Đề Đền Sầm Nghi Đống: Nội Dung, Đọc Hiểu, Phân Tích

Giới thiệu đến bạn bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đề Đền Sầm Nghi Đống của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, một trong những bậc thầy của thơ Nôm Việt Nam.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống

Mấy chục năm sau sự kiện Đồn Khương Thượng, nơi tướng giặc Sầm Nghi Đống thất trận và thắt cổ tự tử sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại. Hồ Xuân Hương đi qua ngôi đền do Hoa kiều dựng lên để thờ tên tướng giặc này bà đã tức cảnh viết nên bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống. Bài thơ in trong Hồ Xuân Hương – Thơ và Đời (in lần thứ 6), NXB Văn học, 2005.

Tìm hiểu về 👉 Thơ Hồ Xuân Hương [Tác Giả, Tác Phẩm, Tuyển Tập Thơ Nổi Tiếng]

Nội Dung Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống

Mời bạn xem nội dung đầy đủ của bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống do Hồ Xuân Hương tức cảnh viết ra bên dưới.

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo;
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống

Nhan đề bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương mang nhiều ý nghĩa sâu sắc và tinh tế.

  • Đầu tiên, nó chỉ rõ địa điểm là Đền Sầm Nghi Đống, nơi thờ tướng giặc Sầm Nghi Đống, người đã tự tử sau khi thất bại trước quân Tây Sơn. Việc sử dụng từ “đề” (viết lên) cho thấy đây là lời bình luận, phê phán hoặc châm biếm của tác giả đối với nhân vật và sự kiện lịch sử này.
  • Bài thơ nhắc người đọc nhớ đến một sự kiện lịch sử oanh liệt của dân tộc ta. Tết Kỷ Dậu 1789, Vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Xác giặc chất cao như núi tại gò Đống Đa: “Thành Nam thập nhị kình nghê quán”. Đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, tướng giặc Sầm Nghi Đống thất trận.
  • Nhan đề còn thể hiện sự mỉa mai và trào phúng của Hồ Xuân Hương đối với kẻ thù của dân tộc, đồng thời phản ánh quan điểm chính trị và xã hội của bà. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một bản án lịch sử, qua đó bà thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Giới thiệu đến bạn 🌺 Tập Thơ Nôm Hồ Xuân Hương Hay 🌺

Đọc Hiểu Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống

Để hiểu sâu hơn về bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống bạn có thể xem thêm phần đọc hiểu mà thohay.vn chia sẽ bên dưới.

👉 Câu 1: Bài thơ được viết theo thể thơ nào?

Trả lời: Bài thơ viết theo thể Thất ngôn tứ tuyệt

👉 Câu 2: Chỉ ra các từ ngữ miêu tả hành động và thể hiện được thái độ của Hồ Xuân Hương khi đi qua đền Sầm Nghi Đống.

Trả lời: Hồ Xuân Hương thì chỉ “ghé mắt”trông ngang khi đi qua đền Sầm Nghi Đống. Ghé mắt là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần tuý là động tác, không hàm ý kính trọng. Nó thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại.

👉 Câu 3: Nêu nghĩa của từ láy cheo leo được sử dụng trong bài thơ.

Trả lời: Đền Thái thú đứng “cheo leo” , đây là từ láy đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền và thể hiện thái độ coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này.

👉 Câu 4: Qua bài thơ, anh/chị hiểu được điều gì về vị trí của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến?

Trả lời: Có thể thấy được vị trí thấp bé của người phụ nữ VN trong xã hội phong kiến. Bởi lẽ vậy mà bài thơ đã thể hiện khát vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ “bất kính” của Hồ Xuân Hương là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các “sự nghiệp anh hùng” của nam nhi, thách thức đối với thần linh.

Người phụ nữ bị chèn ép, áp đặt theo khuôn mẫu giáo điều để rồi họ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến.

Giá Trị Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống

Bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương có giá trị tư tưởng và nghệ thuật độc đáo, phản ánh không chỉ thái độ khinh bỉ đối với một viên tướng xâm lược mà còn thể hiện khát vọng bình đẳng nam nữ của tác giả và phụ nữ nói chung.

👉 Giá trị nội dung

  • Khẳng định tài năng của người phụ nữ.
  • Đả kích đền 1 vị thần xâm lược bại trận-bất tài vô dụng.

👉 Giá trị nghệ thuật

  • Bài được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
  • Cách sử dụng từ thuần Việt, sắc sảo, sinh động, có sức gợi tả sâu sắc, kết cấu chặt chẽ, đầy kịch tính, gây nhiều hứng thú cho người đọc.

Chia sẽ đến bạn 👉 Chùm Thơ Hồ Xuân Hương Châm Biếm, Chửi, Trào Phúng [Hay Nhất]

Bố Cục Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống

Bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương có bố cục rõ ràng, gồm hai phần chính:

  • Phần thứ nhất (hai câu đầu): Thể hiện thái độ của nhà thơ khi ghé thăm đền thờ Sầm Nghi Đống. Nhà thơ chế giễu, dè bỉu, coi thường ngôi đền và hành động tự tử của Sầm Nghi Đống.
  • Phần thứ hai (hai câu cuối): Phần này thể hiện sự khát vọng được bình đẳng, mong muốn lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của tác giả.

Dàn Ý Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống

Với dàn ý bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống mà thohay.vn chia sẽ bên dưới sẽ giúp bạn viết một bài văn phân tích đầy đủ và chi tiết hơn.

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả và tác phẩm.
    • Tác giả: Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoạn, cũng thường vung bút đề thơ.  
    • Tác phẩm của Hồ Xuân Hương thường mang tính chất châm biếm, phê phán xã hội và đặc biệt là những tác phẩm về tình yêu . Bà đã để lại một di sản văn học quan trọng và ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam.
  • Đề cập đến ngữ cảnh lịch sử và văn hóa của bài thơ.
    • Đề thơ là một phong tục của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành.

II. Thân bài

a. Giới thiệu khái quát

  • Tổng quan về đền Sầm Nghi Đống.
    • Sầm Nghi Đống là một nhân vật lịch sử trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc và tùy tướng của Tôn Sĩ Nghị. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử.
    • Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay.
    • Miêu tả vẻ đẹp và tầm quan trọng của đền trong văn hóa dân gian.

b. Miêu tả tình cảm và tâm trạng của tác giả

  • Miêu tả tình cảm của tác giả đối với đền Sầm Nghi Đống.
    • Từ ngữ, hình ảnh: ghé mắt, kìa, đứng cheo leo à động từ, đại từ, từ láy gợi hình.
    • Thái độ: Ngạo mạn, nhìn nghiêng-liếc qua, tay chỏ
    • Ngắt nhịp: 1/3/3 + “kìa”: Thái độ ngạc nhiên
  • Hình tượng đền độc đáo: hiện lên sự thảm hại của tên tên bại trận dưới con mắt nữ sĩ họ Hồ.

=> Thái độ giễu cợt, coi thường, dẻ bỉu tên tướng bại trận Sầm Nghi Đống.

  • Phân tích các yếu tố ngôn ngữ, hình ảnh, âm điệu để tạo nên tâm trạng trong bài thơ.

c. Những chi tiết phê phán xã hội:

  • Phân tích những chi tiết trong bài thơ có thể liên kết với việc phê phán xã hội.
    • Cách xưng hô: “Đây” Ngang hàng với đấy – Sầm Nghi Đống à Ý thức rõ về giá trị của mình, thái độ mỉa mai, xem thường tên tướng giặc.
    • Từ ngữ hình ảnh thơ đặc sắc: “Đổi phận làm trai được”, “há bấy nhiêu”: Lời khẳng định, tuyên bố tài năng của người phụ nữ không hề thua kém đấng nam nhi.

=>  Âm hưởng bài thơ là khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ “bất kính” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các “sự nghiệp anh hùng” của nam nhi, thách thức đối với thần linh.

  • Tìm hiểu ý nghĩa và thông điệp mà tác giả muốn truyền tải qua việc phê phán xã hội.

d. Đánh giá chung

  • Tổng kết lại ý nghĩa và giá trị của đền Sầm Nghi Đống trong bài thơ.
  • Tóm tắt lại các ý chính đã phân tích.

e. Cảm nghĩ cá nhân

  • Phản biện về cách tác giả sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh để truyền tải thông điệp.
  • Nhận xét về sự ảnh hưởng của bài thơ đối với người đọc.

III. Kết bài

  • Tóm tắt lại những điểm quan trọng đã được phân tích.
  • Đánh giá tổng quan về giá trị và ý nghĩa của bài thơ “Đề Đền Sầm Nghi Đống”.

Xem thêm những bài văn phân tích 👉 Tự Tình Của Hồ Xuân Hương (hay nhất)

Sơ Đồ Tư Duy Đề Đền Sầm Nghi Đống

Bạn có thể sử dụng sơ đồ tư duy bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống mà thohay.vn chia sẽ bên dưới để hệ thống hóa thông tin và cung cấp cái nhìn tổng quan về bài thơ, từ tác giả, hoàn cảnh sáng tác, đến nội dung và giá trị nghệ thuật, điều này sẽ giúp bạn dễ nắm bắt & phân tích sâu hơn về tác phẩm.

Sơ đồ tư duy Đề Đền Sầm Nghi Đống
Sơ đồ tư duy Đề Đền Sầm Nghi Đống

Soạn Bài Đề Đền Sầm Nghi Đống

Thohay.vn hướng dẫn soạn bài Đề Đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương giúp các em học sinh có thể học tốt hơn bài thơ này.

A. Chuẩn bị đọc

Theo em, khi đến những ngôi đền người ta thường có thái độ như thế nào?

Trả lời:

Khi đến những ngôi đền người ta thường có thái độ tôn trọng, thành kính, lễ phép, trang nghiêm, ăn mặc kín đáo, tâm tư thành khẩn.

B. Trải nghiệm cùng văn bản

Suy luận: Em hiểu thế nào về câu thơ cuối?

Trả lời:

Câu thơ cuối châm biếm nhắc lại cái chết nhục nhã, hèn nhát của tên tướng giặc phương Bắc với thái độ coi thường, khinh rẻ, qua đó khẳng định tầm vóc, tài năng, năng lực của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

C. Suy ngẫm và phản hồi

Trả lời các câu hỏi trang 103 SGK Ngữ văn 8 tập 2 Chân trời sáng tạo

👉 Câu 1: Tìm những từ ngữ, hình ảnh thể hiện thái độ của tác giả khi đến đền Sầm Nghi Đống. Đó là thái độ gì? Dựa vào cước chú, giải thích nguyên nhân của thái độ ấy.

Trả lời:

Những từ ngữ, hình ảnh thể hiện thái độ của tác giả khi đến đền Sầm Nghi Đống: ghé mắt, trông ngang, kìa, cheo leo, ví đây đổi phận làm trai được, anh hùng há bấy nhiêu… Đó là thái độ châm biếm, xem thường, giễu cợt, tác giả muốn châm biếm nhắc lại cái chết nhục nhã, hèn nhát của tên tướng giặc phương Bắc.

Nguyên nhân của thái độ này: Sầm Nghi Đống là tướng theo Tôn Sĩ Nghị sang chiếm đóng thủ đô Đông Kinh (Thăng Long), giữ chức Thái thú, được giao trấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi Vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi vào tháng Giêng năm 1789, quân Thanh tan tác, Sầm Nghi Đống đành tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, Vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Tuy nhiên, theo tác giả bài thơ, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền.

👉 Câu 2: Tác giả đã nêu ra giả định gì trong hai câu thơ cuối? Giả định đó góp phần bộc lộ điều gì trong quan niệm của nhà thơ về “sự anh hùng”

Trả lời:

– Trong hai câu thơ cuối, tác giả đã nêu giả định: Nếu nhà thơ đổi phận làm trai được thì sự nghiệp anh hùng không ít ỏi, thất bại như Sầm Nghi Đống.

– Giả định góp phần cho thấy, Hồ Xuân Hương tuy có mặc cảm thân phận nhưng không chịu an phận, có khát vọng lập nên sự nghiệp vẻ vang như đấng nam nhi. Bên cạnh đó, giả định này cũng bộc lộ sự coi thường đối với sự nghiệp của viên tướng bại trận Sầm Nghi Đống. Câu kết há bấy nhiêu có thể nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của Sầm, song đúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu.

👉 Câu 3: Thủ pháp trào phúng nào được sử dụng trong văn bản? Tác dụng của việc sử dụng thủ pháp này?

Trả lời:

Thủ pháp trào phúng được sử dụng trong văn bản: nghệ thuật gây cười, nói giễu, thể hiện qua các từ ngữ, hình ảnh như: ghé mắt trông ngang, kìa, cheo leo, đây, há bấy nhiêu… Một câu hỏi tu từ rất “đắt”, xuất hiện đúng lúc, đặt đúng chỗ làm cho sự giễu cợt, hài hước nhân lên mười lần.

=> Tác dụng: Khẳng định cá tính mạnh mẽ, tài năng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, thái độ khinh bỉ, giễu cợt, mỉa mai tên tướng giặc ngang tàng thua trận, mang danh đấng nam nhi mà nhút nhát, hèn mọn. Đồng thời cũng bộc lộ khát vọng thay đổi thân phận, lập nên sự nghiệp lẫy lừng với thân phận nữ nhi của Hồ Xuân Hương.

👉 Câu 4: Chủ đề của bài thơ là gì? Nêu một số căn cứ giúp em xác định được chủ đề đó.

Trả lời:

Chủ đề của bài thơ là khát vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ.

Một số căn cứ:

– Thái độ “bất kính” của tác giả khi đến đền Sầm Nghi Đống thể hiện qua hai câu thơ đầu

– Giả định của tác giả qua hai câu thơ cuối, thủ pháp nói giễu, thách thức “sự nghiệp anh hùng” của nam nhi, thách thức đối với thần linh.

=> Bài thơ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến.

👉 Câu 5: Thông qua bài thơ này, tác giả muốn gửi đến người đọc thông điệp gì?

Trả lời:

Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc thông qua bài thơ này là: Phụ nữ có khả năng làm được nhiều việc không kém nam giới nếu được giải phóng khỏi các quy ước, ràng buộc của xã hội phong kiến, nam – nữ cần được bình đẳng để phụ nữ có cơ hội thể hiện tài năng.

Mời bạn thưởng thức 👉 Thơ Hồ Xuân Hương Về Người Phụ Nữ

Giáo Án Đề Đền Sầm Nghi Đống

Nhằm giúp thầy, cô giáo có một tiết dạy học thành công thì thohay.vn chia sẽ mẫu giáo án của bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương bên dưới.

I. MỤC TIÊU

1. Mức độ/ yêu cầu cần đạt:

  • Xác định được thể thơ và cách gieo vần trong bài thơ.
  • Xác định được bố cục và chỉ ra các nét độc đáo về mạch cảm xúc, cảm hứng chủ đạo trong bài thơ.
  • Nhận biết và phân tích được nhan đề và vai trò của nhan đề trong việc thể hiện chủ đề của bài thơ.
  • Nhận biết và phân tích được các nét đặc sắc về nghệ thuật được tác giả sử dụng trong bài thơ Nôm Đường luật.
  • Hiểu được thái độ chế giễu, khinh bỉ của Bà Chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương với tên Thái Tú Sầm Nghi Đống.

2. Năng lực

a. Năng lực chung

  • Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác…

b. Năng lực riêng biệt

  • Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản.
  • Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về văn bản.
  • Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa truyện;
  • Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm nghệ thuật của truyện với các truyện có cùng chủ đề.

3. Phẩm chất

  • Giúp học sinh rèn luyện bản thân phát triển các phẩm chất tốt đẹp:
  • Trung thực khi tham gia các hoạt động.
  • Trách nhiệm bản thân với gia đình, quê hương.
  • Nhân ái có thái độ yêu mến, trân trọng nền văn học Việt Nam, trong đó có thơ trào phúng.

II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU

1. Chuẩn bị của giáo viên

  • Giáo án
  • Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi
  • Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh
  • Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp
  • Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà

2. Chuẩn bị của học sinh: SGK, SBT Ngữ văn 8, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG

a. Mục tiêu: Tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. HS khắc sâu kiến thức nội dung bài học.
b. Nội dung: GV đặt cho HS những câu hỏi gợi mở vấn đề.
c. Sản phẩm: Nhận thức và thái độ học tập của HS.
d. Tổ chức thực hiện:

– GV đặt câu hỏi

Em hiểu nghĩa từ “Đền” như thế nào? Em đã học hoặc đã đọc những bài thơ nào tôn thờ đền, chùa? Vậy “Đề đền Sầm Nghi Đống” có ý nghĩa như thế nào?

– HS trả lời theo suy nghĩ cá nhân (Sử dụng Bài thơ Lễ hội Đền Hùng – Tác giả: Phạm Tân Dân)

B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

Hoạt động 1: Đọc văn bản

a. Mục tiêu: Tìm hiểu khái quát về tác giả, tác phẩm.
b. Nội dung: GV sử dụng KT đặt câu hỏi để hỏi HS, sau đó kết nối với nội dung của tiết đọc – hiểu văn bản.
c. Sản phẩm học tập: – HS chia sẻ những hiểu biết của bản thân về Đèo Ngang.
d. Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
* NV 1.
Bước 1: chuyển giao nhiệm vụ
– GV chuyển giao nhiệm vụ: HS hoàn thành PHT số 1:
+ Trình bày hiểu biết của em về tác giả Hồ Xuân Hương.
+ Tìm hiểu chung về bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” thông qua PHT sau:
Phiếu học tập số 1
Đặc trưng thể loại thơ
Thế thơ 
Nhịp thơ
Gieo vần
Nhan đề
Cảm xúc chủ đạo
Đối, niêm
– HS nhận nhiệm vụ
Bước 2: HS trao đổi thảo luận, thực hiện nhiệm vụ
– HS nghe và đặt câu hỏi liên quan đến bài học.
Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
– HS trình bày sản phẩm thảo luận
– GV gọi hs nhận xét, bổ sung câu trả lời của bạn.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
– GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức → Ghi lên bảng.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả– Hồ Xuân Hương (?-?)
– Sống khoảng cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX
– Quê quán: Quỳnh Đôi – Quỳnh Lưu – Nghệ An.
– Là người nổi tiếng với những sáng tác thơ bằng chữ Nôm. Tổng cộng 50 bài.
– Chủ đề: Bênh vực, đề cao phụ nữ và để kích thói đạo đức giả của quan lại vua chúa.= > Được ví là Bà chúa thơ Nôm.
2. Tác phẩm
a. Đọc
b. Tìm hiểu chú thích
– Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
– Nhịp thơ: 4/3, 2/2/3 riêng câu thứ 2: 1/3/3
– Gieo vần: Vần chân (cuối câu 1,2,4)
– Nhan đề: Đề đền Sầm Nghi Đống
– Đối: câu 3 và 4, 5 và 6 đối với nhau
– Niêm: Câu 1 và 4, 2 và 3 niêm với nhau (Tiếng thứ 2 giống nhau về luật B hoặc T)
– Cảm xúc chủ đạo: Phê phán, chễ giễu, thiếu tôn trọng đối với tên giặc bại trận dưới tay của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Chủ đề bài thơ: Thông qua thái độ bất kính, coi thường Sầm Nghi Đống, HXH thể hiện khát vọng bình đẳng nam – nữ muốn lập lên công danh sự nghiệp vẻ vang cho người phụ nữ của HXH.

Xem thêm 👉 Đánh Cờ Của Hồ Xuân Hương [Nội dung + phân tích]

6+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống Hay Nhất

Đề đền Sầm Nghi Đống được xem là một trong những bài thơ đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác Hồ Xuân Hương. Dưới đây là những bài văn mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ hay nhất mà thohay.vn muốn giới thiệu đến bạn.

Phân Tích Đề Đền Sầm Nghi Đống Lớp 8 Hay Nhất

Hồ Xuân Hương là một trong số các nhà thơ nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Xuân Diệu đã từng nhận xét thơ Hồ Xuân Hương rằng: “Thứ thơ ấy không chịu ở trong khuôn khổ thông thường mà là một thứ thơ muốn lặn sâu về sự vật, vào những thứ đáy rất kín thẳm của tâm tư. Những thứ kín thẳm ấy không phải lạc lõng, cô đơn, cá nhân chủ nghĩa mà trái lại đã được hàng vạn người đồng tình thông cảm”.

Bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống là tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương. Tác phẩm nhắc người đọc nhớ đến một sự kiện lịch sử oanh liệt của dân tộc ta. Vào tết Kỷ Dậu 1789, khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh, đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, tướng giặc Sầm Nghi Đống khiếp sợ đã thắt cổ chết. Nhân một dịp đi qua đây, Hồ Xuân Hương đã sáng tác ra bài thơ này.

“Ghé mát trong ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu”

Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc. Trong cuộc tấn công vào Việt Nam 1789, ông được giao giữ đồn Khương Thượng Đống Đa. Khi bị vua Quang Trung cùng đội quân Tây Sơn đánh, Sầm Nghi Đống không thể chống cự được sức mạnh của nhân dân ta đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã đem đến cho đọc giả cái nhìn thiếu tôn trọng đối với ngôi đền:

“Ghé mát trong ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo”

Hồ Xuân Hương chỉ vô tình đi qua đây mà trông thấy đền thái thú Sầm Nghi Đống. Bà đã nhìn đền với một cái nhìn không mấy tôn trọng. Một vị tướng giặc đi sang đất nước Việt Nam để cướp nước lại nhục nhã, hèn hạ thắt cổ tự tử chết. “Ghé mát trông ngang” là một cái nhìn bằng nửa con mắt, chỉ thoáng nhìn qua.

Hồ Xuân Hương đã khéo léo lựa chọn từ ngữ làm cho câu văn mang tính khinh rẻ, miệt thị. Mặc dù là một ngôi đền thờ , đáng nhẽ nó phải toát lên vẻ uy nghi, linh thiêng. Là nơi người đời dựng lên để thể hiện thái độ tôn trọng, để ghi nhớ công ơn của những người có công gìn giữ đất nước.

Thế nhưng ở đây ngôi đền lại hiện lên là “cái bảng treo”, “thế đứng rất cheo leo”. Tính từ “cheo leo” thể hiện thế đứng không vững vàng, không có chỗ bấu víu, gây cảm giác nguy hiểm, dễ bị rơi ngã. Qua đó, ta thấy rõ được thái độ mỉa mai châm biếm. “Kìa” là đại từ để chỉ một vị trí từ xa, với hàm ý bất kính.

Biểu hiện cho sự ngạc nhiên đến khó hiểu. Hồ Xuân Hương không hiểu tại sao một tên tướng giặc xâm lược nước ta Sầm Nghi Đống lại được lập đền thờ như thế kia? Đây quả thực là một hành động vô nghĩa, nực cười của xã hội thời kỳ đó.

Hồ Xuân Hương không chỉ “ghé mát trông ngang”, chỉ trỏ trước ngôi đền, nữ sĩ còn dùng cách nói mỉa mai giễu cợt cái nhân cách tầm thường, hèn hạ của vị hổ tướng thiên triều:

Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng lòng của một người phụ nữ đa sầu đa cảm, chịu nhiều thiệt thòi, áp bức trong xã hội. Câu thơ “ví đây đổi phận làm trai được” nói lên nhu cầu đổi thân phận, không im lặng chịu sự áp đặt của xã hội lên thân phận người phụ nữ nữa. “Đây” là một đại từ nhân xưng, là cách bà tự xưng để sánh ngang hàng với vị tướng họ Sầm.

Một vị thái thú Sầm Nghi Đống lại bị Hồ Xuân Hương nói là đây. Đó là một thái độ quá coi thường, vị thái thú ấy không có một chút giá trị gì trong mắt bà. Hồ Xuân Hương lại tự đem mình ra để sánh ngang với vị tướng thiên triều về cái “sự anh hùng”. Câu kết “há bấy nhiêu” cho thấy Hồ Xuân Hương đã tự đề cao mình, hơn gấp nhiều lần vị tướng họ Sầm.

Qua cách dùng từ độc đáo cùng nghệ thuật so sánh bà đã nói lên thực trạng xã hội đen tối. Qua hai câu thơ trên, Hồ Xuân Hương chế giễu nhân cách tầm thường của những kẻ mày râu, những bậc quân tử bất tài vô dụng trong xã hội. Qua đó thể hiện thái độ mỉa mai, dè bỉu đối với sự nghiệp của đấng nam nhi.

Bằng việc sử dụng các từ ngữ, hình ảnh quen thuộc cùng với các biện pháp nghệ thuật hết sức độc đáo, bài thơ đã thể hiện sự khao khát của người phụ nữ về một xã hội công bằng. Khao khát xây dựng một sự nghiệp vĩ đại cho nước nhà.

“Đề đền Sầm Nghi Đống” viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với giọng điệu, cách nhìn đa chiều cho thấy một lối viết văn trào phúng tài hoa. Hồ Xuân Hương đã đưa những lời thơ hóm hỉnh, đa nghĩa làm nổi bật lên phong cách sáng tác của bà chúa thơ Nôm.

Mời bạn xem thêm các bài văn mẫu 👉 Giới Thiệu Về Một Cuốn Sách (Truyện) [Hay Nhất]

Phân Tích Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống Ngắn Gọn

Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ nổi tiếng. Một trong những tác phẩm hay của bà có thể kể đến Đề đền Sầm Nghi Đống.

Trước hết, Sầm Nghi Đống là tướng giặc theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống đã tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Tuy nhiên, theo tác giả bài thơ, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền.

“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo”

Cụm từ “ghé mắt” được hiểu là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn. “Ghé mắt trông ngang” mà không phải là “trông lên” thể hiện một thái độ coi thường. Hình ảnh “đền Thái thú đứng cheo leo” cho thấy thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ xuống. Chữ “kìa” gợi ra động tác chỉ trỏ, không được tôn trọng. Rõ ràng, thái độ được bộc lộ ở đây là coi thường, bất kính. Hai câu thơ mở đầu đã bác bỏ hoàn toàn tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.

Ở hai câu thơ tiếp theo, Hồ Xuân Hương lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ trong đền:

“Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.”

Ý nghĩ đổi phận làm trai thể hiện thái độ mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến. Nhưng mặt khác, nó còn thể hiện suy nghĩ không an phận của tác giả. Nếu như có thể đổi phận làm trai, Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm được sự nghiệp lớn lao, trở thành bậc anh hùng. Từ đó, tác giả muốn chế giễu, phê phán tướng giặc Sầm Nghi Đống chỉ có sự nghiệp bấy nhiêu thôi.

Có thể thấy, bài thơ bộc lộ mong muốn được bình đẳng với phụ nữ, khát vọng lập nên sự nghiệp lớn lao. Thái độ “bất kính” trong bài thơ dường như là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ. Bài thơ thể hiện tư tưởng mới mẻ, hiếm có trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, cho thấy cái tôi mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Tác giả đã sử dụng thủ pháp trào phúng nói giễu, cùng với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã thể hiện được nội dung của bài thơ.

Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ giàu giá trị, mang đậm phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương.

Phân Tích Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống Của Hồ Xuân Hương Sinh Động

Đề thơ là một phong tục của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành. Khách du sơn ngoạn thủy, thăm thú thắng cảnh đền đài, hứng làm thơ, vung bút đề thơ để lưu bút tích và bày tỏ cảm xúc, chí khí của mình. Ta đã biết tương truyền bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Liệu để ở lầu Hoàng Hạc đã làm thơ tiên Lý Bạch bối rối. Hoặc Đề Đô thánh nam trang của Thôi Hộ đề trên cánh của một trang văn vắng bóng người dep. Ở nước ta, tục này cũng thịnh hành, trên nhiều hang động đẹp đều lưu bút tích thi nhân.

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.

Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc, tùy tướng của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay.

Theo sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, thì ghi chú có hơi khác: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi thất thủ, Đống tự tử. Về sau có đền thờ ở gò láng Ngọc Hồi.

Nhân một dịp đi qua, Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ này. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã biểu thị một cái nhìn thiếu trân trọng đối với ngôi đền:

Ghé mát trong ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Những ai được lập đền, dù là quân giặc, đều được coi là thần, đề mọi người đến thắp hương cúng bái, cầu vọng. Nhưng Hồ Xuân Hương thì chỉ ghé mắt trông ngang. Ghé mắt, theo Từ điển Tiếng Việt, là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần tuý là động tác, không hàm ý kính trọng. Ghé mắt trông ngang chớ không phải trông lên, đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại. Đền Thái, thú đứng cheo leo hẳn là đền xây trên gò, và người ta không dễ trông ngang.

Rõ ràng Hồ Xuân Hương cố tình chọn một cái nhìn coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này. Chữ cheo leo là một từ đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Chữ kìa cũng hàm ý bất kính, bởi nó kèm theo các động tác chỉ trỏ, mà đối với các nơi đền đài linh thiêng người đến viếng không được nói to, giơ tay chỉ trỏ như đối với đồ vật. Với hai câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.

Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn ngang chỉ trỏ trước một ngôi đền, bà lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ nữa:

Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Cái ý nghĩa đổi phận làm trai đã thể hiện cái mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến đã áp đặt vào ý thức nhà thơ. Nhưng mặt khác, nó cũng thế hiện nhu cầu đổi phận, không chịu an phận của bà. Cái cách bà tự xưng là đây để đổi lại với Sầm Nghi Đống là đấy, thì dù bà chưa đổi phận được, bà cũng đã rất coi thường vị nam nhi họ sầm.

Câu kết há bấy nhiêu có thể nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của sầm, song đúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu: sự nghiệp của ông có bấy nhiêu thôi ư, nó quá ít đối với một đấng nam nhi đấy!

Bài thơ là một khái vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ “bất kính” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các “sự nghiệp anh hùng” của nam nhi, thách thức đối với thần linh. Bài thơ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến.

Mời bạn xem thêm 👉 Viết Bài Văn Kể Lại Một Chuyến Đi Đáng Nhớ Của Em (20+ Mẫu)

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống Siêu Hay

Bài thơ mang lại một hình ảnh rõ nét về một sự kiện lịch sử quan trọng và hùng tráng của dân tộc Việt Nam. Vào Tết Kỷ Dậu năm 1789, vua Quang Trung đã dũng cảm đánh bại quân Thanh, góp phần thúc đẩy sự thống nhất và độc lập cho nước ta. Cảnh tượng xác quân Thanh chất cao như núi tại gò Đống Đa thể hiện sức mạnh và quyết tâm của dân tộc.

Sự diễn tả về việc Hồ Xuân Hương đi qua ngôi đền do tướng giặc Hoá Kiều xây dựng là một tình huống đầy ý nghĩa. Bài thơ tiếp tục phác họa một thái độ khinh rẻ, thể hiện sự mỉa mai thông qua lời thơ sắc bén và mùi hài hước.

Hồ Xuân Hương, trong một tình huống tình cờ, đã “nhìn ngang” và bất ngờ “nhìn thấy” ngôi đền của tướng quân Thái thú. Cái cách bà tả ngôi đền với “bảng treo” và thế đứng “cheo leo” tạo ra một hình ảnh mạnh mẽ về sự vụng về và thất thế của ngôi đền này.

Bài thơ cũng đưa ra một lời nhắc nhở sâu sắc về tính nhân bản và khí thế của một dân tộc không ngừng vươn lên vượt qua những khó khăn và thử thách.

“Kìa đền Thái thú đứng cheo leo”

“Kìa” lời dùng để chỉ vật ở phía xa. Trong bối cảnh này, “kìa” thể hiện sự ngạc nhiên và thắc mắc. Làm sao Sầm Nghi Đống, người từng trải qua bi kịch và thất thế, lại được tôn thờ và lập đền? Điều này thực sự khó hiểu và mang nhiều yếu tố hài hước.

Những câu đầu tiên phản ánh quan điểm khinh rẻ và phủ nhận, trong khi hai câu cuối đưa ra một sự giả định sâu sắc và thú vị. Hồ Xuân Hương đã sử dụng lối nói mỉa mai, châm biếm của dân gian để gỉa định nhân cách tầm thường và hèn hạ của vị “tướng quân” trong triều đình.

“Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”

Nhận thức của Hồ Xuân Hương về việc sử dụng từ ngôn trong bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” là khá sâu xa. Bà sử dụng từ “đây” trong đối thoại để thể hiện sự suồng sã và thân mật, nhưng khi nói chuyện với quan Thái thú thần linh, cách bà xưng tỏ đã thể hiện sự xược xệch và coi thường. Điều này thật đáng ngạc nhiên và đầy ngang tàng.

Nữ sĩ còn so sánh bản thân, một người phụ nữ Giao Chỉ, với tướng Thiên triều về khía cạnh “sự anh hùng”. Hồ Xuân Hương không dùng cụm từ trang trọng “sự nghiệp anh hùng”, mà thay vào đó, bà hỏi một cách nhẹ nhàng: “Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”. Điều này nhấn mạnh lại cái chết đắng lòng, nhục nhã và đầy hèn hạ của tướng giặc. Câu hỏi này đầy ý nghĩa, xuất phát từ sự giễu cợt và mang tính hài hước tăng lên mười lần.

Bài thơ cũng chứa đựng một ý nghĩa sâu xa hơn. Hồ Xuân Hương muốn đánh giá nhân cách và phẩm hạnh “sự anh hùng” của Sầm Nghi Đống, đồng thời tôn vinh tài năng và phẩm chất của phụ nữ miền Nam. Bà đã sử dụng lời nói mỉa mai để châm biếm nhân cách và cách cư xử bình thường của những người đàn ông, những “trang nam nhi”, “bậc quân tử” không có tài năng và vô hạnh trong xã hội.

Bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” thực sự là một tác phẩm độc đáo, nơi ngôn ngữ thất ngôn tứ tuyệt được thể hiện với độ sâu đặc biệt. Hồ Xuân Hương đã đứng trên quan điểm dân tộc để viết ra bức tranh sắc nét của cuộc đời tướng giặc Sầm Nghi Đống.

Tham khảo thêm 👉 Viết Bài Văn Nghị Luận Về Một Vấn Đề Đời Sống 

Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống Ngắn Hay

Sầm Nghi Đống là một tướng trong đội quân xâm lược nhà Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh sang đánh nước ta. Mùa xuân 1789, khi vua Quang Trung tiến quân vào Thăng Long, sầm Nghi Đống đang trấn thủ ở đồn Ngọc Hồi bị đánh tan tành. Y đã treo cổ tự tử, kết thúc đời làm tướng của mình.

Thể theo nguyện vọng của Hoa kiều, và truyền thống nhân đạo của dân tộc ta, vua Quãng Trung cho phép lập một đền thờ. Trước khi chết, hẳn viên tướng họ Sam không ngờ rằng mấy chục năm sau có một người phụ nữ Việt Nam đã ngạo mạn đề vào đền mấy câu thơ sau:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiễu.

Bài thơ không những thể hiện cái nhìn khinh rẻ một viên tướng xâm lược, mà còn nói lên khát vọng của bản thân tác giả và phụ nữ nói chung về sự bình đẳng nam nữ.

Hai câu đầu của bài thơ nói về ngôi đền. Đền là một nơi để thờ, lễ bái thành kính. Nhưng ở đây nhà thơ tỏ ra mình không hề có ý định đến vãn cảnh, càng không phải để lễ đền. Vì một lí do nào tình cờ bà đi ngang và tiện thể nhìn qua:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo.

“Ghé mắt” nghĩa là không phải quay sang để nhìn cho rõ mà chỉ là nhìn nghiêng, nhìn chéo, có thể chỉ “liếc” qua. Đã “ghé mắt” lại “trông ngang”! Trông ngang vì nó chỉ ngang tầm với mình thôi mặc dù đó la “viên tướng”. Nhờ cái bảng treo, nữ sĩ mới biết đây là đền của “Thái thú”. Cách nhìn, cách thấy của Hồ Xuân Hương tỏ ra khinh thị, ngạo mạn. Ngôi đền dưới con mắt của Hồ Xuân Hương tiếp tục hiện ra với những nhận xét thật độc đáo:

Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.

Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên: “Kìa”. Hóa ra đó là đền sầm Nghi Đống, quan Thái thú xâm lược. Ngôi đền được xây trên cao, nhưng nó chẳng tạo ra được sự uy nghi, hùng vĩ đối với nữ sĩ, không thể khiến bà đứng ngước lên một cách kính cẩn mà bà chỉ thấy nó “đứng cheo leo”.

Câu thơ đem đến cho người đọc cảm giác ngôi đền đó chẳng có gì vững chãi, đàng hoàng. Chữ “kìa” đầu câu, còn nói lên điều kinh ngạc của nhà thơ: đối với con người này, tại sao lại lập đền thờ? Tại sao lại biến ông ta thành “thần thánh’? Thực ra ở y có gì đáng để thờ như vậy đâu!… Tiếp đến hai câu sau, Hồ Xuân Hương không còn úp mở gì nữa và tỏ rõ thái độ “khinh ra mặt”:

Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

Đem chính mình ra so sánh với một ông thần là một điều “báng bổ bất kính”, nhưng còn coi mình hơn ông thần ấy thì sự bất kính lên đến đĩnh cao. Đại từ ngôi thứ nhất “đây” thường chỉ dùng để xưng hô trong trường hợp những người ngang hàng, hoặc là thân mật hoặc là coi thường. Đối với những người được thờ cúng coi như thánh, thần mà xưng như thế thì rất “xược”.

Ý thơ thật là độc đáo và táo bạo! Nhà thơ đã lột trần chân tướng và giá trị thật của sầm Nghi Đống rằng hắn không đáng măt nam nhi! Chưa cần nói đến tội xâm lược mà ngay việc cầm quân, hẩn cũng tỏ ra không đủ tài, đủ sức chỉ huy, đến nỗi quân sĩ bị đối phương đánh tan tác, cuối cùng phải treo cổ tự tử cho khỏi nhục!

Kẻ “anh hùng” đã tùng ra trận mạc đang được thờ trong đền kia thực ra còn không có tài không bằng một người đàn bà! Chỉ can dùng cụm từ “há bấy nhiêu”, Hồ Xuân Hương đã chỉ ra sự nghiệp một đời của “quan Thái thú” thảm hại đến nhường nào.

Với bốn câu thơ, Hồ Xuân Hương đã hạ bệ được một ông thần gọn gàng, duyên dáng mà cũng đanh đá, nghịch ngợm làm sao!

Hồ Xuân Hương luôn tự ý thức được tài năng, phẩm chất, giá trị của mình, ngay trong thái độ đối với các bậc mày râu. Với phong cách trào phúng, bà đã phê phán sự bất tài, sự kém cỏi của các bậc tự xưng là “quân tử”, “anh hùng”. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ nằm ở chỗ, nó không dừng ở việc đánh giá, chê bai một viên tướng giăc mà nhà thơ muốn nói lên một tâm sự bức thiết hơn: khát vọng bình đắng nam và nữ.

Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ độc đáo không chỉ vì giá trị tư tưởng và cách đặt vấn đề táo bạo của nó, mà còn vì nghệ thuật thơ xuất sắc… Bài thơ này xứng là thơ của “bà chúa thơ Nôm”. Cẩch sử dụng từ thuần Việt, sắc sảo, sinh động, có sức gợi tả sâu sắc, kết cấu chặt chẽ, đầy kịch tính, gây nhiều hứng thú cho người đọc.

Tham khảo thêm 🌞 Trình Bày Ý Kiến Về Một Vấn Đề Xã Hội Lớp 8 🌞 [16+ Mẫu Hay Nhất]

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống Điểm Cao

Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng. Thơ bà vừa hóm hỉnh, vui tươ vừa có sức mạnh đả kích sâu sắc. Một trong những tác phẩm thể hiện phong cách thơ ấy là bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống.

Viết về bọn Thái thú phương Bắc, bọn tướng tá xâm lược của Thiên triều thì bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương là đặc sắc nhất, thú vị nhất:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo;
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?

Bài thơ nhắc người đọc nhớ đến một sự kiện lịch sử oanh liệt của dân tộc ta. Tết Kỷ Dậu 1789, Vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Xác giặc chất cao như núi tại gò Đống Đa: “Thành Nam thập nhị kình nghê quán” (Phía Nam thành (Thăng Long) mười hai gò xác giặc).

Đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, tướng giặc Sầm Nghi Đống thất trận, khiếp đảm đã thắt cổ chết thảm hại, Hàng vạn giặc bị giết: “Một trận rồng lửa giặc tan tành” (Ngô Ngọc Du). Mấy chục năm sau, Hồ Xuân Hương đi qua ngôi đền tên tướng giặc Sầm Nghi Đống do Hoa kiều dựng lên, tức cảnh làm bài thơ này. Bài thơ biểu lộ một thái độ khinh bỉ được thể hiện bằng giọng thơ chế giễu đa nghĩa.

Hai câu đầu tả ngôi đền và cách nhìn của nữ sĩ. Hồ Xuân Hương nhân tiện đi qua, vô tình “trông ngang” mà chợt “thấy” ngôi đền của quan Thái thú. Bà mỉm cười và nghĩ: một tướng giặc đi cướp nước người thất trận (vô dũng, vô mưu) đã hèn hạ thắt cổ chết. “Trăm năm bia đá chẳng mòn – Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Bà ứng khẩu thành thơ: “Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo”. “Ghé mắt trông ngang” là một cái nhìn bằng nửa con mắt, khinh dẻ.

Ngôn từ và giọng điệu thơ bỡn cợt, khinh thị, sắc nhọn. Nữ sĩ tả qua ngôi đền, tả thực bằng hai nét: mặt tiền là cái “bảng treo”; thế đứng của ngôi đền rất “cheo leo”, không chút uy nghi, vững vàng, lại heo hút! Những đền đài tráng lệ thường treo đại tự, hoành phi sơn son thiếp vàng, nhưng đền Sầm Nghi Đống chỉ có cái “bảng treo”, tầm thường quá!

Một nét vẽ châm biếm thân tình – Hai tiếng “Thái thú” là một lời kết tội đanh thép đối với bọn quan lại tướng tá Thiên Triều, lũ con cháu của Tô Định, Mã Viện… ngày xưa. Giọng điệu mỉa mai bật lên chính ở 2 tiếng “Thái thú” ấy: Kìa đền Thái thú đứng cheo leo “Kìa” là đại từ để trỏ một vật từ xa.

Trong văn cảnh từ “kìa” biểu cảm sự ngạc nhiên đến khó hiểu. Sầm Nghi Đống cầm quân bị đánh tơi tả, thắt cổ chết nhục nhã mà nay lại được đền thờ ư? Khó hiểu quá! Hài hước quá! Nếu hai câu đầu nói lên một cách nhìn, một cách tả khinh rẻ, phủ định thì hai câu cuối nêu lên sự giả định – so sánh hết sức sâu sắc thú vị.

Nữ sĩ vận dụng cách nói mỉa mai, nói kháy của dân gian để chế giễu cái nhân cách tầm thường, đớn hèn của vị “hổ tướng” thiên triều: Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu? “Đây” là đại từ nhân xưng, chỉ dùng trong đối ngoại suồng sã, thân mật giữa những người cùng vai phải lứa, ngang hàng.

Đối thoại với quan Thái thú thần linh mà nữ si xưng là “đây”, thế là xược, rất coi thường. Ngang tàng quá! Rồi nữ sĩ lại đem mình ra, một người đàn bà Giao Chỉ, so sánh với vị tướng Thiên triều về cái “sự anh hùng” mới lạ chứ? Hồ Xuân Hương không viết: “sự nghiệp anh hùng” vì trang trọng, không hợp giọng điệu và thái độ cần có nên có đối với vị “thần” ấy. “Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” – câu thơ châm biếm nhắc lại cái chết nhục nhã, hèn nhát của tên tướng giặc phương Bắc.

Một câu hỏi tu từ rất “đắt”, xuất hiện đúng lúc, đặt đúng chỗ làm cho sự giễu cợt, hài hước nhân lên mười lần. Bài thơ còn mang một hàm nghĩa sâu xa. Đánh giá nhân cách – sự anh hùng – của Sầm Nghi Đống, nữ sĩ muốn nói lên “tầm vóc” của nữ sĩ phương Nam. Bà đã ý thức và tự hào về tài năng, phẩm hạnh của mình, của giới mình. Bà đã chế giễu nhân cách tầm thường, cách xử sự tầm thường của những kẻ mày râu, những “trang nam nhi”, “bậc quân tử” bất tài, vô hạnh trong xã hội.

Đề đền Sầm Nghi Đống là bài thơ tức cảnh độc đáo. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hoá cao độ từ giọng điệu, ngôn từ đến ý thơ. Cách nhìn, cách tả, cách so sánh và suy nghĩ cho thấy một lối nói trào phúng, sắc nhọn. Bài thơ đa nghĩa, hóm hỉnh, sâu sắc. Hồ Xuân Hương đã đứng trên lập trường dân tộc để tức cảnh làm thơ Đề đền Sầm Nghi Đống.

Viết một bình luận