Tuyển Tập 45+ Bài Thơ Chữ Hán Ngắn Hay Về Tình Yêu, Cuộc Sống, Trăng, Mưa, Hoa Sen… Nhiều Chủ Đề Gửi Tặng Bạn Đọc.
NỘI DUNG CHÍNH
Thơ Chữ Hán Là Gì ?
Thơ chữ Hán là thơ được viết bằng chữ Hán, trong đó có 02 loại là Chữ Hán cổ (chữ phồn thể), chữ Hán hiện đại (chữ giản thể). Ví dụ: 02 chữ “Hán Tự” viết dưới dạng chữ phồn thể là: 漢字, viết dưới dạng giản thể là: 汉字. Chữ Hán là một dạng chữ viết biểu ý của Trung Quốc.
Thơ chữ Hán là thể loại thơ được viết bằng chữ Hán, một loại văn tự ngữ tố – âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên.
Chữ Hán có nguồn gốc bản địa, sau đó du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, tạo thành vùng được gọi là vùng văn hóa chữ Hán hay vùng văn hóa Đông Á.
Đặc điểm của thơ chữ Hán
Ngôn ngữ:
Sử dụng chữ Hán, với ngôn từ trang nhã và mang đậm tính cổ điển.
Thường được viết theo các thể thơ Đường luật như thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, v.v.
Nội dung:
Thơ chữ Hán thường miêu tả thiên nhiên, tình yêu, lòng yêu nước, và các triết lý sống.
Thể hiện tâm trạng, cảm xúc của tác giả qua những hình ảnh và biểu tượng phong phú.
Quốc phá sơn hà tại, Thành xuân thảo mộc thâm. Cảm thì hoa tiễn lệ, Hận biệt điểu kinh tâm. Phong hỏa liên tam nguyệt, Gia thư để vạn kim. Bạch đầu tao cánh đoản, Hồn dục bất thắng trâm.
Bản dịch thơ Trần Trọng Kim:
Nước phá tan, núi sông còn đó, Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu. Cảm thời hoa rỏ dòng châu Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng. Ba tháng khói lửa ròng không ngớt, Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn. Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun, Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.
枫桥夜泊: Phong Kiều Dạ Bạc Tác giả: Trương Kế
月落乌啼霜满天 江枫鱼火对愁眠 姑苏城外寒山寺 夜半钟声到客船
Bản dịch Hán Việt:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh
Trăng tà chiếc quạ kêu sương Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ Thuyền ai đậu bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu. Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du. Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu. Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch thơ của Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng đi mất từ xưa Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Cao lâu trùng trùng bế minh nguyệt, Trường đoạn tiên lang cách niên biệt. Tử tiêu hoành địch tịch vô thanh, Độc hướng dao song toạ sầu tuyệt. Ngư trầm nhạn diểu thiên nhai lộ, Thuỷ tín nhân gian biệt ly khổ. Hận mãn nha sàng phí thuý khâm, Oán chiết kim thoa phụng hoàng cổ. Tỉnh thâm lộc lư ta cảnh đoản, Y đới tương tư nhật ưng hoãn. Tương đao phá thuỷ thuỷ phục liên, Huy nhẫn cát tình tình bất đoạn. Lạc hồng loạn trục đông lưu thuỷ, Nhất điểm phương tâm vị quân tử. Thiếp thân nguyện tác Vu Sơn vân, Phi nhập tiên lang mộng hồn lý.
Quân thân nhất niệm cửu anh hoài ; Giản quý lâm tàm túc nguyện quai. Tam thập dư niên trần cảnh mộng ; Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi.
Dịch nghĩa
Một niềm đối vua và cha lâu vấn vương lòng ; Thẹn với khe tủi với rừng, nguyền cũ sai trái. Hơn ba chục năm mộng ở cõi trần ; Và tiếng chim kêu gọi tỉnh trở lại như xưa.
午後 – Ngọ hậu Tác giả: Hồ Chí Minh
二點開籠換空氣, 人人仰看自由天。 自由天上神仙客, 知否籠中也有仙。
Phiên âm Hán Việt
Nhị điểm khai lung hoán không khí Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên Tự do thiên thượng thần tiên khách Tri phủ lung trung dã hữu tiên.
Dịch nghĩa
Hai giờ chiều, nhà lao mở cửa đổi không khí, Mọi người ngẩng lên ngắm trời tự do; Khách thần tiên trên trời tự do, Biết chăng trong tù cũng có tiên?
囚糧 – Tù lương Tác giả: Hồ Chí Minh
每餐一碗紅米飯, 無鹽無菜又無湯。 有人送飯吃得飽, 沒人送飯喊爺娘。
Phiên âm Hán Việt
Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn, Vô diêm vô thái hựu vô thang. Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão, Một nhân tống phạn hám gia nương.
Dịch nghĩa
Mỗi bữa một bát cơm gạo đỏ, Không muối, không rau cũng chẳng canh; Có người đem cơm, được ăn no, Không người đem cơm, đói kêu cha kêu mẹ.
Vãn lập – 晚立 Tác giả: Nguyễn Trãi
長天漠漠水悠悠 黃落山河屬暮秋 羨殺花邊雙白鳥 人間累不到滄洲
Phiên âm Hán Việt
Trường thiên mạc mạc thủy du du ; Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu. Tiển sát hoa biên song bạch điểu Nhân gian lụy bất đáo thương châu
Dịch nghĩa
Trời thì rộng bao la nước thì bát ngát ; Lá vàng rụng phủ núi sông, tiết muộn về thu. Thèm chết được như đôi chim trắng ở bên hoa kia : Lụy nhân gian không đến được bãi ẩn dật.
分水 – Phân thuỷ Tác giả: Hồ Chí Minh
每人分得水半盆, 洗面烹茶各隨便。 誰要洗面勿烹茶, 誰要烹茶勿洗面。
Phiên âm Hán Việt
Mỗi nhân phân đắc thuỷ bán bồn, Tẩy diện phanh trà các tuỳ tiện. Thuỳ yếu tẩy diện vật phanh tra, Thuỳ yếu phanh tra vật tẩy diện.
Dịch nghĩa
Mỗi người được chia nửa chậu nước, Rửa mặt hoặc đun trà, tuỳ ý mình; Ai muốn rửa mặt, đừng đun trà, Ai muốn đun trà, thôi rửa mặt.
Các Bài Thơ Chiết Tự Chữ Hán Chọn Lọc
Cùng xem thêm Các Bài Thơ Chiết Tự Chữ Hán Chọn Lọc được nhiều bạn đọc quan tâm sau đây:
Kim dạ Phu Châu nguyệt, Khuê trung chỉ độc khan. Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức Trường An. Hương vụ vân hoàn thấp, Thanh huy ngọc tý hàn. Hà thì ỷ hư hoảng, Song chiếu lệ ngân can?
Dịch thơ
Châu Phu này lúc trăng soi, Buồng the đêm vắng riêng coi một mình. Đoái thương thơ dại đầu xanh, Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau. Sương sa thơm ướt mái đầu, Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong. Bao giờ tựa bức màn không, Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.
Côn sơn hữu tuyền, Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên, Ngô dĩ vi cầm huyền. Côn sơn hữu thạch, Vũ tẩy đài phô bích, Ngô dĩ vi đạm tịch. Nham trung hữu tùng, Vạn lý thúy đồng đồng, Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung. Lâm trung hữu trúc, Thiên mẫu ấn hàn lục, Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kỳ trắc. Vấn quân hà bất qui khứ lai ? Bán sinh trần thổ trường giao cốc. Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên, Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc. Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ ? Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc ? Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề Thú dương ngạ tự bất thực túc ? Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu, Diệc các tự cầu kỳ sở dục. Nhân sinh bách tuế nội, Tất cánh đồng thảo mộc. Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai, Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục. Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên, Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục ? Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ ? Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng Bãi thơm cây xanh biếc làm sao! Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai.
Xuân mộng Tác giả Sầm Than
“Động phòng tạc dạ xuân phong khởi, Dao ức mỹ nhân Tương giang thuỷ. Trẩm thượng phiến thì xuân mộng trung, Hành tận Giang Nam sổ thiên lý.”
Dịch thơ – Trang Y Hạ
“Đêm xuân gió trở vô phòng Sông Tương người đẹp có mong chi về Trong mơ xuân tới vỗ về Giang Nam nghìn dặm sơn khê một mình.”
Sông xứ Ba chảy xiết như tên bắn, Thuyền nhỏ xứ Ba lướt như bay. Chàng đi có ba ngàn dặm, mà đã mười tháng rồi, Bao giờ chàng mới trở về?
Lương Châu Từ Tác giả Vương Hàn
“Bồ đào mỹ tữu, dạ quang bôi Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”
Dịch thơ – Trang Y Hạ
“Rượu bồ đào, chén dạ quang Uống nhanh lên ngựa tiếng đàn giục đi Say nằm chiến địa cười chi Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về!”
Hồi Hương Ngẫu Thư kỳ 1 Tác giả Hạ Tri Chương
“Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi, Hương âm vô cải, mấn mao tồi. Nhi đồng tương kiến, bất tương thức, Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?”
Dịch thơ – Trang Y Hạ
“Trẻ đi, già trở lại nhà Giọng quê chưa đổi tóc đà hoa râm Trẻ con xúm lại xì xầm Hỏi rằng: khách có đi lầm đường chăng!”
Tư Quy Tác giả Vương Bột
“Trường Giang bi dĩ trệ Vạn lý niệm tương quy Huống phục cao phong vãn Sơn sơn hoàng diệp phi.”
Dịch thơ – Trang Y Hạ
“Buồn theo sóng nước Tràng Giang Quê xưa muôn dặm cũ càng nhớ thương Chiều đêm gió lạnh canh trường Lá vàng bỏ núi lạc phương trời nào.”
Những Câu Thơ Chữ Hán Hay
Dưới đây là Những Câu Thơ Chữ Hán Hay và để lại nhiều ấn tượng cho các bạn độc giả.
黄鹤楼送孟浩然之广陵 – Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng Tác giả: Lí Bạch
故人西辞黄鹤楼, 烟花三月下阳州. 孤帆远影碧空尽, 惟见长江天际流.
Dịch âm Hán Việt
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu. Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Dịch thơ (Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng. Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm? Tiểu song khai xứ liễu âm âm. Giang hồ bệnh đáo kinh thì cửu, Phong vũ xuân tuỳ nhất dạ thâm. Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ, Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm. Nam Đài thôn ngoại Long giang thuỷ, Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kinh).
Dịch nghĩa
Trời tối đen, tìm đâu thấy cảnh xuân tươi sáng? Qua khuôn cửa sổ nhỏ, chỉ thấy bóng liễu âm u. Trong bước giang hồ, lại phải nằm bệnh lâu ngày, Cuộc đời có khác gì vẻ xuân theo mưa gió chìm trong bóng đêm. Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới bóng đèn mà rơi lệ. Quê hương xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng. Ở đó, phía ngoài thôn Nam Đài, tiếng sóng lòng sông Long Giang Vẫn lạnh lùng tiễn đưa kim cổ.
Tích xuân liên nhật tuý hôn hôn, Tỉnh hậu y thường kiến lệ ngân. Tế thuỷ phù hoa quy biệt giản, Đoạn vân tương vũ nhập cô thôn. Nhân gian dị đắc phương thì hận, Địa quýnh nan chiêu tự cổ hồn. Tàm quý lưu oanh tương hậu ý, Thanh thần độc vị đáo tây viên.
Dịch nghĩa
Vì tiếc xuân nên say mấy ngày liền Sau khi tỉnh còn thấy vết rượu trên áo xiêm Dòng nước nhỏ đã đưa hoa về khe nước khác Đám mây đem mưa đổ xuống thôn xóm lẻ loi Ở cõi nhân gian, dễ gặp những mối hận mùa thơm Chỗ đất xa xôi khó vời những mảnh hồn xưa lại Ta thẹn với ý tình nồng nàn của chim oanh Vì ta mà sáng sớm đã đến khu vườn phía tây
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì, Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi. Khách lai bất vấn nhân gian sự, Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Dịch nghĩa
Trong khóm hoa dương liễu rậm rạp, tiếng chim hót lời chậm rãi, Dưới bóng hiên nhà trưng bày tranh vẽ, bóng mây chiều lướt bay. Khách đến chơi không hỏi việc đời, Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh biếc trên trời.
Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần, Ám lý thiên kinh vật hậu tân. Trì thảo vị lan thiên lý mộng, Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân. Anh hùng tâm sự hoang trì sính, Danh lợi doanh trường luỵ tiếu tần. Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo, Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân.
Dịch nghĩa
Mái tóc bạc phơ, cứ phải phong trần mãi, Thấy thời tiết, cảnh vật đổi thay, lòng riêng những kinh sợ. Ngoài nghìn dặm chưa tan giấc mộng “cỏ bờ ao”, Trước sân, cây mai lại qua một mùa xuân nữa. Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không còn nghĩ đến chuyện ruổi rong, Đường danh lợi làm lụy đến sự khóc cười. Người thì tiều tụy, nhưng xuân vẫn chứ đẹp, Đứng dưới Đoàn Thành, nước mắt đẫm khăn.
Nhã khiết phù quân tử, U lan phẩm tối lương. Kỳ nhân nguyên tỷ ngọc, Thử quốc hợp danh hương. Hữu vị đồng tâm khế, Vô ngôn cánh thể phương. Ca hoài cầm tháo khúc, Từ ức mộng tao chương. Nhập thất chi đồng hoá, Bái đình chỉ tịnh dương. Luận giao khoa Cửu Uyển, Vấn tấn đáo Tam Tương. Hoa ngoại cô tiêu viễn, Phong tiền khứu vạn niên. Hà như không cốc lý, Nữu tẫn bạn dung thường.
Trần thế phồn hoa, vân nệ nhân hải, lưỡng vọng cầu ô thước. Đàn chỉ sinh tử, kì luân triều mộ, tam đồ hoàng hôn xứ. Hoa khai diệp lạc, hồng bạch lưỡng sắc, si tình khó mà dừng. Diệp lạc tố thổ, hoa khai kì thấu, mờ mịt lệ vô số. Nại Hà quay đầu, Mạnh Bà uống canh, kì sinh vô hồi cố. Khóc cười tang thương, Hoàng Tuyền tương tùy. Phật truyền khổ nạn độ. Đầu tiên vía lạc, thất tình hồn tại, mê man sao tỉnh ngộ. Luân hồi buồn khổ, U Minh khó say, độc bộ vô quy lộ.
彼岸花 – Bỉ Ngạn hoa Tác giả: Lưu Khâm Hưng
彼岸花开开彼岸, 忘川河畔亦忘川. 奈何桥头空奈何, 三生石上写三生.
Dịch nghĩa
Bỉ Ngạn hoa khai khai bỉ ngạn, Vong Xuyên hà bạn diệc vong xuyên. Nại Hà kiều đầu không nại hà, Tam Sinh thạch thượng tả tam sinh.
Mời bạn tham khảo thêm Chùm Thơ Tình Chữ Hán Đầy Cảm Xúc dưới đây:
断章 / Đoạn Chương
你站在桥上看风景, 看风景人在楼上看你。 明月装饰了你的窗子, 你装饰了别人的梦。
Dịch nghĩa
Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh, Người đứng trên lầu ngắm phong cảnh lại ngắm nhìn em. Trăng sáng tô điểm của sổ phòng em Em tô điểm giấc mộng của người.
卜算子 / Bốc Toán Tử
卜算子 我住长江头, 君住长江尾。 日日思君不见君, 共饮长江水。
此水几时休? 此恨何时已? 只愿君心似我心, 定不负相思意。
Dịch nghĩa
Thiếp ở đầu Trường Giang, Chàng ở cuối Trường Giang. Ngày ngày nhớ chàng chẳng thấy chàng, Cùng uống nước Trường Giang.
Dòng sông này bao giờ ngừng trôi? Nỗi hận này bao giờ mới hết? Chỉ mong lòng chàng như lòng thiếp, Nhất định không phụ nỗi niềm nhớ nhau.
Trắng như tuyết trên núi, Sáng như trăng ở trong mây. Nghe lòng chàng có hai ý, Nên thiếp quyết cắt đứt. Ngày hôm nay nâng chén sum vầy, Sớm mai đã đưa tiễn nhau ở bên sông. Đi lững thững trên dòng nước, Nước cứ chảy xuôi mãi từ đông về tây (mà không quay về).
Thơ Chữ Hán Về Tình Yêu Lãng Mạn
Thưởng thức thêm tập Thơ Chữ Hán Về Tình Yêu Lãng Mạn và hay nhất sau đây:
玉楼春-春恨 / Ngọc Lâu Xuân – Xuân Hận
玉楼春-春恨 绿杨芳草长亭路, 年少抛人容易去。 楼头残梦五更钟, 花底离愁三月雨。
无情不似多情苦, 一寸还成千万缕。 天涯地角有穷时, 只有相思无尽处。
Dịch nghĩa
Liễu xanh, cỏ thơm ở trường đình bên đường, Tuổi trẻ dễ dàng bỏ người lại mà đi mất. Trên lầu cao, tiếng chuông canh năm làm tỉnh giấc mộng, Dưới hoa, mưa tháng ba gợi lại nỗi sầu ly biệt.
Kẻ vô tình đâu như (đâu thấu hiểu) nỗi khổ của người đa tình, Một tấc tương tư cũng biến thành ngàn vạn sợi sầu khổ. Chân trời góc bể cũng có nơi cùng tận, Chỉ có lòng tương tư là không có kết thúc.
Nhỏ không dứt, dòng huyết lệ tương tư rơi xuống như những hạt đậu đỏ Nở không trọn, liễu xuân, hoa xuân khắp chốn lầu son Ngủ không yên, mưa gió bên ngoài màn song sau buổi hoàng hôn Quên chẳng được, sầu mới lẫn sầu cũ Nuốt chẳng trôi, những gạo ngọc miệng vàng nghẹn đầy cổ họng (ko nuốt được) Soi chẳng hết, hình dung gầy võ trong gương hoa ấu Đầu mày giương chẳng mở Canh khuya cứ lần lữa không sáng A! Vừa đúng như: non xanh thấp thoáng không ngăn lại được Nước biếc mênh mang trôi đi không ngừng
Lầu cao lớp lớp che trăng sáng, Đau lòng vì suốt năm xa cách chàng. Tiêu im sáo lặng không nghe tiếng, Một mình ngồi buồn nhìn ra song cửa ngọc. Cá lặn chim bay chân trời góc biển, Biệt ly không được tin thư thật khổ. Oán đầy giường ngà chăn phí thuý, Giận bẻ gãy kim thoa phượng hoàng. Giếng sâu ròng rọc than giây ngắn, Ngày trôi chậm, xiêm y cũng nặng tương tư. Dùng dao chém nước nước liền trở lại, Cầm kéo cắt tình tình không chịu đứt. Hồng rụng tơi bời theo dòng nước chảy về đông, Một tấm tình son vì người mà tàn lụi. Thiếp nguyện làm mây núi Vu (Sơn), Bay nhập vào giấc mộng trong hồn chàng.
Chim xuân cưu kêu trên mái nhà, Hoa hạnh trắng thông bên đang nở. Cầm rìu chặt cành vươn xa, Lấy cuốc khơi mạch suối. Chim én bay về nhận ra tổ cũ của mình, Người cũ xem lịch mới. Cầm chung rượu trên tay nhưng không uống, Xót thương người phương xa.
Ngọn núi vắng sau cơn mưa Thời tiết ban đêm đã là thu rồi Ánh trăng sáng chiếu qua rừng cây tùng Suối nước xanh chảy trên đá Nghe có tiếng trúc xào xạc mấy cô đi giặt áo về Tiếng lá sen xao động có người hạ thuyền xuống Tùy ý, hương xuân đã hết Các vương tôn muốn ở lại thì tự nhiên
Ông lão nhà nghèo ở trong núi, Cày cấy đất núi được ba bốn mẫu. Lúa ít đóng thuế nhiều nên không có lúa để ăn, Gom về kho quan để mốc thành đất. Cuối năm, cày bừa để dựa góc nhà trống không, Ông kêu con cháu lên núi hái hạt dẻ rừng về ăn. Nhà buôn ở Tây Giang kho báu có cả trăm hộc, Chó nuôi trên thương thuyền ngày nào cũng có thịt ăn.
Chồng chết trận,một mình giữ nếp nhà tranh Áo bằng gai, đầu tóc vàng khè Việc tằm tang bỏ hoang rồi,thuế vẫn phải nộp Ruộng vườn không trồng trọt,còn bị đòi thuế thóc lúa Bửa ăn thường hái rau dại nấu cả rễ Thiếu củi,đem cành tươi vừa chặt được,để cả lá mà đốt Dù vào tận núi sâu,càng sâu hơn nữa Cũng không cách nào trốn khỏi đóng thuế đi phu.
Quan điền gia Mưa nhỏ làm mọi loài cỏ nảy mầm mới, Một cơn sấm chớp bắt đầu hiện tượng kinh trập. Nhà nông được bao nhiêu ngày nhàn rỗi rồi? Nay bắt đầu cày đất và gieo hạt theo ngay hiện tượng bắt đầu này. Người lớn khoẻ mạnh đều ra đồng, Ruộng vườn đều được sửa sang. Thường trở về nhà trễ khi nắng sắp tắt, Bê, nghé uống nước nơi suối phía tây. Không thấy khổ khi đói bụng hay mệt nhọc, Chịu mưa ướt cho đất được thấm nhuần là điều vui mừng. Trong vựa, đụn chẳng có thóc lúa gì cả, Làm để trả thuế cho quan và tô cho chủ đất còn chưa đủ. Thấy điều này mới thấy hổ thẹn cho kẻ không làm ruộng như ta, Bổng lộc và cái ăn đều do làng xã cung ứng.
Tiếp theo sau đây là tập Thơ Chữ Hán Về Thầy Cô Ý Nghĩa và hay nhất:
見 我 師 – Kiếp ngã Sư Tác giả: Chưa rõ
回 鄉 見 我 師 他 今 已 白 頭 相 見 不 能 說 相 感 別 亦 難
Phiên âm Hán Việt
Hồi hương kiến ngã sư Tha kim dĩ bạch đầu Tương kiến bất năng thuyết Tương cảm biệt diệc nan.
Dịch nghĩa
Về quê, gặp lại thầy tôi Nay mái tóc thầy đã bạc trắng Thầy trò nhìn nhau mà không nói nên lời Cùng dâng trào cảm xúc và thật khó khi phải nói lời chia tay.
徒 道 – Đạo Học Trò Tác giả: Chưa rõ
師 徒 恩 義 重 成 道 早 立 功 榮 華 和 富 貴 留 心 義 莫 忘
Phiên âm Hán Việt
Sư đồ ân nghĩa trọng Thành đạo tảo lập công Vinh hoa hòa phú quý Lưu tâm nghĩa mạc vong.
Dịch nghĩa
Thầy trò ân nghĩa sâu nặng Thành tài sớm lập công danh Sống đời vinh hoa phú quý Khắc ghi lòng chữ Nghĩa đừng quên.
Vời vợi trăng trong sáng dặm trường Nỗi buồn chất ngất giận thêm vương Người đi biên tái bao giờ lại ? Kẻ ở thềm xưa luống đoạn trường Thất sủng thứ phi về viện ở Tàn binh lão tướng ẩn cung tường Não nề trăng tỏ người đau xót Thỏ ngọc xa hay chuyện thế thường ?
中秋對月 – Trung thu đối nguyệt Tác giả: Chưa rõ
無雲世界秋三五, 共看蟾盤上海涯。 直到天頭天盡處, 不曾私照一人家。
Vô vân thế giới thu tam ngũ, Cộng khán thiềm bàn thướng hải nhai. Trực đáo thiên đầu thiên tận xứ, Bất tằng tư chiếu nhất nhân gia.
Dịch nghĩa
Trời thu đêm 15 không có mây, Mọi người ngắm trăng lên từ chân trời mặt biển. Trăng chiếu khắp mọi nơi, Chưa từng chiếu riêng cho một nóc nhà nào.
Kim ba tự hải mạn không lưu, Hà Hán vi vân đạm đạm thu. Vũ hậu trì đài đa trữ nguyệt, Khách trung tình tự bất thăng thu. Nguyện bằng thiên thượng thanh quang dạ, Biến chiếu nhân gian tật khổ sầu. Trường sử quốc gia đa hạ nhật, Ngũ hồ quy mộng đáo biên chu.
Dịch nghĩa
Sóng vàng như biển, tràn ngập tầng không, Dòng Ngân Hán lưa thưa mây đọng lại. Sau trận mưa, đài ao chứa đầy ánh trăng, Nỗi lòng nơi đất khách không thể như trời thu Mong nhờ đêm trong sáng ở trên trời kia. Soi thấu nỗi đau khổ của thế gian này. Mãi mãi để nước nhà được những ngày nhàn hạ, Thì giấc mơ quay về Năm hồ sẽ tới được chiếc thuyền con.
Tìm hiểu thêm tập Thơ Chữ Hán Việt Nam Bất Hủ và để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc sau đây:
晚 – Vãn Tác giả: Hồ Chí Minh
晚餐吃了日西沉, 處處山歌與樂音。 幽暗靖西禁閉室, 忽成美術小翰林。
Phiên âm Hán Việt
Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm, Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm. U ám Tĩnh Tây cấm bế thất, Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.
Dịch nghĩa
Cơm chiều xong, mặt trời lặn về tây, Khắp nơi, rộn tiếng ca dân dã và tiếng nhạc; Nhà ngục u ám huyện Tĩnh Tây, Bỗng thành một viện hàn lâm nghệ thuật nhỏ.
Vân tế sơn Tam Điệp, Thiên nhai khách tái du. Nhãn trung thu đại địa, Hải ngoại kiến ngư chu. Chướng tĩnh phong loan sấu, Thiên hàn thảo mộc thu. Hành nhân hồi khán xứ, Vô ná cố hương sầu.
Đề Bá Nha cổ cầm đồ – 題伯牙鼓琴圖 Tác giả: Nguyễn Trãi
鐘期不作鑄金難 獨抱瑤琴對月彈 靜夜碧宵涼似水 一聲鶴唳九皋寒
Phiên âm Hán Việt
Chung Kỳ bất tác chú kim nan Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn. Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thủy ; Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.
Dịch nghĩa
Không làm được Chung Kỳ vì đúc vàng khó ; Một mình ôm đàn ngọc đối trăng mà đàn. Đêm lặng vòm trời biếc lạnh như nước, Một tiếng hạc rít lạnh ngắt ở chín chằm.
元宵 – Nguyên tiêu Tác giả: Hồ Chí Minh
今夜元宵月正圓, 春江春水接春天。 煙波深處談軍事, 夜半歸來月滿船。
Phiên âm Hán Việt
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên. Yên ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Dịch nghĩa
Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn, Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân. Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân, Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.
靖安晚立 – Tĩnh yên vãn lập Tác giả: Nguyễn Trãi
淡煙疏雨晚摸糊 水色天光半有無 萬古乾坤清景致 海山為我出新圖
Phiên âm Hán Việt
Đạm yên sơ vũ vãn mô hồ Thủy sắc thiên quang bán hữu vô Vạn cổ càn khôn thanh cảnh trí. Hải sơn vị ngã xuất tân đồ
Dịch nghĩa
Khói lạt mưa nhẹ cảnh chiều lờ mờ ; Sắc nước ảnh trời nửa không nửa có. Trời đất muôn thuở cảnh trí tươi trong ; Biển non vì ta vẽ bức tranh mới.
對月 – Đối nguyệt Tác giả: Hồ Chí Minh
窗外月明籠古樹, 月移樹影到窗前。 軍機國計商談了, 攜枕窗旁對月眠。
Phiên âm Hán Việt
Song ngoại nguyệt minh lung cổ thụ, Nguyệt di thụ ảnh đáo song tiền, Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu, Huề chẩm song bàng đối nguyệt miên.
Dịch nghĩa
Ngoài cửa sổ ánh trăng lồng trên cây cổ thụ, Ánh trăng nhích dần bóng cổ thụ lại trước cửa sổ. Việc quân, việc nước bàn bạc xong rồi, Xách gối đến bên cửa sổ, nằm ngủ trước ánh trăng.
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên, Y y bất cải cựu thuyền quyên. Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc, Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên. Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán, Bạch đầu đa hận tuế thì thiên. Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến, Hải giác thiên nhai tam thập niên.
Thơ Chữ Hán Của Bác Cực Hay
Thohay.vn giới thiệu đến bạn đọc tập Thơ Chữ Hán Của Bác Cực Hay và ý nghĩa:
野景 – Dã cảnh
我來之時禾尚青, 現在秋收半已成。 處處農民顏帶笑, 田間充滿唱歌聲。
Phiên âm Hán Việt
Ngã lai chi thì hoà thượng thanh, Hiện tại thu thu bán dĩ thành. Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu, Điền gian sung mãn xướng ca thanh.
Dịch nghĩa
Lúc ta đến lúa còn xanh, Nay vụ gặt đã xong một nửa; Nơi nơi nông dân mặt mày hớn hở, Ruộng đồng tràn đầy tiếng ca hát.
自勉 – Tự miễn
没有冬寒憔悴景, 將無春暖的輝煌。 災殃把我來鍛鍊, 使我精神更健強。
Phiên âm Hán Việt
Một hữu đông hàn tiều tuỵ cảnh, Tương vô xuân noãn đích huy hoàng. Tai ương bả ngã lai đoàn luyện, Sử ngã tinh thần cách kiện cường.
Dịch nghĩa
Không có cảnh mùa đông tiêu điều rét mướt, Sẽ không có mùa xuân ấm áp huy hoàng; Tai ương rèn luyện ta, Khiến cho tinh thần ta càng thêm hăng hái.
七九 – Thất cửu
人未五旬常嘆老, 我今七九正康強。 自供清淡精神爽, 做事從容日月長。
Phiên âm Hán Việt
Nhân vị ngũ tuần thường thán lão, Ngã kim thất cửu chính khang cường. Tự cung thanh đạm tinh thần sảng, Tố sự thung dung nhật nguyệt trường.
Dịch nghĩa
Thường người ta chưa đến năm mươi tuổi đã tự than già, Mình nay sáu mươi ba tuổi vẫn đang khoẻ mạnh. Sống cách thanh đạm tinh thần sáng suốt, Làm việc thong dong, ngày tháng dài.
尋友未遇 – Tầm hữu vị ngộ
百里尋君未遇君, 馬蹄踏碎領頭雲。 歸來偶過山梅樹, 每朵黃花一點春。
Phiên âm Hán Việt
Bách lý tầm quân vị ngộ quân, Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân. Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ, Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.
Dịch nghĩa
Trăm dặm tìm anh mà chẳng gặp anh, Vó ngựa dẫm vỡ những áng mây trên đầu núi. Trở về, tình cờ qua một cây mai rừng, Mỗi đoá hoa vàng là một điểm xuân.
夜宿龍泉 – Dạ túc Long Tuyền
白天雙馬不停蹄, 夜晚嘗嘗五味雞。 虱冷乘機來夾擊, 隔鄰欣聽曉鶯啼。
Phiên âm Hán Việt
Bạch thiên “song mã” bất đình đề, Dạ vãn thường thường “ngũ vị kê”. Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích, Cách lân hân thính hiểu oanh đề.
Dịch nghĩa
Suốt ngày “đôi ngựa” không ngừng vó, Đêm đến, lại từng nếm món “gà năm vị”. Rệp và rét thừa cơ xông vào tập kích, Mừng nghe xóm bên, chim oanh hót báo sáng.
近龍州 – Cận Long Châu
遠隔龍州三十里, 已聞炮響與機聲。 越南民眾真英勇, 抗戰必勝建國必成。
Phiên âm Hán Việt
Viễn cách Long Châu tam thập lý, Dĩ văn pháo hưởng dữ cơ thanh. Việt Nam dân chúng chân anh dũng, Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành.
Dịch nghĩa
Cách xa Long Châu ba mươi dặm, Đã nghe tiếng đại bác vang dội và tiếng máy bay gầm rú. Dân chúng nước Việt Nam thật là anh dũng, Kháng chiến nhất định thắng lợi, kiến quốc nhất định thành công.
Sơn hải tang bồng cổ dĩ lai, Trường đồ trước cước sạ quan hoài. Đình tiền tượng mã ngân song toả, Cung lý y quan ngọc nhất đôi. Thảo mộc ám tuỳ đông tuyết lão, Giang sơn hoàn vị tích nhân ai. Hoàng thiên hữu ý khai tân vận, Phong quyển hồng trần phất kiếp hôi.
Bán thiên phong vũ bán thiên tình, Lữ huống thê lương nhập mộng tinh. Ngâm khách hữu thần lai sắc tướng, Tình ma vô lực khước sầu binh. Khâm trung bán sấu phong lưu cốt, Tháp thượng bình phân hải giác tình. Nhất phiến vô liêu ngôn bất tận, Trần hoàn an đắc nhãn song thanh.
Dịch nghĩa
Nửa trời mưa gió, nửa trời tạnh quang Tình cảnh ở quán trọ thê lương mê rồi tỉnh Khách ngâm thơ có thần đến dáng vẻ Ma tình không sức rụt vũ khí buồn Lúc ngủ (trong chăn) thì hao nửa thân mình phong nhã Khi “thức” (trên giường) thì chia đều biển ái ân Một cảnh không hứng thú không tả hết Cõi trần thường thích cả đôi mắt xanh.
Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân, Tế tế thanh phong phiến phiến huân. Thuỷ nguyệt ba lung liên tháp truất, Hương yên bảo thoại lộ liên vân. Tẩy không trần lự hoa hàm thoại, Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân. Ðáo cảnh linh nhân hồi thủ vọng, Ðông nam phất tụ nhạn thành quần.
Dịch nghĩa
Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh, Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi thơm. Trăng nước sóng vờn sen chen nụ, Khói hương tàn bám móc liền mây. Tẩy sạch trần tục phiền não, hoa e ấp, Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc xuân. Gặp cảnh khuyên người quay đầu ngắm, Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn.
Thúc văn giang cổ thú giang thành, Hốt đắc hàn châm tấu nhĩ thinh. Tục đoạn sương trung kinh nhạn trận, Y hy bích hạ loạn trùng thanh. Chinh phu dục phá thâm khuê mộng, Du tử hoàn thiêm cố quốc tình. Đắc ý bất tri cần khổ dược, Quản huyền vận vận gián kê minh.
Dịch nghĩa
Chợt nghe tiếng trống ở thành bên sông Bất ngờ hợp với tiếng chày lạnh nhịp bên tai Lúc vang lúc bặt trong màn sương khiến bầy nhạn kinh sợ Phảng phất dưới chân tường dế kêu loạn xạ Người lính muốn phá giấc mộng nơi khuê phòng (của vợ) Khách dạo thuyền càng thêm nặng tình cố quốc Mải mê suy nghĩ mà không hay có liều thuốc chữa khổ luỵ Tiếng sáo hoà với tiếng đàn chen lẫn tiếng gà gáy bình minh.
Tây phong tạc dạ áp hàn chi, Ly cúc tiêu sơ tuyết vị phi. Mật vũ tà si phân thuỷ diện, Cô vân miêu chức viễn sơn my. Liên dư tàn hạ lưu xuân đới, Liễu bạng nhiêu hương lão thuý y. Đề điểu mạc phi tri ngã huống, Thanh thanh trường động cố hương ty (tư).
Dịch nghĩa
Đêm qua gió tây xô dạt cành cây Dậu cúc lưa thưa tuyết chưa bay Mưa lớn nghiêng đổ khuấy động mặt nước (mặt phấn, mặt sáng) Mây thưa thêu vẽ tránh xa nét mi xanh (giống như màu núi) Sen thừa hạ hết dây xuân cũ (sót) Liễu tựa nhiều hương áo biếc xưa Chim khóc chẳng ai không hiểu tình cảnh của mình Từng tiếng dài khuấy động tấm tình quê.
Quỳnh diên toạ hoa, Phi trường đối nguyệt, Phong lưu thuộc thuỳ gia? Lý tử phi hào, Từ phi viên bút, Tứ nhã nhập thi ca. Kim tịch thị như hà? Xúc tịch đàm tâm. Hồi đăng tự sự, Phủ bút nhất kha kha.
Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa, Thác nhận Đào Nguyên thị bệ la. Ký ngữ khinh chu tòng điếu tử, Quá giang ưng bất thính tỳ bà. Quá giang mạc thính tỳ bà, Cao thanh bất tự Hồ già thê lương. Đào nguyên thuỷ khoát sơn trường, Ngư ông nhất trạo tiên đường bán khai. Vạn trùng xuân toả Thiên Thai, Cầm thanh lạc, giốc thanh ai bất đồng. Hàn sơn thảo sắc thông thông, Tô khê kỷ đáo thanh phong tự nhàn.
Dịch nghĩa
Lão nhà quê ăn lạt mặc mỏng mà vẫn phong lưu Áo thô mà cứ tưởng sống cảnh tiên Gởi lời người phụ câu quay thuyền về Qua sông không nghe được tiếng tỳ bà Qua sông chớ nghe tiếng tỳ bà Âm cao không giống kèn Hồ thê lương Đào Nguyên sông rộng núi dài Ngư ông chăm chú chèo, cửa tiên hé ra Vạn trùng xuân bến Thiên Thai Tiếng đàn vui, tiếng tù buồn không hoà Núi lạnh sắc cỏ xanh xanh Suối Tô tự đầy, gió mát tự nhàn
Thiên cách vân âm thảm bất minh, Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình. Đoản trường khô thụ chi đầu lệ, Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh. Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng, Sầu khiên liêu lạc ngũ canh tình. Thâm khuê tối khổ như hoa diện, Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành.
Dịch nghĩa
Bầu trời mây che tăm tối ảm đạm Mưa thu tí tách rơi ngoài sân vắng Nhánh cây khô giọt lệ ngắn dài Lá chuối vàng tiếng giũ chậm nhanh Khóc dứt đê mê ngàn dặm mộng Sầu vương lác đác năm canh tình Phòng khuê thật buồn như mặt hoa Hình dáng nỗi buồn không hoạ được
Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du
Tham khảo thêm tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du, một trong những nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam.
Tây phong tiêu táp phất cao lâm, Khuynh tận ly bôi ngoại dạ thâm. Loạn thế nam nhi tu đối kiếm, Tha hương bằng hữu trọng phân khâm. “Cao sơn lưu thuỷ” vô nhân thức, Hải giác thiên nhai hà xứ tầm? Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt, Dạ lai thường chiếu lưỡng nhâm tâm.
Dịch nghĩa
Gió tây hiu hắt thổi qua rừng cây cao. Hãy cạn chén rượu biệt ly này rồi cùng nhau nói chuyện đến khuya. Trai thời loạn nhìn thanh kiếm mà thẹn. Chia tay bạn, ở đất khách, càng thấy bùi ngùi. Khúc đàn cao sơn lưu thuỷ, ai người hiểu? Rồi đây biết tìm anh nơi đâu ở góc bể chân trời? Chỉ còn lại mảnh trăng phía nam sông Đêm đêm soi chung tấm lòng hai ta.
乞食 – Khất thực
嶒崚長劍倚青天, 輾轉泥塗三十年。 文字何曾為我用, 饑寒不覺受人憐。
Phiên âm Hán Việt
Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên, Triển chuyển nê đồ tam thập niên. Văn tự hà tằng vi ngã dụng ? Cơ hàn bất giác thụ nhân liên!
Dịch nghĩa
Tựa kiếm dài, ngạo nghễ nhìn trời xanh, Lăn lộn trong đám bùn dơ ba mươi năm nay. Văn chương nào đã dùng được việc gì cho ta ? Đâu ngờ phải đói rét để người thương
Nam khứ Trường An thiên lý dư, Quần phong thâm xứ dã nhân cư. Sài môn trú tĩnh sơn vân bế, Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ. Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ, Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ. Cố hương đệ muội âm hao tuyệt, Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
Dịch nghĩa
Cách Trường An nghìn dặm về phía nam, Có một người quê mùa ở trong núi sâu. Ban ngày yên tĩnh, mây núi che kín cổng tre. Mùa xuân lạnh, hành trúc quanh vườn thuốc trông thưa thớt. Thơ thẩn dưới bóng trăng, lòng nhớ quê hương. Tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm dòng lệ biệt ly từ bao năm. Em trai em gái ở nơi quê nhà, bấy lâu bặt hắn tin tức, Không nhận được lá thư nào nói cho biết có bình yên hay không?
Đạp biến thiên nha hựu hải nha, Càn khôn tuỳ tại tức vi gia. Bình sinh bất khởi thương dăng niệm, Kim cổ thuỳ đồng bạch nghĩ oa? Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm, Tiêu điều lữ muộn đối thì ca. Bế môn bất thức xuân thâm thiển, Đãn kiến đường lê lạc tận hoa.
Dịch nghĩa
Đi khắp chân trời góc biển, Trong khoảng trời đất, đến đâu là nhà đó. Bình sinh chưa hề có ý nghĩ của loài ruồi nhặng, Xưa nay ai lại cùng chung tổ với lũ mối? Tráng tâm lâm vào cảnh tịch mịch, phụ cả cây đoản kiếm. Nỗi buồn lữ thứ càng trở nên tiêu điều khi nghe những bài hát đương thời. Cửa ngõ đóng kín, chẳng biết xuân sớm hay muộn nữa, Chỉ thấy cây đường lê rụng hết hoa rồi.
Thác lạc nhân gia Nhĩ thuỷ tân Cư nhiên biệt chiếm nhất thành xuân. Đông tây kiều các kiêm thiên khởi, Hồ Hán y quan đặc địa phân. Mục túc thu kiêu kim lặc mã, Bồ đào xuân tuý ngọc lâu nhân. Niên niên tự đắc phồn hoa thắng, Bất quản Nam minh kỷ độ trần.
Dịch nghĩa
Trên bãi sông Nhị, nhà cửa lô nhô, Nghiễm nhiên chiếm cảnh xuân của cả một thành. Phía đông và phía tây, cầu và nhà gác cao ngút trời. Áo mũ chia hẳn người Hán với người Hồ. Mùa thu, ngựa đeo giàm vàng kiêu hãnh ăn rau mục túc. Ngày xuân, người trong lầu ngọc uống rượu bồ đào say mềm. Tha hồ hưởng thú phồn hoa hết năm này đến năm khác, Không quản bể Nam mấy phen nổi bụi.
Môn tiền yên cảnh cận như hà? Nhàn nhật khai song sinh ý đa. Lục nguyệt bồi phong bằng tỷ địa, Nhất đình tích vũ nghĩ di oa. Thanh chiên cựu vật khổ trân tích, Bạch phát hùng tâm không đốt ta. Tái bệnh thượng tu điều nhiếp lực, Bất tri thu tứ đáo thuỳ gia?
Dịch nghĩa
Phong cảnh trước nhà, nay như thế nào rồi? Nhàn rỗi, mở cửa sổ ra xem, thấy mọi vật vẫn vui tươi. Chim bằng cưỡi gió bay luồn sáu tháng không nghỉ, Sân đọng nước mưa kiến dời tổ đi. Có chiếc nệm xanh là vật cũ, khư khư giữa mãi, Tóc bạc rồi, có hùng tâm cũng ngồi than thở suông mà thôi. Bệnh trở lại, phải lo điều dưỡng, Không biết thu đến nhà ai?
Mặc thụ đồng chương thập nhị niên, Thử thân nhật vọng thánh triều liên. Bệnh nhân đa sự thả hưu hĩ, Phúc hữu nhất xan do quả nhiên. Khứ quốc khởi vô bằng bối tại, Quy gia vị tất tử tôn hiền. Mông lung bả trản tòng kim sự, Chỉ khủng di ô đáo giản biên!
Dịch nghĩa
Dây thao đen, ấn đồng đã mười hai năm nay, Hằng ngày, thân này mong được thánh triều thương tới. Ốm vì nhiều việc, thôi thì hưu vậy, Bụng chỉ một bữa ăn, cũng vẫn còn no. Mình đi xa quê nhà há chẳng có bè bạn, Về nhà cũng chưa chắc con cháu đã có đức tốt (mà trông cậy). Từ nay công việc của ta là đánh chén say tít, Chỉ e lại bôi nhọ cho sử sách.
Hoạn khí kinh thì hộ bất khai, Thuân tuần hàn thử cố tương thôi. Tha hương nhân dữ khứ niên biệt, Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai? Nam phố thương tâm khan lục thảo, Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai. Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu, Đấu tửu song cam túy bất hồi.
Dịch nghĩa
Bấy lâu nay khí trời xấu, không mở cửa, Dùng dằng hết mùa lạnh lại đến mùa nóng. Chốn tha hương, phải từ biệt người năm cũ, Chẳng hay Xuân từ đâu đến Quỳnh Hải, Đau lòng nhìn bãi cỏ xanh bên bờ Nam, Chúa Xuân để lộ sinh ý trên cánh hoa mai lạnh. Có ông già hàng xóm, đi về phía miếu đầu thôn, Uống hết bầu rượu, ăn hai trái cam, đang say, không thấy trở về.
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên, Y y bất cải cựu thuyền quyên. Nhất thiên xuân hứng, thùy gia lạc, Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên. Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán, Bạch đầu đa hận tuế thì thiên. Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến, Hải giác thiên nhai tam thập niên.
Dịch nghĩa
Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời, Vầng trăng vẫn đẹp như xưa, không hề thay đổi. Chẳng biết nhà ai được hưởng thú vui Xuân, Đêm nay ở đất Quỳnh Châu ngoài vạn dặm [thấy trăng tròn]. Còn ta thì ở quê hương Hồng Lĩnh, không còn nhà cửa, anh em ly tán, Đầu đã bạc, càng giận cho ngày tháng trôi mau. Cảm động biết bao, giữa lúc cùng đường, còn gặp được [ánh trăng đến thăm], Đã ba mươi rồi, vẫn còn lưu lạc ở nơi chân trời góc biển.
Phong tế trần ô hà xứ lai, Nhật quang câu ảnh đệ tương thôi. Yên phi giang thượng chu như điện, Thạch lục sơn yêu pháo tự lôi. Thế hữu thi thư hà sở dụng, Thiên sinh thuỷ hoả các vi tài. Độc cùng ngũ đại doanh hoàn ký, Thuỷ tín hàn tuyền hữu kiếp hôi.
Dịch nghĩa
Cơn gió đã đem bụi nhơ từ đâu đến Ánh mặt trời, bóng ngựa câu cứ thi nhau chạy hoài Khói tuôn trên mặt sông, thuyền nhanh như chớp Đá lở trên sườn núi, tiếng súng nổ như sấm Đời có thi thư, không dùng làm gì cả Trời sinh ra nước, lửa đều được người ta sử dụng Có đọc hết các sách trên thế giới nói về vũ trụ Thì mới tin rằng ở dưới suối lạng cũng gặp vận kiếp hôi
Ngô niên lục thập lục chi niên, Tuế nguyệt xâm tầm diệc khả liên. Sơ khoát xỉ nha như nhị giáp, Bồng tùng mao phát diệc canh phiên. Tam triêu tịch hậu tửu tương khánh, Vạn lục tùng trung hoa dục nhiên. Lão bệnh cận lai ngâm hứng thiểu, Xuân hàn vô sự bão lô miên.
Dịch nghĩa
Tuổi ta là tuổi sáu mươi sáu Năm tháng mỏi mòn thật là đáng thương Răng lợi khủng khỉnh như hai phe giáp Đầu tóc bù xù cũng đã đổi thay Sau tối mồng một Tết, rượu hầu đã cạn Trong muôn bụi cây xanh, hoa cũng muốn tàn Gần đây già ốm hứng thơ giảm sút Tiết xuân giá lạnh không có việc gì, ôm lò sưởi đánh giấc
Môn ngoại phương đường nhất mẫu dư, Niên niên bất súc tự đa ngư. Phú nhân chủ chi thập thiên lợi, Bần nhân cô chi vô nhất như. Mễ quý dĩ nan phu khẩu thực, Ba thâm hựu trị tác lâm sơ. An tri bần phú phi do mệnh, Kiệt lực đương vi mạc hận cừ.
Dịch nghĩa
Cái ao vuông ngoài cửa rộng hơn một mẫu, Hàng năm không nuôi mà cá vẫn nhiều. Người giàu làm chủ ao ấy thu lợi hàng mười nghìn, Người nghèo mua lại ao ấy, lãi không bằng một phần. Gạo đắt khó đủ cho miệng ăn, Nước sâu lại gặp hồi mưa dầm. Biết đâu giàu nghèo không phải là do số mệnh, Thôi thì cứ hết sức làm, chẳng nên oán hận ai chi.
Tranh chiến hà niên cục dĩ tàn, Lâu đài không tại bán sơn gian. Loa thành hưng phế cơ tiền định, Quy trảo tồn vong sự bất quan. Mai dịch khách lai phi tước hiệp, Tùng lâm vũ quá mộ nha hàn. Bá vương sự nghiệp thiên thu hậu, Yên thụ thương mang nhất Dạ san.
Dịch nghĩa
Cuộc chiến năm nào đã tàn lâu rồi Lâu đài còn trơ lại trên lưng chừng núi Sự hưng phế của Loa Thành do cơ định trước Cái móng rùa còn hay mất chẳng liên quan gì Khách qua trạm mai dịch đàn công bay Mưa tạnh rừng thông tiếng quạ kêu lạnh Sự nghiệp bá vương sau nghìn năm Chỉ thấy trên núi Dại Sơn khói cây man mác
Vạn cổ thanh sơn tại, Hà niên Dục Thuý danh. Cô thành thiên nhận lạc, Nhất tự bán giang bình. Tuệ Viễn kim hà xứ, Thăng am thượng hữu minh. Tà dương hoài cổ ý, Tam lưỡng mộ cầm thanh.
Dịch nghĩa
Non xanh có từ muôn thuở xưa, Tên Dục Thuý năm nào mới đặt? Toà thành đứng trơ vơ trên cao ngàn thước, Một ngôi chùa nhô ra giữa dòng sông. Nhà sư Tuệ Viễn nay ở đâu? Ông Thăng Phủ vẫn còn bia khắc đó. Bóng tà gợi lên những ý tình hoài cổ, Thánh thót đôi ba tiếng chim chiều.
Mộng tưởng thành vân cấm liễu trung, Ngô nhi kim hựu đáo Nam cung. Giang biên thuý sắc xuân tương mộ, Thiên thượng “Nghê thường” khúc vị chung. Tiên thổ tam niên do phục hoả, Hải bằng lục nguyệt chính bồi phong. Bệnh nhàn thời ỷ môn lư vọng, Y bát hà đương uý nãi ông.
Dịch nghĩa
Trong mộng thấy mây thành nơi đình liễu trong cung cấm, Con ta nay đã lại đến kinh đô. Bên sông xanh ngày xuân đã ngả sang chiều, Trong không gian, khúc Nghê thường chưa dứt. Đất thánh ba năm lòng còn ủ lửa, Sáu tháng chim bằng vùng vẫy cánh đang lộng gió. Đau bệnh ngày dài tựa cửa cổng làng trông ngóng, Nghiệp nhà canh cánh sao bớt được nỗi lo lắng trong lòng ông già này.
Kỳ trân sản xuất Lý Sơn châu, Cân tứ truy tuỳ nhị thập thu. Thử vật tự tòng quy ngã thủ, Nhất sinh kỳ hợp thướng nhân đầu. Hoàng trần tảo đãng quy tàn xỉ, Bạch phát bồng tùng độc ẩn ưu. Kỳ thử trinh tâm kham cộng thưởng, Hà duy văn thái tự minh châu.
Dịch nghĩa
Vật quý lạ sinh ra tù cù lao Lý Sơn Được theo liền vói khăn với trap của ta đã hai mươi năm Vật này từ lúc thuộc về tay ta Suốt đời riêng được nâng lên trên đầu người Bụi vàng quét sạch còn lại đám răng cùn Tóc bạc lồng bồng riêng những âm thầm trong dạ Chỉ kể tấm lòng bền bỉ đó đã đáng được mọi người ưa chuộng Lựa là văn vẻ tựa như viên ngọc minh châu
Vân tẩu phong phi sương mãn thiên, Quang âm tòng thử nhập tân niên. Xuân hồi cựu kính điểu tri vị, Thụ phá tân nha hoa dục nhiên. Áp muộn nhật tương thuần tửu chước, Uý hàn dạ bão hoả lô miên. Cận lai lãn hướng tây viên thướng, Cưỡng khởi phù cung khán thuỷ tiên.
Dịch nghĩa
Mây chạy gió bay sương toả đầy trời Quang cảng từ đấy bước sang năm mới Xuân về lối cũ chim đã biết chưa? Cây nẩy mầm non hoa sẽ đỏ như lửa cháy Nén buồn ngày đem rượu ngọt ra uống Sợ lạnh ban đêm ôm lồng ấp mà nằm Gần đây lười không ra thăm vườn tây Nay gượng đứng dậy chống gậy ra đó mà xem hoa thuỷ tiên
Yên thâm lộ trọng thụ vô phong, Hà xứ thiền quan tống hiểu chung. Dư hưởng dao truyền vân đống ngoại, Hàn thanh bán trệ tuyết hoa trung. Thú lâu điêu đẩu tam canh tĩnh, Tử mạch trần ai nhất điểm không. Giá lý tinh tinh hoàn vấn chủ, Nan tương để ý thoại tăng ông.
Dịch nghĩa
Móc dày khói nặng hàng cây lặng như tờ Chùa Giác đâu đây đưa hồi chuông sớm đến Xa xa nghe tiếng vọng từ bên kia đỉnh nóc sát mây Lạnh lẽo từng hồi một nửa đọng trong hoa tuyết Trên chòi canh nửa đêm tiếng điêu đẩu đã im bặt Nơi dặm tía không còn một hạt bụi bay Đến đây lòng kính cẩn vẫn muốn hỏi ai là chủ Niềm tâm sự khôn đem bày tỏ với sư ông
Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi
Mời bạn thưởng thức thêm chùm Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi hay và đặc sắc dưới đây:
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình Qui tứ dao dao nhật tự tinh Kỉ thác mộng hồn tầm cố lí Không tương huyết lệ tẩy tiên oanh Binh dư cân phủ ta nan cấm Khách lí giang sơn chỉ thử tình Uất uất thốn hoài vô nại xứ Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh
Dịch nghĩa
Mười năm phiêu diêu than phận bồng bèo Lòng muốn về ngày ngày vẫy như đuôi cờ Bao lần nhờ hồn mộng đi tìm quê cũ Mong đem huyết lệ rửa mộ tổ tiên Sau cơn binh lửa, búa rìu khôn cấm nổi Non sông đất khách, chỉ có tình này Tấc lòng bùi ngùi chẳng biết làm sao Nằm ở cửa sổ thuyền, trở gối đến sáng
Trầm ngâm phòng vắng tỉnh mơ màng, Khách sạch lòng, hương cũng lụi tàn Phẳng lặng đất trời ghê vạn biến An nhàn ngày tháng đáng nghìn vàng Thói nho lạnh lẽo, tình đời bạc Cõi thánh thong dong, ý đạo sang Đọc sách hết chồng nay rỗi việc Bên song mai cội gảy đàn vang
Bần, bệnh dư liên nhữ, Sơ cuồng, nhữ tự dư. Ðồng vi thiên lý khách, Câu độc sổ hàng thư. Hồ lạc tri hà dụng, Thê trì lượng hữu dư. Tha niên Nhị (Nhuỵ) Khê ước, Ðoản lạp hạ xuân sừ.
Dịch nghĩa
Tôi thương anh nghèo mà có bệnh, Và anh cũng giống tôi tính ngang tàng. Cũng là khách ngàn dặm như nhau, Và cũng đã từng đọc mấy hàng chữ sách. Hai ta như quả bầu rỗng biết làm được gì đây Nhưng rong chơi thì lại có thừa Chúng ta đã hẹn nhau nơi Nhị Khê này, Cùng đội nón cùng bừa buổi xuân sang.
Lam Sơn tự tích ngoạ thần long Thế sự huyền tri tại chưởng trung Ðại nhiệm hữu quy thiên khải thánh Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ Kim quỹ chung tàng vạn thế công Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu Thế gian na cánh sổ anh hùng.
Dịch nghĩa
Từ xưa khi rồng thiêng còn nằm ở Lam Sơn Mà việc đời huyền nhiệm đã biết rõ ở trong lòng bàn tay Khi gánh nặng trao về một người thì trời báo cho thánh nhân biết Khi đời thịnh được gặp thì hổ sinh ra gió Đã rửa sạch nỗi nhục ngàn năm của thù nước Cuối cùng đã cất giữ cái công muôn thuở trong rương vàng Từ nay việc chỉnh đốn đất trời đã xong Trên đời rút cuộc có được mấy người anh hùng như thế?
Cảng khẩu thính triều tạm hệ đao, Am am cách ngạn hưởng bồ lao. Thuyền song khách dạ tam canh vũ, Hải khúc thu phong thập trượng đào. Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn, Mộng trung phù tục sự kham phao. Nhất sinh khí tập hồn như tạc, Bất vị ky sầu tổn cựu hào.
Dịch nghĩa
Đến cửa khẩu nghe thấy triều tạm buộc thuyền con Văng vẳng bên kia bờ nghe tiếng chuông Bên cửa thuyền khách mưa rơi suốt ba canh Trong vịnh biển gió thu thổi dâng sóng lên cao mười trượng Danh hảo bỏ ra ngoài, thân này cũng là ảo Đời phù dung tục luỵ trong giấc mộng đáng bỏ đi Một đời vẫn giữ quen cái nết ngày trước Chẳng phải vì mối sầu xa quê hương mà giảm chí khí cũ.
Nhất biệt giang hồ sổ thập niên, Hải môn kim nhật hệ ngâm thuyền. Ba tâm hạo diểu thương châu nguyệt Thụ ảnh sâm si phố tự yên. Vãng sự nan tầm thời dị quá. Quốc ân vị báo lão kham liên. Bình sinh độc bão tiên ưu niệm, Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên.
Dịch nghĩa
Từ ra đi lưu lạc giang hồ đã mấy mươi năm, Tối nay buộc thuyền thơ nơi cửa biển. Đáy nước mênh mang, trăng chiếu trên bãi lạnh, Hình dáng cây cối lô nhô, khói phủ trên bến. Khó tìm nhớ lại việc xưa, thời gian trôi quá dễ, Tự thương xót mình đã già mà ơn nước chưa đền. Bình sinh một mình ôm cái chí lo truớc hưởng sau, Ngồi cuốn chăn lạnh thức suốt đêm.
Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy, Long Đại kim quan thạch quật kỳ. Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động, Kình du tắc hải, hải vi trì. Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão, Thế thượng anh hùng thử nhất thì. Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn, Thanh đài bán thực bích gian thi.
Dịch nghĩa
Năm trước ta đã từng xem hang cọp Nay lại đến xem động Long Đại, một động núi lạ Con ngao đội núi lên thành động Cá kình bơi lấp biển thành ao Trong bầu nhật nguyệt trời khó già Anh hùng trên đời thì chỉ là một thuở Nếp sống phong lưu của hai họ Lê và Phạm than ôi cũng xa dần Thơ trên vách đá cũng đã bị rêu xanh gấm nhậm rồi.
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền, Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên. Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ, Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên. Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật, Anh hùng di hận kỷ thiên niên. Kiền khôn kim cổ vô cùng y, Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.
Dịch nghĩa
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển, Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong toả như thế. Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước, Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời. Hoạ phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày, Anh hùng để lại mối hận nghìn năm. Xưa nay ý trời đất thì vô cùng tận, Lui về chốn cây cỏ mây trời ở đất Thương Lang xa xôi.
Vọng Doanh đầu mộ hệ ngâm thuyền, Thi cảnh liêu nhân vãn hứng khiên. Dục Thuý vũ tình phong tự ngọc, Đại An triều trướng thuỷ như thiên. Y y viễn thụ thanh yên lý, Diểu diểu bình sa bạch điểu tiền. Tam thập niên tiền hồ hải thú, Tư du kỳ tuyệt thắng Tô tiên.
Dịch nghĩa Đầu buổi chiều đến Vọng Doanh buộc thuyền thơ Cảnh nên thơ trêu ghẹo và lôi kéo cảm hứng con người vào buổi chiều Mưa tạnh núi Dục Thuý biếc như màu ngọc Cảnh Đại An nước triều lên hoà với trời Lờ mờ rặng cây, xa trong làn khói xanh Bãi sông bát ngát bằng phẳng trước bầy chim trắng Thú hồ hải ba mươi năm về trước Tô tiên (Tô Đông Pha) cũng phải chịu thua cuộc chơi tuyệt vời này.
Hải khẩu hữu tiên san, Niên tiền lũ vãng hoàn. Liên hoa phù thuỷ thượng, Tiên cảnh truỵ nhân gian. Tháp ảnh, trâm thanh ngọc, Ba quang kính thuý hoàn. Hữu hoài Trương Thiếu Bảo, Bi khắc tiển hoa ban.
Dịch nghĩa
Gần cửa biển có núi tiên, Năm xưa thường đi về. Hoa sen nổi trên mặt nước, Ðúng là cảnh tiên nơi cõi trần. Bóng tháp như cài trâm ngọc xanh, Ánh sáng trên sóng soi mái tóc biết, Chạnh nhớ quan Trương Thiếu Bảo, Tấm bia đá nói về ông đã lốm đốm rêu phong.
Lộ nhập Vân Đồn sơn phục sơn, Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan. Nhất bàn lam bích trừng minh kính, Vạn hộc nha thanh đỏa thuý hoàn. Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc, Phong ba bất động thiết tâm can. Vọng trung ngạn thảo thê thê lục, Đạo thị phiên nhân trú bạc loan.
Dịch nghĩa
Đường vào Vân Đồn núi non trùng điệp Trời đất cao rộng rõ là cảnh diệu kỳ Cả một mặt phẳng màu xanh biếc, nước trong như gương sáng Hàng vạn ô màu huyền xanh như mái tóc rũ Vũ trụ bỗng thể hiện rõ ràng qua dáng núi và biển Sóng gió chẳng lay chuyển được tâm can vững chắc Nhìn vào thấy bờ cỏ màu lục xanh dờn Thấy nói người thiểu số xưa từng đỗ thuyền trong vịnh.
靖安晚立 – Tĩnh Yên vãn lập
淡煙疏雨晚摸糊, 水色天光半有無。 萬古乾坤清景致, 海山為我出新圖。
Phiên âm Hán Việt
Đạm yên sơ vũ vãn mô hồ, Thuỷ sắc thiên quang bán hữu vô. Vạn cổ càn khôn thanh cảnh trí, Hải sơn vị ngã xuất tân đồ.
Dịch nghĩa
Khói thoảng, mưa thưa cảnh chiều mơ hồ, Sắc nước, ánh trời nửa như có, nửa như không. Cảnh trí thanh tú đất trời muôn thuở, Biển và núi đã vì ta mà vẽ nên một bức tranh mới.
Phù tục thăng trầm ngũ thập niên, Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên. Hư danh thực họa thù kham tiếu, Chúng báng cô trung tuyệt khả liên. Số hữu nan đào tri thị mệnh, Văn như vị táng dã quan thiên. Ngục trung độc bối không tao nhục, Kim khuyết hà do đạt thốn tiên.
Dịch nghĩa
Nổi chìm trong cảnh phù tục đã năm mươi năm Đành phụ với khe đá núi cũ Danh hư mà họa thực, thật đáng buồn cười Chúng nhạo kẻ trung thành đơn độc thật đáng thương hại Khó chạy khỏi số trời, biết là có mạng Nền văn cũng chưa mai một nhờ trời Trong ngục xem lưng tờ giấy, thật là nhục nhã Làm sao đạt được tờ giấy (khiếu oan) đến cửa khuyết vàng (cung vua)?
Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh, Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh. Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực, Trước cước trào vô quyển địa thanh. Vạn lý Đông minh quy bả ác, Ức niên Nam cực điện long bình. Ngã kim dục triển phù nguy lực, Vãn khước quan hà cựu đế thành.
Dịch nghĩa
Nước biếc ngấm núi tiên trong đến đáy, Như con ngao lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra. Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời, Đặt chân xuống, sóng không có tiếng cuốn đất. Vạn dặm biển Đông quơ vào tay nắm, Ức năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình. Ta nay muốn thi thố sức phò nguy, Cứu vãn lại quan hà, thành cũ của nhà vua.
Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh, Viên hoa dã thảo cựu nham quynh. Bi văn bác lạc hoà yên bích, Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh. Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại, Hương nhân do thuyết địa anh linh. Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại? Thức đắc vô hình thắng hữu hình.
Dịch nghĩa
Sau khi loạn lạc lại tìm đến chùa Phổ Minh, Vẫn hoa vườn cỏ nội với cửa đá cũ. Văn bia mờ nhạt hoà trong làn khói biếc, Mắt Phật lạnh lùng soi thấu đêm thanh. Pháp giới phải ngang với tầm rộng lớn của trời, Người làng vẫn nói đến sự anh linh của đất. Vắng vẻ lặng lẽ, vạc xưa nay còn đâu? Thế mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình.
庭前梅 – Đình tiền mai
斜斜竹外一枝橫, 太極精花驗發生。 占得高標春【】日, 便將風味入調羹。
Phiên âm Hán Việt
Tà tà trúc ngoại nhất chi hoành, Thái cực tinh hoa nghiệm phát sinh. Chiếm đắc cao tiêu xuân […] nhật, Tiện tương phong vị nhập điều canh.
Dịch nghĩa
Ngoài khóm tre cong cong, có một cành nằm ngang, Tinh hoa trời đất chắt đọng phát sinh ra. Gặp trời Xuân chiếm được ngôi cao khác đời, Sẽ đem phong vị đưa vào việc điều canh.
冬菊 – Đông cúc
一種延年館裡栽, 晚香獨向雪中開。 莫笑爭芳時太晚, 先春肯讓一枝梅。
Phiên âm Hán Việt
Nhất chủng diên niên quán lý tài, Vãn hương độc hướng tuyết trung khai. Mạc tiếu tranh phương thời thái vãn, Tiên xuân khẳng nhượng nhất chi mai.
Dịch nghĩa
Một giống lâu năm giồng ở trong quán, Hương muộn chỉ hướng vào tuyết mới nở. Chớ cười lúc giành tiếng thơm quá muộn, Trước mùa xuân bằng lòng nhường một cành mai.
紅槿花 – Hồng cận hoa
花中幻出佛中身, 暮落朝開舊更新。 色即是空空是色, 一枝換得幾番春。
Phiên âm Hán Việt
Hoa trung huyễn xuất Phật trung thân, Mộ lạc triêu khai cựu cánh tân. Sắc tức thị không không thị sắc, Nhất chi hoán đắc kỷ phiên xuân.
Dịch nghĩa
Trong hoa huyễn ảo xuất hiện chân thân của Phật, Tối rụng, sớm nở, cũ rồi lại mới. Sắc là không và không là sắc, Một cành đắp đổi bao nhiêu lần xuân.
望潮樓 – Vọng triều lâu
數頃金江數尺梅, 滔滔逝水為誰開。 寒潮漲退今猶古, 留得人間笑白頭。
Phiên âm Hán Việt
Sổ khoảnh Kim giang sổ xích mai, Thao thao thệ thuỷ vị thuỳ khai. Hàn triều trướng thoái kim do cổ, Lưu đắc nhân gian tiếu bạch đầu.
Dịch nghĩa
Mấy khúc sông Kim bên mấy gốc mai, Nước chảy cuồn cuộn vì ai khơi nguồn. Thuỷ triều vẫn lên xuống, bây giờ cũng như ngày xưa, Chỉ lưu lại cho người đời câu cười “Sóng bạc đầu”.
優曇花 – Ưu đàm hoa
碧水池邊長綠陰, 幽林花好趁禪林。 開時不要爭春色, 只要如如見佛心。
Phiên âm Hán Việt
Bích thuỷ trì biên trưởng lục âm, U lâm hoa hảo sấn thiền lâm. Khai thì bất yếu tranh xuân sắc, Chỉ yếu như như hiện Phật tâm.
Dịch nghĩa
Bên ao nước biếc, bóng xanh tốt rậm rạp, Loại hoa rừng tối khéo đến nơi rừng thiền. Khi nở hoa không cốt để thả xuân sắc, Chỉ mong thấy được rõ ràng tâm Phật.
Hồ hải thiên chu ngư giả thuỳ, Sinh nhai nhất lạp nhất thoa y. Thuỷ thôn sa cận si vi lữ, Giang hứng thu cao lư chính phì. Đoản địch thanh phong nhàn xứ lộng, Cô phàm minh nguyệt tuý trung quy. Đào Nguyên vãng sự y nhiên tại, Tần Tấn hưng vong thị khước phi.
Thơ Chữ Hán Của Cao Bá Quát
Cuối cùng là tập Thơ Chữ Hán Của Cao Bá Quát hay nhất, cùng tham khảo ngay nhé!
昭君 – Chiêu Quân
漢朝莫殺毛延壽, 塞上胡笳只自悲。 兒女總多腸斷處, 古今終有貌來時。
Phiên âm Hán Việt
Hán triều mạc sát Mao Diên Thọ, Tái thượng Hồ già chỉ tự bi. Nhi nữ tổng đa trường đoạn xứ, Cổ kim chung hữu mạo lai thì.
Thương thương tây sơn mộ, Ế ế vạn tỉnh thu. Chúng điểu như luyến quy, Chinh nhân tri sở đầu. Nhi nữ dị vi biệt, Tương kiến đãn thuỳ đầu. Dư diệc bất tự chủ, Nhân chi sinh viễn sầu. Xuất môn đãn bằng thiếu, Trường lộ thượng du du. Nam hành giả thuỳ thị, Nhật án phục hà cầu? Bộc tử hà cúc cúc chí, Sáp giới tây thôn hưu. Tá vấn cựu kỷ cúc, Kim hữu kỷ tùng phầu?
Lập chính hoàng du hoán, Đồng dân đế trị khâm. Huyền thư tam đại chính, Khiết củ nhất nhân tâm. Cơ Tất tình kiêm hảo, Vân nghê tứ bội thâm. Du phương ca Hạ ngạn, Vọng tuế uý Thương lâm. Đường ấm tư nhân hoá, Vân sinh ngưỡng đức âm. Khoan nhân Thang chúc võng, Giải phụ Thuấn thao cầm. Giám cổ nghiêm tòng kỷ, Sừ gian tuyệt khổng nhâm. Như xuân hân thế thái, Hàm hạ tụng quân lâm.
Khinh khinh vân ám độ, Đạm đạm nguyệt vi quang. Yên tán văn cầm tĩnh, Phong điều điểu vận trường. Đình không giao phục dực, Tường ảnh vũ sơ lang. Hứng đáo vong ngôn xứ, Du nhiên hứng diệc vong.
Song mấn phiêu phiêu nhất ngụ công, Tự ca tự tiếu phụng thành đông. Tài cư cao các nghi sơ thúc, Tâm đối giao cù dục tứ thông. Thái bút truyền lai do hữu mộng, Hắc cừu tệ tận khả vô công. Hà nhân mạn nghĩ huyền hư trạch, Lão Đỗ đăng lâu hứng vị cùng.
Dịch nghĩa
Một cụ ở ngụ hai mái tóc phơ phơ, Tự hát tự cười phía đông thành phụng. Tài ở nơi gác cao nghi bắt đầu ràng buộc, Tâm so với đường nhiều ngả muốn thông suốt bốn phía. Bút màu truyền lại còn có mộng, Áo cừu màu đen rách hết khá không công. Người nào nói ẩu (đấy) là nhà rỗng tuếch, Lão Đỗ lên lầu hứng thú chưa hết.
Tây Dương thiếu phụ y như tuyết, Độc bằng lang kiên toạ thanh nguyệt. Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh, Bả duệ nam nam hướng lang thuyết. Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì, Dạ hàn vô ná hải phong xuy. Phiên thân cánh thiến lang phù khởi, Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly!
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ phương Tây áo như tuyết Tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng Kéo áo chồng thì thầm nói Tay cầm uể oải một chén sữa Đêm lạnh à đây gió biển thổi Nghiêng mình đòi chồng đỡ dậy Biết chăng có người Nam đang chịu cảnh biệt ly.
Sơn ngại thanh sơn vạn lý trình, Sơn biên dã thảo tống nhân hành. Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc, Chinh chiến không tồn nhất luỹ danh. Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ, Nam trang sơ hiểu đới tân tình, Há sơn phản giác đăng sơn khổ, Tự thán du du uỷ tục tình!
Thập cấp hành nan tận, Bằng cao vọng dục mê. Địa phân kinh dã tiểu, Thiên nhập quảng sơn đê. Khám hải phàm như diệp, Môn quan lộ tự thê. Hỉ khán thâm thụ ngoại, Bạch xứ thị thanh khê.
Dịch nghĩa
Lần theo từng bậc leo mà lên mãi không hết Từ trên cao nhìn ra xa chỉ thấy lờ mờ Đất chi kinh thành đồng nội (đất như) nhỏ lại Trời hoà vào cùng núi rộng (trời như) thấp xuống Trông xuống biển: cánh buồm như chiếc lá Lần theo cửa ải: đường đi tựa chiếc thang Thích thú ngắm nhìn mé ngoài vùng cây rậm Nơi có màu trắng kia chính là dòng suối trong
Song mấn tiêu tiêu bất tự tri, Hương thôn chỉ điểm thị quy kỳ. Mộc Miên điếm lý sương thu tảo, Thiên Mã hồ biên nhật thướng trì. Lân hữu hốt phùng kinh sác vấn, Mẫu thân sạ kiến hỷ giao bi. Bình sinh đa nạn kim trường hối, Uý hướng gia nhân ngữ biệt ly.
Bắc vọng thiên dư lý, Nam lai ngũ lục niên. Khách tâm kinh tuế nguyệt, Quy mộng trở sơn xuyên. Chẩm khúc duy tu tuý, Tư lan dã tự nghiên. Tương tỳ uổng tri thức, Tiết nhật cánh lưu liên.
Hồi phong xuy quyện chẩm, Sóc khí bội thê nhiên. Xuyết tịch giao nô phú. Phân khâm tá khách miên. Hương sầu duy phạm dạ, Thân sự dục qua niên. Mạc tác du du tưởng, Thư không tiếu vị biền.
Tiểu tiểu nhân gia tử, Song song bộ ngữ trì. Vong tình năng hữu kỷ! Ngô diệc ức ngô nhi. Luyến mẫu đề cơ xứ, Khiên ông học bái thì. Môn lan kim bán tịch, Ư nhĩ hệ tương ti.
Mặc Trì túc tích cộng đề giao, Thác lộng thương minh thập trượng đào. Kỳ ký tự quân nan phục lịch, Liêu diêu tiếu ngã vị an sào. Hoạn đồ tối thị tiên tinh thiểu, Thế lộ thành tri bất trước cao. Dục tá đại quan tiêu lữ muộn, Khước tu tuyền thạch hướng nhân trào.
偶成 – Ngẫu thành
昨夜梅花開, 山窗月皎潔。 破曉寂無聲, 知是庭前雪。
Phiên âm Hán Việt
Tạc dạ mai hoa khai, Sơn song nguyệt hiệu khiết. Phá hiểu tịch vô thanh, Tri thị đình tiền tuyết.
Dịch nghĩa
Đêm qua hoa mai nở, Qua cửa sổ trông ra núi, trăng sáng trong. Sớm tinh mơ lặng vắng không tiếng động, Biết là tuyết xuống trước sân.
寧平道中 – Ninh Bình đạo trung
江似美人青練帶, 山如醉客碧螺杯。 相看風月俱無盡, 只恐詩翁不肯回。
Phiên âm Hán Việt
Giang tự mỹ nhân thanh luyện đới, Sơn như tuý khách bích loa bôi. Tương khan phong nguyệt câu vô tận, Chỉ khủng thi ông bất khẳng hồi.
Dịch nghĩa
Sông như giải lụa xanh của cô gái đẹp, Núi như chiếc chén hình ốc biếc của khách say. Ngắm nhìn trăng và gió đều là kho vô tận, Chỉ e nhà thơ không chịu trở về.
清風店題璧 – Thanh Phong điếm đề bích
不堪重問玉人肖, 明月清風太寂寥。 衾似冷冰燈似豆, 悽情真箇可憐宵。
Phiên âm Hán Việt
Bất kham trùng vấn ngọc nhân tiêu, Minh nguyệt thanh phong thái tịch liêu. Khâm tự lãnh băng đăng tự đậu, Thê tình chân cá khả lân tiêu.
Dịch nghĩa
Không sao hỏi được tin tức người ngọc, Trăng sáng, gió trong quá vắng lặng. Chăn như băng lạnh, ánh đèn nhỏ như hạt đậu, Thật là một đêm buồn bã đáng thương.
Điều đệ sơn a thập nhất hài, Hành hành bất đoạn tứ du tai! Dã yên thuý tảo thiên phong tận, U giản thanh truyền vạn mộc lai. Điểu dục biệt nhân phi khứ chuyển, Hoa năng tống khách lạc thời khai. Thiếu niên tật tẩu chung hà sự? Uý lộ man man trước lữ hoài!
Dịch nghĩa
Mười một khúc quanh hẻm núi xa tít tắp, Đi rồi đi không ngừng nghĩ lan man. Khói xanh ngắt của đồng nội quét lên cả nghìn ngọn núi, Tiếng nước chảy của khe ẩn khuất truyền lại từ vạn cây. Chim muốn xa người vừa bay đi vừa hót, Hoa như tiễn khách, nở lúc rụng. Tuổi trẻ chạy nhanh, rốt cuộc được việc gì không? Sợ đường xa dằng dặc bám chắc nỗi niềm lữ thứ.
蠻婦行 – Man phụ hành
長棧村頭蠻小姑, 婁猪如面漆如膚。 板橋遊遍暮歸去, 笑喚新人贊故夫。
Phiên âm Hán Việt
Trường sạn thôn đầu man tiểu cô, Lũ trư như diện tất như phu. Bản kiều du biến mộ quy khứ, Tiếu hoán tân nhân tán cố phu.
Dịch nghĩa
Trên lối đi bắc cây gỗ ở đầu thôn có cô mọi nhỏ, Mặt như mặt lợn, da đen như sơn. Dạo chơi khắp cầu ván, đến chiều quay về, Cười gọi bạn mới, giới thiệu với chồng cũ.
Dạ dạ lâm thường điện, Triêu triêu hải bất minh. Xích vân đôi dã khởi, Bạch cước phạm sa hành. Vũ phiến tam phân tục, Sa sam nhất ác khinh. Canh đồng tiêu thụ để, Thời hữu giá cô thanh.
Dịch nghĩa
Đêm đêm rừng thường có ánh chớp Sớm sớm biển không reo Mây đỏ nổi đống trên đồng Chân trần lún trong cát Quạt lông ba phần tục Áo lót the nhẹ một nắm Luân phiên dưới gốc cây khô cháy Thi thoảng có tiếng chim đa đa (vang lên)
檳園雨後 – Tân viên vũ hậu
昨夜霜花似著鹽, 曉來忽作雨纖纖。 快看霰掃雲收後, 一半檳園涌玉蟾。
Phiên âm Hán Việt
Tạc dạ sương hoa tự trứ diêm, Hiểu lai hốt tác vũ tiêm tiêm. Khoái khan tản tảo vân thu hậu, Nhất bán tân viên dũng ngọc thiềm.
Dịch nghĩa
Đêm trước hạt sương tựa như muối kết tụ, Sáng ra bỗng có mưa lất phất. Vui nhìn sau khi tuyết kết mây tan, Nửa vườn cau đọng nước vũng tựa vầng trăng.
十五夜大風 – Thập ngũ dạ đại phong
一夜長風撼海臺, 順安門外浪如雷。 千秋上作周郎氣, 要打紅毛巨艦回。
Phiên âm Hán Việt
Nhất dạ trường phong hám hải đài, Thuận An môn ngoại lãng như lôi. Thiên thu thượng tác Chu lang khí, Yếu đả Hồng mao cự hạm hồi.
Dịch nghĩa
Suốt đêm gió lộng rung động toà Hải đài, Ngoài cửa Thuận An tiếng sóng gầm như sấm. Hùng khí của chàng họ Chu nghìn năm còn bốc lên, Như đánh cho tàu lớn bọn Hồng mao phải lùi trở lại.