Thơ Chữ Nôm Hay: 77+ Bài Thơ Chữ Nôm Nổi Tiếng Nhất

Thơ Chữ Nôm Hay ❤️️ Những Bài Thơ Chữ Nôm Nổi Tiếng Nhất ✅ Giới Thiệu Đến Bạn Đọc Chùm Thơ Đặc Sắc Của Các Tác Giả Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến.

Thơ Chữ Nôm Là Gì

Thơ Chữ Nôm Là Gì? Đây là thể loại thơ được viết bằng chữ Nôm, còn được gọi là Quốc âm (國音)[a] hay Quốc ngữ (國語)[b] là loại văn tự ngữ tố – âm tiết dùng để viết tiếng Việt. Đây là bộ chữ được người Việt tạo ra dựa trên chữ Hán, các bộ thủ, âm đọc và nghĩa từ vựng trong tiếng Việt.

Thơ Chữ Nôm Hay

Tổng hợp các bài Thơ Chữ Nôm Hay và đặc sắc nhất dưới đây, cùng tham khảo ngay nhé!

Trần tình
Tác giả: Nguyễn Trãi

Từ ngày gặp hội phong vân,
Bổ báo chưa hề đặng mấy phân.
Gánh, khôn đương quyền tướng phủ
Lui, ngõ được đất nho thần.
Ước bề trả ơn minh chúa
Hết khỏe phù đạo thánh nhân.
Quốc phú binh cường chăng có chước
Bằng tôi nào thuở ích chưng dân ?

Thuật hứng
Tác giả: Nguyễn Trãi

Trúc mai bạn cũ họp nhau quen.
Cửa mận tường đào chân ngại chen.
Chơi nước chơi non đeo tích cũ
Qua ngày qua tháng dưỡng thân nhàn.
Thì nghèo sự biến nhiều bằng tóc
Nhà ngặt quan thanh lạnh nữa đèn.
Mùi thế đắng cay cùng mặn chát.
Ít nhiều đã vậy một hai phen.

Thơ tiếc cảnh
Tác giả: Nguyễn Trãi

Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng.
Thu đến đêm qua cảm vả mừng.
Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt
Khoan khoan những lệ thỏ tan vừng.

Tự giới
Tác giả: Nguyễn Trãi

Làm người thì giữ đạo trung dung.
Khăn khắn dặn dò thửa lòng.
Hết kính hết gìn bề tiến thoái
Mựa tham mựa dại nết anh hùng.
Hùm oai muông mạnh còn nằm cũi
Khướu hót chim khôn phải ở lồng.
Nén lấy hung hăng bề huyết khí,
Tai nàn chẳng phải lại thung dung.

Miếng trầu
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi

Phường lòi tói
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.

Quan thị
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình vứt đi đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Đố ai biết đó vông hay trốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Đã thế thì thôi thôi mặc thế
Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu

Chừa rượu
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa nên nỗi không chừa được.
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.

Cò mổ trai
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Trai sao chẳng biết tính con cò?
Mày hở hang chi nó mổ cho!
Trai cậy dày mu không khép kín,
Cò khoe dài mỏ chực ăn to.
Thôi về bãi bể cho êm ái,
Để mặc bên sông nó gật gù.
Cò trắng dẫu khôn đành gác mỏ,
Trai già chờ lúc lại phơi mu.

Cua chơi trăng
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,
Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng.
Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc,
Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.
Cung quế chờn vờn hương mới bén,
Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.
Một mai cá nước cua vui phận,
Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?

Cuốc kêu cảm hứng
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.

Đề ảnh tố nữ
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Bao tuổi xuân xanh hỡi chị mình?
Xinh sao xinh khéo thực là xinh!
Hoa thơm chẳng nhuộm hương mà ngát,
Tuyết sạch không nề nước mới thanh.
Ngoài mặt đã đành son với phấn,
Trong lòng nào biết đỏ hay xanh?
Người xinh, cái bóng tình tinh cũng…
Mỗi bút một thêm một điểm tình!

Giới thiệu thêm tập ✳️ Thơ Hán Việt ✳️ nhiều chủ đề hấp dẫn

Thơ Chữ Nôm Việt Nam Mới Nhất

Xem thêm tuyển tập Thơ Chữ Nôm Việt Nam Mới Nhất được Thohay.vn sưu tầm dưới đây, tham khảo ngay nhé!

Trung Tân Ngụ Hứng
Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nhân thôn quán tây nam,
Giang thuỷ quán tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên tại Vân Am trắc.
Luân ưởng trần bất đáo,
Hoa trúc thủ tự thực.
Trượng lý tập hoa hương,
Trản giả xâm hoa sắc.
Điểu tị phanh trà yên,
Ngư thôn tẩy nghiễn mặc.
Khiển hứng nhậm thi cuồng,
Phù suy da hữu lực.
Nhân xảo, ngả giả chuyết,
Thuỳ tri chuyết giả đức,
Ngã chuyết, nhân giả xảo,
Thuỳ tri xảo giả tặc.
Kiền khôn tĩnh lý suy,
Cổ kim nhàn trung đắc.
Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiển tiện kinh cúc.
Nguy mạc nguy nhân tâm,
Nhất phóng tiện quỷ quắc.
Quân tử cầu sở chỉ,
Chí thiện tư vi cực.

Chớ Cậy Rằng Hơn
Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm

Làm người hay một, hoá hay hai,
Chớ cậy rằng khôn, chớ cậy tài.
Trực tiết cho bền bằng sắt đá,
Ði đường ngẫm hết chốn chông gai.
Ở thế khá yêu là của khá,
Ra đường ai dễ kém gì ai.
Miệng đời tựa mật mùi càng ngọt,
Ðạo thánh bằng tơ mới hãy dài.

Đêm mùa hạ
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thực oi ả,
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả.
Nỗi ấy biết cùng ai,
Cảnh này buồn cả dạ.
Biếng nhắp năm canh chầy,
Gà đà sớm giục giã.

Đưa người làm mối
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Tri âm xin tỏ với tri âm,
Một tỉnh tình tinh miệng lỡ lầm;
Nhấp nhoáng hạt trai ngờ hổ phách,
Mơ màng núc nác ngỡ vàng tâm!
Bắn tin bướm nhạn hoa còn đỏ,
Nghe nói vườn xuân sắc đã thâm.
Nhắn nhủ bà hàng đừng đóng ghế,
Bầu non kia đã phải ong châm.

Gái goá than lụt
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Con tạo ghen chi gái má hồng,
Mà đem nước đến vỗ tầm vông.
Gió lùa cửa cống bèo man mác,
Trăng xỏ buồng trai bóng phập phồng.
Những sợ anh kình rình rưới rốn,
Lại lo chú chuối lẩn bên hông.
Quản chi điểm phấn trang hồng nữa,
Chỉ biết nơi sâu với chốn nông.

Ngán đời
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Nghĩ đời mà cũng ngán cho đời
Câu cóp làm sao được với trời?
Chép miệng, lớn đầu to cái dại
Phờ râu, chịu đấm mất phần xôi
Được, thua, hơn, kém, lưng hồ rượu
Hay, dở, khen, chê, một trận cười
Dựa gối bên song toan hoá bướm
Gió thu lạnh lẽo, lá vông rơi

Cảnh Nhàn
Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm

Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Về Côn-sơn ngẫu tác ngày Trùng cửu
Tác giả: Nguyễn Trãi

Trùng dương mấy phát khách thiên nha.
Kịp phen này được đỗ nhà.
Túi đã không tiền khôn chác rượu
Vườn tuy có cúc chửa đâm hoa.
Phong sương đã bén biên thi khách
Tang tử còn thương tích cố gia.
Ngày khác hay đâu còn việc khác,
Tiết lành mựa nỡ để cho qua.

Khám phá trọn bộ❤️️ Thơ Về Cuộc Sống Vui Vẻ ❤️️ bình yên

Những Bài Thơ Chữ Nôm Nổi Tiếng

Tiếp theo sau đây là Những Bài Thơ Chữ Nôm Nổi Tiếng được rất nhiều bạn độc giả quan tâm và yêu thích.

Tặng bạn lấy vợ lẽ
Tác giả: Cao Bá Quát

Trước đã mắc lo cùng cái vịt,
Sau càng thêm thẹn mấy con công.
Sự đâu có sự lạ lùng:
Ô tướng quân cùng mao động chủ.
Sách có chữ “âm dương đào chú”,
Thay hoá công mà đúc lấy nhân tài.
Càng già càng dẻo càng dai.

Cảm Hứng
Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm

Thái hoà vũ trụ bất Ngu Chu,
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc đồ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.

Thu điếu
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Thu vịnh
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Trải khắp đường đời
Tác giả: Cao Bá Quát

Độc tại dị hương vi dị khách,
Chốn thị thành kinh lịch đã bao thu.
Sá khen chi những tiếng giang hồ,
Trong bốn bể đều ngô nho phận sự.
Yếu vi thiên hạ kỳ nam tử,
Tu lịch nhân gian vạn lý trình.
Nợ quan hà toan ngoảnh mặt làm thinh,
Còn giận nỗi công danh chưa phỉ chí.
Trời đất sinh ta âu hữu ý,
Khách tài tình nên trải vị gian truân.
Một mai gặp hội phong vân.

Dạ liệu vịnh
Tác giả: Phùng Khắc Khoan

Thủ tuế lương tiêu ngọc lậu trường
Công đình thiết liệu tiếp thiên quang
Chúc hồi điện bệ thanh minh địa
Chiếu triệt lâu đài phú quý trường
Kim cự mật liên song phượng hạ
Ngọc đăng cận đối cửu hoa trương
Lê minh cộng khánh tân thời tiết
Vạn quốc quỳ khuynh hướng thái dương

Vịnh cái quạt
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Mười bảy hay là mười tám đây,
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào, cắm một cay.
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.

Than nghèo
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Chẳng khôn cũng biết một hai điều
Chẳng tội gì hơn cái tội nghèo.
Danh giá dường này không nhẽ bán,
Nhân duyên đến thế hãy còn theo.
Tấm lòng nhi nữ không là mấy,
Bực chí anh hùng lúc túng tiêu.
Có lẽ phong trần đâu thế mãi,
Chốn này tình phụ, chốn kia yêu.

Nhân Tình Thế Thái Bài 15
Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm

Lấy không ai cấm mặc ai dùng
Hễ của tự nhiên ấy của chung
Non nước có màu lòng khách hớ
Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng
Chốn điền viên cũ dầu thong thả
Đạo thánh hiền xưa luống chốc mòng
Lòng thử hỏi lòng không hổ thẹn
Đến đâu thì cũng có xuân phong

Bỏ túi ngay Chùm 😍 Thơ Về Cuộc Sống Bình Yên 😍 hạnh phúc

Các Tác Phẩm Chữ Nôm Việt Nam Bất Hủ

Khám phá thêm Các Tác Phẩm Chữ Nôm Việt Nam Bất Hủ được chia sẻ rộng rãi sau đây:

Nhà lá cột tre
Tác giả: Đào Duy Từ

Tàu là lác, cột là tre,
Ngày tháng an nhàn hưởng chở che.
Mạn vải thưa giăng ngăn muỗi mạt,
Rào gai kín đáo kẻo ong ve.
Cơm ba bửa chuộng rau cùng muối,
Thích bốn mùa ưa rượu lại chè.
Muôn sự đã ngoài chăng ước nữa,
Ước tôi hay gián chúa hay nghe.

Dại Khôn
Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm

Làm người có dại mới nên khôn,
Chớ dại ngây si, chớ quá khôn.
Khôn được ích mình, đừng rẽ dại,
Dại thì giữ phận chớ tranh khôn.
Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.
Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại,
Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn.

Thú Nhàn
Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm

Lẩn thẩn ngày qua lại tháng qua,
Một năm xuân tới một phen già.
Ái ưu vằng vặc trăng in nước,
Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa.
Án sách vẫn còn án sách cũ,
Nước non bạn với nước non nhà.
Cuộc cờ đua chí dù cao thấp,
Ta muốn thanh nhàn thú vị ta.

Hành tảo
Tác giả: Phùng Khắc Khoan

Thuyết kiến ba kinh hiệu tiếp dư
Căn sinh thuỷ để dị viên sơ
Sâm si diệp hướng ba trung phiếm
Phì nộn kính thường thoa cổ như
Thái thuận hữu đồng Văn hậu đức
Khiết lao hà vị miếu đình trư
Huống như xuệ mỹ thiên không tửu
Phong vị thuỳ tri cánh hữu dư

Tranh tố nữ
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách nguời thợ vẽ khéo vô tình.

Tài hoa là nợ
Tác giả: Cao Bá Quát

Thương những kẻ giai nhân tài tử,
Trót đa mang vì một chữ tình.
Nghĩ nguồn cơn thẹn với trời xanh,
Tưởng nông nỗi giận cùng trăng bạc.
Tương tiếu nhất thanh song lệ lạc,
Khả liên bán điểm thấp châu huyền.
Trách vì phận lại giận vì duyên,
Duyên phận những vì tình nên nông nỗi.
Dẫu dạ sắt gan vàng cũng rối,
Vần ruột tằm lắm mối càng đau.
Tương tư ai để cho nhau.

Hơn nhau một chữ thì
Tác giả: Cao Bá Quát

Chẳng lưu lạc dễ trải mùi trần thế,
Còn trần ai khôn tỏ mặt công hầu.
Ngất ngưởng thay con Tạo khéo cơ cầu,
Muốn đại nhiệm hãy dìm cho lúng túng.
Thân hệ bang gia chung hữu dụng,
Thiên sinh hào kiệt bất ưng hưu.
Hãy bền lòng, chớ chút oán vưu,
Thời chí hĩ, ngư long biến hoá.
Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả,
Cũng đừng đem hình dịch lại cầu chi.
Hơn nhau cũng một chữ thì.

Thơ Chữ Nôm Về Tình Yêu Đầy Cảm Xúc

Khám phá thêm chùm Thơ Chữ Nôm Về Tình Yêu Đầy Cảm Xúc được giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc sau đây:

Thất tịch
Tác giả: Cao Bá Quát

Chẳng biệt ly ai dễ biết chữ tình,
Hỏi Ô Thước doành Ngân khơi mấy dặm?
Ngao ngán nhẽ rẽ bảng vàng phai nét gấm,
Ngậm ngùi thay chênh bóng quế chếch giương thu.
Nhãn xuyên trường đoạn vị Khiên Ngưu,
Mười hai tháng mới đêm nay là thất tịch.
Cung nguyệt gác đầu non chênh chếch,
Lũ hồng nhan còn ngất nghểu trên lầu.
Giọt lay thay trận mưa ngâu.

Kẽm Trống
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Hai bên thì núi giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không?
Gió giật sườn non khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long ong
Ở trong hang núi còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng

Làm lẽ
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có như không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong

Không chồng mà chửa
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Cả nể cho nên hoá dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu trọc
Phận liễu sao đà nảy nét ngang
Cái nghĩa trăm năm chành nhớ chửa
Mảnh tình một kiếp thiếp xin mang
Quản bao miệng thế lời chệnh lệch
Không có, nhưng mà có, mới ngoan

Tự tình I
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!

Tự tình II
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!

Tự tình III
Tác giả: Hồ Xuân Hương

Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,
Giữa dòng khao khát nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

Dành tặng bạn đọc tập 💚 Thơ Tình Yêu 2 Câu 💚 ngắn gọn

Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Chọn Lọc

Đừng bỏ lỡ Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Chọn Lọc được Thohay.vn sưu tầm dưới đây:

Dỗ người đàn bà khóc chồng

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông
Ai về nhắn nhủ đàn em bé
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung

Dệt cửi

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng chắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu

Đá Ông Chồng Bà Chồng

Khéo khéo bày trò tạo hoá công
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt dưới sương pha đượm má hồng
Gan nghĩa dãi ra cùng tuế nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đã kia còn biết xuân già giặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung

Hang Thánh Hoá

Khen thay con tạo khéo khôn phàm
Một đố giương ra biết mấy ngoàm
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lách khe nước rỉ mó lam nham
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ
Hai tiểu lưng tròn đứng sau am
Đến mới biết là Hang Thánh Hoá
Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!

Hỏi trăng

Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi?
Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?
Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?

Khóc ông phủ Vĩnh Tường

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
Chôn chặt văn chuơng ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn khép lại thôi.
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc,
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!

Lũ ngẩn ngơ

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ông non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa

Bánh Trôi Nước

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn.
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Cái kiếp tu hành

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo

Cái nợ chồng con

Hỡi chị em ơi có biết không
Một bên con khóc một bên chồng
Bố cu lổm ngổm bò trên bụng
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông
Tất cả những là thu với vén
Vội vàng nào những bống cùng bông
Chồng con cái nợ là như thế
Hỡi chị em ơi có biết không

Bỡn bà lang khóc chồng

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên nõi khóc tì ti
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo
Cay đắng chàng ơi vị quế chi
Thạch nhũ, trần bì sao để lại
Quy thân, liên nhục tẩm mang đi
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ
Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy.

Tham khảo tập ✳️ Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương ✳️ nổi tiếng

Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Nguyễn Du Đặc Sắc

Đón đọc thêm Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Nguyễn Du Đặc Sắc được chia sẻ rộng rãi dưới đây:

Thác lời trai phường nón

Tiếc thay duyên Tấn phận Tần,
Chưa quen đã lạ chưa gần đã xa.
Chưa chi đông đã rạng ra,
Đến giờ vẫn giận con gà chết toi.
Tím gan cho cái sao Mai,
Thảo nào vác búa chém trời cũng nên.
Về qua liếc mắt trông miền,
Lời oanh giọng ví chưa yên dằm ngồi.
Giữa thềm tàn đuốc còn tươi,
Bã trầu chưa quét nào người tình chung.
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng,
Đò Cài mấy trượng thì tình bấy nhiêu.
Làm chi cắc cớ lắm điều,
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay.
Khi xa xa đến thế này,
Tiếng xa nghe hãy rù rì bên tai.
Quê nhà nắng sớm mưa mai,
Đã buồn giở đến lịp tơi càng buồn.
Thờ ơ bó vọt đống sườn,
Đã nhàm bẹ móc lại hờn nắm giang.
Trăng tà chênh chếch bóng vàng,
Dừng chân thoạt nhớ đến đàng cửa truông.
Thẩn thơ gối chiếc màn suông,
Rối lòng như sợi ai guồng cho xong.
Phiên nào chợ Vịnh ra trông,
Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba.
Càng trông càng chẳng thấy ra,
Cơi trầu quyệt đã vài và lần ôi.
Tưởng rằng nói thế mà chơi.
Song le đã động lòng người lắm thay.
Trông trời trời cách tầng mây,
Trông trăng trăng hẹn đến ngày ba mươi.
Vô tình trăng cũng như người,
Một ta ta lại ngậm cười chuyện ta.

Hồi 01 – Trích Truyện Kiều

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.
Rằng: năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung,
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Hồi 02 – Trích Truyện Kiều

Ngày xuân con én đưa thoi,
Nhiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay

Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đường,
Dầu dầu ngọn cỏ, nửa vàng nửa xanh,
Rằng: Sao trong tiết Thanh minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài của, hiếm gì yến anh.
Phận hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân, thoắt gẫy cành thiên hương
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi
Thuyền tình vừa ghé đến nơi,
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm sanh nếp tử, xe châu,
Vùi nông một nấm, mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn, ác tà,
Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!

Lòng đâu sẵn món thương tâm
Thoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
Đau đớn thay, phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy Hoá công!
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay! Thác xuống làm ma không chồng!
Nào người phượng chạ, loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái, người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Hoạ là người dưới suối vàng biết cho.

Lâm râm khấn khứa nhỏ to
Sụp ngồi, vài gật trước mồ, bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bông lau.
Rút trâm sẵn dắt mái đầu
vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra
Lại càng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn đứt nối, chân sa vắn dài!

Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa!
Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó, biết sau thế nào?
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Mỗi lời là một vận vào khó nghe!
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngã, dậm về còn xa.
Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem, ắt thấy hiển linh bây giờ.

Một lời nói chửa kịp thưa,
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay,
Ào ào đổ lộc, rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều
Dè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành
Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển, mới là chị em.
Đã lòng hiển hiện cho xem,
Tạ lòng, nàng lại nối thêm vài lời
Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây, lại vạch một bài cổ thi.

Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu dòn,
Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh, cành giao

Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
Văn chương nết đất, thông minh tính trời
Phong tư tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa

Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.
Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm dấu, thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan, thu cúc, mặn mà cả hai

Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo
Dưới dòng nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Hồi 03 – Trích Truyện Kiều

Kiều từ trở gót trướng hoa
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không
Gương Nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng, cành xuân là đà
Một mình lặng ngắm bóng Nga
Rộn đường gần với nổi xa bời bời:
Người mà đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Ngổn ngang trăm mối tơ lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện, một mình thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân
Sương in mặt, tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng, như gần như xa

Rước mầng, đón hỏi dò la:
Đào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Thưa rằng: Thanh khí, xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
Hàn gia ở mái tây thiên,
Dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,

Mà xem trong sổ đoạn trường có tên
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội, một thuyền đâu xa.
Này mười bài mới, mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy, đủ mười khúc ngâm
Xem thư nấc nở khen thầm:
Giá đành tú khẩu, cẩm tâm khác thường!
Ví đem vào tập đoạn trường,
Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai!

Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình
Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao
Trông theo nào thấy đâu nào,
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa, nghĩ nỗi sau này mà kinh!

Hoa trôi, bèo giạt, đã đành,
Biết duyên mình, biết phận mình, thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng giồi,
Nghĩ đòi cơn, lại sụt sùi đòi cơn
Giọng Kiều rền rỉ trướng loan,
Nhà huyên chợt tỉnh, hỏi: Cơn cớ gì?
Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy đầm đìa giọt mưa?
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đòi nợ tóc tơ chưa đền
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
Nhắp đi, thoắt thấy ứng liền chiêm bao
Đoạn trường là số thế nào?
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia
Cứ trong mộng triệu mà suy
Phận con thôi có ra gì mai sau!
Dạy rằng: Mộng triệu cứ đâu?
Bỗng không mua não chuốc sầu, nghĩ nao!
Vâng lời khuyên giải thấp cao
Chưa xong điều nghĩ, đã đào mạch Tương

Hồi 04 – Trích Truyện Kiều

Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.
Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông
Bậc mây đón bước ngọn tường,

Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe!
Sượng sùng giữ ý rụt rè
Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu
Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,
Thầm trông, trộm nhớ, bấy lâu đã chồn

Xương mai tính đã rũ mòn
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
Tháng tròn như gửi cung mây
Trần trần một phận ấp cây đã liều!
Tiện đây xin một hai điều,

Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng!
Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong
Dầu khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha

Nặng lòng xót liễu vì hoa
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!
Sinh rằng: Rày gió, mai mưa
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
Dù chăng xét tấm tình si

Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh
Khuôn thiêng dầu phụ tấc thành
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời

Lượng xuân dầu quyết hẹp hòi
Công đeo duổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
Lặng nghe lời nói như ru
Chiều xuân dễ khiến, nét thu ngại ngùng
Rằng: Trong buổi mới lạ lùng,

Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
Đã lòng quân tử đa mang
Một lời vâng tạc đá vàng thuỷ chung.

Đón đọc thêm 🔻 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du 🔻 bất hủ

Chùm Thơ Chữ Nôm Của Nguyễn Trãi Cực Hay

Sau đây là Chùm Thơ Chữ Nôm Của Nguyễn Trãi Cực Hay, cùng khám phá những bài thơ nổi tiếng nhất nhé!

Tự thán

Càng một ngày càng ngặt đến xương.
Ắt vì số mệnh, ắt văn chương.
Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu
Kể hãy bằng quỳ hướng thái dương.
Chè thuở tiên thì mình ghánh nước
Cầm khỉ đàn khiến thiếp thiêu hương.
Non quê ngày nọ chiêm bao thấy
Viên hạc chăng hờn lại những thương.

Tự thuật

Thế gian đường hiểm há chăng hay
Càng còn đi ấy thác vay
Nước kiến phong quang hầu mấy kiếp
Rừng nho nấn ná miễn qua ngày.
Tóc nên bạc, bởi lòng ưu ái
Tật được tiêu, nhờ thuốc đắng cay.
Kỳ ký nô thai đà có đấy,
Kẻ nhìn cho biết lại khôn hay.

Tức sự

Chạnh yên hà, trải một gian đình.
Quét đất thiêu hương giảng ngũ kinh.
Chim đỗ tổ nhìn còn biết mặt
Hoa nên rừng thấy họa hay danh.
Đai lân phù hổ lòng chăng ước
Bến trúc đường thông cảnh cực thanh.
Có thuở giang lâu ngày đã tối,
Thuyền hòa còn dội tiếng đinh đinh.

Mạn thuật

Ngày tháng kê khoai những sản hằng
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng.
Đạo ta cậy bởi chân non khỏe
Lòng thế tin chi mặt nước bằng.
Trì cỏ được câu ngâm gió
Hiên mai cầm chén hỏi trăng.
Thề cùng viên hạc trong hai ấy,
Thấy có ai han chớ đãi đằng.

Cuối xuân

Tính từ gặp tiết lương thần,
Thiếu một hai mà no chín tuần.
Kiếp thiếu niên đi thương đến tuổi
Ốc dương hòa lại ngõ dừng chân.
Vườn hoa khóc, tiếc mặt Phi tử ;
Trì cỏ tươi, nhưng lòng tiểu nhân.
Cầm đuốc chơi đêm này khách nói ;
Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân.

Dạy con trai

Nhắn bảo phô bay đạo cái con.
Nghe lượm lấy, lọ chi đòn.
Xa hoa lơ lãng nhiều hay hết
Hà tiện đâu đang ít hãy còn.
Áo mặc miễn là cho cật ấm
Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon.
Xưa đà có câu truyền bảo
Làm biếng hay ăn lở non.

Răn giận

Giận làm chi tổn khí hòa
Nào từng có ích nhọc mình ta.
Nếu đua khí huyết quên nhân nghĩa
Hòa thất nhân tâm nát cửa nhà.
Mấy phát om thòm dường tích lịch
Một cơn lừng lẫy tựa phong ba.
Đến khi tịt mới ăn năn lại
Nhẫn song thì vạn sự qua.

Đêm trừ tịch

Mười hai tháng lọn mười hai.
Hết tấc đông trường sáng mai.
Hắc đế Huyền minh đà đổi ấn
Sóc phong bạch tuyết hãy đeo đai.
Chong đèn chực tuổi cay con mắt
Đốt trúc khua na đắng lỗ tai.
Chẳng thấy lịch quan tua sá hỏi.
Ướm xem dần nguyệt tiểu hay đài.

Gửi tặng bạn đọc 💚 Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi  💚 hay nhất

Thơ Chữ Nôm Nguyễn Khuyến

Chia sẻ đến bạn đọc tuyển tập những bài Thơ Chữ Nôm Nguyễn Khuyến xuất sắc nhất được nhiều quý độc giả quan tâm đến.

Anh giả điếc

Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ sáng tai họ, điếc tai cày,
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Toạ trung đàm tiếu, nhan như mộc,
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu, khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu,
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc.
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à!

Ăn mày

Gõ cửa làm chi quấy cả ngày,
Hỏi ra mới biết lão ăn mày.
Ăn mày chớ có ăn tao nhé,
Gạo kém, đồng khô thế mới rầy.

Bạn đến chơi nhà

Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.

Bồ tiên thi

Chú huyện Thanh Liêm khéo giở trò,
“Bồ tiên thi” lại lấy vần bồ.
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ,
Ngọng nghẹo văn chương giở giọng ngô.
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên là ý chú muốn vòi xu!
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,
Không khéo mà roi nó phết cho.

Bỡn cô tiểu ngủ ngày

Ôm tiu, gối mõ ngáy khò khò,
Gió lọt phòng thiền mát mẻ cô.
Then cửa từ bi cài lỏng cánh,
Nén hương tế độ đốt đầy lò.
Cá khe lắng kệ đầu hi hóp,
Chim núi nghe kinh cổ gật gù.
Nhắn bảo chúng sinh như muốn độ,
Sẽ quỳ, sẽ niệm, sẽ nam mô.

Cá chép vượt đăng

Cá thần vùng vẫy vượt qua đăng,
Được nước, nào ai dám rỉ răng?
Cưỡi gió giương vây lên cửa Vũ,
Xông mây rẽ sóng động vừng trăng,
Giếc, rô ngứa vẩy khôn tìm lối,
Trê, chuối theo đuôi dễ mấy thằng!
Gặp hội hoá rồng nơi chót vót
Đã lên, bay bổng tít bao chừng?

Cảm hứng tuổi già

Tháng ngày thấm thoắt tựa chim bay,
Ông gẫm mình ông, nghĩ cũng hay.
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ!
Răng long ngày trước hãy còn đây.
Câu thơ được chửa? Thưa rằng được.
Chén rượu say rồi. Nói chửa say.
Kẻ ở trên đời lo lắng cả,
Nghĩ ra ông sợ cái ông này.

Cảnh già

Nhớ từ năm trước hãy thơ ngây,
Phút chốc mà già đã đến ngay.
Mái tóc chòm đen, chòm lốm đốm,
Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay.
Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ,
Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say.
Ông ngẫm mình ông thêm ngán nỗi:
Đi đâu, giở những cối cùng chày.

Cảnh tết

Năm ngoái, năm kia đói muốn chết,
Năm nay phong lưu đã ra phết!
Thóc mùa, thóc chiêm hãy còn nhiều
Tiền nợ, tiền công chưa trả hết.
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài ngõ bi bô rủ chung thịt.
Ta ước gì được mãi như thế,
Hễ hết Tết rồi, thời lại Tết!

Chế học trò ngủ gật

Trò trẹt chi bay học cạnh thầy,
Gật gà gật gưỡng nực cười thay!
Giọng khê nồng nặc không ra tiếng,
Mắt lại lim dim nhắp đã cay.
Đồng nổi đâu đây la liệt đảo,
Ma men chi đấy tít mù say.
Dễ thường bắt chước Chu Y đó,
Quyển có câu thần vậy gật ngay.

Chợ Đồng

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.

Chơi chợ trời Hương Tích

Ai đi Hương Tích chợ trời đi!
Chợ họp quanh năm cả bốn thì.
Đổi chác người tiên cùng khách bụt,
Bán buôn gió chị lại trăng dì.
Yến anh chào khách nhà mây toả,
Hoa quả bày hàng điếm cỏ che.
Giá áo, lợn, tằm, tiền, gạo đủ,
Bán mua mặc ý muốn chi chi.

Chơi núi Non Nước

Chom chỏm trên sông đá một hòn,
Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn?
Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ,
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con.
Rừng cúc tiền triều trơ mốc thếch,
Hòn câu Thái phó tảng rêu tròn.
Trải bao trăng gió xuân già giặn,
Trời dẫu già, nhưng núi vẫn non.

Đêm đông cảm hoài

Nỗi nọ, đường kia xiết nói năng!
Chẳng nằm, chẳng nhắp, biết mần răng?
Đầu cành, mấy tiếng chim kêu tuyết.
Trước điếm, năm canh chó sủa trăng.
Bảng lảng lòng quê khôn chợp được.
Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng.
Canh gà eo óc đêm thanh thả,
Tâm sự này ai có biết chăng?

Mời bạn tham khảo thêm 💜 Thơ Chữ Hán 💜 hay nhất

Viết một bình luận