầy
Họa đường thềm rợp bóng mây may
Khách vào chẳng bàn chuyện thế sự
Đứng tựa lan can ngắm cảnh trời
Xuân Vãn
春晚
年少何曾了色空,
一春心在百花中。
如今勘破東皇面,
禪板蒲團看墜紅。
Phiên âm:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.
Dịch thơ:
Thủa trẻ nào hay lẽ sắc không
Mỗi xuân tâm rộn vạn hoa lòng
Đông Hoàng bản mặt nay đà ngộ
Chiếu cọ thiền xem rụng đóa hồng.
Trúc Nô Minh
竹奴銘
傲雪心虛,
凌霜節勁。
假爾為奴,
恐非天性。
Phiên âm:
Ngạo tuyết tâm hư,
Lăng sương tiết kính.
Giả nhĩ vi nô,
Khủng phi thiên tính.
Dịch thơ:
Tâm không rãi tuyết,
Đốt cứng phơi sương.
Mượn ngươi làm nô,
Sợ trái tính thường.
Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
春日謁昭陵
貔虎千門肅,
衣冠七品通。
白頭軍士在,
往往說元豐。
Phiên âm:
Tì hổ thiên môn túc,
Y quan thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ lại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
Dịch thơ:
Nghìn cửa, nghiêm tí hổ,
Bảy phẩm, đủ cân đai.
Lính bạc đầu còn đó,
Chuyện Nguyên Phong, kể hoài.
Nguyệt
月
半窗燈影滿床書,
露滴秋庭夜氣虛。
睡起砧聲無覓處,
木樨花上月來初。
Phiên âm:
Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thuỵ khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
Dịch thơ:
Ðầy giường sách, ánh đèn soi,
Hơi đêm thoáng mát hiên ngoài sương thưa.
Tiếng chày đâu đó vẳng đưa,
Trên chùm hoa quế trăng vừa mới lên.
Mai
梅
鐵膽石肝凌曉雪,
素裙練帨迓東風。
人間儉素漢文帝,
天下英雄唐太宗。
Phiên âm:
Thiết đảm, thạch can lăng hiểu tuyết,
Tố quần, luyện thế nhạ đông phong.
Nhân gian kiệm tố Hán Văn Đế,
Thiên hạ anh hùng Đường Thái Tông.
Dịch thơ:
Gan lì sắt đá nhờn sơn tuyết,
Mộc mạc khăn xiêm đón gió đông.
Như Hán Văn xưa, danh tiết kiệm,
Thái Tông, Đường nọ, tiếng anh hùng.
Thiên Trường Phủ
天長府
綠暗紅稀倍寂寥,
霽雲吞雨土花銷。
齋堂講後僧歸院,
江館更初月上橋。
三十仙宮橫夜榻,
八千香剎動春潮。
普明風景渾如昨,
彷彿羹墻入夢饒。
Phiên âm:
Lục ám hồng hi bội tịch liêu
Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu.
Trai đường giảng hậu tăng quy viện,
Giang quán canh sơ nguyệt thượng kiều.
Tam thập tiên cung hoành dạ tháp,
Bát thiên hương sát động xuân triều.
Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc,
Phảng phất canh tường nhập mộng nhiêu.
Dịch thơ:
Lục rậm, hồng thưa cảnh quạnh hiu,
Mây quang, mưa tạnh đất tan rêu.
Phòng trai giản đoạn, sư về viện,
Cầu bến canh đầu, bóng nguyệt treo.
Ba chục cung tiên, giường ngủ đặt,
Tám nghìn bóng tháp, nước triều reo,
Phổ Ninh phong cảnh, chùa như cũ,
Trong giấc mơ màng Thuấn thấy Nghiêu.
Xuân Hiểu
春曉
睡起啟窗扉,
不知春已歸。
一雙白蝴蝶,
拍拍趁花飛。
Phiên âm:
Thuỵ khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
Dịch thơ:
Ngủ dậy mở cửa sổ,
A, xuân về rồi đây!
Kìa một đôi bướm trắng,
Nhằm hoa, phơi phới bay.
Đăng Bảo Đài Sơn
登寶臺山
地僻臺逾古,
時來春未深。
雲山相遠近,
花徑半晴陰。
萬事水流水,
百年心語心。
倚欄橫玉笛,
明月滿胸襟。
Phiên âm:
Ðịa tịch đài du cổ,
Thời lai xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận.
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thuỷ lưu thuỷ,
Bách niên tâm dữ tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mãn hung khâm.
Dịch thơ:
Ðài xưa dấu cổ hoang liêu,
Nơi đây phảng phất còn nhiều vẻ xuân.
Mây quanh núi phủ xa gần
Ðường quê nắng rợp bóng râm hoa lồng.
Việc đời như nước xuôi đông,
Trăm năm lòng nhủ cho lòng biết thôi.
Tựa lầu đưa sáo lên môi,
Trăng soi lòng cũng sáng ngời ánh trăng
Động Thiên Hồ Thượng
洞天湖上
洞天湖上景,
花草減春容。
上帝憐岑寂,
太清時一鐘。
Phiên âm:
Động Thiên hồ thượng cảnh,
Hoa thảo giảm xuân dung.
Thượng đế liên sầm tịch,
Thái thanh thì nhất chung.
Dịch thơ:
Cảnh hồ Động thiên nọ,
Hoa cỏ giảm màu xuân.
Thượng đế thương hiu quạnh,
Tầng xanh chuông bỗng ngân.
Khuê Oán
閨怨
睡起鉤簾看墜紅,
黃鸝不語怨東風。
無端落日西樓外,
花影枝頭盡向東。
Phiên âm:
Thuỵ khởi câu liêm khán truỵ hồng,
Hoàng ly bất ngữ oán đông phong.
Vô đoan lạc nhật tây lâu ngoại,
Hoa ảnh, chi đầu tận hướng đông.
Dịch thơ:
Vén rèm ngủ dậy ngắm hoa rơi,
Oanh oán gió đông cứ ngậm lời.
Vô cớ bên đoài ô khuất gác,
Bóng hoa đầu ngọn ngóng đông hoài.
Tảo Mai Kỳ 1
早梅其一
五出圓芭金撚鬚,
珊瑚沉影海鱗浮。
箇三冬白枝前面,
些一辨香春上頭。
甘露流芳癡蝶醒,
夜光如水渴禽愁。
姮娥若識花佳處,
桂冷蟾寒只麼休。
Phiên âm:
Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,
Dạ quang như thuỷ khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ
Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!
Dịch thơ:
Năm cánh hoa tròn, vàng nhị phô,
Nổi nênh vảy cá, chìm san hô.
Đông ba tháng trải, cành khoe trắng,
Xuân một làn thơm, nhánh nhẹ đưa.
Đêm ngỡ nước trong, chim cháy cổ,
Sương lừng hương ngát, bướm tan mơ
Hằng Nga như biết đây hoa đẹp,
Quế lạnh cung Thiềm, há mến ưa?
Tảo Mai Kỳ 2
早梅其二
五日驚寒懶出門,
東風先已到孤根。
影橫水面冰初泮,
花壓枝頭暖未分。
翠羽歌沉山店月,
畫龍吹濕玉關雲。
一枝迷入故人夢,
覺後不堪持贈君。
Phiên âm:
Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn).
Ảnh hoành thuỷ diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thuý vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,
Hoạ long xuy thấp Ngọc Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân.
Dịch thơ:
Năm ngày ngại rét, lười ra cửa.
Gốc lẻ nào ngờ đã gió xuân.
Mặt nước băng tan, cây bóng ngả,
Đầu cành hoa trĩu, ấm chưa phân.
Trăng chìm xóm núi, lời ca bổng,
Mây ướt quan hà, tiếng sáo ngân.
Lạc tới chiêm bao, hoa một nhánh,
Muốn đem tặng bạn, khó vô ngần!
Gợi ý tuyển tập 🌸 Thơ Nguyễn Quang Thiều 🌸 Chùm Thơ Hay