Thơ Chữ Hán Ngắn Hay: Những Bài Nổi Tiếng Tình Yêu, Cuộc Sống

Thơ Chữ Hán Việt Nam Ngắn Hay ❤️️ Những Bài Nổi Tiếng Tình Yêu, Cuộc Sống ✅ Gửi Tặng Bạn Đọc Những Chùm Thơ Ngắn Hay Nhất Viết Bằng Chữ Hán.

Thơ Chữ Hán Là Gì

Thơ Chữ Hán Là Gì? Thơ chữ Hán là thơ được viết bằng chữ Hán, trong đó có 02 loại là Chữ Hán cổ (chữ phồn thể), chữ Hán hiện đại (chữ giản thể). Ví dụ: 02 chữ “Hán Tự” viết dưới dạng chữ phồn thể là: 漢字, viết dưới dạng giản thể là: 汉字. Chữ Hán là một dạng chữ viết biểu ý của Trung Quốc.

Chữ Hán có nguồn gốc bản địa, sau đó du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, tạo thành vùng được gọi là vùng văn hóa chữ Hán hay vùng văn hóa Đông Á.

Những Bài Thơ Chữ Hán Nổi Tiếng

Mời bạn đọc tham khảo Những Bài Thơ Chữ Hán Nổi Tiếng được Thohay.vn giới thiệu sau đây.

春望: Xuân Vọng
Tác giả: Đỗ Phủ

Bản gốc:
春望
国破山河在,
城春草木深。
感时花溅泪,
恨别鸟惊心。
烽火连三月,
家书抵万金。
白头搔更短,
浑欲不胜簪。

Phiên âm Hán Việt

Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hỏa liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thắng trâm.

Bản dịch thơ Trần Trọng Kim:

Nước phá tan, núi sông còn đó,
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu.
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng.
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt,
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn.
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun,
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.

枫桥夜泊: Phong Kiều Dạ Bạc
Tác giả: Trương Kế

月落乌啼霜满天
江枫鱼火对愁眠
姑苏城外寒山寺
夜半钟声到客船

Bản dịch Hán Việt:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh

Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

黄鹤楼: Hoàng Hạc Lâu
Tác giả: Thôi Hiệu

昔人已乘黄鹤去,
此地空余黄鹤楼.
黄鹤一去不复返,
白云千载空悠悠.
晴川历历汉阳树,
芳草萋萋鹦鹉洲.
日暮乡关何处是,
烟波江上使人愁

Bản dịch Hán Việt:

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Dịch thơ của Tản Đà

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

相思曲:Tương Tư Khúc
Tác giả: Đới Thúc Luân

作者:戴叔伦 – 唐。
高楼重重闭明月,
肠断仙郎隔年别。
紫萧横笛寂无声,
独向瑶窗坐愁绝。
鱼沉雁杳天涯路,
始信人间别离苦。
恨满牙床翡翠衾,
怨折金钗凤凰股。
井深辘轳嗟绠短,
衣带相思日应缓。
将刀斫水水复连,
挥刃割情情不断。
落红乱逐东流水,
一点芳心为君死。
妾身愿作巫山云,
飞入仙郎梦魂里。

Dịch Hán Việt:

Cao lâu trùng trùng bế minh nguyệt,
Trường đoạn tiên lang cách niên biệt.
Tử tiêu hoành địch tịch vô thanh,
Độc hướng dao song toạ sầu tuyệt.
Ngư trầm nhạn diểu thiên nhai lộ,
Thuỷ tín nhân gian biệt ly khổ.
Hận mãn nha sàng phí thuý khâm,
Oán chiết kim thoa phụng hoàng cổ.
Tỉnh thâm lộc lư ta cảnh đoản,
Y đới tương tư nhật ưng hoãn.
Tương đao phá thuỷ thuỷ phục liên,
Huy nhẫn cát tình tình bất đoạn.
Lạc hồng loạn trục đông lưu thuỷ,
Nhất điểm phương tâm vị quân tử.
Thiếp thân nguyện tác Vu Sơn vân,
Phi nhập tiên lang mộng hồn lý.

Tặng bạn chùm 💜 Câu Đối Tết Chữ Hán 💜 hay nhất

Thơ Chữ Hán Việt Nam

Gợi ý cho bạn đọc những bài Thơ Chữ Hán Việt Nam Ngắn và hay nhất dưới đây:

無題 – Vô đề (I)
Tác giả: Hồ Chí Minh

身体在獄中,
精神在獄外。
欲成大事業,
精神更要大。

Phiên âm Hán Việt

Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại.
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.

Dịch nghĩa

Thân thể ở trong ngục,
Tinh thần ở ngoài ngục;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.

賭 – Đổ
Tác giả: Hồ Chí Minh

民間賭博被官拉,
獄裡賭博可公開。
被拉賭犯常嗟悔,
何不先到這裡來。

Phiên âm Hán Việt

Dân gian đổ bác bị quan lạp,
Ngục lý đổ bác khả công khai.
Bị lạp đổ phạm thường ta hối,
Hà bất tiên đáo giá lý lai!

Dịch nghĩa

Ngoài dân đánh bạc thì bị quan bắt,
Trong tù đánh bạc có thể công khai;
Con bạc bị tù thường hối tiếc:
Sao không sớm vào quách chốn này!?

Tặng bạn chùm 💜 Thơ Chữ Hán Của Hồ Chí Minh

Đề Đông sơn tự – 題東山寺
Tác giả: Nguyễn Trãi

君親一念久嬰懷
澗愧林慚夙願乖
三十餘年塵境夢
數聲啼鳥喚初回

Phiên âm Hán Việt

Quân thân nhất niệm cửu anh hoài ;
Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.
Tam thập dư niên trần cảnh mộng ;
Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi.

Dịch nghĩa

Một niềm đối vua và cha lâu vấn vương lòng ;
Thẹn với khe tủi với rừng, nguyền cũ sai trái.
Hơn ba chục năm mộng ở cõi trần ;
Và tiếng chim kêu gọi tỉnh trở lại như xưa.

午後 – Ngọ hậu
Tác giả: Hồ Chí Minh

二點開籠換空氣,
人人仰看自由天。
自由天上神仙客,
知否籠中也有仙。

Phiên âm Hán Việt

Nhị điểm khai lung hoán không khí
Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên
Tự do thiên thượng thần tiên khách
Tri phủ lung trung dã hữu tiên.

Dịch nghĩa

Hai giờ chiều, nhà lao mở cửa đổi không khí,
Mọi người ngẩng lên ngắm trời tự do;
Khách thần tiên trên trời tự do,
Biết chăng trong tù cũng có tiên?

囚糧 – Tù lương
Tác giả: Hồ Chí Minh

每餐一碗紅米飯,
無鹽無菜又無湯。
有人送飯吃得飽,
沒人送飯喊爺娘。

Phiên âm Hán Việt

Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn,
Vô diêm vô thái hựu vô thang.
Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão,
Một nhân tống phạn hám gia nương.

Dịch nghĩa

Mỗi bữa một bát cơm gạo đỏ,
Không muối, không rau cũng chẳng canh;
Có người đem cơm, được ăn no,
Không người đem cơm, đói kêu cha kêu mẹ.

Vãn lập – 晚立
Tác giả: Nguyễn Trãi

長天漠漠水悠悠
黃落山河屬暮秋
羨殺花邊雙白鳥
人間累不到滄洲

Phiên âm Hán Việt

Trường thiên mạc mạc thủy du du ;
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu.
Tiển sát hoa biên song bạch điểu
Nhân gian lụy bất đáo thương châu

Dịch nghĩa

Trời thì rộng bao la nước thì bát ngát ;
Lá vàng rụng phủ núi sông, tiết muộn về thu.
Thèm chết được như đôi chim trắng ở bên hoa kia :
Lụy nhân gian không đến được bãi ẩn dật.

分水 – Phân thuỷ
Tác giả: Hồ Chí Minh

每人分得水半盆,
洗面烹茶各隨便。
誰要洗面勿烹茶,
誰要烹茶勿洗面。

Phiên âm Hán Việt

Mỗi nhân phân đắc thuỷ bán bồn,
Tẩy diện phanh trà các tuỳ tiện.
Thuỳ yếu tẩy diện vật phanh tra,
Thuỳ yếu phanh tra vật tẩy diện.

Dịch nghĩa

Mỗi người được chia nửa chậu nước,
Rửa mặt hoặc đun trà, tuỳ ý mình;
Ai muốn rửa mặt, đừng đun trà,
Ai muốn đun trà, thôi rửa mặt.

Các Bài Thơ Chiết Tự Chữ Hán Chọn Lọc

Cùng xem thêm Các Bài Thơ Chiết Tự Chữ Hán Chọn Lọc được nhiều bạn đọc quan tâm sau đây:

月夜 – Nguyệt Dạ
Tác giả: Đỗ Phủ

今夜鄜州月,
闺中只独看.
遥怜小儿女,
未解忆长安.
香雾云鬟湿,
清辉玉臂寒.
何时倚虚幌,
双照泪痕干.

Dịch Âm Hán Việt

Kim dạ Phu Châu nguyệt,
Khuê trung chỉ độc khan.
Dao liên tiểu nhi nữ,
Vị giải ức Trường An.
Hương vụ vân hoàn thấp,
Thanh huy ngọc tý hàn.
Hà thì ỷ hư hoảng,
Song chiếu lệ ngân can?

Dịch thơ

Châu Phu này lúc trăng soi,
Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.
Đoái thương thơ dại đầu xanh,
Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau.
Sương sa thơm ướt mái đầu,
Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.
Bao giờ tựa bức màn không,
Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.

Côn sơn ca – 崑山歌
Tác giả: Nguyễn Trãi

崑山有泉
其聲冷冷然
吾以為琴弦
崑山有石
雨洗苔鋪碧
吾以為簞席
岩中有松
萬里翠童童
吾於是乎偃息其中
林中有竹
千畝印寒綠
吾於是乎吟嘯其側
問君何不歸去來
半生塵土長膠梏
萬鐘九鼎何必然
飲水飯蔬隨分足
君不見董卓黃金盈一塢
元載胡椒八百斛
又不見伯夷與叔齊
首陽餓死不食粟
賢愚兩者不相侔
亦各自求其所欲
人生百歲內
畢竟同草木
歡悲憂樂迭往來
一榮一謝還相續
丘山華屋亦偶然
死後誰榮更誰辱
人間箬有巢由徒
勸渠聽我山中曲

Phiên âm Hán Việt

Côn sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lý thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kỳ trắc.
Vấn quân hà bất qui khứ lai ?
Bán sinh trần thổ trường giao cốc.
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.
Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ ?
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc ?
Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề
Thú dương ngạ tự bất thực túc ?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
Diệc các tự cầu kỳ sở dục.
Nhân sinh bách tuế nội,
Tất cánh đồng thảo mộc.
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục ?
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ ?
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.

Ngoài thơ chữ hán việt nam, xem thêm chùm ❤️️  Thơ Về Lòng Yêu Nước ❤️️ hay nhất

Thơ Đường Chữ Hán Ngắn Gọn

Giới thiệu đến bạn chùm Thơ Đường Chữ Hán Ngắn Gọn và hay nhất sau đây:

鵡洲 – Anh Vũ Châu
Tác giả: Lý Bạch

鸚鵡來過吳江水,
江上洲傳鸚鵡名。
鸚鵡西飛隴山去,
芳洲之樹何青青。
煙開蘭葉香風暖,
岸夾桃花錦浪生。
遷客此時徒極目,
長洲孤月向誰明?

Dịch nghĩa

Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao!
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai.

Xuân mộng
Tác giả Sầm Than

“Động phòng tạc dạ xuân phong khởi,
Dao ức mỹ nhân Tương giang thuỷ.
Trẩm thượng phiến thì xuân mộng trung,
Hành tận Giang Nam sổ thiên lý.”

Dịch thơ – Trang Y Hạ

“Đêm xuân gió trở vô phòng
Sông Tương người đẹp có mong chi về
Trong mơ xuân tới vỗ về
Giang Nam nghìn dặm sơn khê một mình.”

巴女詞 – Ba Nữ Từ
Tác giả: Lý Bạch

巴水急如箭,
巴船去若飛。
十月三千里,
郎行幾時歸?

Dịch nghĩa

Sông xứ Ba chảy xiết như tên bắn,
Thuyền nhỏ xứ Ba lướt như bay.
Chàng đi có ba ngàn dặm, mà đã mười tháng rồi,
Bao giờ chàng mới trở về?

Lương Châu Từ
Tác giả Vương Hàn

“Bồ đào mỹ tữu, dạ quang bôi
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”

Dịch thơ – Trang Y Hạ

“Rượu bồ đào, chén dạ quang
Uống nhanh lên ngựa tiếng đàn giục đi
Say nằm chiến địa cười chi
Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về!”

Hồi Hương Ngẫu Thư kỳ 1
Tác giả Hạ Tri Chương

“Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?”

Dịch thơ – Trang Y Hạ

“Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê chưa đổi tóc đà hoa râm
Trẻ con xúm lại xì xầm
Hỏi rằng: khách có đi lầm đường chăng!”

Tư Quy
Tác giả Vương Bột

“Trường Giang bi dĩ trệ
Vạn lý niệm tương quy
Huống phục cao phong vãn
Sơn sơn hoàng diệp phi.”

Dịch thơ – Trang Y Hạ

“Buồn theo sóng nước Tràng Giang
Quê xưa muôn dặm cũ càng nhớ thương
Chiều đêm gió lạnh canh trường
Lá vàng bỏ núi lạc phương trời nào.”

Những Câu Thơ Chữ Hán Hay

Dưới đây là Những Câu Thơ Chữ Hán Hay và để lại nhiều ấn tượng cho các bạn độc giả.

黄鹤楼送孟浩然之广陵 – Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
Tác giả: Lí Bạch

故人西辞黄鹤楼,
烟花三月下阳州.
孤帆远影碧空尽,
惟见长江天际流.

Dịch âm Hán Việt

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch thơ (Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Bạn từ lầu Hạc lên đường,
Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

静夜思 – Tĩnh Dạ Tư
Tác giả: Lí Bạch

床前明月光,疑是地上霜.
举头望明月,低头思故乡.

Dịch âm Hán Việt:

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Dịch thơ (Tương Như):

Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.

枫桥夜泊 – Phong Kiều Dạ Bạc
Tác giả: Trương Kế

月落乌啼霜满天
江枫鱼火对愁眠
姑苏城外寒山寺
夜半钟声到客船

Dịch âm Hán Việt

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Dịch thơ

Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

悯农 – Mẫn Nông
Tác giả: Lí Thân

锄禾日当午,汗滴禾下土.
谁知盘中餐,粒粒皆辛苦?

Dịch âm Hán Việt

Sừ hòa nhật đương ngọ, hãn trích hòa hạ thổ
Thùy tri bàn trung xan, lạp lạp giai tân khổ

Dịch thơ

Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!

回乡偶书 – Hồi hương ngẫu thư
Tác giả: Hà Chí Trương

少 小 离 家 老 大 回,
乡 音 无 改 鬓 毛 衰.
儿 童 相 见 不 相 识,
笑 问 客 从 何 处 来.

Dịch âm Hán Việt:

Thiếu tiểu li gia lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu Vấn Khách Tòng Hà Xử Lai.

Dịch thơ (Phạm Sĩ Vĩ):

Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê không đổi, tóc đà khác bao
Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng khách ở chốn nào tới đây.

Gửi đến bạn chùm 🌾 Thơ Lục Bát Ngắn 4 Câu Về Quê Hương🌾 cực hay

Thơ Xuân Chữ Hán Hay Nhất

Giới thiệu đến bạn đọc chùm Thơ Xuân Chữ Hán Hay Nhất sau đây, cùng đón đọc và cảm nhận thêm nhé!

春 曉 – Xuân Hiếu
Tác giả: Trần Nhân Tông

睡起啟窗扉,
不知春已歸。
一雙白蝴蝶,
拍拍趁花飛。

Phiên âm Hán Việt

Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.

Dịch nghĩa

Ngủ dậy mở cánh cửa sổ,
Không biết mùa xuân đã về.
Có một đôi bướm trắng,
Vỗ vỗ cánh, bay đến gần với hoa.

春夜 – Xuân dạ
Tác giả: Nguyễn Du

黑夜韶光何處尋,
小窗開處柳陰陰。
江湖病到經時久,
風雨春隨一夜深。
羈旅多年燈下淚,
家鄉千里月中心。
南臺村外龍江水,
一片寒聲送古今。

Phiên âm Hán Việt

Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm.
Giang hồ bệnh đáo kinh thì cửu,
Phong vũ xuân tuỳ nhất dạ thâm.
Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm.
Nam Đài thôn ngoại Long giang thuỷ,
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kinh).

Dịch nghĩa

Trời tối đen, tìm đâu thấy cảnh xuân tươi sáng?
Qua khuôn cửa sổ nhỏ, chỉ thấy bóng liễu âm u.
Trong bước giang hồ, lại phải nằm bệnh lâu ngày,
Cuộc đời có khác gì vẻ xuân theo mưa gió chìm trong bóng đêm.
Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới bóng đèn mà rơi lệ.
Quê hương xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng.
Ở đó, phía ngoài thôn Nam Đài, tiếng sóng lòng sông Long Giang
Vẫn lạnh lùng tiễn đưa kim cổ.

春盡 – Xuân Tận
Tác giả: Hàn Ốc

惜春連日醉昏昏,
醒後衣裳見酒痕。
細水浮花歸別浦,
斷雲含雨入孤村。
人閒易得芳時恨,
地迥難招自古魂。
慚愧流鶯相厚意,
清晨猶為到西園。

Phiên âm Hán Việt

Tích xuân liên nhật tuý hôn hôn,
Tỉnh hậu y thường kiến lệ ngân.
Tế thuỷ phù hoa quy biệt giản,
Đoạn vân tương vũ nhập cô thôn.
Nhân gian dị đắc phương thì hận,
Địa quýnh nan chiêu tự cổ hồn.
Tàm quý lưu oanh tương hậu ý,
Thanh thần độc vị đáo tây viên.

Dịch nghĩa

Vì tiếc xuân nên say mấy ngày liền
Sau khi tỉnh còn thấy vết rượu trên áo xiêm
Dòng nước nhỏ đã đưa hoa về khe nước khác
Đám mây đem mưa đổ xuống thôn xóm lẻ loi
Ở cõi nhân gian, dễ gặp những mối hận mùa thơm
Chỗ đất xa xôi khó vời những mảnh hồn xưa lại
Ta thẹn với ý tình nồng nàn của chim oanh
Vì ta mà sáng sớm đã đến khu vườn phía tây

春 景 – Xuân Cảnh
Tác giả: Trần Nhân Tông

楊柳花深鳥語遲,
畫堂簷影暮雲飛。
客來不問人間事,
共倚欄杆看翠微。

Phiên âm Hán Việt

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.

Dịch nghĩa

Trong khóm hoa dương liễu rậm rạp, tiếng chim hót lời chậm rãi,
Dưới bóng hiên nhà trưng bày tranh vẽ, bóng mây chiều lướt bay.
Khách đến chơi không hỏi việc đời,
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh biếc trên trời.

春宵旅次 – Xuân Tiêu Lữ Thứ
Tác giả: Nguyễn Du

蕭蕭蓬鬢老風塵,
暗裡偏驚物候新。
池草未闌千里夢,
庭梅已換一年春。
英雄心事荒馳騁,
名利營場累笑顰。
人自蕭條春自好,
團城城下一沾巾。

Phiên âm Hán Việt

Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần,
Ám lý thiên kinh vật hậu tân.
Trì thảo vị lan thiên lý mộng,
Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân.
Anh hùng tâm sự hoang trì sính,
Danh lợi doanh trường luỵ tiếu tần.
Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo,
Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân.

Dịch nghĩa

Mái tóc bạc phơ, cứ phải phong trần mãi,
Thấy thời tiết, cảnh vật đổi thay, lòng riêng những kinh sợ.
Ngoài nghìn dặm chưa tan giấc mộng “cỏ bờ ao”,
Trước sân, cây mai lại qua một mùa xuân nữa.
Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không còn nghĩ đến chuyện ruổi rong,
Đường danh lợi làm lụy đến sự khóc cười.
Người thì tiều tụy, nhưng xuân vẫn chứ đẹp,
Đứng dưới Đoàn Thành, nước mắt đẫm khăn.

 Đón đọc thêm 🌿 Thơ Về Mùa Xuân 🌿 hay nhất

Thơ Chữ Hán Về Hoa Lan Ngắn

Chia sẻ đến bạn đọc bài Thơ Chữ Hán Về Hoa Lan Ngắn và đặc sắc sau đây:

蘭比君子 – Lan vi quân tử
Tác giả: Cao Bá Quát

雅潔符君子,
幽蘭品最良。
其人原比玉,
此國合名香。
有味同心契,
無言竟体芳。
歌懷琴操曲,
詞憶夢騷章。
入室芝同化,
拜庭芷並揚。
論交誇九畹,
問訊到三湘。
花外孤標遠,
風前臭萬年。
何如空谷裡,
紐儘伴蓉裳。

Dịch nghĩa

Nhã khiết phù quân tử,
U lan phẩm tối lương.
Kỳ nhân nguyên tỷ ngọc,
Thử quốc hợp danh hương.
Hữu vị đồng tâm khế,
Vô ngôn cánh thể phương.
Ca hoài cầm tháo khúc,
Từ ức mộng tao chương.
Nhập thất chi đồng hoá,
Bái đình chỉ tịnh dương.
Luận giao khoa Cửu Uyển,
Vấn tấn đáo Tam Tương.
Hoa ngoại cô tiêu viễn,
Phong tiền khứu vạn niên.
Hà như không cốc lý,
Nữu tẫn bạn dung thường.

Chia sẻ chùm 🌷 Thơ Về Hoa Lan 🌷 hay nhất

Thơ Về Hoa Bỉ Ngạn Chữ Hán

Xem thêm chùm Thơ Về Hoa Bỉ Ngạn Chữ Hán đặc sắc dưới đây:

彼岸花- Hoa bỉ ngạn
Tác giả: Chưa rõ

繁华尘世,云泥人海,两望鹊桥渡。
弹指生死,几轮朝暮,三涂黄昏处。
花开叶落,红白两色,痴情难留住。
叶落做土,花开几簇,渺渺泪无数。
奈何桥头,孟婆劝饮,几生无回顾。
哭笑沧桑,黄泉相随,佛禅苦难度。
阿鼻魄落,七情魂在,迷津怎醒悟。
轮回愁楚,幽冥难醉,独步无归路。

Phiên âm Hán Việt

Trần thế phồn hoa, vân nệ nhân hải, lưỡng vọng cầu ô thước.
Đàn chỉ sinh tử, kì luân triều mộ, tam đồ hoàng hôn xứ.
Hoa khai diệp lạc, hồng bạch lưỡng sắc, si tình khó mà dừng.
Diệp lạc tố thổ, hoa khai kì thấu, mờ mịt lệ vô số.
Nại Hà quay đầu, Mạnh Bà uống canh, kì sinh vô hồi cố.
Khóc cười tang thương, Hoàng Tuyền tương tùy. Phật truyền khổ nạn độ.
Đầu tiên vía lạc, thất tình hồn tại, mê man sao tỉnh ngộ.
Luân hồi buồn khổ, U Minh khó say, độc bộ vô quy lộ.

彼岸花Bỉ Ngạn hoa
Tác giả: Lưu Khâm Hưng

彼岸花开开彼岸,
忘川河畔亦忘川.
奈何桥头空奈何,
三生石上写三生.

Dịch nghĩa

Bỉ Ngạn hoa khai khai bỉ ngạn,
Vong Xuyên hà bạn diệc vong xuyên.
Nại Hà kiều đầu không nại hà,
Tam Sinh thạch thượng tả tam sinh.

Gửi tặng bạn 🔻 Thơ Về Hoa Bỉ Ngạn 🔻 đặc sắc

Chùm Thơ Tình Chữ Hán Đầy Cảm Xúc

Mời bạn tham khảo thêm Chùm Thơ Tình Chữ Hán Đầy Cảm Xúc dưới đây:

断章 / Đoạn Chương

你站在桥上看风景,
看风景人在楼上看你。
明月装饰了你的窗子,
你装饰了别人的梦。

Dịch nghĩa

Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh,
Người đứng trên lầu ngắm phong cảnh lại ngắm nhìn em.
Trăng sáng tô điểm của sổ phòng em
Em tô điểm giấc mộng của người.

卜算子 / Bốc Toán Tử

卜算子
我住长江头,
君住长江尾。
日日思君不见君,
共饮长江水。

此水几时休?
此恨何时已?
只愿君心似我心,
定不负相思意。

Dịch nghĩa

Thiếp ở đầu Trường Giang,
Chàng ở cuối Trường Giang.
Ngày ngày nhớ chàng chẳng thấy chàng,
Cùng uống nước Trường Giang.

Dòng sông này bao giờ ngừng trôi?
Nỗi hận này bao giờ mới hết?
Chỉ mong lòng chàng như lòng thiếp,
Nhất định không phụ nỗi niềm nhớ nhau.

秋风词 / Thu Phong Từ

秋风词
秋风清,
秋月明。
落叶聚还散,
寒鸦栖复惊。
相思相见知何日,
此时此夜难为情

Dịch nghĩa

Gió thu thanh,
Trăng thu sáng.
Lá rụng lúc tụ lúc tán,
Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình.
Nhớ nhau không biết ngày nào gặp?
Lúc ấy đêm ấy chan chứa tình.

白头吟 / Bạch Đầu Ngân

白头吟
皑如山上雪,
皎若云间月。
闻君有两意,
故来相决绝。
今日斗酒会,
明旦沟水头。
躞蹀御沟上,
沟水东西流。

Dịch nghĩa

Trắng như tuyết trên núi,
Sáng như trăng ở trong mây.
Nghe lòng chàng có hai ý,
Nên thiếp quyết cắt đứt.
Ngày hôm nay nâng chén sum vầy,
Sớm mai đã đưa tiễn nhau ở bên sông.
Đi lững thững trên dòng nước,
Nước cứ chảy xuôi mãi từ đông về tây (mà không quay về).

Thơ Chữ Hán Về Tình Yêu Lãng Mạn

Thưởng thức thêm tập Thơ Chữ Hán Về Tình Yêu Lãng Mạn và hay nhất sau đây:

玉楼春-春恨 / Ngọc Lâu Xuân – Xuân Hận

玉楼春-春恨
绿杨芳草长亭路,
年少抛人容易去。
楼头残梦五更钟,
花底离愁三月雨。

无情不似多情苦,
一寸还成千万缕。
天涯地角有穷时,
只有相思无尽处。

Dịch nghĩa

Liễu xanh, cỏ thơm ở trường đình bên đường,
Tuổi trẻ dễ dàng bỏ người lại mà đi mất.
Trên lầu cao, tiếng chuông canh năm làm tỉnh giấc mộng,
Dưới hoa, mưa tháng ba gợi lại nỗi sầu ly biệt.

Kẻ vô tình đâu như (đâu thấu hiểu) nỗi khổ của người đa tình,
Một tấc tương tư cũng biến thành ngàn vạn sợi sầu khổ.
Chân trời góc bể cũng có nơi cùng tận,
Chỉ có lòng tương tư là không có kết thúc.

红豆词 – Hồng Đậu Từ

滴不尽相思血泪抛红豆
开不完春柳春花满画楼
睡不稳纱窗风雨黄昏后
忘不了新愁与旧愁
咽不下玉粒金波噎满喉
瞧不尽镜里花容瘦
展不开的眉头挨不明的更漏
呀! ……
恰便似遮不住的青山隐隐
流不断的绿水悠悠

Dịch nghĩa

Nhỏ không dứt, dòng huyết lệ tương tư rơi xuống như những hạt đậu đỏ
Nở không trọn, liễu xuân, hoa xuân khắp chốn lầu son
Ngủ không yên, mưa gió bên ngoài màn song sau buổi hoàng hôn
Quên chẳng được, sầu mới lẫn sầu cũ
Nuốt chẳng trôi, những gạo ngọc miệng vàng nghẹn đầy cổ họng (ko nuốt được)
Soi chẳng hết, hình dung gầy võ trong gương hoa ấu
Đầu mày giương chẳng mở
Canh khuya cứ lần lữa không sáng
A!
Vừa đúng như: non xanh thấp thoáng không ngăn lại được
Nước biếc mênh mang trôi đi không ngừng

相思曲 – Tương Tư Khúc

高楼重重闭明月,
肠断仙郎隔年别。
紫萧横笛寂无声,
独向瑶窗坐愁绝。
鱼沉雁杳天涯路,
始信人间别离苦。
恨满牙床翡翠衾,
怨折金钗凤凰股。
井深辘轳嗟绠短,
衣带相思日应缓。
将刀斫水水复连,
挥刃割情情不断。
落红乱逐东流水,
一点芳心为君死。
妾身愿作巫山云,
飞入仙郎梦魂里。

Dịch nghĩa

Lầu cao lớp lớp che trăng sáng,
Đau lòng vì suốt năm xa cách chàng.
Tiêu im sáo lặng không nghe tiếng,
Một mình ngồi buồn nhìn ra song cửa ngọc.
Cá lặn chim bay chân trời góc biển,
Biệt ly không được tin thư thật khổ.
Oán đầy giường ngà chăn phí thuý,
Giận bẻ gãy kim thoa phượng hoàng.
Giếng sâu ròng rọc than giây ngắn,
Ngày trôi chậm, xiêm y cũng nặng tương tư.
Dùng dao chém nước nước liền trở lại,
Cầm kéo cắt tình tình không chịu đứt.
Hồng rụng tơi bời theo dòng nước chảy về đông,
Một tấm tình son vì người mà tàn lụi.
Thiếp nguyện làm mây núi Vu (Sơn),
Bay nhập vào giấc mộng trong hồn chàng.

Xem thêm tập 🌱 Thơ Trung Quốc Về Tình Yêu 🌱 lãng mạn

Thơ Chữ Hán Hay Về Cuộc Sống

Đừng bỏ lỡ những bài Thơ Chữ Hán Hay Về Cuộc Sống dưới đây, tham khảo ngay nhé!

春中田园作 / Xuân Trung Điền Viên Tác

春中田园作
屋上春鸠鸣,
村边杏花白。
持斧伐远扬,
荷锄觇泉脉。
归燕识故巢,
旧人看新历。
临觞忽不御,
惆怅远行客。

Dịch nghĩa

Chim xuân cưu kêu trên mái nhà,
Hoa hạnh trắng thông bên đang nở.
Cầm rìu chặt cành vươn xa,
Lấy cuốc khơi mạch suối.
Chim én bay về nhận ra tổ cũ của mình,
Người cũ xem lịch mới.
Cầm chung rượu trên tay nhưng không uống,
Xót thương người phương xa.

山居秋暝 / Sơn Cư Thu Minh

山居秋瞑
空山新雨后,
天气晚来秋。
明月松间照,
清泉石上流。
竹喧归浣女,
莲动下渔舟。
随意春芳歇,
王孙自可留。

Dịch nghĩa

Ngọn núi vắng sau cơn mưa
Thời tiết ban đêm đã là thu rồi
Ánh trăng sáng chiếu qua rừng cây tùng
Suối nước xanh chảy trên đá
Nghe có tiếng trúc xào xạc mấy cô đi giặt áo về
Tiếng lá sen xao động có người hạ thuyền xuống
Tùy ý, hương xuân đã hết
Các vương tôn muốn ở lại thì tự nhiên

野老歌 / Dã Lão Ca

老农家贫在山住,耕种山田三四亩。
苗疏税多不得食,输入官仓化为土。
岁暮锄犁傍空室,呼儿登山收橡实。
西江贾客珠百斛,船中养犬长食肉。

Dịch nghĩa

Ông lão nhà nghèo ở trong núi,
Cày cấy đất núi được ba bốn mẫu.
Lúa ít đóng thuế nhiều nên không có lúa để ăn,
Gom về kho quan để mốc thành đất.
Cuối năm, cày bừa để dựa góc nhà trống không,
Ông kêu con cháu lên núi hái hạt dẻ rừng về ăn.
Nhà buôn ở Tây Giang kho báu có cả trăm hộc,
Chó nuôi trên thương thuyền ngày nào cũng có thịt ăn.

山中寡妇 / Sơn Trung Quả Phụ

夫因兵死守蓬茅,
麻苎衣衫鬓发焦。
桑柘废来犹纳税,
田园荒后尚征苗。
时挑野菜和根煮,
旋斫生柴带叶烧。
任是深山更深处,
也应无计避征徭。

Dịch nghĩa

Chồng chết trận,một mình giữ nếp nhà tranh
Áo bằng gai, đầu tóc vàng khè
Việc tằm tang bỏ hoang rồi,thuế vẫn phải nộp
Ruộng vườn không trồng trọt,còn bị đòi thuế thóc lúa
Bửa ăn thường hái rau dại nấu cả rễ
Thiếu củi,đem cành tươi vừa chặt được,để cả lá mà đốt
Dù vào tận núi sâu,càng sâu hơn nữa
Cũng không cách nào trốn khỏi đóng thuế đi phu.

观田家 / Quan Điền Gia

微雨众卉新,
一雷惊蛰始。
田家几日闲?
耕种从此始。
丁壮俱在野,
场圃亦就理。
归来景常晏,
饮犊西涧水。
饥劬不自苦,
膏泽且为喜。
仓廪无宿储,
徭役犹未已。
方惭不耕者,
禄食出闾里。

Dịch nghĩa

Quan điền gia
Mưa nhỏ làm mọi loài cỏ nảy mầm mới,
Một cơn sấm chớp bắt đầu hiện tượng kinh trập.
Nhà nông được bao nhiêu ngày nhàn rỗi rồi?
Nay bắt đầu cày đất và gieo hạt theo ngay hiện tượng bắt đầu này.
Người lớn khoẻ mạnh đều ra đồng,
Ruộng vườn đều được sửa sang.
Thường trở về nhà trễ khi nắng sắp tắt,
Bê, nghé uống nước nơi suối phía tây.
Không thấy khổ khi đói bụng hay mệt nhọc,
Chịu mưa ướt cho đất được thấm nhuần là điều vui mừng.
Trong vựa, đụn chẳng có thóc lúa gì cả,
Làm để trả thuế cho quan và tô cho chủ đất còn chưa đủ.
Thấy điều này mới thấy hổ thẹn cho kẻ không làm ruộng như ta,
Bổng lộc và cái ăn đều do làng xã cung ứng.

Đừng bỏ lỡ chùm 🍁  Thơ 2 Câu Về Cuộc Sống 🍁 ý nghĩa

Chùm Thơ Chữ Hán Về Trà Đặc Sắc

Mời bạn tham khảo thêm Chùm Thơ Chữ Hán Về Trà Đặc Sắc dưới đây:

嘗茶 – Thưởng trà
Tác giả: Chưa rõ

生拍芳叢鷹嘴芽,
老郎封寄謪仙家。
今宵更有湘江月,
照出霏霏滿碗花。

Phiên âm Hán Việt

Sinh phách phương tùng ưng chuỷ nha,
Lão lang phong ký trích tiên gia.
Kim tiêu cánh hữu tương giang nguyệt,
Chiếu xuất phi phi mãn uyển hoa.

Chia sẻ chùm ✅  Thơ Về Trà ✅  ngắn hay

Thơ Chữ Hán Về Thầy Cô Ý Nghĩa

Tiếp theo sau đây là tập Thơ Chữ Hán Về Thầy Cô Ý Nghĩa và hay nhất:

見 我 師 – Kiếp ngã Sư
Tác giả: Chưa rõ

回 鄉 見 我 師
他 今 已 白 頭
相 見 不 能 說
相 感 別 亦 難

Phiên âm Hán Việt

Hồi hương kiến ngã sư
Tha kim dĩ bạch đầu
Tương kiến bất năng thuyết
Tương cảm biệt diệc nan.

Dịch nghĩa

Về quê, gặp lại thầy tôi
Nay mái tóc thầy đã bạc trắng
Thầy trò nhìn nhau mà không nói nên lời
Cùng dâng trào cảm xúc và thật khó khi phải nói lời chia tay.

徒 道 – Đạo Học Trò
Tác giả: Chưa rõ

師 徒 恩 義 重
成 道 早 立 功
榮 華 和 富 貴
留 心 義 莫 忘

Phiên âm Hán Việt

Sư đồ ân nghĩa trọng
Thành đạo tảo lập công
Vinh hoa hòa phú quý
Lưu tâm nghĩa mạc vong.

Dịch nghĩa

Thầy trò ân nghĩa sâu nặng
Thành tài sớm lập công danh
Sống đời vinh hoa phú quý
Khắc ghi lòng chữ Nghĩa đừng quên.

Sưu tầm ngay 🌼 2 Câu Thơ Về Thầy Cô 🌼 ngắn và hay nhất

Thơ Chữ Hán Về Trung Thu Thi Vị

Chần chừ gì mà không khám phá ngay tập Thơ Chữ Hán Về Trung Thu Thi Vị dưới đây:

Trung thu nguyệt 中秋月
Tác giả: Bạch Cư Dị

萬里清光不可思
添愁益恨繞天涯
誰人隴外久徵戍
何處庭前新別離
失寵故姬歸院夜
沒蕃老將上樓時
照他幾許人腸斷
玉兔銀蟾遠不知

Dịch thơ

Vời vợi trăng trong sáng dặm trường
Nỗi buồn chất ngất giận thêm vương
Người đi biên tái bao giờ lại ?
Kẻ ở thềm xưa luống đoạn trường
Thất sủng thứ phi về viện ở
Tàn binh lão tướng ẩn cung tường
Não nề trăng tỏ người đau xót
Thỏ ngọc xa hay chuyện thế thường ?

中秋對月 – Trung thu đối nguyệt
Tác giả: Chưa rõ

無雲世界秋三五,
共看蟾盤上海涯。
直到天頭天盡處,
不曾私照一人家。

Vô vân thế giới thu tam ngũ,
Cộng khán thiềm bàn thướng hải nhai.
Trực đáo thiên đầu thiên tận xứ,
Bất tằng tư chiếu nhất nhân gia.

Dịch nghĩa

Trời thu đêm 15 không có mây,
Mọi người ngắm trăng lên từ chân trời mặt biển.
Trăng chiếu khắp mọi nơi,
Chưa từng chiếu riêng cho một nóc nhà nào.

中秋感事 – Trung thu cảm sự
Tác giả: Nguyễn Phi Khanh

金波自海漫空流,
河漢微雲淡淡收。
雨後池臺多貯月,
客中情緒下勝秋。
願憑天上清光夜,
遍照人間疾苦愁。
長使國家多暇日,
五湖歸夢到扁舟。

Phiên âm Hán Việt

Kim ba tự hải mạn không lưu,
Hà Hán vi vân đạm đạm thu.
Vũ hậu trì đài đa trữ nguyệt,
Khách trung tình tự bất thăng thu.
Nguyện bằng thiên thượng thanh quang dạ,
Biến chiếu nhân gian tật khổ sầu.
Trường sử quốc gia đa hạ nhật,
Ngũ hồ quy mộng đáo biên chu.

Dịch nghĩa

Sóng vàng như biển, tràn ngập tầng không,
Dòng Ngân Hán lưa thưa mây đọng lại.
Sau trận mưa, đài ao chứa đầy ánh trăng,
Nỗi lòng nơi đất khách không thể như trời thu
Mong nhờ đêm trong sáng ở trên trời kia.
Soi thấu nỗi đau khổ của thế gian này.
Mãi mãi để nước nhà được những ngày nhàn hạ,
Thì giấc mơ quay về Năm hồ sẽ tới được chiếc thuyền con.

Đón đọc thêm 🌻 Thơ Trung Thu 🌻 đặc sắc

Thơ Chữ Hán Việt Nam Bất Hủ

Tìm hiểu thêm tập Thơ Chữ Hán Việt Nam Bất Hủ và để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc sau đây:

晚 – Vãn
Tác giả: Hồ Chí Minh

晚餐吃了日西沉,
處處山歌與樂音。
幽暗靖西禁閉室,
忽成美術小翰林。

Phiên âm Hán Việt

Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm,
Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm.
U ám Tĩnh Tây cấm bế thất,
Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.

Dịch nghĩa

Cơm chiều xong, mặt trời lặn về tây,
Khắp nơi, rộn tiếng ca dân dã và tiếng nhạc;
Nhà ngục u ám huyện Tĩnh Tây,
Bỗng thành một viện hàn lâm nghệ thuật nhỏ.

再踰三疊山 – Tái du Tam Điệp sơn
Tác giả: Nguyễn Du

雲際山三疊,
天涯客再踰。
眼中收大地,
海外見漁舟。
瘴靜峰巒瘦,
天寒草木秋。
行人回看處,
無那故鄉愁。

Phiên âm Hán Việt

Vân tế sơn Tam Điệp,
Thiên nhai khách tái du.
Nhãn trung thu đại địa,
Hải ngoại kiến ngư chu.
Chướng tĩnh phong loan sấu,
Thiên hàn thảo mộc thu.
Hành nhân hồi khán xứ,
Vô ná cố hương sầu.

Đề Bá Nha cổ cầm đồ – 題伯牙鼓琴圖
Tác giả: Nguyễn Trãi

鐘期不作鑄金難
獨抱瑤琴對月彈
靜夜碧宵涼似水
一聲鶴唳九皋寒

Phiên âm Hán Việt

Chung Kỳ bất tác chú kim nan
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thủy ;
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.

Dịch nghĩa

Không làm được Chung Kỳ vì đúc vàng khó ;
Một mình ôm đàn ngọc đối trăng mà đàn.
Đêm lặng vòm trời biếc lạnh như nước,
Một tiếng hạc rít lạnh ngắt ở chín chằm.

元宵 – Nguyên tiêu
Tác giả: Hồ Chí Minh

今夜元宵月正圓,
春江春水接春天。
煙波深處談軍事,
夜半歸來月滿船。

Phiên âm Hán Việt

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Dịch nghĩa

Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.

靖安晚立 – Tĩnh yên vãn lập
Tác giả: Nguyễn Trãi

淡煙疏雨晚摸糊
水色天光半有無
萬古乾坤清景致
海山為我出新圖

Phiên âm Hán Việt

Đạm yên sơ vũ vãn mô hồ
Thủy sắc thiên quang bán hữu vô
Vạn cổ càn khôn thanh cảnh trí.
Hải sơn vị ngã xuất tân đồ

Dịch nghĩa

Khói lạt mưa nhẹ cảnh chiều lờ mờ ;
Sắc nước ảnh trời nửa không nửa có.
Trời đất muôn thuở cảnh trí tươi trong ;
Biển non vì ta vẽ bức tranh mới.

對月 – Đối nguyệt
Tác giả: Hồ Chí Minh

窗外月明籠古樹,
月移樹影到窗前。
軍機國計商談了,
攜枕窗旁對月眠。

Phiên âm Hán Việt

Song ngoại nguyệt minh lung cổ thụ,
Nguyệt di thụ ảnh đáo song tiền,
Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu,
Huề chẩm song bàng đối nguyệt miên.

Dịch nghĩa

Ngoài cửa sổ ánh trăng lồng trên cây cổ thụ,
Ánh trăng nhích dần bóng cổ thụ lại trước cửa sổ.
Việc quân, việc nước bàn bạc xong rồi,
Xách gối đến bên cửa sổ, nằm ngủ trước ánh trăng.

瓊海元宵 – Quỳnh Hải nguyên tiêu
Tác giả: Nguyễn Du

元夜空庭月滿天,
依依不改舊嬋娟。
一天春興誰家落,
萬里瓊州此夜圓。
鴻嶺無家兄弟散,
白頭多恨歲時遷。
窮途憐汝遙相見,
海角天涯三十年。

Phiên âm Hán Việt

Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.

Thơ Chữ Hán Của Bác Cực Hay

Thohay.vn giới thiệu đến bạn đọc tập Thơ Chữ Hán Của Bác Cực Hay và ý nghĩa:

野景 – Dã cảnh

我來之時禾尚青,
現在秋收半已成。
處處農民顏帶笑,
田間充滿唱歌聲。

Phiên âm Hán Việt

Ngã lai chi thì hoà thượng thanh,
Hiện tại thu thu bán dĩ thành.
Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu,
Điền gian sung mãn xướng ca thanh.

Dịch nghĩa

Lúc ta đến lúa còn xanh,
Nay vụ gặt đã xong một nửa;
Nơi nơi nông dân mặt mày hớn hở,
Ruộng đồng tràn đầy tiếng ca hát.

自勉 – Tự miễn

没有冬寒憔悴景,
將無春暖的輝煌。
災殃把我來鍛鍊,
使我精神更健強。

Phiên âm Hán Việt

Một hữu đông hàn tiều tuỵ cảnh,
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng.
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện,
Sử ngã tinh thần cách kiện cường.

Dịch nghĩa

Không có cảnh mùa đông tiêu điều rét mướt,
Sẽ không có mùa xuân ấm áp huy hoàng;
Tai ương rèn luyện ta,
Khiến cho tinh thần ta càng thêm hăng hái.

七九 – Thất cửu

人未五旬常嘆老,
我今七九正康強。
自供清淡精神爽,
做事從容日月長。

Phiên âm Hán Việt

Nhân vị ngũ tuần thường thán lão,
Ngã kim thất cửu chính khang cường.
Tự cung thanh đạm tinh thần sảng,
Tố sự thung dung nhật nguyệt trường.

Dịch nghĩa

Thường người ta chưa đến năm mươi tuổi đã tự than già,
Mình nay sáu mươi ba tuổi vẫn đang khoẻ mạnh.
Sống cách thanh đạm tinh thần sáng suốt,
Làm việc thong dong, ngày tháng dài.

尋友未遇 – Tầm hữu vị ngộ

百里尋君未遇君,
馬蹄踏碎領頭雲。
歸來偶過山梅樹,
每朵黃花一點春。

Phiên âm Hán Việt

Bách lý tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.

Dịch nghĩa

Trăm dặm tìm anh mà chẳng gặp anh,
Vó ngựa dẫm vỡ những áng mây trên đầu núi.
Trở về, tình cờ qua một cây mai rừng,
Mỗi đoá hoa vàng là một điểm xuân.

夜宿龍泉 – Dạ túc Long Tuyền

白天雙馬不停蹄,
夜晚嘗嘗五味雞。
虱冷乘機來夾擊,
隔鄰欣聽曉鶯啼。

Phiên âm Hán Việt

Bạch thiên “song mã” bất đình đề,
Dạ vãn thường thường “ngũ vị kê”.
Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích,
Cách lân hân thính hiểu oanh đề.

Dịch nghĩa

Suốt ngày “đôi ngựa” không ngừng vó,
Đêm đến, lại từng nếm món “gà năm vị”.
Rệp và rét thừa cơ xông vào tập kích,
Mừng nghe xóm bên, chim oanh hót báo sáng.

近龍州 – Cận Long Châu

遠隔龍州三十里,
已聞炮響與機聲。
越南民眾真英勇,
抗戰必勝建國必成。

Phiên âm Hán Việt

Viễn cách Long Châu tam thập lý,
Dĩ văn pháo hưởng dữ cơ thanh.
Việt Nam dân chúng chân anh dũng,
Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành.

Dịch nghĩa

Cách xa Long Châu ba mươi dặm,
Đã nghe tiếng đại bác vang dội và tiếng máy bay gầm rú.
Dân chúng nước Việt Nam thật là anh dũng,
Kháng chiến nhất định thắng lợi, kiến quốc nhất định thành công.

Xem thêm tập 🌹 Thơ Chữ Hán Của Hồ Chí Minh 🌹 nổi tiếng

Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương

Tiếp theo là chùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương nổi tiếng nhất.

過京瑤祠懷古 – Quá Khinh Dao từ hoài cổ

山海桑蓬古已來,
長途著腳乍關懷。
庭前象馬銀雙鎖,
宮裡衣冠玉一堆。
草木暗隨冬雪老,
江山還為昔人哀。
皇天有意開新運,
風捲紅塵拂劫灰。

Phiên âm Hán Việt

Sơn hải tang bồng cổ dĩ lai,
Trường đồ trước cước sạ quan hoài.
Đình tiền tượng mã ngân song toả,
Cung lý y quan ngọc nhất đôi.
Thảo mộc ám tuỳ đông tuyết lão,
Giang sơn hoàn vị tích nhân ai.
Hoàng thiên hữu ý khai tân vận,
Phong quyển hồng trần phất kiếp hôi.

半枕書懷 – Bán chẩm thư hoài

半天風雨半天晴,
旅況淒涼入夢醒。
吟客有神來色相,
情魔無力卻愁兵。
衾中半瘦風流骨,
榻上平分海角情。
一片無聊言不盡,
塵寰安得眼雙清。

Phiên âm Hán Việt

Bán thiên phong vũ bán thiên tình,
Lữ huống thê lương nhập mộng tinh.
Ngâm khách hữu thần lai sắc tướng,
Tình ma vô lực khước sầu binh.
Khâm trung bán sấu phong lưu cốt,
Tháp thượng bình phân hải giác tình.
Nhất phiến vô liêu ngôn bất tận,
Trần hoàn an đắc nhãn song thanh.

Dịch nghĩa

Nửa trời mưa gió, nửa trời tạnh quang
Tình cảnh ở quán trọ thê lương mê rồi tỉnh
Khách ngâm thơ có thần đến dáng vẻ
Ma tình không sức rụt vũ khí buồn
Lúc ngủ (trong chăn) thì hao nửa thân mình phong nhã
Khi “thức” (trên giường) thì chia đều biển ái ân
Một cảnh không hứng thú không tả hết
Cõi trần thường thích cả đôi mắt xanh.

鎮北寺 – Đề Trấn Quốc tự

莊臨誰是景中人,
細細清風扇扇薰。
水月波籠蓮插茁,
香煙寶憩露連雲。
洗空塵慮花含態,
喚醒迷途草亦春。
到景令人回首望,
東南拂袖鴈成群。

Phiên âm Hán Việt

Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân,
Tế tế thanh phong phiến phiến huân.
Thuỷ nguyệt ba lung liên tháp truất,
Hương yên bảo thoại lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thoại,
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Ðáo cảnh linh nhân hồi thủ vọng,
Ðông nam phất tụ nhạn thành quần.

Dịch nghĩa

Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh,
Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi thơm.
Trăng nước sóng vờn sen chen nụ,
Khói hương tàn bám móc liền mây.
Tẩy sạch trần tục phiền não, hoa e ấp,
Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc xuân.
Gặp cảnh khuyên người quay đầu ngắm,
Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn.

塞外聞砧 – Tái ngoại văn châm

倏聞江鼓戍江城,
忽得寒砧奏耳聽。
續斷霜中驚雁陣,
依稀壁下亂虫聲。
征夫欲破深閨夢,
遊子還添故國情。
得意不知勤苦藥,
管弦韻韻間雞鳴。

Phiên âm Hán Việt

Thúc văn giang cổ thú giang thành,
Hốt đắc hàn châm tấu nhĩ thinh.
Tục đoạn sương trung kinh nhạn trận,
Y hy bích hạ loạn trùng thanh.
Chinh phu dục phá thâm khuê mộng,
Du tử hoàn thiêm cố quốc tình.
Đắc ý bất tri cần khổ dược,
Quản huyền vận vận gián kê minh.

Dịch nghĩa

Chợt nghe tiếng trống ở thành bên sông
Bất ngờ hợp với tiếng chày lạnh nhịp bên tai
Lúc vang lúc bặt trong màn sương khiến bầy nhạn kinh sợ
Phảng phất dưới chân tường dế kêu loạn xạ
Người lính muốn phá giấc mộng nơi khuê phòng (của vợ)
Khách dạo thuyền càng thêm nặng tình cố quốc
Mải mê suy nghĩ mà không hay có liều thuốc chữa khổ luỵ
Tiếng sáo hoà với tiếng đàn chen lẫn tiếng gà gáy bình minh.

故京秋日 – Cố kinh thu nhật

冉冉征塵秋月斜,
一盃還送舊繁華。
一蘇水潦西流盡,
三島晴光北望賒。
燈月青氈悲故物,
霜前白露落誰家。
此來相對重相憶,
客久年深奈若何。

Phiên âm Hán Việt

Nhiễm nhiễm chinh trần thu nguyệt tà,
Nhất bôi hoàn tống cựu phồn hoa.
Nhất Tô thuỷ lạo tây lưu tận,
Tam Đảo tình quang bắc vọng xa.
Đăng nguyệt thanh chiên bi cố vật,
Sương tiền bạch lộ lạc thuỳ gia.
Thử lai tương đối trùng tương ức,
Khách cửu niên thâm nại nhược hà.

秋日即事 – Thu nhật tức sự

西風昨夜壓寒枝,
籬菊蕭疏雪未飛。
密雨斜篩紛水面,
孤雲描織遠山眉。
蓮餘殘夏留春帶,
柳徬饒香老翠衣。
啼鳥莫非知我況,
聲聲長動故鄉思。

Phiên âm Hán Việt

Tây phong tạc dạ áp hàn chi,
Ly cúc tiêu sơ tuyết vị phi.
Mật vũ tà si phân thuỷ diện,
Cô vân miêu chức viễn sơn my.
Liên dư tàn hạ lưu xuân đới,
Liễu bạng nhiêu hương lão thuý y.
Đề điểu mạc phi tri ngã huống,
Thanh thanh trường động cố hương ty (tư).

Dịch nghĩa

Đêm qua gió tây xô dạt cành cây
Dậu cúc lưa thưa tuyết chưa bay
Mưa lớn nghiêng đổ khuấy động mặt nước (mặt phấn, mặt sáng)
Mây thưa thêu vẽ tránh xa nét mi xanh (giống như màu núi)
Sen thừa hạ hết dây xuân cũ (sót)
Liễu tựa nhiều hương áo biếc xưa
Chim khóc chẳng ai không hiểu tình cảnh của mình
Từng tiếng dài khuấy động tấm tình quê.

少年遊調 – Thiếu niên du điệu

瓊筳座花,
𢒎觴對月,
風流屬誰家?
李子飛輝豪,
徐妃援筆,
思雅入詩歌。
今夕是如何?
促席談心。
回燈敘事,
撫筆一呵呵。

Phiên âm Hán Việt

Quỳnh diên toạ hoa,
Phi trường đối nguyệt,
Phong lưu thuộc thuỳ gia?
Lý tử phi hào,
Từ phi viên bút,
Tứ nhã nhập thi ca.
Kim tịch thị như hà?
Xúc tịch đàm tâm.
Hồi đăng tự sự,
Phủ bút nhất kha kha.

秋風歌 – Thu phong ca

秋風起兮白雲飛,
草木黃落兮雁南歸。
蘭有秀兮菊有芳,
懷佳人兮不能忘。
我有酒兮無對飲,
我有琴兮無知音。
不酌酒兮不鳴琴,
數杯清茗兮故人心。

Phiên âm Hán Việt

Thu phong khởi hề bạch vân phi,
Thảo mộc hoàng lạc hề nhạn nam quy.
Lan hữu tú hề cúc hữu phương,
Hoài giai nhân hề bất năng vương.
Ngã hữu tửu hề vô đối ẩm,
Ngã hữu cầm hề vô tri âm.
Bất chước tửu hề bất minh cầm,
Sổ bôi thanh dính hề cố nhân tâm.

漁翁曲行 – Ngư ông khúc hành

野翁淡泊亦繁花,
錯認桃源是薜蘿。
寄語挳舟從釣子,
過江應不聽琵琶。
過江莫聽琵琶,
高聲不似胡笳悽涼。
桃源水闊山長,
漁翁一棹仙堂半開。
萬重春鎖天台,
琴聲樂角聲哀不同。
寒山草色蔥蔥,
蘇溪幾到清風自閑。

Phiên âm Hán Việt

Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa,
Thác nhận Đào Nguyên thị bệ la.
Ký ngữ khinh chu tòng điếu tử,
Quá giang ưng bất thính tỳ bà.
Quá giang mạc thính tỳ bà,
Cao thanh bất tự Hồ già thê lương.
Đào nguyên thuỷ khoát sơn trường,
Ngư ông nhất trạo tiên đường bán khai.
Vạn trùng xuân toả Thiên Thai,
Cầm thanh lạc, giốc thanh ai bất đồng.
Hàn sơn thảo sắc thông thông,
Tô khê kỷ đáo thanh phong tự nhàn.

Dịch nghĩa

Lão nhà quê ăn lạt mặc mỏng mà vẫn phong lưu
Áo thô mà cứ tưởng sống cảnh tiên
Gởi lời người phụ câu quay thuyền về
‎Qua sông không nghe được tiếng tỳ bà
‎Qua sông chớ nghe tiếng tỳ bà
‎Âm cao không giống kèn Hồ thê lương
‎Đào Nguyên sông rộng núi dài
‎Ngư ông chăm chú chèo, cửa tiên hé ra
Vạn trùng xuân bến Thiên Thai
Tiếng đàn vui, tiếng tù buồn không hoà
Núi lạnh sắc cỏ xanh xanh
Suối Tô tự đầy, gió mát tự nhàn

秋雨 – Thu vũ

天隔雲陰慘不明,
蕭蕭秋雨落閒庭。
短長枯樹枝頭淚,
舒急黃蕉葉上聲。
吟斷低迷千里夢,
愁牽寥落五更情。
深閨最苦如花面,
一片愁容畫不成。

Phiên âm Hán Việt

Thiên cách vân âm thảm bất minh,
Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.
Đoản trường khô thụ chi đầu lệ,
Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,
Sầu khiên liêu lạc ngũ canh tình.
Thâm khuê tối khổ như hoa diện,
Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành.

Dịch nghĩa

Bầu trời mây che tăm tối ảm đạm
Mưa thu tí tách rơi ngoài sân vắng
Nhánh cây khô giọt lệ ngắn dài
Lá chuối vàng tiếng giũ chậm nhanh
Khóc dứt đê mê ngàn dặm mộng
Sầu vương lác đác năm canh tình
Phòng khuê thật buồn như mặt hoa
Hình dáng nỗi buồn không hoạ được

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du

Tham khảo thêm tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du, một trong những nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam.

留別阮大郎 – Lưu biệt Nguyễn đại lang

西風蕭颯拂高林,
傾盡離杯話夜深。
亂世男兒羞對劍,
他鄉朋友重分襟。
高山流水無人識,
海角天涯何處尋?
留取江南一片月,
夜來常照兩人心。

Phiên âm Hán Việt

Tây phong tiêu táp phất cao lâm,
Khuynh tận ly bôi ngoại dạ thâm.
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm,
Tha hương bằng hữu trọng phân khâm.
“Cao sơn lưu thuỷ” vô nhân thức,
Hải giác thiên nhai hà xứ tầm?
Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt,
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhâm tâm.

Dịch nghĩa

Gió tây hiu hắt thổi qua rừng cây cao.
Hãy cạn chén rượu biệt ly này rồi cùng nhau nói chuyện đến khuya.
Trai thời loạn nhìn thanh kiếm mà thẹn.
Chia tay bạn, ở đất khách, càng thấy bùi ngùi.
Khúc đàn cao sơn lưu thuỷ, ai người hiểu?
Rồi đây biết tìm anh nơi đâu ở góc bể chân trời?
Chỉ còn lại mảnh trăng phía nam sông
Đêm đêm soi chung tấm lòng hai ta.

乞食 – Khất thực

嶒崚長劍倚青天,
輾轉泥塗三十年。
文字何曾為我用,
饑寒不覺受人憐。

Phiên âm Hán Việt

Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên,
Triển chuyển nê đồ tam thập niên.
Văn tự hà tằng vi ngã dụng ?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên!

Dịch nghĩa

Tựa kiếm dài, ngạo nghễ nhìn trời xanh,
Lăn lộn trong đám bùn dơ ba mươi năm nay.
Văn chương nào đã dùng được việc gì cho ta ?
Đâu ngờ phải đói rét để người thương

山居漫興 – Sơn cư mạn hứng

南去長安千里餘,
群峰深處野人居。
柴門晝靜山雲閉,
藥圃春寒隴竹疏。
一片鄉心蟾影下,
經年別淚雁聲初。
故鄉弟妹音耗絕,
不見平安一紙書。

Phiên âm Hán Việt

Nam khứ Trường An thiên lý dư,
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.

Dịch nghĩa

Cách Trường An nghìn dặm về phía nam,
Có một người quê mùa ở trong núi sâu.
Ban ngày yên tĩnh, mây núi che kín cổng tre.
Mùa xuân lạnh, hành trúc quanh vườn thuốc trông thưa thớt.
Thơ thẩn dưới bóng trăng, lòng nhớ quê hương.
Tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm dòng lệ biệt ly từ bao năm.
Em trai em gái ở nơi quê nhà, bấy lâu bặt hắn tin tức,
Không nhận được lá thư nào nói cho biết có bình yên hay không?

雜吟 – Tạp ngâm (I)

踏遍天涯又海涯,
乾坤隨在即為家。
平生不起蒼蠅念,
今古誰同白蟻窩。
寥落壯心虛短劍,
蕭條旅悶對時歌。
閉門不識春深淺,
但見棠藜落盡花。

Phiên âm Hán Việt

Đạp biến thiên nha hựu hải nha,
Càn khôn tuỳ tại tức vi gia.
Bình sinh bất khởi thương dăng niệm,
Kim cổ thuỳ đồng bạch nghĩ oa?
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm,
Tiêu điều lữ muộn đối thì ca.
Bế môn bất thức xuân thâm thiển,
Đãn kiến đường lê lạc tận hoa.

Dịch nghĩa

Đi khắp chân trời góc biển,
Trong khoảng trời đất, đến đâu là nhà đó.
Bình sinh chưa hề có ý nghĩ của loài ruồi nhặng,
Xưa nay ai lại cùng chung tổ với lũ mối?
Tráng tâm lâm vào cảnh tịch mịch, phụ cả cây đoản kiếm.
Nỗi buồn lữ thứ càng trở nên tiêu điều khi nghe những bài hát đương thời.
Cửa ngõ đóng kín, chẳng biết xuân sớm hay muộn nữa,
Chỉ thấy cây đường lê rụng hết hoa rồi.

代人戲筆 – Đại nhân hí bút

錯落人家珥水新,
居然別占一城春。
東西橋閣兼天起,
胡漢衣冠特地分。
苜蓿秋驕金勒馬,
葡萄春醉玉樓人。
年年自得繁華勝,
不管南溟幾度塵。

Phiên âm Hán Việt

Thác lạc nhân gia Nhĩ thuỷ tân
Cư nhiên biệt chiếm nhất thành xuân.
Đông tây kiều các kiêm thiên khởi,
Hồ Hán y quan đặc địa phân.
Mục túc thu kiêu kim lặc mã,
Bồ đào xuân tuý ngọc lâu nhân.
Niên niên tự đắc phồn hoa thắng,
Bất quản Nam minh kỷ độ trần.

Dịch nghĩa

Trên bãi sông Nhị, nhà cửa lô nhô,
Nghiễm nhiên chiếm cảnh xuân của cả một thành.
Phía đông và phía tây, cầu và nhà gác cao ngút trời.
Áo mũ chia hẳn người Hán với người Hồ.
Mùa thu, ngựa đeo giàm vàng kiêu hãnh ăn rau mục túc.
Ngày xuân, người trong lầu ngọc uống rượu bồ đào say mềm.
Tha hồ hưởng thú phồn hoa hết năm này đến năm khác,
Không quản bể Nam mấy phen nổi bụi.

開窗 – Khai song

門前煙景近如何,
閒日開窗生意多。
六月培風鵬徙地,
一庭積雨蟻移窩。
青氈舊物苦珍惜,
白髮雄心空咄嗟。
再病尚須調攝力,
不知秋思到誰家。

Phiên âm Hán Việt

Môn tiền yên cảnh cận như hà?
Nhàn nhật khai song sinh ý đa.
Lục nguyệt bồi phong bằng tỷ địa,
Nhất đình tích vũ nghĩ di oa.
Thanh chiên cựu vật khổ trân tích,
Bạch phát hùng tâm không đốt ta.
Tái bệnh thượng tu điều nhiếp lực,
Bất tri thu tứ đáo thuỳ gia?

Dịch nghĩa

Phong cảnh trước nhà, nay như thế nào rồi?
Nhàn rỗi, mở cửa sổ ra xem, thấy mọi vật vẫn vui tươi.
Chim bằng cưỡi gió bay luồn sáu tháng không nghỉ,
Sân đọng nước mưa kiến dời tổ đi.
Có chiếc nệm xanh là vật cũ, khư khư giữa mãi,
Tóc bạc rồi, có hùng tâm cũng ngồi than thở suông mà thôi.
Bệnh trở lại, phải lo điều dưỡng,
Không biết thu đến nhà ai?

Mời bạn tham khảo 🌵 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du 🌵 nổi tiếng

Thơ Chữ Hán Nguyễn Khuyến

Đừng bỏ lỡ tập Thơ Chữ Hán Nguyễn Khuyến được Thohay.vn sưu tầm sau đây:

感作 – Cảm tác

墨綬銅章十二年,
此身日望聖朝憐。
病因多事且休矣,
腹有一餐猶果然。
去國豈無朋輩在,
歸家未必子孫賢。
曚曨把盞從今事,
祇恐遺洿到簡編!

Phiên âm Hán Việt

Mặc thụ đồng chương thập nhị niên,
Thử thân nhật vọng thánh triều liên.
Bệnh nhân đa sự thả hưu hĩ,
Phúc hữu nhất xan do quả nhiên.
Khứ quốc khởi vô bằng bối tại,
Quy gia vị tất tử tôn hiền.
Mông lung bả trản tòng kim sự,
Chỉ khủng di ô đáo giản biên!

Dịch nghĩa

Dây thao đen, ấn đồng đã mười hai năm nay,
Hằng ngày, thân này mong được thánh triều thương tới.
Ốm vì nhiều việc, thôi thì hưu vậy,
Bụng chỉ một bữa ăn, cũng vẫn còn no.
Mình đi xa quê nhà há chẳng có bè bạn,
Về nhà cũng chưa chắc con cháu đã có đức tốt (mà trông cậy).
Từ nay công việc của ta là đánh chén say tít,
Chỉ e lại bôi nhọ cho sử sách.

春日偶興 – Xuân Nhật Ngẫu Hứng

患氣經時戶不開,
逡巡寒暑故相催。
他鄉人與去年別,
瓊海春從何處來。
南浦傷心看綠草,
東皇生意漏寒梅。
鄰翁奔走村前廟,
斗酒雙柑醉不回

Phiên âm Hán Việt

Hoạn khí kinh thì hộ bất khai,
Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt,
Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?
Nam phố thương tâm khan lục thảo,
Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai.
Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu,
Đấu tửu song cam túy bất hồi.

Dịch nghĩa

Bấy lâu nay khí trời xấu, không mở cửa,
Dùng dằng hết mùa lạnh lại đến mùa nóng.
Chốn tha hương, phải từ biệt người năm cũ,
Chẳng hay Xuân từ đâu đến Quỳnh Hải,
Đau lòng nhìn bãi cỏ xanh bên bờ Nam,
Chúa Xuân để lộ sinh ý trên cánh hoa mai lạnh.
Có ông già hàng xóm, đi về phía miếu đầu thôn,
Uống hết bầu rượu, ăn hai trái cam, đang say, không thấy trở về.

瓊海元宵 – Quỳnh Hải Nguyên Tiêu

元夜空庭月滿天,
依依不改舊嬋娟。
一天春興誰家落,
萬里瓊州此夜圓。
鴻嶺無家兄弟散,
白頭多恨歲時遷。
窮途憐汝遙相見,
海角天涯三十年。

Phiên âm Hán Việt

Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Nhất thiên xuân hứng, thùy gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.

Dịch nghĩa

Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời,
Vầng trăng vẫn đẹp như xưa, không hề thay đổi.
Chẳng biết nhà ai được hưởng thú vui Xuân,
Đêm nay ở đất Quỳnh Châu ngoài vạn dặm [thấy trăng tròn].
Còn ta thì ở quê hương Hồng Lĩnh, không còn nhà cửa, anh em ly tán,
Đầu đã bạc, càng giận cho ngày tháng trôi mau.
Cảm động biết bao, giữa lúc cùng đường, còn gặp được [ánh trăng đến thăm],
Đã ba mươi rồi, vẫn còn lưu lạc ở nơi chân trời góc biển.

感事 – Cảm sự

風蔽塵污何處來,
日光駒影遞相催。
煙飛江上舟如電,
石陸山腰礮似雷。
世有詩書何所用,
天生水火各為財。
讀窮五代瀛環記,
始信寒泉有劫灰。

Phiên âm Hán Việt


Phong tế trần ô hà xứ lai,
Nhật quang câu ảnh đệ tương thôi.
Yên phi giang thượng chu như điện,
Thạch lục sơn yêu pháo tự lôi.
Thế hữu thi thư hà sở dụng,
Thiên sinh thuỷ hoả các vi tài.
Độc cùng ngũ đại doanh hoàn ký,
Thuỷ tín hàn tuyền hữu kiếp hôi.

Dịch nghĩa

Cơn gió đã đem bụi nhơ từ đâu đến
Ánh mặt trời, bóng ngựa câu cứ thi nhau chạy hoài
Khói tuôn trên mặt sông, thuyền nhanh như chớp
Đá lở trên sườn núi, tiếng súng nổ như sấm
Đời có thi thư, không dùng làm gì cả
Trời sinh ra nước, lửa đều được người ta sử dụng
Có đọc hết các sách trên thế giới nói về vũ trụ
Thì mới tin rằng ở dưới suối lạng cũng gặp vận kiếp hôi

庚子春 – Canh Tý xuân

吾年六十六之年,
歲月侵尋亦可憐。
疎闊齒牙如二甲,
蓬菘毛髮亦更番。
三朝夕後酒將罄,
萬綠叢中花欲然。
老病近來吟興少,
春寒無事抱爐眠。

Phiên âm Hán Việt

Ngô niên lục thập lục chi niên,
Tuế nguyệt xâm tầm diệc khả liên.
Sơ khoát xỉ nha như nhị giáp,
Bồng tùng mao phát diệc canh phiên.
Tam triêu tịch hậu tửu tương khánh,
Vạn lục tùng trung hoa dục nhiên.
Lão bệnh cận lai ngâm hứng thiểu,
Xuân hàn vô sự bão lô miên.

Dịch nghĩa

Tuổi ta là tuổi sáu mươi sáu
Năm tháng mỏi mòn thật là đáng thương
Răng lợi khủng khỉnh như hai phe giáp
Đầu tóc bù xù cũng đã đổi thay
Sau tối mồng một Tết, rượu hầu đã cạn
Trong muôn bụi cây xanh, hoa cũng muốn tàn
Gần đây già ốm hứng thơ giảm sút
Tiết xuân giá lạnh không có việc gì, ôm lò sưởi đánh giấc

沽魚 – Cô ngư

門外方溏一畝餘,
年年不畜自多魚。
富人主之十千利,
貧人沽之無一如。
米貴已難敷口食,
波深又值作霖初。
安知貧富非由命,
竭力當為莫恨渠。

Phiên âm Hán Việt

Môn ngoại phương đường nhất mẫu dư,
Niên niên bất súc tự đa ngư.
Phú nhân chủ chi thập thiên lợi,
Bần nhân cô chi vô nhất như.
Mễ quý dĩ nan phu khẩu thực,
Ba thâm hựu trị tác lâm sơ.
An tri bần phú phi do mệnh,
Kiệt lực đương vi mạc hận cừ.

Dịch nghĩa

Cái ao vuông ngoài cửa rộng hơn một mẫu,
Hàng năm không nuôi mà cá vẫn nhiều.
Người giàu làm chủ ao ấy thu lợi hàng mười nghìn,
Người nghèo mua lại ao ấy, lãi không bằng một phần.
Gạo đắt khó đủ cho miệng ăn,
Nước sâu lại gặp hồi mưa dầm.
Biết đâu giàu nghèo không phải là do số mệnh,
Thôi thì cứ hết sức làm, chẳng nên oán hận ai chi.

夜山廟 – Dạ sơn miếu

爭戰何年局已殘,
樓臺空在半山間。
螺城興廢機前定,
龜爪存忘事不關。
梅驛客來飛雀狎,
松林雨過暮鴉寒。
霸王事業千秋後,
煙樹蒼茫一夜山。

Phiên âm Hán Việt

Tranh chiến hà niên cục dĩ tàn,
Lâu đài không tại bán sơn gian.
Loa thành hưng phế cơ tiền định,
Quy trảo tồn vong sự bất quan.
Mai dịch khách lai phi tước hiệp,
Tùng lâm vũ quá mộ nha hàn.
Bá vương sự nghiệp thiên thu hậu,
Yên thụ thương mang nhất Dạ san.

Dịch nghĩa

Cuộc chiến năm nào đã tàn lâu rồi
Lâu đài còn trơ lại trên lưng chừng núi
Sự hưng phế của Loa Thành do cơ định trước
Cái móng rùa còn hay mất chẳng liên quan gì
Khách qua trạm mai dịch đàn công bay
Mưa tạnh rừng thông tiếng quạ kêu lạnh
Sự nghiệp bá vương sau nghìn năm
Chỉ thấy trên núi Dại Sơn khói cây man mác

浴翠山 – Dục Thuý sơn

萬古青山在,
何年浴翠名。
孤城千仞落,
一寺半江平。
慧遠今何處,
升庵尚有銘。
斜陽懷古意,
三兩暮禽聲。

Phiên âm Hán Việt

Vạn cổ thanh sơn tại,
Hà niên Dục Thuý danh.
Cô thành thiên nhận lạc,
Nhất tự bán giang bình.
Tuệ Viễn kim hà xứ,
Thăng am thượng hữu minh.
Tà dương hoài cổ ý,
Tam lưỡng mộ cầm thanh.

Dịch nghĩa

Non xanh có từ muôn thuở xưa,
Tên Dục Thuý năm nào mới đặt?
Toà thành đứng trơ vơ trên cao ngàn thước,
Một ngôi chùa nhô ra giữa dòng sông.
Nhà sư Tuệ Viễn nay ở đâu?
Ông Thăng Phủ vẫn còn bia khắc đó.
Bóng tà gợi lên những ý tình hoài cổ,
Thánh thót đôi ba tiếng chim chiều.

與子懽來京廷試 – Dữ tử Hoan lai kinh đình thí

夢想城雲禁柳中,
吾兒今又到南宮。
江邊翠色春相暮,
天上霓裳曲未終。
仙土三年猶伏火,
海鵬六月正陪風。
病閒時倚門閭望,
衣鉢何當慰乃翁。

Phiên âm Hán Việt

Mộng tưởng thành vân cấm liễu trung,
Ngô nhi kim hựu đáo Nam cung.
Giang biên thuý sắc xuân tương mộ,
Thiên thượng “Nghê thường” khúc vị chung.
Tiên thổ tam niên do phục hoả,
Hải bằng lục nguyệt chính bồi phong.
Bệnh nhàn thời ỷ môn lư vọng,
Y bát hà đương uý nãi ông.

Dịch nghĩa

Trong mộng thấy mây thành nơi đình liễu trong cung cấm,
Con ta nay đã lại đến kinh đô.
Bên sông xanh ngày xuân đã ngả sang chiều,
Trong không gian, khúc Nghê thường chưa dứt.
Đất thánh ba năm lòng còn ủ lửa,
Sáu tháng chim bằng vùng vẫy cánh đang lộng gió.
Đau bệnh ngày dài tựa cửa cổng làng trông ngóng,
Nghiệp nhà canh cánh sao bớt được nỗi lo lắng trong lòng ông già này.

玳瑁梳 – Đại mạo sơ

奇珍產出李山洲,
巾笥追隨二十秋。
此物自從歸我手,
一生祇合上人頭。
黃塵掃蕩歸殘齒,
白髮蓬鬆獨隱憂。
祇此貞心堪共賞,
何惟文彩似明珠。

Phiên âm Hán Việt

Kỳ trân sản xuất Lý Sơn châu,
Cân tứ truy tuỳ nhị thập thu.
Thử vật tự tòng quy ngã thủ,
Nhất sinh kỳ hợp thướng nhân đầu.
Hoàng trần tảo đãng quy tàn xỉ,
Bạch phát bồng tùng độc ẩn ưu.
Kỳ thử trinh tâm kham cộng thưởng,
Hà duy văn thái tự minh châu.

Dịch nghĩa

Vật quý lạ sinh ra tù cù lao Lý Sơn
Được theo liền vói khăn với trap của ta đã hai mươi năm
Vật này từ lúc thuộc về tay ta
Suốt đời riêng được nâng lên trên đầu người
Bụi vàng quét sạch còn lại đám răng cùn
Tóc bạc lồng bồng riêng những âm thầm trong dạ
Chỉ kể tấm lòng bền bỉ đó đã đáng được mọi người ưa chuộng
Lựa là văn vẻ tựa như viên ngọc minh châu

冬至 – Đông chí

雲走風飛霜滿天,
光陰從此入新年。
春回舊徑鳥知未,
樹破新芽花欲然。
壓悶日將醇酒酌,
畏寒夜抱火爐眠。
近來懶向西園上,
強起扶筇看水仙。

Phiên âm Hán Việt

Vân tẩu phong phi sương mãn thiên,
Quang âm tòng thử nhập tân niên.
Xuân hồi cựu kính điểu tri vị,
Thụ phá tân nha hoa dục nhiên.
Áp muộn nhật tương thuần tửu chước,
Uý hàn dạ bão hoả lô miên.
Cận lai lãn hướng tây viên thướng,
Cưỡng khởi phù cung khán thuỷ tiên.

Dịch nghĩa

Mây chạy gió bay sương toả đầy trời
Quang cảng từ đấy bước sang năm mới
Xuân về lối cũ chim đã biết chưa?
Cây nẩy mầm non hoa sẽ đỏ như lửa cháy
Nén buồn ngày đem rượu ngọt ra uống
Sợ lạnh ban đêm ôm lồng ấp mà nằm
Gần đây lười không ra thăm vườn tây
Nay gượng đứng dậy chống gậy ra đó mà xem hoa thuỷ tiên

覺寺晨鐘 – Giác tự thần chung

煙深露重樹無風,
何處禪關送曉鐘。
餘嚮遙傳雲棟外,
寒聲半滯雪花中。
戍樓刁鬥三更靜,
紫陌塵埃一點空。
這裡惺惺還問主,
難將底意話僧翁。

Phiên âm Hán Việt

Yên thâm lộ trọng thụ vô phong,
Hà xứ thiền quan tống hiểu chung.
Dư hưởng dao truyền vân đống ngoại,
Hàn thanh bán trệ tuyết hoa trung.
Thú lâu điêu đẩu tam canh tĩnh,
Tử mạch trần ai nhất điểm không.
Giá lý tinh tinh hoàn vấn chủ,
Nan tương để ý thoại tăng ông.

Dịch nghĩa

Móc dày khói nặng hàng cây lặng như tờ
Chùa Giác đâu đây đưa hồi chuông sớm đến
Xa xa nghe tiếng vọng từ bên kia đỉnh nóc sát mây
Lạnh lẽo từng hồi một nửa đọng trong hoa tuyết
Trên chòi canh nửa đêm tiếng điêu đẩu đã im bặt
Nơi dặm tía không còn một hạt bụi bay
Đến đây lòng kính cẩn vẫn muốn hỏi ai là chủ
Niềm tâm sự khôn đem bày tỏ với sư ông

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi

Mời bạn thưởng thức thêm chùm Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi hay và đặc sắc dưới đây:

歸 崑 山 舟 中 作 – Quy Côn Sơn chu trung tác

十 年 飄 轉 嘆 蓬 萍
歸 思 搖 搖 日 似 旌
幾 托 夢 魂 尋 故 里
空 將 血 淚 洗 先 塋
兵 餘 斤 斧 嗟 難 禁
客 裡 江 山 只 此 情
鬱 鬱 寸 懷 無 奈 處
船 窗 推 枕 到 天 明

Phiên âm Hán Việt

Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình
Qui tứ dao dao nhật tự tinh
Kỉ thác mộng hồn tầm cố lí
Không tương huyết lệ tẩy tiên oanh
Binh dư cân phủ ta nan cấm
Khách lí giang sơn chỉ thử tình
Uất uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh

Dịch nghĩa

Mười năm phiêu diêu than phận bồng bèo
Lòng muốn về ngày ngày vẫy như đuôi cờ
Bao lần nhờ hồn mộng đi tìm quê cũ
Mong đem huyết lệ rửa mộ tổ tiên
Sau cơn binh lửa, búa rìu khôn cấm nổi
Non sông đất khách, chỉ có tình này
Tấc lòng bùi ngùi chẳng biết làm sao
Nằm ở cửa sổ thuyền, trở gối đến sáng

和 友 人 烟 霞 寓 興其 一 Ngẫu hứng trăng thu

蓬 萊 弱 水 杳 無 涯
俗 境 低 回 髮 半 花
雲 外 故 居 空 蕙 帳
月 中 清 夢 遶 山 家
心 如 野 鶴 飛 天 際
跡 似 征 鴻 踏 雪 沙
岩 穴 棲 身 何 日 是
天 門 回 首 五 雲 賒

Phiên âm Hán Việt

Trầm ngâm phòng vắng tỉnh mơ màng,
Khách sạch lòng, hương cũng lụi tàn
Phẳng lặng đất trời ghê vạn biến
An nhàn ngày tháng đáng nghìn vàng
Thói nho lạnh lẽo, tình đời bạc
Cõi thánh thong dong, ý đạo sang
Đọc sách hết chồng nay rỗi việc
Bên song mai cội gảy đàn vang

贈友人 – Tặng hữu nhân

貧病余憐汝,
疏狂汝似余。
同為千里客,
俱讀數行書。
瓠落知何用,
栖遲諒有餘。
他年淽溪約,
短笠苛春鋤。

Phiên âm Hán Việt

Bần, bệnh dư liên nhữ,
Sơ cuồng, nhữ tự dư.
Ðồng vi thiên lý khách,
Câu độc sổ hàng thư.
Hồ lạc tri hà dụng,
Thê trì lượng hữu dư.
Tha niên Nhị (Nhuỵ) Khê ước,
Ðoản lạp hạ xuân sừ.

Dịch nghĩa

Tôi thương anh nghèo mà có bệnh,
Và anh cũng giống tôi tính ngang tàng.
Cũng là khách ngàn dặm như nhau,
Và cũng đã từng đọc mấy hàng chữ sách.
Hai ta như quả bầu rỗng biết làm được gì đây
Nhưng rong chơi thì lại có thừa
Chúng ta đã hẹn nhau nơi Nhị Khê này,
Cùng đội nón cùng bừa buổi xuân sang.

題劍 – Đề kiếm

藍山自昔臥神龍,
世事懸知在掌中。
大任有歸天啓聖,
昌期一遇虎生風。
國讎洗盡千年恥,
金匱終藏萬世功。
整頓乾坤從此了,
世間那更數雄英。

Phiên âm Hán Việt

Lam Sơn tự tích ngoạ thần long
Thế sự huyền tri tại chưởng trung
Ðại nhiệm hữu quy thiên khải thánh
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ
Kim quỹ chung tàng vạn thế công
Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu
Thế gian na cánh sổ anh hùng.

Dịch nghĩa

Từ xưa khi rồng thiêng còn nằm ở Lam Sơn
Mà việc đời huyền nhiệm đã biết rõ ở trong lòng bàn tay
Khi gánh nặng trao về một người thì trời báo cho thánh nhân biết
Khi đời thịnh được gặp thì hổ sinh ra gió
Đã rửa sạch nỗi nhục ngàn năm của thù nước
Cuối cùng đã cất giữ cái công muôn thuở trong rương vàng
Từ nay việc chỉnh đốn đất trời đã xong
Trên đời rút cuộc có được mấy người anh hùng như thế?

林港夜泊 – Lâm cảng dạ bạc

港口聽潮暫繫舠,
韽韽隔岸響蒲牢。
船窗客夜三更雨,
海曲秋風十丈濤。
膜外虛名身是幻,
夢中浮俗事堪拋。
一生氣習渾如昨,
不為羈愁損舊豪。

Phiên âm Hán Việt

Cảng khẩu thính triều tạm hệ đao,
Am am cách ngạn hưởng bồ lao.
Thuyền song khách dạ tam canh vũ,
Hải khúc thu phong thập trượng đào.
Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn,
Mộng trung phù tục sự kham phao.
Nhất sinh khí tập hồn như tạc,
Bất vị ky sầu tổn cựu hào.

Dịch nghĩa

Đến cửa khẩu nghe thấy triều tạm buộc thuyền con
Văng vẳng bên kia bờ nghe tiếng chuông
Bên cửa thuyền khách mưa rơi suốt ba canh
Trong vịnh biển gió thu thổi dâng sóng lên cao mười trượng
Danh hảo bỏ ra ngoài, thân này cũng là ảo
Đời phù dung tục luỵ trong giấc mộng đáng bỏ đi
Một đời vẫn giữ quen cái nết ngày trước
Chẳng phải vì mối sầu xa quê hương mà giảm chí khí cũ.

海口夜泊有感 – Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (I)

一別江湖數十年,
海門今日繫吟船。
波心浩渺滄洲月,
樹影參差浦漵煙。
往事難尋時易過,
國恩未報老堪憐。
平生獨抱先憂念,
坐擁寒衾夜不眠。

Phiên âm Hán Việt

Nhất biệt giang hồ sổ thập niên,
Hải môn kim nhật hệ ngâm thuyền.
Ba tâm hạo diểu thương châu nguyệt
Thụ ảnh sâm si phố tự yên.
Vãng sự nan tầm thời dị quá.
Quốc ân vị báo lão kham liên.
Bình sinh độc bão tiên ưu niệm,
Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên.

Dịch nghĩa

Từ ra đi lưu lạc giang hồ đã mấy mươi năm,
Tối nay buộc thuyền thơ nơi cửa biển.
Đáy nước mênh mang, trăng chiếu trên bãi lạnh,
Hình dáng cây cối lô nhô, khói phủ trên bến.
Khó tìm nhớ lại việc xưa, thời gian trôi quá dễ,
Tự thương xót mình đã già mà ơn nước chưa đền.
Bình sinh một mình ôm cái chí lo truớc hưởng sau,
Ngồi cuốn chăn lạnh thức suốt đêm.

龍岱岩 – Long Đại nham

去年虎穴我曾窺,
龍岱今觀石窟奇。
鰲負出山山有洞,
鯨遊塞海海為池。
壼中日月天難老,
世上英雄此一時。
黎范風流嗟漸遠,
青苔半蝕璧間詩。

Phiên âm Hán Việt

Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy,
Long Đại kim quan thạch quật kỳ.
Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động,
Kình du tắc hải, hải vi trì.
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão,
Thế thượng anh hùng thử nhất thì.
Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn,
Thanh đài bán thực bích gian thi.

Dịch nghĩa

Năm trước ta đã từng xem hang cọp
Nay lại đến xem động Long Đại, một động núi lạ
Con ngao đội núi lên thành động
Cá kình bơi lấp biển thành ao
Trong bầu nhật nguyệt trời khó già
Anh hùng trên đời thì chỉ là một thuở
Nếp sống phong lưu của hai họ Lê và Phạm than ôi cũng xa dần
Thơ trên vách đá cũng đã bị rêu xanh gấm nhậm rồi.

關海 – Quan hải

樁木重重海浪前,
沉江鐵鎖亦徒然。
覆舟始信民猶水,
恃險難憑命在天。
禍福有媒非一日,
英雄遺恨幾千年。
乾坤今古無窮意,
卻在滄浪遠樹煙。

Phiên âm Hán Việt

Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỷ thiên niên.
Kiền khôn kim cổ vô cùng y,
Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.

Dịch nghĩa

Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển,
Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong toả như thế.
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước,
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời.
Hoạ phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày,
Anh hùng để lại mối hận nghìn năm.
Xưa nay ý trời đất thì vô cùng tận,
Lui về chốn cây cỏ mây trời ở đất Thương Lang xa xôi.

望瀛 – Vọng Doanh

望瀛投暮繫吟船,
詩景撩人晚興牽。
浴翠雨晴峰似玉,
大安潮漲水如天。
依依遠樹青煙裏,
渺渺平沙白鳥前。
三十年前湖海趣,
茲遊奇絕勝蘇仙。

Phiên âm Hán Việt

Vọng Doanh đầu mộ hệ ngâm thuyền,
Thi cảnh liêu nhân vãn hứng khiên.
Dục Thuý vũ tình phong tự ngọc,
Đại An triều trướng thuỷ như thiên.
Y y viễn thụ thanh yên lý,
Diểu diểu bình sa bạch điểu tiền.
Tam thập niên tiền hồ hải thú,
Tư du kỳ tuyệt thắng Tô tiên.

Dịch nghĩa
Đầu buổi chiều đến Vọng Doanh buộc thuyền thơ
Cảnh nên thơ trêu ghẹo và lôi kéo cảm hứng con người vào buổi chiều
Mưa tạnh núi Dục Thuý biếc như màu ngọc
Cảnh Đại An nước triều lên hoà với trời
Lờ mờ rặng cây, xa trong làn khói xanh
Bãi sông bát ngát bằng phẳng trước bầy chim trắng
Thú hồ hải ba mươi năm về trước
Tô tiên (Tô Đông Pha) cũng phải chịu thua cuộc chơi tuyệt vời này.

浴翠山 – Dục Thuý sơn

海口有仙山,
年前屢往還。
蓮花浮水上,
仙景墜塵間。
塔影針青玉,
波光鏡翠鬟。
有懷張少保,
碑刻蘚花斑。

Phiên âm Hán Việt

Hải khẩu hữu tiên san,
Niên tiền lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh truỵ nhân gian.
Tháp ảnh, trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thuý hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiển hoa ban.

Dịch nghĩa

Gần cửa biển có núi tiên,
Năm xưa thường đi về.
Hoa sen nổi trên mặt nước,
Ðúng là cảnh tiên nơi cõi trần.
Bóng tháp như cài trâm ngọc xanh,
Ánh sáng trên sóng soi mái tóc biết,
Chạnh nhớ quan Trương Thiếu Bảo,
Tấm bia đá nói về ông đã lốm đốm rêu phong.

雲屯 – Vân Đồn

路入雲屯山復山,
天恢地設付奇觀。
一盤藍碧澄明鏡,
萬斛鴉青鬌翠鬟。
宇宙頓清塵海岳,
風波不動鐵心肝。
望中岸草萋萋綠,
道是藩人駐舶灣。

Phiên âm Hán Việt

Lộ nhập Vân Đồn sơn phục sơn,
Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan.
Nhất bàn lam bích trừng minh kính,
Vạn hộc nha thanh đỏa thuý hoàn.
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc,
Phong ba bất động thiết tâm can.
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,
Đạo thị phiên nhân trú bạc loan.

Dịch nghĩa

Đường vào Vân Đồn núi non trùng điệp
Trời đất cao rộng rõ là cảnh diệu kỳ
Cả một mặt phẳng màu xanh biếc, nước trong như gương sáng
Hàng vạn ô màu huyền xanh như mái tóc rũ
Vũ trụ bỗng thể hiện rõ ràng qua dáng núi và biển
Sóng gió chẳng lay chuyển được tâm can vững chắc
Nhìn vào thấy bờ cỏ màu lục xanh dờn
Thấy nói người thiểu số xưa từng đỗ thuyền trong vịnh.

靖安晚立 – Tĩnh Yên vãn lập

淡煙疏雨晚摸糊,
水色天光半有無。
萬古乾坤清景致,
海山為我出新圖。

Phiên âm Hán Việt

Đạm yên sơ vũ vãn mô hồ,
Thuỷ sắc thiên quang bán hữu vô.
Vạn cổ càn khôn thanh cảnh trí,
Hải sơn vị ngã xuất tân đồ.

Dịch nghĩa

Khói thoảng, mưa thưa cảnh chiều mơ hồ,
Sắc nước, ánh trời nửa như có, nửa như không.
Cảnh trí thanh tú đất trời muôn thuở,
Biển và núi đã vì ta mà vẽ nên một bức tranh mới.

冤嘆 – Oan thán

浮俗升沉五十年,
故山泉石負情緣。
虛名實禍殊堪笑,
眾謗孤忠絕可憐。
數有難逃知有命,
大如未喪也關天。
獄中牘背空遭辱,
金闕何由達寸箋。

Phiên âm Hán Việt

Phù tục thăng trầm ngũ thập niên,
Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
Hư danh thực họa thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Số hữu nan đào tri thị mệnh,
Văn như vị táng dã quan thiên.
Ngục trung độc bối không tao nhục,
Kim khuyết hà do đạt thốn tiên.

Dịch nghĩa

Nổi chìm trong cảnh phù tục đã năm mươi năm
Đành phụ với khe đá núi cũ
Danh hư mà họa thực, thật đáng buồn cười
Chúng nhạo kẻ trung thành đơn độc thật đáng thương hại
Khó chạy khỏi số trời, biết là có mạng
Nền văn cũng chưa mai một nhờ trời
Trong ngục xem lưng tờ giấy, thật là nhục nhã
Làm sao đạt được tờ giấy (khiếu oan) đến cửa khuyết vàng (cung vua)?

Thưởng thức thêm 🌺 Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi 🌺 hay nhất

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Xem thêm những bài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Bỉnh Khiêm được chọn lựa kĩ càng sau đây nhé!

感興 – Cảm hứng

泰和宇宙不虞周,
互戰教爭笑兩讎。
川血山骸隨處有,
淵魚叢雀為誰驅。
重興已卜渡江馬,
後患應防入室貙,
世事到頭休說著,
醉吟澤畔任閒遊。

Phiên âm Hán Việt

Thái hoà vũ trụ bất Ngu Chu,
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.

巨鰲戴山 – Cự ngao đới sơn

碧浸仙山徹底清,
巨鰲戴得玉壺生。
到頭石有補天力,
著腳潮無卷地聲。
萬里東溟歸把握,
億年南極奠隆平。
我今欲展扶危力,
挽卻關河舊帝城。

Phiên âm Hán Việt

Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,
Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,
Trước cước trào vô quyển địa thanh.
Vạn lý Đông minh quy bả ác,
Ức niên Nam cực điện long bình.
Ngã kim dục triển phù nguy lực,
Vãn khước quan hà cựu đế thành.

Dịch nghĩa

Nước biếc ngấm núi tiên trong đến đáy,
Như con ngao lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời,
Đặt chân xuống, sóng không có tiếng cuốn đất.
Vạn dặm biển Đông quơ vào tay nắm,
Ức năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.
Ta nay muốn thi thố sức phò nguy,
Cứu vãn lại quan hà, thành cũ của nhà vua.

遊普明寺 – Du Phổ Minh tự

亂後重尋到普明,
園花野草舊巖扃。
碑文剝落和煙碧,
佛眼淒涼照夜清。
法界應同天廣大,
鄉人猶說地英靈。
寥寥古鼎今何在,
識得無形勝有形。

Phiên âm Hán Việt

Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh,
Viên hoa dã thảo cựu nham quynh.
Bi văn bác lạc hoà yên bích,
Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh.
Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại,
Hương nhân do thuyết địa anh linh.
Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại?
Thức đắc vô hình thắng hữu hình.

Dịch nghĩa

Sau khi loạn lạc lại tìm đến chùa Phổ Minh,
Vẫn hoa vườn cỏ nội với cửa đá cũ.
Văn bia mờ nhạt hoà trong làn khói biếc,
Mắt Phật lạnh lùng soi thấu đêm thanh.
Pháp giới phải ngang với tầm rộng lớn của trời,
Người làng vẫn nói đến sự anh linh của đất.
Vắng vẻ lặng lẽ, vạc xưa nay còn đâu?
Thế mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình.

庭前梅 – Đình tiền mai

斜斜竹外一枝橫,
太極精花驗發生。
占得高標春【】日,
便將風味入調羹。

Phiên âm Hán Việt

Tà tà trúc ngoại nhất chi hoành,
Thái cực tinh hoa nghiệm phát sinh.
Chiếm đắc cao tiêu xuân […] nhật,
Tiện tương phong vị nhập điều canh.

Dịch nghĩa

Ngoài khóm tre cong cong, có một cành nằm ngang,
Tinh hoa trời đất chắt đọng phát sinh ra.
Gặp trời Xuân chiếm được ngôi cao khác đời,
Sẽ đem phong vị đưa vào việc điều canh.

冬菊 – Đông cúc

一種延年館裡栽,
晚香獨向雪中開。
莫笑爭芳時太晚,
先春肯讓一枝梅。

Phiên âm Hán Việt

Nhất chủng diên niên quán lý tài,
Vãn hương độc hướng tuyết trung khai.
Mạc tiếu tranh phương thời thái vãn,
Tiên xuân khẳng nhượng nhất chi mai.

Dịch nghĩa

Một giống lâu năm giồng ở trong quán,
Hương muộn chỉ hướng vào tuyết mới nở.
Chớ cười lúc giành tiếng thơm quá muộn,
Trước mùa xuân bằng lòng nhường một cành mai.

紅槿花 – Hồng cận hoa

花中幻出佛中身,
暮落朝開舊更新。
色即是空空是色,
一枝換得幾番春。

Phiên âm Hán Việt

Hoa trung huyễn xuất Phật trung thân,
Mộ lạc triêu khai cựu cánh tân.
Sắc tức thị không không thị sắc,
Nhất chi hoán đắc kỷ phiên xuân.

Dịch nghĩa

Trong hoa huyễn ảo xuất hiện chân thân của Phật,
Tối rụng, sớm nở, cũ rồi lại mới.
Sắc là không và không là sắc,
Một cành đắp đổi bao nhiêu lần xuân.

望潮樓 – Vọng triều lâu

數頃金江數尺梅,
滔滔逝水為誰開。
寒潮漲退今猶古,
留得人間笑白頭。

Phiên âm Hán Việt

Sổ khoảnh Kim giang sổ xích mai,
Thao thao thệ thuỷ vị thuỳ khai.
Hàn triều trướng thoái kim do cổ,
Lưu đắc nhân gian tiếu bạch đầu.

Dịch nghĩa

Mấy khúc sông Kim bên mấy gốc mai,
Nước chảy cuồn cuộn vì ai khơi nguồn.
Thuỷ triều vẫn lên xuống, bây giờ cũng như ngày xưa,
Chỉ lưu lại cho người đời câu cười “Sóng bạc đầu”.

優曇花 – Ưu đàm hoa

碧水池邊長綠陰,
幽林花好趁禪林。
開時不要爭春色,
只要如如見佛心。

Phiên âm Hán Việt

Bích thuỷ trì biên trưởng lục âm,
U lâm hoa hảo sấn thiền lâm.
Khai thì bất yếu tranh xuân sắc,
Chỉ yếu như như hiện Phật tâm.

Dịch nghĩa

Bên ao nước biếc, bóng xanh tốt rậm rạp,
Loại hoa rừng tối khéo đến nơi rừng thiền.
Khi nở hoa không cốt để thả xuân sắc,
Chỉ mong thấy được rõ ràng tâm Phật.

問漁者 – Vấn ngư giả

湖海扁舟漁者誰,
生涯一笠一蓑衣。
水村沙近鴟為侶,
江興秋高鱸正肥。
短笛清風閒處弄,
孤帆明月醉中歸。
桃源往事依然在,
秦晉興亡是卻非。

Phiên âm Hán Việt

Hồ hải thiên chu ngư giả thuỳ,
Sinh nhai nhất lạp nhất thoa y.
Thuỷ thôn sa cận si vi lữ,
Giang hứng thu cao lư chính phì.
Đoản địch thanh phong nhàn xứ lộng,
Cô phàm minh nguyệt tuý trung quy.
Đào Nguyên vãng sự y nhiên tại,
Tần Tấn hưng vong thị khước phi.

Thơ Chữ Hán Của Cao Bá Quát

Cuối cùng là tập Thơ Chữ Hán Của Cao Bá Quát hay nhất, cùng tham khảo ngay nhé!

昭君 – Chiêu Quân

漢朝莫殺毛延壽,
塞上胡笳只自悲。
兒女總多腸斷處,
古今終有貌來時。

Phiên âm Hán Việt

Hán triều mạc sát Mao Diên Thọ,
Tái thượng Hồ già chỉ tự bi.
Nhi nữ tổng đa trường đoạn xứ,
Cổ kim chung hữu mạo lai thì.

至家 – Chí gia

蒼蒼西山暮,
翳翳萬井秋。
眾鳥如戀歸,
征人知所投。
兒女易為別,
相見但垂頭。
予亦不自主,
因之生遠愁。
出門但憑眺,
長路尚悠悠。
南行者誰氏,
日晏復何求?
僕子荷鞠至,
插芥西村休。
借問舊杞菊,
今有幾叢不?

Phiên âm Hán Việt

Thương thương tây sơn mộ,
Ế ế vạn tỉnh thu.
Chúng điểu như luyến quy,
Chinh nhân tri sở đầu.
Nhi nữ dị vi biệt,
Tương kiến đãn thuỳ đầu.
Dư diệc bất tự chủ,
Nhân chi sinh viễn sầu.
Xuất môn đãn bằng thiếu,
Trường lộ thượng du du.
Nam hành giả thuỳ thị,
Nhật án phục hà cầu?
Bộc tử hà cúc cúc chí,
Sáp giới tây thôn hưu.
Tá vấn cựu kỷ cúc,
Kim hữu kỷ tùng phầu?

政在順民心 – Chính tại thuận dân tâm

立政皇猷煥,
同民帝治欽。
懸書三代政,
潔矩一人心。
箕畢情兼好,
雲霓思倍深。
遊方歌夏諺,
望歲慰商霖。
棠蔭思仁化,
蕓生仰德音。
寬仁湯祝網,
解阜舜操琴。
鑑古嚴從己,
鋤奸絕孔壬。
如春欣世泰,
函夏頌君臨。

Phiên âm Hán Việt

Lập chính hoàng du hoán,
Đồng dân đế trị khâm.
Huyền thư tam đại chính,
Khiết củ nhất nhân tâm.
Cơ Tất tình kiêm hảo,
Vân nghê tứ bội thâm.
Du phương ca Hạ ngạn,
Vọng tuế uý Thương lâm.
Đường ấm tư nhân hoá,
Vân sinh ngưỡng đức âm.
Khoan nhân Thang chúc võng,
Giải phụ Thuấn thao cầm.
Giám cổ nghiêm tòng kỷ,
Sừ gian tuyệt khổng nhâm.
Như xuân hân thế thái,
Hàm hạ tụng quân lâm.

久坐 – Cửu toạ

輕輕雲暗度,
淡淡月微光。
煙散蚊琴靜,
風條鳥韻長。
庭空交伏翼,
墻影舞疏榔。
興到忘言處,
悠然興亦忘。

Phiên âm Hán Việt

Khinh khinh vân ám độ,
Đạm đạm nguyệt vi quang.
Yên tán văn cầm tĩnh,
Phong điều điểu vận trường.
Đình không giao phục dực,
Tường ảnh vũ sơ lang.
Hứng đáo vong ngôn xứ,
Du nhiên hứng diệc vong.

移寓戲作 – Di ngụ hí tác

雙鬢飄飄一寓公,
自歌自笑鳳城東。
才居高閣疑初束,
心對交衢欲四通。
彩筆傳來猶有夢,
黑裘敝盡可無功。
何人謾擬玄虛宅,
老杜登樓興未窮。

Phiên âm Hán Việt

Song mấn phiêu phiêu nhất ngụ công,
Tự ca tự tiếu phụng thành đông.
Tài cư cao các nghi sơ thúc,
Tâm đối giao cù dục tứ thông.
Thái bút truyền lai do hữu mộng,
Hắc cừu tệ tận khả vô công.
Hà nhân mạn nghĩ huyền hư trạch,
Lão Đỗ đăng lâu hứng vị cùng.

Dịch nghĩa

Một cụ ở ngụ hai mái tóc phơ phơ,
Tự hát tự cười phía đông thành phụng.
Tài ở nơi gác cao nghi bắt đầu ràng buộc,
Tâm so với đường nhiều ngả muốn thông suốt bốn phía.
Bút màu truyền lại còn có mộng,
Áo cừu màu đen rách hết khá không công.
Người nào nói ẩu (đấy) là nhà rỗng tuếch,
Lão Đỗ lên lầu hứng thú chưa hết.

洋婦行 – Dương phụ hành

西洋少婦衣如雪,
獨憑郎肩坐清月。
卻望南船燈火明,
把袂喃喃向郎說。
一碗醍醐手懶持,
夜寒無那海風吹。
翻身更倩郎扶起,
豈識南人有別離。

Phiên âm Hán Việt

Tây Dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ thanh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly!

Dịch nghĩa

Người thiếu phụ phương Tây áo như tuyết
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng
Kéo áo chồng thì thầm nói
Tay cầm uể oải một chén sữa
Đêm lạnh à đây gió biển thổi
Nghiêng mình đòi chồng đỡ dậy
Biết chăng có người Nam đang chịu cảnh biệt ly.

登橫山 – Đăng Hoành Sơn

山外青山萬里程,
山邊野草送人行。
英雄莫挽千年國,
征戰空存一壘名。
北嶺斷雲收宿雨,
南莊疏曉帶新晴。
下山返覺登山苦,
自嘆悠悠委俗情。

Phiên âm Hán Việt

Sơn ngại thanh sơn vạn lý trình,
Sơn biên dã thảo tống nhân hành.
Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc,
Chinh chiến không tồn nhất luỹ danh.
Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ,
Nam trang sơ hiểu đới tân tình,
Há sơn phản giác đăng sơn khổ,
Tự thán du du uỷ tục tình!

登海雲關 – Đăng Hải Vân quan

拾給行難盡,
憑高望欲迷。
地分京野小,
天入廣山低。
瞰海帆如葉,
捫關路似梯。
喜看深樹外,
白處是清溪。

Phiên âm Hán Việt

Thập cấp hành nan tận,
Bằng cao vọng dục mê.
Địa phân kinh dã tiểu,
Thiên nhập quảng sơn đê.
Khám hải phàm như diệp,
Môn quan lộ tự thê.
Hỉ khán thâm thụ ngoại,
Bạch xứ thị thanh khê.

Dịch nghĩa

Lần theo từng bậc leo mà lên mãi không hết
Từ trên cao nhìn ra xa chỉ thấy lờ mờ
Đất chi kinh thành đồng nội (đất như) nhỏ lại
Trời hoà vào cùng núi rộng (trời như) thấp xuống
Trông xuống biển: cánh buồm như chiếc lá
Lần theo cửa ải: đường đi tựa chiếc thang
Thích thú ngắm nhìn mé ngoài vùng cây rậm
Nơi có màu trắng kia chính là dòng suối trong

抵家 – Để gia

雙鬢蕭蕭不自知,
鄉村指點是歸期。
木棉店裡霜收早,
天馬湖邊日上遲。
鄰友忽逢驚數問,
母親乍見喜交悲。
平生多難今長悔,
畏向家人語別離。

Phiên âm Hán Việt

Song mấn tiêu tiêu bất tự tri,
Hương thôn chỉ điểm thị quy kỳ.
Mộc Miên điếm lý sương thu tảo,
Thiên Mã hồ biên nhật thướng trì.
Lân hữu hốt phùng kinh sác vấn,
Mẫu thân sạ kiến hỷ giao bi.
Bình sinh đa nạn kim trường hối,
Uý hướng gia nhân ngữ biệt ly.

端午 – Đoan ngọ

北望千餘里,
南來五六年。
客心驚歲月,
歸夢阻山川。
枕麴惟須醉,
滋蘭也自妍。
相茨枉知識,
節日更流連。

Phiên âm Hán Việt

Bắc vọng thiên dư lý,
Nam lai ngũ lục niên.
Khách tâm kinh tuế nguyệt,
Quy mộng trở sơn xuyên.
Chẩm khúc duy tu tuý,
Tư lan dã tự nghiên.
Tương tỳ uổng tri thức,
Tiết nhật cánh lưu liên.

寒夜即事 – Hàn dạ tức sự

迴風吹倦枕,
朔氣倍凄然。
掇席教奴覆,
分衾借客眠。
鄉愁惟犯夜,
身事欲過年。
莫作悠悠想,
書空笑未便。

Phiên âm Hán Việt

Hồi phong xuy quyện chẩm,
Sóc khí bội thê nhiên.
Xuyết tịch giao nô phú.
Phân khâm tá khách miên.
Hương sầu duy phạm dạ,
Thân sự dục qua niên.
Mạc tác du du tưởng,
Thư không tiếu vị biền.

寒夜吟 – Hàn dạ ngâm

寒極不能眠,
起改新詩句。
燭盡唤奴添,
奴臥身吟久。
敠蓆去匆匆,
卻把奴兒覆。

Phiên âm Hán Việt

Hàn cực bất năng miên,
Khởi cải tân thi cú.
Chúc tận hoán nô thiêm,
Nô ngoạ thân ngâm cửu.
Xuyết tịch khứ thông thông,
Khước bả nô nhi phú.

Dịch nghĩa

Rét quá không ngủ được,
Trở dậy chữa câu thơ mới làm.
Đèn hết dầu, gọi nhỏ dậy rót thêm,
Nhỏ cứ nằm lỳ rên rỉ.
Vội vàng đi lấy chiếu,
Đem đắp lên mình chú nhỏ.

橫山關 – Hoành Sơn quan

地表立孱顏,
連峰到海間。
百年看故壘,
千里入重關。
宿鳥初投樹,
歸雲半擁山。
遲遲蘇季子,
裘敝未知還。

Phiên âm Hán Việt

Địa biểu lập sàn nhan,
Liêu phong đáo hải gian.
Bách niên khan cổ luỹ,
Thiên lý nhập trùng quan.
Túc điểu sơ đầu thụ,
Quy vân bán ủng san.
Trì trì Tô quý tử,
Cửu tệ vị tri hoàn.

有所思 – Hữu sở tư

小小人家子,
雙雙步語遲。
忘情能有幾,
吾亦憶吾兒。
戀母啼饑處,
牽翁學拜時。
門闌今半寂,
於爾係相思。

Phiên âm Hán Việt

Tiểu tiểu nhân gia tử,
Song song bộ ngữ trì.
Vong tình năng hữu kỷ!
Ngô diệc ức ngô nhi.
Luyến mẫu đề cơ xứ,
Khiên ông học bái thì.
Môn lan kim bán tịch,
Ư nhĩ hệ tương ti.

寄阮故友回藉 – Ký Nguyễn cố hữu hồi tịch

墨池夙昔共締交,
錯弄滄溟十丈濤。
騏驥似君難伏櫪,
鷯鷂笑我未安巢。
宦途最是先醒少,
世路誠知不著高。
欲借大觀消旅悶,
卻羞泉石向人嘲。

Phiên âm Hán Việt

Mặc Trì túc tích cộng đề giao,
Thác lộng thương minh thập trượng đào.
Kỳ ký tự quân nan phục lịch,
Liêu diêu tiếu ngã vị an sào.
Hoạn đồ tối thị tiên tinh thiểu,
Thế lộ thành tri bất trước cao.
Dục tá đại quan tiêu lữ muộn,
Khước tu tuyền thạch hướng nhân trào.

偶成 – Ngẫu thành

昨夜梅花開,
山窗月皎潔。
破曉寂無聲,
知是庭前雪。

Phiên âm Hán Việt

Tạc dạ mai hoa khai,
Sơn song nguyệt hiệu khiết.
Phá hiểu tịch vô thanh,
Tri thị đình tiền tuyết.

Dịch nghĩa

Đêm qua hoa mai nở,
Qua cửa sổ trông ra núi, trăng sáng trong.
Sớm tinh mơ lặng vắng không tiếng động,
Biết là tuyết xuống trước sân.

寧平道中 – Ninh Bình đạo trung

江似美人青練帶,
山如醉客碧螺杯。
相看風月俱無盡,
只恐詩翁不肯回。

Phiên âm Hán Việt

Giang tự mỹ nhân thanh luyện đới,
Sơn như tuý khách bích loa bôi.
Tương khan phong nguyệt câu vô tận,
Chỉ khủng thi ông bất khẳng hồi.

Dịch nghĩa

Sông như giải lụa xanh của cô gái đẹp,
Núi như chiếc chén hình ốc biếc của khách say.
Ngắm nhìn trăng và gió đều là kho vô tận,
Chỉ e nhà thơ không chịu trở về.

清風店題璧 – Thanh Phong điếm đề bích

不堪重問玉人肖,
明月清風太寂寥。
衾似冷冰燈似豆,
悽情真箇可憐宵。

Phiên âm Hán Việt

Bất kham trùng vấn ngọc nhân tiêu,
Minh nguyệt thanh phong thái tịch liêu.
Khâm tự lãnh băng đăng tự đậu,
Thê tình chân cá khả lân tiêu.

Dịch nghĩa

Không sao hỏi được tin tức người ngọc,
Trăng sáng, gió trong quá vắng lặng.
Chăn như băng lạnh, ánh đèn nhỏ như hạt đậu,
Thật là một đêm buồn bã đáng thương.

樂山旅中 – Lạc Sơn lữ trung

迢遞山阿十一迴,
行行不斷思悠哉。
野煙翠掃千峰盡,
幽澗聲傳萬木來。
鳥欲別人飛去囀,
花能送客落時開。
少年疾走終何事,
畏路漫漫著旅懷。

Phiên âm Hán Việt

Điều đệ sơn a thập nhất hài,
Hành hành bất đoạn tứ du tai!
Dã yên thuý tảo thiên phong tận,
U giản thanh truyền vạn mộc lai.
Điểu dục biệt nhân phi khứ chuyển,
Hoa năng tống khách lạc thời khai.
Thiếu niên tật tẩu chung hà sự?
Uý lộ man man trước lữ hoài!

Dịch nghĩa

Mười một khúc quanh hẻm núi xa tít tắp,
Đi rồi đi không ngừng nghĩ lan man.
Khói xanh ngắt của đồng nội quét lên cả nghìn ngọn núi,
Tiếng nước chảy của khe ẩn khuất truyền lại từ vạn cây.
Chim muốn xa người vừa bay đi vừa hót,
Hoa như tiễn khách, nở lúc rụng.
Tuổi trẻ chạy nhanh, rốt cuộc được việc gì không?
Sợ đường xa dằng dặc bám chắc nỗi niềm lữ thứ.

蠻婦行 – Man phụ hành

長棧村頭蠻小姑,
婁猪如面漆如膚。
板橋遊遍暮歸去,
笑喚新人贊故夫。

Phiên âm Hán Việt

Trường sạn thôn đầu man tiểu cô,
Lũ trư như diện tất như phu.
Bản kiều du biến mộ quy khứ,
Tiếu hoán tân nhân tán cố phu.

Dịch nghĩa

Trên lối đi bắc cây gỗ ở đầu thôn có cô mọi nhỏ,
Mặt như mặt lợn, da đen như sơn.
Dạo chơi khắp cầu ván, đến chiều quay về,
Cười gọi bạn mới, giới thiệu với chồng cũ.

爇時作 – Nhiệt thời tác

夜夜林常電,
朝朝海不鳴。
赤雲堆野起,
白腳犯沙行。
羽扇三分俗,
紗衫一握輕。
更同焦樹底,
時有鷓鴣聲。

Phiên âm Hán Việt

Dạ dạ lâm thường điện,
Triêu triêu hải bất minh.
Xích vân đôi dã khởi,
Bạch cước phạm sa hành.
Vũ phiến tam phân tục,
Sa sam nhất ác khinh.
Canh đồng tiêu thụ để,
Thời hữu giá cô thanh.

Dịch nghĩa

Đêm đêm rừng thường có ánh chớp
Sớm sớm biển không reo
Mây đỏ nổi đống trên đồng
Chân trần lún trong cát
Quạt lông ba phần tục
Áo lót the nhẹ một nắm
Luân phiên dưới gốc cây khô cháy
Thi thoảng có tiếng chim đa đa (vang lên)

檳園雨後 – Tân viên vũ hậu

昨夜霜花似著鹽,
曉來忽作雨纖纖。
快看霰掃雲收後,
一半檳園涌玉蟾。

Phiên âm Hán Việt

Tạc dạ sương hoa tự trứ diêm,
Hiểu lai hốt tác vũ tiêm tiêm.
Khoái khan tản tảo vân thu hậu,
Nhất bán tân viên dũng ngọc thiềm.

Dịch nghĩa

Đêm trước hạt sương tựa như muối kết tụ,
Sáng ra bỗng có mưa lất phất.
Vui nhìn sau khi tuyết kết mây tan,
Nửa vườn cau đọng nước vũng tựa vầng trăng.

十五夜大風 – Thập ngũ dạ đại phong

一夜長風撼海臺,
順安門外浪如雷。
千秋上作周郎氣,
要打紅毛巨艦回。

Phiên âm Hán Việt

Nhất dạ trường phong hám hải đài,
Thuận An môn ngoại lãng như lôi.
Thiên thu thượng tác Chu lang khí,
Yếu đả Hồng mao cự hạm hồi.

Dịch nghĩa

Suốt đêm gió lộng rung động toà Hải đài,
Ngoài cửa Thuận An tiếng sóng gầm như sấm.
Hùng khí của chàng họ Chu nghìn năm còn bốc lên,
Như đánh cho tàu lớn bọn Hồng mao phải lùi trở lại.

Bật mí đến bạn đọc những bài 💫 Thơ Về Ngày 30/4 💫 mới nhất

Viết một bình luận