Thơ Nôm Hồ Xuân Hương Hay: 37+ Bài Thơ Chữ Hán Nổi Tiếng

Những Bài Thơ Nôm Hồ Xuân Hương Nổi Tiếng Nhất ❤️️ Chùm Thơ Chữ Hán Hay ✅ Tổng Hợp Những Tập Thơ Xuất Sắc Nhất Của Bà Chúa Thơ Nôm Dưới Đây.

Những Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Nổi Tiếng

Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là nhà thơ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng. Mời các ban đọc thưởng thức ngay Những Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Nổi Tiếng sau đây:

Bánh Trôi Nước

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn.
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Bỡn bà lang khóc chồng

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên nõi khóc tì ti
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo
Cay đắng chàng ơi vị quế chi
Thạch nhũ, trần bì sao để lại
Quy thân, liên nhục tẩm mang đi
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ
Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy.

Cái kiếp tu hành

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo

Cái nợ chồng con

Hỡi chị em ơi có biết không
Một bên con khóc một bên chồng
Bố cu lổm ngổm bò trên bụng
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông
Tất cả những là thu với vén
Vội vàng nào những bống cùng bông
Chồng con cái nợ là như thế
Hỡi chị em ơi có biết không

Chùa Quán Sứ

Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo
Chày kinh, tiểu đế suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo

Chợ Trời chùa Thầy

Hoá công xây đắp đã bao đời,
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời.
Buổi sớm gió đưa trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bày hàng hoa quả tứ mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi mua danh nào những kẻ,
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.

Cảnh chùa ban đêm

Tình cảnh ấy, nước non này
Dẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đây
Hành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn
Thứu Lĩnh đen trùm một thức mây
Lấp ló đầu non vầng nguyệt chếch
Phất phơ sườn núi lá thu bay
Hỡi người quân tử đi đâu đó
Thấy cảnh sao mà đứng lượm tay

Cảnh thu

Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu giốc giang sơn say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

Ngoài bà chúa thơ nômGiới thiệu đến bạn đọc chùm 🌻 Thơ Hồ Xuân Hương Châm Biếm 🌻 trào phúng

Tuyển Tập Chùm Thơ Chữ Nôm Hồ Xuân Hương Bất Hủ

Có thể nói nét nổi bật trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ. Cùng cảm nhận rõ hơn qua Tuyển Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Đặc Sắc được Thohay.vn sưu tầm dưới đây nhé!

Dệt cửi

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng chắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu

Dỗ người đàn bà khóc chồng

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông
Ai về nhắn nhủ đàn em bé
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung

Đá Ông Chồng Bà Chồng

Khéo khéo bày trò tạo hoá công
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt dưới sương pha đượm má hồng
Gan nghĩa dãi ra cùng tuế nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đã kia còn biết xuân già giặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung

Đài Khán Xuân

Êm ái chiều xuân tới khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây chín rõ mười

Đánh đu

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân hạc duỗi song song
Chơi xuân có biết xuân chăng tá
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không

Đèo Ba Dội

Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt suơng gieo
Hiền nhân quan tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo

Đền Sầm Nghi Đống

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận là trai nhỉ
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!

Động Hương Tích

Bày đặt kia ai khéo khéo phòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
Người quen cõi Phật xen chân xoạc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
Rõ khéo trời già đến dở dom

Giếng thơi

Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nuớc trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai cũng biết,
Đố ai dám thả nạ dòng dòng.

Hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm

Đón đọc thêm 🔻 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du 🔻 bất hủ

Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ

Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa Thơ Nôm”, bởi vậy Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương luôn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho các bạn đọc, mỗi bài thơ đều là những tâm tư tình cảm mà tác giả gửi gắm vào.

Hang Thánh Hoá

Khen thay con tạo khéo khôn phàm
Một đố giương ra biết mấy ngoàm
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lách khe nước rỉ mó lam nham
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ
Hai tiểu lưng tròn đứng sau am
Đến mới biết là Hang Thánh Hoá
Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!

Hỏi trăng

Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi?
Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?
Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?

Khóc ông phủ Vĩnh Tường

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
Chôn chặt văn chuơng ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn khép lại thôi.
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc,
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!

Không chồng mà chửa

Cả nể cho nên hoá dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu trọc
Phận liễu sao đà nảy nét ngang
Cái nghĩa trăm năm chành nhớ chửa
Mảnh tình một kiếp thiếp xin mang
Quản bao miệng thế lời chệnh lệch
Không có, nhưng mà có, mới ngoan

Kẽm Trống

Hai bên thì núi giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không?
Gió giật sườn non khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long ong
Ở trong hang núi còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng

Làm lẽ

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có như không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong

Lũ ngẩn ngơ

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ông non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa

Miếng trầu

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi

Phường lòi tói

Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.

Quan thị

Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình vứt đi đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Đố ai biết đó vông hay trốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Đã thế thì thôi thôi mặc thế
Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu

Bật mí cho bạn đọc tập 💙 Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi 💙 nổi tiếng

Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ

Tiếp theo là Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ, mời bạn đọc cùng đón đọc thêm nhé!

Sư bị ong châm

Nào nón tu lờ nào mũ thâm
Đi đâu chẳng đội để ong châm
Đầu sư há phải gì… bà cốt
Bá ngọ con ông bé cái nhầm

Sư hổ mang

Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc áo không tà
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi núp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà

Tát nước

Đang cơn nắng nực chợt mưa tè
Rủ chị em ra tát nước khe
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve
Ham việc làm ăn quên cả mệt
Dạng hang một lúc đã đầy phè

Thiếu nữ ngủ ngày

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm,
Một mạch Đào Nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.

Tranh tố nữ

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách nguời thợ vẽ khéo vô tình.

Trăng thu

Một trái trăng thu chín mõm mòm
Này vừng quế đỏ, đỏ lòm lom
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm

Trống thủng

Của em bưng bít vẫn bùi ngùi
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi.
Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,
Đêm thanh đánh lộn một đôi hồi.
Khi dang thẳng cánh bù khi cúi,
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.
Nhắn nhủ ai về thương lấy với,
Thịt da ai cũng thế mà thôi.

Tự tình I

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!

Tự tình II

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!

Tự tình III

Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,
Giữa dòng khao khát nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

Vịnh cái quạt

Mười bảy hay là mười tám đây,
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào, cắm một cay.
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.

Vịnh cái quạt II

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dán tự bao giờ.
Chành ra ba góc da còn thiếu.
Khép lại đôi bên thị vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?

Gửi tặng bạn chùm 💜 Thơ Chữ Hán Của Hồ Chí Minh 💜 hay nhất

Chùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất

Đừng bỏ lỡ Chùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất được Thohay.vn sưu tầm sau đây:

Độ Hoa Phong – 渡華封

片帆無急渡華封,
峭壁丹崖出水中。
水勢每隨山面轉,
山形斜靠水門通。
魚龍雜處秋煙薄,
鷗鷺齊飛日照紅。
玉洞雲房三百六,
不知誰是水晶宮。

Phiên âm Hán Việt

Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,
Tiễu bích đan nhai xuất thủy trung.
Thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển,
Sơn hình tà kháo thủy môn thông.
Ngư long tạp xử thu yên bạc,
Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng.
Ngọc động vân phòng tam bách lục
Bất tri thùy thị Thủy Tinh cung

Dịch nghĩa

Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong,
Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng lên.
Thế nước tùy chỗ theo mặt núi mà biến chuyển.
Hình núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông qua.
Cá rồng lẫn lộn, tăm khuất dưới từng hơi nước mỏng mùa thu.
Âu cò cùng bay trong ánh đỏ mặt trời chiều.
Cõi Tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây,
Đây không biết chốn nào là cung Thủy Tinh.

過京瑤祠懷古 – Quá Khinh Dao từ hoài cổ

山海桑蓬古已來,
長途著腳乍關懷。
庭前象馬銀雙鎖,
宮裡衣冠玉一堆。
草木暗隨冬雪老,
江山還為昔人哀。
皇天有意開新運,
風捲紅塵拂劫灰。

Phiên âm Hán Việt

Sơn hải tang bồng cổ dĩ lai,
Trường đồ trước cước sạ quan hoài.
Đình tiền tượng mã ngân song toả,
Cung lý y quan ngọc nhất đôi.
Thảo mộc ám tuỳ đông tuyết lão,
Giang sơn hoàn vị tích nhân ai.
Hoàng thiên hữu ý khai tân vận,
Phong quyển hồng trần phất kiếp hôi.

Hải ốc trù – 海屋籌

蘭橈隨意漾中流,
景比山陽更覺幽。
生面獨開雲露骨,
斷鼇爭崎客回頭。
馮夷疊作擎天柱,
龍女添為海屋籌。
大抵始皇鞭未及,
古留南甸鞏金甌。

Phiên âm Hán Việt

Lan nhiêu tuỳ ý dạng trung lưu
Cảnh tỉ sơn dương cánh giác u
Sinh diện độc khai vân lộ cốt
Đoạn ngao tranh kị khách hồi đầu
Bằng Di diệp tác kình thiên trụ
Long Nữ thiêm vi hải ốc trù
Đại để Thuỷ Hoàng tiên vị cập
Cố lưu Nam điện củng kim âu.

Dịch nghĩa

Phe phẩy mái chèo, tuỳ thích cỡi thuyền dong chơi giữa duềnh,
Qua gần chân núi lại thấy cảnh càng vắng.
Mây thoảng qua, núi lộ mặt, thấy đá chơ vơ,
Những khối lèn dựng cao vút khi qua dưới, khách phải vếch trông.
Hoặc là hải thần Bằng Di đã dựng cột để chống trời nghiêng,
Hoặc là hải thần Long Nữ đã nối thêm cây nêu trỏ cung điện dưới bể.
Ý chừng vua Tần Thuỷ Hoàng chưa từng đi kinh lí đến chỗ này,
Vì trời vốn dành nó lại ở xứ Nam này để làm vững chắc cơ đồ nước ta.

半枕書懷 – Bán chẩm thư hoài

半天風雨半天晴,
旅況淒涼入夢醒。
吟客有神來色相,
情魔無力卻愁兵。
衾中半瘦風流骨,
榻上平分海角情。
一片無聊言不盡,
塵寰安得眼雙清。

Phiên âm Hán Việt

Bán thiên phong vũ bán thiên tình,
Lữ huống thê lương nhập mộng tinh.
Ngâm khách hữu thần lai sắc tướng,
Tình ma vô lực khước sầu binh.
Khâm trung bán sấu phong lưu cốt,
Tháp thượng bình phân hải giác tình.
Nhất phiến vô liêu ngôn bất tận,
Trần hoàn an đắc nhãn song thanh.

Dịch nghĩa

Nửa trời mưa gió, nửa trời tạnh quang
Tình cảnh ở quán trọ thê lương mê rồi tỉnh
Khách ngâm thơ có thần đến dáng vẻ
Ma tình không sức rụt vũ khí buồn
Lúc ngủ (trong chăn) thì hao nửa thân mình phong nhã
Khi “thức” (trên giường) thì chia đều biển ái ân
Một cảnh không hứng thú không tả hết
Cõi trần thường thích cả đôi mắt xanh.

鎮北寺 – Đề Trấn Quốc tự

莊臨誰是景中人,
細細清風扇扇薰。
水月波籠蓮插茁,
香煙寶憩露連雲。
洗空塵慮花含態,
喚醒迷途草亦春。
到景令人回首望,
東南拂袖鴈成群。

Phiên âm Hán Việt

Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân,
Tế tế thanh phong phiến phiến huân.
Thuỷ nguyệt ba lung liên tháp truất,
Hương yên bảo thoại lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thoại,
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Ðáo cảnh linh nhân hồi thủ vọng,
Ðông nam phất tụ nhạn thành quần.

Dịch nghĩa

Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh,
Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi thơm.
Trăng nước sóng vờn sen chen nụ,
Khói hương tàn bám móc liền mây.
Tẩy sạch trần tục phiền não, hoa e ấp,
Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc xuân.
Gặp cảnh khuyên người quay đầu ngắm,
Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn.

眼放青 – Nhãn phóng thanh

微茫螺黛拓滄溟,
到此須教眼放青。
白水磨成千刃劍,
寒潭飛落一天星。
怪形未已標三甲,
神力奚庸鑿五丁。
仿佛雲頹頭暗點,
高僧應有坐談經。

Phiên âm Hán Việt

Vi mang loa đại tháp thương minh,
Đáo thử tu giao nhãn phóng thanh.
Bạch thuỷ ma thành thiên nhẫn kiếm,
Hàn đàm phi lạc nhất thiên tinh.
Quái hình vị dĩ tiêu tam giáp,
Thần lực hề dung tạc Ngũ Đinh.
Phảng phất vân đồi đầu ám điểm,
Cao tăng ưng hữu toạ đàm kinh.

Dịch nghĩa

Mầu lam nhạt mờ mờ nối trời xa với bể xa,
Đến đây, tưởng như trong aắt toả sắc xanh ra.
Nước bạc mài đá thành nghìn mũi gươm nhọn,
Giữa đầm vắng, hình như có một sao trời sa xuống.
Vách đá hình kì quái không dễ dùng làm bảng đề danh kẻ đỗ đại khoa,
Nếu không sức thần thì sao tạc nổi tượng lực sĩ hùng dũng như vậy.
Phảng phất mây xuống thấp, phía trên đã xẩm tối,
Chắc đã có vị cao tăng ngồi yên lặng tụng kinh.

塞外聞砧 – Tái ngoại văn châm

倏聞江鼓戍江城,
忽得寒砧奏耳聽。
續斷霜中驚雁陣,
依稀壁下亂虫聲。
征夫欲破深閨夢,
遊子還添故國情。
得意不知勤苦藥,
管弦韻韻間雞鳴。

Phiên âm Hán Việt

Thúc văn giang cổ thú giang thành,
Hốt đắc hàn châm tấu nhĩ thinh.
Tục đoạn sương trung kinh nhạn trận,
Y hy bích hạ loạn trùng thanh.
Chinh phu dục phá thâm khuê mộng,
Du tử hoàn thiêm cố quốc tình.
Đắc ý bất tri cần khổ dược,
Quản huyền vận vận gián kê minh.

Dịch nghĩa

Chợt nghe tiếng trống ở thành bên sông
Bất ngờ hợp với tiếng chày lạnh nhịp bên tai
Lúc vang lúc bặt trong màn sương khiến bầy nhạn kinh sợ
Phảng phất dưới chân tường dế kêu loạn xạ
Người lính muốn phá giấc mộng nơi khuê phòng (của vợ)
Khách dạo thuyền càng thêm nặng tình cố quốc
Mải mê suy nghĩ mà không hay có liều thuốc chữa khổ luỵ
Tiếng sáo hoà với tiếng đàn chen lẫn tiếng gà gáy bình minh.

故京秋日 – Cố kinh thu nhật

冉冉征塵秋月斜,
一盃還送舊繁華。
一蘇水潦西流盡,
三島晴光北望賒。
燈月青氈悲故物,
霜前白露落誰家。
此來相對重相憶,
客久年深奈若何。

Phiên âm Hán Việt

Nhiễm nhiễm chinh trần thu nguyệt tà,
Nhất bôi hoàn tống cựu phồn hoa.
Nhất Tô thuỷ lạo tây lưu tận,
Tam Đảo tình quang bắc vọng xa.
Đăng nguyệt thanh chiên bi cố vật,
Sương tiền bạch lộ lạc thuỳ gia.
Thử lai tương đối trùng tương ức,
Khách cửu niên thâm nại nhược hà.

秋日即事 – Thu nhật tức sự

西風昨夜壓寒枝,
籬菊蕭疏雪未飛。
密雨斜篩紛水面,
孤雲描織遠山眉。
蓮餘殘夏留春帶,
柳徬饒香老翠衣。
啼鳥莫非知我況,
聲聲長動故鄉思。

Phiên âm Hán Việt

Tây phong tạc dạ áp hàn chi,
Ly cúc tiêu sơ tuyết vị phi.
Mật vũ tà si phân thuỷ diện,
Cô vân miêu chức viễn sơn my.
Liên dư tàn hạ lưu xuân đới,
Liễu bạng nhiêu hương lão thuý y.
Đề điểu mạc phi tri ngã huống,
Thanh thanh trường động cố hương ty (tư).

Dịch nghĩa

Đêm qua gió tây xô dạt cành cây
Dậu cúc lưa thưa tuyết chưa bay
Mưa lớn nghiêng đổ khuấy động mặt nước (mặt phấn, mặt sáng)
Mây thưa thêu vẽ tránh xa nét mi xanh (giống như màu núi)
Sen thừa hạ hết dây xuân cũ (sót)
Liễu tựa nhiều hương áo biếc xưa
Chim khóc chẳng ai không hiểu tình cảnh của mình
Từng tiếng dài khuấy động tấm tình quê.

少年遊調 – Thiếu niên du điệu

瓊筳座花,
𢒎觴對月,
風流屬誰家?
李子飛輝豪,
徐妃援筆,
思雅入詩歌。
今夕是如何?
促席談心。
回燈敘事,
撫筆一呵呵。

Phiên âm Hán Việt

Quỳnh diên toạ hoa,
Phi trường đối nguyệt,
Phong lưu thuộc thuỳ gia?
Lý tử phi hào,
Từ phi viên bút,
Tứ nhã nhập thi ca.
Kim tịch thị như hà?
Xúc tịch đàm tâm.
Hồi đăng tự sự,
Phủ bút nhất kha kha.

秋風歌 – Thu phong ca

秋風起兮白雲飛,
草木黃落兮雁南歸。
蘭有秀兮菊有芳,
懷佳人兮不能忘。
我有酒兮無對飲,
我有琴兮無知音。
不酌酒兮不鳴琴,
數杯清茗兮故人心。

Phiên âm Hán Việt

Thu phong khởi hề bạch vân phi,
Thảo mộc hoàng lạc hề nhạn nam quy.
Lan hữu tú hề cúc hữu phương,
Hoài giai nhân hề bất năng vương.
Ngã hữu tửu hề vô đối ẩm,
Ngã hữu cầm hề vô tri âm.
Bất chước tửu hề bất minh cầm,
Sổ bôi thanh dính hề cố nhân tâm.

入安邦 – Nhập An Bang

浪跡風塵未迓繮,
漂零書劍入安邦。
渠爐天地心千里,
蝸角山河眼一雙。
詩價感雲山鬼泣,
愁城僚者酒兵降。
興含欲借倂州剪,
剪此其風水半間。

Phiên âm Hán Việt

Lãng tích phong trần vị nhạ cương,
Phiêu linh thư kiếm nhập An Bang.
Cừ lô thiên địa tâm thiên lý,
Oa giốc sơn hà nhãn nhất soang (song).
Thi giá cảm vân sơn quỷ khấp,
Sầu thành liêu giả tửu binh hàng.
Hứng hàm dục tá Tinh châu tiễn,
Tiễn thử kỳ phong thuỷ bán giang.

漁翁曲行 – Ngư ông khúc hành

野翁淡泊亦繁花,
錯認桃源是薜蘿。
寄語挳舟從釣子,
過江應不聽琵琶。
過江莫聽琵琶,
高聲不似胡笳悽涼。
桃源水闊山長,
漁翁一棹仙堂半開。
萬重春鎖天台,
琴聲樂角聲哀不同。
寒山草色蔥蔥,
蘇溪幾到清風自閑。

Phiên âm Hán Việt

Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa,
Thác nhận Đào Nguyên thị bệ la.
Ký ngữ khinh chu tòng điếu tử,
Quá giang ưng bất thính tỳ bà.
Quá giang mạc thính tỳ bà,
Cao thanh bất tự Hồ già thê lương.
Đào nguyên thuỷ khoát sơn trường,
Ngư ông nhất trạo tiên đường bán khai.
Vạn trùng xuân toả Thiên Thai,
Cầm thanh lạc, giốc thanh ai bất đồng.
Hàn sơn thảo sắc thông thông,
Tô khê kỷ đáo thanh phong tự nhàn.

Dịch nghĩa

Lão nhà quê ăn lạt mặc mỏng mà vẫn phong lưu
Áo thô mà cứ tưởng sống cảnh tiên
Gởi lời người phụ câu quay thuyền về
‎Qua sông không nghe được tiếng tỳ bà
‎Qua sông chớ nghe tiếng tỳ bà
‎Âm cao không giống kèn Hồ thê lương
‎Đào Nguyên sông rộng núi dài
‎Ngư ông chăm chú chèo, cửa tiên hé ra
Vạn trùng xuân bến Thiên Thai
Tiếng đàn vui, tiếng tù buồn không hoà
Núi lạnh sắc cỏ xanh xanh
Suối Tô tự đầy, gió mát tự nhàn

水雲鄉 – Thuỷ vân hương

雲根石竇似蜂房,
滿目山光接水光。
涉海鑿山癡李勃,
負舟藏壑拜元章。
螺痕夕霽嶙峋出,
霧影朝迷次第藏。
漫說漁人舟一葉,
教重門戶水雲鄉。

Phiên âm Hán Việt

Vân căn thạch đậu tự phong phòng
Mãn mục sơn quang tiếp thuỷ quang
Thiệp hải tạc hà si Lí Bột
Phụ chu tàng hác bái Nguyên Chương
Loa ngân tịch tễ lân tuần xuất
Vụ ảnh triêu mê thứ đệ tàng
Mạn thuyết ngư nhân chu nhất diệp
Sổ trùng môn hộ Thuỷ Vân hương.

Dịch nghĩa

Dưới chân mây, bày hang đá như tổ ông;
Đầy mặt thấy ánh sáng trên núi tiếp với ánh sáng dưới nước.
Vượt bể để đi đục núi như Lí Bột thật là ngây,
Đột thuyền lên cạn giấu trong hang như Nguyên Chương thì đáng phục
Buổi chiều trời lạnh, sóng gợn lăn tăn hiện ra,
Ban sáng màn mù che núi lần lượt rút lui.
Vui chuyện bảo rằng người chài dong chiếc thuyền kia,
Đang len lỏi qua nhiều từng cửa tìm vào làng Tiên.

秋雨 – Thu vũ

天隔雲陰慘不明,
蕭蕭秋雨落閒庭。
短長枯樹枝頭淚,
舒急黃蕉葉上聲。
吟斷低迷千里夢,
愁牽寥落五更情。
深閨最苦如花面,
一片愁容畫不成。

Phiên âm Hán Việt

Thiên cách vân âm thảm bất minh,
Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.
Đoản trường khô thụ chi đầu lệ,
Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,
Sầu khiên liêu lạc ngũ canh tình.
Thâm khuê tối khổ như hoa diện,
Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành.

Dịch nghĩa

Bầu trời mây che tăm tối ảm đạm
Mưa thu tí tách rơi ngoài sân vắng
Nhánh cây khô giọt lệ ngắn dài
Lá chuối vàng tiếng giũ chậm nhanh
Khóc dứt đê mê ngàn dặm mộng
Sầu vương lác đác năm canh tình
Phòng khuê thật buồn như mặt hoa
Hình dáng nỗi buồn không hoạ được

Xem thêm tập 💚 Thơ Chữ Hán 💚 Những Bài Nổi Tiếng Tình Yêu, Cuộc Sống

Viết một bình luận