20+ Mẫu Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Lớp 11

Trong bài viết này, Thohay.vn chia sẻ cho học sinh lớp 11 những mẫu viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện hay, xuất sắc nhất.

NỘI DUNG CHÍNH

Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Là Gì?

Nghị luận về một tác phẩm truyện là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.

Xem thêm cách 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Truyện Kể

Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Yêu Cầu Những Gì?

Những yêu cầu cụ thể khi viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện mà các em học sinh cần nắm như sau:

  • Sử dụng những lí lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung và những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm truyện.
  • Về nội dung bài viết cần nêu và nhận xét được một số nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện dựa trên những lí lẽ xác đáng và bằng chứng tiêu biểu, hợp lí được lấy từ tác phẩm.
  • Về hình thức bài viết cần đảm bảo các yêu cầu của kiểu bài nghị luận như lập luận chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc; sử dụng các phương tiện liên kết văn bản và kết hợp các thao tác lập luận hợp lí. Và đảm bảo bố cục 3 phần.

Các Chủ Đề Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Lớp 11

Khi nghị luận về một tác phẩm truyện trong chương trình Ngữ văn lớp 11, học sinh có thể tập trung những chủ đề như:

  • Chủ đề về nhân vật: Phân tích tính cách và số phận của nhân vật chính
  • Chủ đề về tư tưởng: Nêu lên chủ đề chính và thông điệp của tác phẩm
  • Chủ đề về nghệ thuật kể chuyện: Đánh giá phong cách kể chuyện và ngôn ngữ của tác giả
  • Chủ đề về tình huống xảy ra trong truyện: các yếu tố bi kịch và xung đột trong truyện
  • Chủ đề về tâm lý nhân vật: Phân tích sự phát triển và biến đổi tâm lý của nhân vật.

Hướng dẫn 👉 Viết Bài Văn Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Văn Học

Cách Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện

Tham khảo cách viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện được Thohay.vn biên soạn chi tiết sau đây để các em có thể triển nắm bắt được hướng làm bài, tránh bị lạc đề.

  • Bước 1: Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm truyện được chọn để phân tích (chú ý nêu khái quát các phương diện làm nên tính nghệ thuật của tác phẩm mà bài viết sẽ đi sâu phân tích).
  • Bước 2: Nêu được và phân tích một cách cụ thể, rõ ràng về các phương diện nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm (nghệ thuật sáng tạo tình huống, xây dựng cốt truyện, những nét đặc sắc của hình tượng người kể chuyện, cách tổ chức trần thuật, lời văn và giọng điệu,…).
  • Bước 3: Nêu nhận định, đánh giá về tác phẩm truyện dựa trên các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục với những phân tích có chiều sâu hay thể hiện góc nhìn mới mẻ.
  • Bước 4: Khẳng định giá trị của tác phẩm được chọn để phân tích.

Đọc thêm cách 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ

Dàn Ý Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện

Tiếp theo sau đây là mẫu dàn ý viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện chi tiết nhất để các em viết bài văn thêm logic.

1) Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm truyện mà em chọn.

2) Thân bài

* Luận điểm 1: Khái quát chung

– Nêu hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung khái quát của tác phẩm.

– Hoặc là nêu vị trí, dẫn dắt nội dung tác phẩm đến nội dung của đoạn trích.

* Luận điểm 2: Làm rõ vấn đề nghị luận

– Phân tích, làm sáng tỏ vấn đề nghị luận theo yêu cầu của đề. Chia vấn đề thành các luận điểm và lấy các chi tiết, hình ảnh, nhân vật để làm sáng tỏ cho luận điểm.

– Phân tích, cảm nhận, bình luận về một vấn đề trong phạm vi của một đoạn trích.

* Luận điểm 3: Đánh giá chung (bình luận)

– Đánh giá khái quát về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích hoặc của tác phẩm.

3) Kết bài: Khái quát, khẳng định vấn đề nghị luận.

Chia sẻ đến bạn những bài văn mẫu về 👉 Phân Tích Một Tác Phẩm Truyện 

Soạn Văn Bài Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện

Gợi ý soạn bài nghị luận về tác phẩm truyện với nội dung đọc văn bản (trang 61, 62, 63 SGK Ngữ văn 9 tập 2) và trả lời các câu hỏi.

a) Vấn đề nghị luận của văn bản này là gì? Hãy đặt một nhan đề thích hợp cho văn bản.

Trả lời:

  • Vấn đề nghị luận của văn bản này là những phẩm chất, đức tính đẹp đẽ đáng yêu của anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long.
  • Văn bản có thể được đặt tên Hình ảnh anh thanh niên làm công tác khí tượng trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.

b) Vấn đề nghị luận được người viết triển khai qua những luận điểm nào? Tìm những câu nêu lên hoặc cô đúc luận điểm của văn bản.

Trả lời: Tóm tắt các luận điểm của vấn đề nghị luận tìm những câu có ý nghĩa nêu lên hoặc cô đúc luận điểm của bài văn:

  • Dù được miêu tả nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp, nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa Pa” củng hiện Lên với nét caọ quý đáng khâm phục. Trong đó, anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu – nhân vật chinh của tác phẩm đã để Lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ. (Các câu nêu vân đề nghị luận).
  • Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình. (Câu nêu luận điểm).
  • Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, ở sự quan tâm đến người khác một cách chu đáọ. (Câu nêu luận điểm)
  • Công việc vất vả, có những đóng góp quan trọng cho đất nước như thế nhưng người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. (Câu nêu luân điểm)
  • Cuộc sống của chúng ta… thật đáng tin yêu. (Đoạn cuối bài – những câu cô đúc vấn đề nghị luận).

c) Để khẳng định các luận điểm, người viết đã lập luận (dẫn dắt, phân tích, chứng minh) như thế nào? Nhận xét về những luận cứ được người viết đưa ra để làm sáng tỏ cho từng luận điểm. (Gợi ý: Những luận cứ đó được lấy ở đâu, gồm những điều gì?)

Trả lời: Để khẳng định các luận điểm, người viết đã lập luận (dẫn dắt, phân tích, chứng minh) một cách đầy thuyết phục.

  • Các luận điểm của người viết nêu lên rõ ràng ngắn gọn tạo được ấn tượng ở người đọc.
  • Từng luận điểm đã phân tích chứng minh rõ ràng, với những dẫn chứng cụ thể. Các luận cứ đều xác đáng sinh động vì đó là những chi tiết, hình ảnh đặc sắc của tác phẩm.
  • Bài văn cũng đã được người viết dẫn dắt tự nhiên với bố cục chặt chẽ. Tự đặt vấn đề rồi phân tích diễn giải, rồi sau đó khẳng định, nâng cao vấn đề cần nghị luận.

Xem thêm mẫu 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Vấn Đề Xã Hội

20+ Mẫu Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Lớp 11 Ngắn Hay

Hi vọng với những mẫu văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện hay nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh lớp 11 học hỏi và rèn luyện thêm cho mình kĩ năng viết hay hơn.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Ngắn – Lão Hạc

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật “để đời” của Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng.

Lão sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- “cao su đi dễ khó về”. Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn lân hồi, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.

Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần “những công việc nặng không làm được nữa”, việc nhẹ thì “đàn bà tranh hết”. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần. “Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói gieo đói dắt. Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.

Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con chó vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: “Cho lão chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con mình cũng đói”.

Còn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm khoái chí khi thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc “đói quá hóa liều” cũng quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu”. Ngay đến ông giáo tuy hiểu lão Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.

Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư. Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức hiếm có.

Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu khổ, chịu đói và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn để cưới vợ cũng là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha.

Thực ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn nhà – một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già. Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó vàng, mảnh vườn, lão không dám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà người làm cha phải để lại cho con. Nếu không, không phải “đạo”.

Đã bao lần lão tính tiền bòn vườn sủa con, “không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!… Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn”. Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai, ăn củ chuối, củ ráy… chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con.

Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ. Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. Ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì có vẻ tiều tụy và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó vàng mà lão gọi là “cậu vàng” như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự.

Cứ xem cái cách lão nựng con chó: “À không! À không! Cậu vàng của ông ngoan lắm! ông không cho giết… ông để cậu vàng ông nuôi”…, hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. “Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít”, đủ thấy lão thương xót con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.

Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế, lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn “kiếp người như lão cũng khổ như kiếp chó” đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè tươi, lão đã từ chối.

Lão dứt khoát “từ chối tất cả”. Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng muốn ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần. Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người.

Gần đây người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao – phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kĩ về nhân vật của mình, ông nói: “Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất”. Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân.

Ta còn thấy rằng những phẩm chất ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Hạc đã để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh nào cũng phải giữ danh hiệu con người cao quý.

Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi dập, đày đọa những con người như lão Hạc.

Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!”. Nhưng thực ra sống làm người, có những điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.

Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời “chưa hẳn đã đáng buồn”.

Xem thêm nội dung chính truyện 👉 Lão Hạc Của Nam Cao

Văn Mẫu Nghị Luận Về Tác Phẩm Truyện Hoặc Đoạn Trích Tiêu Biểu – Tấm Lòng Người Mẹ

Tiểu thuyết Những người khốn khổ của Victor Hugo đã trở thành một tác phẩm văn học kinh điển, đưa người đọc đến với câu chuyện về tình yêu, sự hy sinh và nhân đạo trong xã hội Pháp thời đó. Trong tác phẩm này, đoạn trích Tấm lòng người mẹ tạo nên một hình ảnh đậm tình mẫu tử của nhân vật Phăng-tin, người mẹ không ngại hy sinh tất cả để tìm hạnh phúc cho con mình.

Đầu tiên, tác giả sử dụng góc nhìn thứ ba để khắc họa hoàn cảnh đáng thương của Phăng-tin. Cô đã trải qua nghèo đói và còn phải đối mặt với sự khắc nghiệt khi bị đuổi khỏi nơi làm việc vào một ngày đông lạnh. Cô luôn sống trong tình trạng cô đơn, một cảm giác u ám giống như màn đêm không một chút ánh sáng. Cảnh tượng này thể hiện cuộc sống khắc nghiệt và tăm tối của những người nghèo khổ, khi mọi thứ xung quanh trở nên u ám trong mắt họ.

Để kiếm sống, Phăng-tin đã phải gửi con gái của mình vào nhà trọ. Tuy nhiên, cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi cô đã gửi sai địa chỉ. Cô phải đối mặt với áp lực từ những bức thư thúc giục cô gửi tiền về cho con gái của đôi vợ chồng chủ trọ. Mặc dù cô đã hy sinh mái tóc quý giá, nhưng không có gì quý giá hơn con của cô. Phăng-tin đã cắt mái tóc của mình để có tiền để mua quần áo cho con. Hình ảnh bức thư cô cầm trên tay “đến nhàu nát” thực sự biểu hiện tâm trạng đau khổ và lo lắng của cô. Tình yêu mẹ con thể hiện qua hành động hy sinh và không biết mệt mỏi của Phăng-tin.

Mặc dù cuộc đời đối xử tàn nhẫn với cô, cảm giác của Phăng-tin không phải là sự đau đớn hay thù hận, mà là tình yêu và hy vọng. Cô nghĩ về tương lai, về ngày con gái của cô sẽ trở về bên mình khi cô trở nên giàu có. Trong tâm trí cô, hình ảnh của đứa con ngây thơ và trong sáng là ngọn lửa sáng chói, tạo nên niềm tin và mong đợi trong cuộc sống của cô.

Dù cuộc đời có đẩy cô vào những cơn hoảng loạn và khó khăn, tình yêu của một người mẹ vẫn cháy bùng trong tâm hồn cô.Khi nhận được thư từ đôi vợ chồng chủ trọ nói rằng Cosette đang bị ốm và cần một số tiền lớn để điều trị, cô đã đạt đến đỉnh điểm của sự tuyệt vọng. Cô chạy ra đường với nụ cười trên môi, nhưng nụ cười đó chứa đựng một biển sâu nước mắt, nước mắt của một người mẹ. Cô đau xót khi phải hy sinh bản thân để cứu con, chị đã sẵn sàng nhổ hai chiếc răng cửa của mình để có tiền để gửi về cho con.

Tác giả Victor Hugo đã khéo léo tạo nên hình ảnh đời sống khốn khó của Phăng-tin để tác động đến tâm trí của độc giả, gợi lên sự đồng cảm và sự nhìn nhận lại những điều quan trọng trong cuộc sống. Thông qua nhân vật Phăng-tin, chúng ta được nhìn thấy tình mẫu tử thiêng liêng và những hy sinh vô điều kiện của người mẹ.

Đoạn trích Tấm lòng người mẹ phản ánh một cách chân thực quan điểm đau lòng và phẫn nộ về sự bất công và oan trái trong xã hội Pháp thời đó. Tác giả truyền tải khát vọng về một cuộc sống hòa bình, công bằng và nhân đạo trong xã hội. Tấm lòng mẹ hiếu thảo và hy sinh vì tình yêu thương đã làm nổi bật nhân văn và ý nghĩa của tình mẫu tử trong tác phẩm này.

Tấm lòng người mẹ không chỉ thể hiện tình yêu thương vô điều kiện của một người mẹ, mà còn là một thông điệp sâu sắc về lòng nhân ái và sự hy sinh cho người thân yêu. Tác phẩm này khắc họa một cách chân thực cuộc sống khó khăn và nghịch cảnh mà nhiều người phải đối mặt. Đồng thời, nó cũng là một lời kêu gọi xã hội có thể đối xử nhẹ nhàng hơn với những người phụ nữ và trân trọng những người sinh thành.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Hay – Lặng Lẽ Sa Pa

“Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của chuyến đi thực tế lên Lào Cai của Nguyễn Thành Long. Đó là một câu chuyện nhẹ nhàng, tình cảm về cuộc sống của anh thanh niên làm nghề khí tượng thủy văn ở Sa Pa. Với ngòi bút tinh tế, trữ tình đầy cuốn hút, tác giả đã khéo léo dẫn dụ người đọc lạc vào xứ sở sương mù Sa Pa. Hình ảnh anh thanh niên có thể xem là hình ảnh nổi bật, neo giữ lại trong lòng người đọc nhiều tình cảm về những người đang lặng thầm cống hiến cho đất nước.

“Lặng lẽ Sa Pa” được kể với nhịp kể đều đều, không gấp gáp như chính mảnh đất nơi đây. Truyện kể về cuộc sống rất đỗi bình lặng, giản dị của anh thanh niên làm nghề đo gió, đo mưa, đo nhiệt độ, quanh năm làm bạn với mây trời hiu quạnh và cô độc.

Nhưng cuộc sống này không hề khiến anh thấy nhàm chán mà ngược lại anh luôn sống hết mình, làm việc hết mình. Đây là điều mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc qua từng trang viết. Công việc của anh rất gian khổ nhưng ai hỏi anh cũng bảo không sao, anh quen rồi. Sự kiên trì, nhẫn nhịn để cống hiến là đức tính của một người thanh niên cần phải có. Và anh đã khiến người đọc khâm phục vì đức tính này.

Anh lặng lẽ kể cho ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ về cuộc sống hằng ngày của mình. Qua lời kể chúng ta thấy sự gian khổ, vất vả, nhọc nhằn “gian khổ nhất là phải ghi và báo lúc một giờ sáng, ở đây nhiều khi còn có tuyết nữa”, nhưng lại được kể với giọng điệu vui tươi và say mê. Anh sống và cống hiến hết mình cho đất nước, không ngại khó, ngại khổ. Có một điều chắc chắn người đọc sẽ ngạc nhiên và khâm phục khi anh thanh niên kể: “Công việc vất vả là vậy nhưng khi cất nó cháu buồn lắm”. Một sự chia sẻ chân thành và đầy ý nghĩa, cả cuộc đời anh gắn bó với công việc này, cả cuộc đời anh xem nó như lẽ sống, bởi vậy dù khó khăn nhưng xa thì sẽ nhớ và buồn biết bao.

Có lẽ không phải vô tình mà Nguyễn Thành Long không đặt tên cho nhân vật của mình, chắc chắn rằng đó là dụng ý nghệ thuật. Ông chỉ gọi là “anh thanh niên” gần gũi nhưng thân mật như vậy. Bởi cuộc đời, bởi công việc, bởi lý tưởng của anh luôn bình lặng đến như vậy. Ông đã tạo nên phong thái riêng cho nhân vật của mình. “Anh thanh niên” tạo cho mình một cuộc sống hòa nhập với thiên nhiên và nhờ có nó để sống và cống hiến: “Trước vườn anh trồng rất nhiều loại hoa đủ màu sắc, anh còn nuôi gà đẻ trứng ăn mãi không hết…”. Một cuộc sống bình dị, chân chất đến nhường nào. Cuộc sống ấy đã phần nào nói lên cuộc đời thầm lặng, không ganh đua với ai.

Dù sống một mình nhưng cuộc sống của anh không cô độc như người ta vẫn nghĩ, anh “thèm người”, bởi vậy nên anh rất hiếu khách, nói chuyện với họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ một cách say sưa. Đây là một đức tính không phải ai cũng có được. Anh mừng rỡ khôn xiết khi có người lên thăm, niềm vui ấy dù nhỏ nhưng với anh thật lớn lao và cao đẹp biết bao.

Qua ngòi bút của Nguyễn Thành Long, anh còn là một người rất tâm lý khi tặng hoa cho người con gái lần đầu tiên mà anh quen, trà cho họa sĩ già. Một con người như vậy sống giữa núi rừng bao la, hiểm trở thật khiến người khác ngưỡng mộ.

Với câu từ đẹp đẽ, nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng và tình cảm tha thiết, Nguyễn Thành Long đã vẽ nên một cuộc sống bình lặng nhưng đẹp tuyệt vời về anh thanh niên. Đó là người sống và cống hiến không ngừng cho đất nước. Hình ảnh nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ và bài học làm người cho thế hệ trẻ.

Đừng bỏ qua tác phẩm 👉 Lặng Lẽ Sa Pa

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Nổi Tiếng – Làng

Trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm để cứu nước, có biết bao những con người thể hiện được tình yêu của mình tới đất nước. Bằng rất nhiều cách khác nhau, họ đã thực hiện bằng những hành động và lời nói.

Qua những tác phẩm của những nhà văn thời kì này, tình cảm của người dân dành cho kháng chiến, dành cho cách mạng được miêu tả một cách chi tiết, giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về tấm lòng và tình cảm của người dân lúc ấy. Và trong tác phẩm Làng của Kim Lân đã cho chúng ta thấy điều đó. Câu chuyện kể về nhân vật ông Hai cùng tình yêu làng của ông qua rất nhiều tình huống khác nhau đã được bộc lộ rõ.

Ông Hai là một người luôn yêu làng của ông. Làng của ông là ngôi làng chợ Dầu nổi tiếng khắp cả vùng đất Kinh bắc. Những tình cảm của ông được thể hiện qua việc ông luôn khoe với mọi người về làng của mình. Làng của ông giàu có, sầm uất ra sao, có rất nhiều nhà ngói, đường đi được lát toàn đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng về cuối làng không bị ướt…

Trong lòng của ông, không gì có thể so sánh được với làng của ông. Làng của ông luôn đứng đầu tiên trong trái tim của ông. Do đó, ông luôn tự hào về làng chợ Dầu của mình. Ông đi khoe với tất cả mọi người về làng của mình. Đây là thời kì trước khi kháng chiến cứu nước xảy ra. Khi đó, những gì mà ông có thể làm chính là tự hào về ngôi làng của mình.

Sau đó, tới thời kì toàn quốc kháng chiến cứu nước, ông không còn khoe làng của mình giàu có nữa mà ông tự hào về hình ảnh của làng ông với những hào giao thông chằng chịt, những cụ già râu tóc bạc phơ nhưng vẫn ngày ngày vác súng tập luyện bước đi “ một hai một hai” với khí thế vô cùng hiên ngang, mạnh mẽ.

Là ngôi làng có chòi phát thanh cao nhất cả vùng. Những gì mà ông nhớ về làng chính là những điều mà làng của ông đã và đang phục vụ cho kháng chiến. Cũng chính bởi như vậy mà những người ở bên cạnh ai ai cũng mừng cho ông, cũng cảm thấy vui vì có những làng chợ Dầu như nhà ông.

Thế nhưng mọi thứ thay đổi khi có tin làng chợ Dầu của ông theo địch. Tưởng chừng như đó là thông tin sét đánh ngang tai đối với ông Hai. Ông không biết phải làm như thế nào cả bởi mọi thứ đã vượt quá sức tưởng tượng của ông. Nếu như trước kia, ông tự hào vì làng theo kháng chiến bao nhiêu thì nay, ông lại nhục nhã bấy nhiêu.

Những cảm xúc của ông Hai được tác giả Kim Lân thể hiện rất rõ qua những chi tiết miêu tả tâm trạng “ cổ ông nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tưởng như không thở được…”. Cảm xúc của ông thể hiện một cách mãnh liệt. Những gì mà ông nghe được tưởng như là điều không thể tưởng tượng được. Ông cảm thấy vô cùng xấu hổ và nhục nhã, không biết phải làm điều gì tiếp theo.

Thậm chí, ông còn không dám đi ra ngoài đường vì sợ người ta bàn tán, xì xào sau lưng ông. Và cuối cùng, những gì mà ông lo lắng đã tới. Bà chủ nhà nghe tin đã không cho gia đình ông được ở lâu dài. Họ chỉ cho gia đình ông ở hết tháng này, tới tháng sau phải chuyển đi chỗ khác. Đau khổ là thế, tuyệt vọng là thế, nhưng ông Hai lại chẳng thể tâm sự cùng bất kì một người nào cả.

Những nỗi niềm ấy chỉ có thể nuốt trọn vào trong, có những lúc, ông lại nói chuyện cùng với đứa con gái nhỏ của mình. Lo lắng cho tương lai không biết đi đâu tiếp theo, có những lúc ông vừa chớm suy nghĩ “ hay là quay trở về làng” thì ngay lập tức ông lại phủ định suy nghĩ đó “ làng thì yêu thật, nhưng làng đã theo Tây thì phải thù”.

Chỉ với chi tiết nhỏ đã thể hiện được tình yêu nước mãnh liệt của ông Hai dành cho Tổ quốc. Cuối cùng, mọi chuyện chỉ được tháo bỏ hiểu lầm khi có tin làng chợ Dầu của ông Hai không hề theo giặc, thậm chí cả làng còn bị bọn chúng đốt sạch, không còn lại gì cả. Ông Hai cảm thấy hạnh phúc như cởi hết được những nỗi lòng của mình.

Ông đi khoe với tất cả mọi người về cái tin làng chợ Dầu bị giặt đốt với tất cả những nhiệt huyết của mình như để cho tất cả mọi người cùng biết. Ai ai cũng mừng cho ông vì đã có được những tình cảm như vậy. Lòng nghi ngờ không còn nữa, cuộc sống của ông Hai đã trở về như cũ, mọi thứ lại tiếp tục theo đúng những guồng quay của nó.

Đọc tác phẩm, chúng ta càng thấm thía những tình cảm của những người như ông Hai nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung dành cho kháng chiến, dành cho đất nước. Những tình cảm ấy đã góp phần không nhỏ vào những chiến thắng của quân và dân ta giúp đất nước thoát khỏi chiến tranh.

Chia sẻ cho bạn đọc 💚 Làng [Kim Lân] 💚

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Hay Đặc Sắc – Muối Của Rừng

Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn mang đến những làn sóng mới trên văn đàn Việt Nam với những thể văn đa dạng và cách viết mang tính “không trùng lặp”. Trong “Muối của rừng”, Nguyễn Huy Thiệp đã đào sâu mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người. Tác phẩm đã gửi đến người đọc những hồi chuông cảnh tỉnh về giá trị chân chính của thiên nhiên – đánh thức nhân tính con người. Vậy mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên là gì, tại sao cần giữ gìn mối quan hệ ấy và chúng ta cần làm gì?

Trước hết, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên là mối quan hệ bền chắc, không thể tách rời, nó tồn tại đời đời kiếp kiếp, không thể tách rời, thiên nhiên và con người tồn tại song hành và tương trợ lẫn nhau. Con người vẫn tồn tại được trong một thời gian nhất định nếu bị tách rời môi trường xã hội nhưng con người không thể sống nếu thiếu không khí để thở, nước để uống, thức ăn, không thể sản xuất nếu thiếu đất, nước, ánh sáng…

.Con người được sinh ra từ thiên nhiên, thiên nhiên quyết định cuộc sống của con người và con người quyết định số phận của thiên nhiên. Con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của tài nguyên và môi trường. Vì con người tồn tại được là cần có các tài nguyên của môi trường cung cấp; bên cạnh đó con người trong hoạt động của mình có tác động mạnh mẽ trở lại và làm thay đổi môi trường.

Tuy nhiên trong mối quan hệ ấy, thiên nhiên mang đến cho chúng ta bao nhiêu là lợi ích. Thế nhưng con người chúng ta lại không biết tôn trọng, bảo vệ và giữ gìn chúng. Chúng ta khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách vô tội vạ. Chúng ta làm ô nhiễm tài nguyên nước cũng như không khí bằng các chất thải độc hại từ các nhà máy, xí nghiệp, các phương tiện giao thông thường ngày.

Tất cả các khu rừng đều bị chúng ta tàn phá, chúng ta đốt rừng, chặt phá cây cối để tìm kiếm lợi nhuận riêng cho chính bản thân mình mà không nghĩ đến người khác. Những nguồn lợi từ thiên nhiên mang đến cho cuộc sống chúng ta tưởng chừng như vô tận, nhưng nếu chúng ta không biết bảo tồn và gìn giữ sẽ dẫn đến việc tài nguyên bị cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm sẽ làm thủng tầng ozon, trái đất bị nóng lên cũng như nguy cơ hạn hán, lũ lụt càng nhiều.

Chính chúng ta đã góp phần tạo nên những tác động nguy hại đến đời sống của bản thân chúng ta. Thiên nhiên có vai trò rất quan trọng đối với tất cả con người cũng như tất cả những sinh vật sống trên trái đất. Chính vì thế chúng ta phải biết khai thác, sử dụng hợp lí cũng như bảo tồn, giữ gìn thiên nhiên để thiên nhiên trở thành một trong những tài sản quý giá nhất của con người chúng ta.

Thông qua các phương tiện truyền thông đã giúp cho chúng ta có nhiều thông tin về hiện trạng môi trường thiên nhiên ngày càng ô nhiễm, vỏ trái đất đang nóng dần lên, thiên tai nhiều hơn, nhân loại đang phải đối mặt với sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Sự thay đổi của môi trường thiên nhiên ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của con người, dịch bệnh ngày càng nhiều hơn. Đời sống con người đang xa dần với môi trường thiên nhiên do chịu ảnh hưởng của hiện trạng đô thị hóa của xã hội.

Đứng trước những thực trạng tiêu cực ấy, mỗi người chúng ta cần có nhận thức đúng đắn hơn về tầm quan trọng của môi trường đối với đời sống của con người. Mỗi người chúng ta hãy cùng chung tay bảo vệ môi trường và với các hoạt động trong và ngoài nước về bảo vệ môi trường. Việc cải thiện môi trường là một quá trình và cần có thời gian, chính vì vậy mỗi người chúng ta cần chọn cho mình một giải pháp chăm sóc sức khỏe cho mình và gia đình với tình trạng môi trường hiện nay.

Như vậy, “Muối của rừng” là một tác phẩm hoàn hảo để con người nhận thức lại vị thế của mình trên bàn cân: con người – thiên nhiên. Tác phẩm đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về giá trị chân chính của thiên nhiên – đánh thức nhân tính. Một tác phẩm nhắn nhủ con người phải luôn bảo vệ, nâng niu, che chở cho thiên nhiên.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Ngắn Gọn – Chiều Sương

Bùi Hiển là nhà văn nổi tiếng ở vùng đất nắng gió Nghệ An. Trước và sau giai đoạn năm 1945, ông là nhà văn có sự sáng tạo phong phú, luôn bền bỉ sáng tác và cho ra đời rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Nổi bật là truyện ngắn “Chiều sương” in trong tập truyện ngắn “Nằm vạ” sáng tác năm 1941. Truyện ngắn là hình ảnh những con người làng chài với những đức tính tốt đẹp, cùng với nét vẽ đặc sắc về bức tranh thiên nhiên.

Mở đầu là hình ảnh chàng trai gặp được lão Nhiệm Bình, nghe ông kể về những câu chuyện li kì mà mình đã từng gặp trong các lần đi biển. Nhưng ly kỳ nhất là chuyện gặp được ma, đó là lần hòn đá giữ lưỡi câu không kéo lên được, rồi lần khác nửa đêm đi qua miếu thì có một bầy lại xin cá.

Chuyện lão chài kể như là những câu chuyện thường ngày mà những người chài từng trải qua. Ông không coi đó là điều đáng sợ gì cả, vẫn vừa kể vừa đan lưới. Dù đó là những câu chuyện huyễn tưởng, hay đã từng là sự thật thì thấy rằng cõi chết và cõi sống vẫn sẽ hiện hữu mà không phân biệt rạch ròi. Ngoài ra cảnh vật ở làng chài vào chiều xuân hiện lên qua ngòi bút của tác giả cũng thật đẹp và bình yên.

Một buổi chiều yên ả với những tiếng người hòa lẫn trong sương, rồi xa xa hình ảnh bóng thuyền chài chuẩn bị ra khơi. Tất cả tạo nên một khung cảnh bình yên, thật đối lập với khung cảnh khi ra khơi của những người thuyền chài. Sang ngày mới, những người chài lưới tiếp tục ra khơi. Đây là công việc thường xuyên mà mỗi ngày họ đều phải làm.

Họ ra khơi với tâm thế thoải mái và chăm chỉ đánh được nhiều cá nhất. Bùi Hiển đã dùng từ câu văn miêu tả rất đặc sắc về hình chiếc thuyền “ nặng nề, lừ đừ tiến, hai mắt tròn trân trân nhìn phía trước”. Nhưng mà thiên nhiên con người được thể hiện rõ nhất khi mà gió nổi lên, bão bùng kéo tới. Thiên nhiên thì khắc nghiệt như muốn nhấn chìm tất cả.

Nhưng những người chài vẫn dũng cảm kiên trì giữ thuyền. Thiên nhiên và con người giằng co, nhưng con người đã chiến thắng trước thiên nhiên. Bão qua đi, những ngư dân cũng như kiệt sức. Ta thấy được những khó khăn, những nguy hiểm vẫn luôn rình rập trong cuộc sống lao động của người ngư dân. Nhưng họ vẫn không từ bỏ, vẫn luôn bám biển vừa nuôi sống gia đình vừa giữ gìn biển đảo thiêng liêng của tổ quốc.

Sự xuất hiện về chiếc “thuyền ma” cũng yếu tố đặc biệt cho câu chuyện này. Nó chính là sự phản ánh cho những tai ương, những nhọc nhằn mà người dân chài phải trải qua. Tác giả miêu tả thật khéo léo, tinh tế khiến người đọc không cảm thấy lạnh lẽo ghê sợ mà lại là không khí gần gũi ấm áp. Nhắc đến hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt, con người dũng cảm vượt qua thiên tai, làm ta lại nhớ đến hình ảnh người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Cả hai tác giả đều ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của những con người lao động khi đứng trước thiên nhiên khắc nghiệt

Đọc truyện ngắn ta như được đắm chìm trong khung cảnh thiên nhiên, cái vẻ đẹp của con người qua ngòi bút miêu tả đặc sắc, cùng tài năng nghệ thuật độc đáo của Bùi Hiển. Đọc “Chiều sương” ta càng thêm trân trọng hình ảnh về những người lao động tần tảo chịu khó, mang một nét đẹp truyền thống của người lao động Việt Nam.

Xem thêm 👉 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học 

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Nâng Cao – Kiến Và Người

Trong câu chuyện “Kiến và người”, ta được thấy một mối quan hệ rất đặc biệt giữa con người và tự nhiên. Trong đó, hai nhân vật chính đại diện cho hai thế giới khác nhau – một là một con kiến sống trong tự nhiên và một người đàn ông sống trong thế giới của chính mình. Tuy nhiên, câu chuyện đã cho thấy sự vô tình và thủ đoạn của con người đã làm suy yếu và phá hủy môi trường sống của con kiến – một phần của tự nhiên.

Từ câu chuyện này, ta thấy có sự khác biệt lớn giữa thế giới của con người và của tự nhiên. Con người thường xuyên thay đổi, phá hủy vùng đất, làm suy yếu môi trường sống của các loài động vật và cả con người chính mình. Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho lợi ích của con người đã khiến cho môi trường sống của các sinh vật trên Trái đất bị suy vẹo và diệt vong.

Có những người cho rằng không cần phải quan tâm đến môi trường vì sẽ luôn có phương án thay thế cho những nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhưng điều đó không chính xác và cần được thay đổi. Vì thật sự, chúng ta không thể bỏ qua quan tâm đến môi trường sống của chúng ta. Làn sóng biến đổi khí hậu, sự chênh lệch cực đoan giữa các nguồn tài nguyên sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta trong tương lai.

Vì vậy, chúng ta cần phải ý thức hơn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Chúng ta cần phải đầu tư vào các công nghệ xanh, bảo vệ môi trường, tôn trọng các thiên nhiên còn đó và nỗ lực xây dựng một thế giới bền vững cho các thế hệ tương lai. Đặc biệt, chúng ta cần phải học hỏi từ câu chuyện “Kiến và người” để hiểu rằng mình phải sống chung với một môi trường bền vững, và luôn đặt lợi ích của các sinh vật và tự nhiên lên trên hết.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Đầy Đủ Ý – Hai Đứa Trẻ

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ.

Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo.

Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”.

Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”.

Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ.

Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dày đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.

Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại.

Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó.

Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.

Chia sẻ tác phẩm 👉 Hai Đứa Trẻ 👉 của Thạch Lam

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Chi Tiết – Người Trong Bao

Sê-khốp được mệnh danh là con linh điểu của buổi tịch dương trên đồng cỏ dại nước Nga xưa, là văn hào chói sáng lên lâu đài nhân đạo. Chính tấm lòng của một nhà văn chân chính và những tác phẩm văn học giá trị phản ánh chân thực cảm động số phận người dân và đất nước Nga đã chinh phục được trái tim của độc giả trên khắp mọi nơi, trong số ấy, “Người trong bao” là một trong số những truyện ngắn đặc sắc làm nên tên tuổi của ông.

Người trong bao được sáng tác năm 1898, thời kì này xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nặng nề của Sa Hoàng cuối thế kỉ 19. Môi trường xã hội ấy đã đẻ ra lắm kiểu người quái dị mà Bê-li-cốp nhân vật chính trong truyện là hình tượng điển hình cho số phận bi kịch của những người dân Nga lúc bấy giờ.

Nhan đề của truyện chính là hình ảnh của nhân vật bê-li-cốp, gây tò mò và hấp dẫn người đọc bởi kiểu người quái dị, vừa đáng thương, vừa tội nghiệp ấy. Đồng thời bày tỏ niềm cảm thương cho số phận của những người dân Nga lúc bấy giờ.

Nhân vật chính trong truyện là Bê-li-cốp, hắn là một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp, sống rất kì lạ, luôn luôn sợ hãi mọi thứ xảy ra xung quanh mình. Hắn sợ những thử thách cuộc đời, sợ nắng mưa gió tuyết. sợ bị mất cắp và bị thất lạc nên luôn giấu tất cả đồ đạc của mình vào trong chiếc bao. Hắn mặc chiếc áo bành tô to che gần hết khuôn mặt, tai nhét bông điều ấy chứng tỏ hắn sợ phải nghe thấy âm thanh xung quanh, sợ bị nhìn thấy.

Không chỉ thế hắn còn sợ giao tiếp, khi đến nhà ai chỉ ngồi 15 phút không nói gì rồi ra về chứng tỏ hắn sợ cô độc ấy vậy mà hắn lại sợ phải giao tiếp và không muốn chịu trách nhiệm với lời nói, và hành động của mình. Trong tình yêu hắn cũng muốn cầm tù tình yêu của mình, hắn sợ cái mới vì chỉ vì nhìn thấy Va-ren-ca đi xe đạp mà sợ hãi, giật mình và hoảng hốt đến tận nhà để nhắc nhở.

Điều ấy chứng tỏ hắn sợ mọi thứ đến cả những điều không hề đáng sợ, hắn chỉ nô lệ vào cái cũ, không dám thay đổi, như thế hắn đã chết ngay cả khi đang sống, từng giờ, từng phút trong chiếc bao sợ hãi hắn đang tự tạo ra và bị bầu không khí ngột ngạt của xã hội Nga Hoàng đẩy vào. Để qua hình tượng điển hình ấy, Bê-li-cốp phản ánh chân thực đến bộ mặt xã hội Nga lúc bấy giờ, người dân phải sống trong nỗi sợ và sự cưỡng chế nặng nề đến ngạt thở, qua đó khát khao muốn thay đổi và hướng đến một thế giới tốt đẹp hơn, không bị cầm tù và giam hãm trong chiếc bao nào cả.

Ngôn ngữ của truyện chân thực, chính xác, giàu tính thời sự điểm trúng được những diễn biến tâm lí tinh vi và phức tạp của nhân vật. kết cấu truyện lồng trong truyện giúp câu chuyện trở nên phức tạp, hấp dẫn và lôi cuốn đầy kịch tính, đồng thời thấy được tài năng của tác giả. Khẳng định được tài năng bậc thầy của cây bút xuất sắc trên mảng truyện ngắn.

Qua sự sáng tạo và xây dựng những tình huống, chi tiết và hình tượng điển hình ở tác phẩm Người Trong bao, nhà văn Nga vĩ đại Sê-khốp đã gửi gắm đến chúng ta hình ảnh người dân Nga phải sống trong chế độ Nga Hoàng nặng nề trì trệ như thế nào; đồng thời bày tỏ niềm xót thương, đồng cảm và lời kêu gọi đổi thay của tác giả. Chính những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc ấy đã giúp tác phẩm sống mãi trong lòng độc giả.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Cực Ngắn -Trái Tim Đan-kô

Truyện ngắn Trái tim Đan-kô của Mác-xim Go-rơ-ki là một tác phẩm chứa đầy cảm xúc và vô cùng sâu sắc. Nó nêu bật về tình yêu thương và sự hy sinh cao cả của nhân vật chính, cũng chính là một người anh hùng. Tác giả sử dụng những chi tiết tường minh và hình ảnh mạnh mẽ để truyền tải thông điệp sâu sắc về lòng nhân ái và ý nghĩa cuộc sống.

Ngay từ đầu câu chuyện, tác giả đã tạo nên một bối cảnh u ám với thảo nguyên và khu rừng rợp bóng tối. Cảnh tượng này tượng trưng cho khó khăn và sự tuyệt vọng mà những nhân vật đang phải đối mặt. Trong hoàn cảnh này, Đan-kô xuất hiện như một anh hùng, một người mang trong mình lòng yêu thương và hy vọng. Anh ta đứng lên để dẫn dắt những người khác đang chìm trong bóng tối vượt qua khó khăn, đánh bại nỗi sợ hãi và tạo ra một con đường mới cho cuộc sống của họ. Chàng đã phá bỏ đi bóng tối và tuyệt vọng bao phủ những con người ấy, đưa họ trở về với ánh sáng.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý là hoàn cảnh khi Đan-kô gặp phải sự phản đối và chỉ trích từ phía những người anh em cùng bản mình. Họ trách móc và lên án chàng ta, đẩy Đan-kô vào tình thế khó khăn và đau khổ khi đứng trước sự lựa chọn phản bội của những người thân thiết. Tuy nhiên, thay vì trả đũa hay tức giận, Đan-kô thể hiện sự vị tha và tình yêu thương vô điều kiện đối với những người này. Chàng nhìn thấy sự bất hạnh của họ và tin rằng việc còn sống là sự cứu rỗi cho cuộc sống của bọn họ.

Một điểm đáng chú ý khác trong truyện là hành động hy sinh đầy tình người của Đan-kô. Anh ta tự tay rạch lồng ngực mình, lấy trái tim làm ngọn đuốc để chỉ đường cho đoàn người. Hành động này tượng trưng cho sự hy sinh và tình yêu thương không điều kiện của Đan-kô đối với những người anh em của mình. Ngọn lửa trong trái tim Đan-kô không chỉ dẫn dắt họ thoát khỏi sự tăm tối, mà còn mang lại hy vọng và sự sống mới cho cuộc sống của họ. Mặc dù Đan-kô đã cống hiến tất cả, thậm chí là hy sinh cả tính mạng nhưng cuối cùng anh ta đã chết mà không có ai nhớ đến.

Điều này phản ánh sự vô tâm và thiếu tôn trọng của những người anh em cùng bản mình, vì họ vốn dĩ là những kẻ vô ơn. Tuy nhiên, tác giả không chỉ đề cao hành động của Đan-kô mà còn thể hiện được sự đối lập giữa người anh hùng và những kẻ vô ơn. Từ đó, dường như ông đã khám phá ý nghĩa của cuộc sống và sự liên kết của con người. Truyện tạo ra một câu hỏi sâu sắc: trong cuộc sống khi chúng ta đối mặt với khó khăn, liệu chúng ta có thể giữ vững trái tim yêu thương và lòng tốt mà không cần đền đáp?

Tác phẩm Trái tim Đan-kô của Mác-xim Go-rơ-ki là một câu chuyện đầy cảm xúc và ý nghĩa. Nó truyền tải thông điệp về lòng yêu thương và sự hy sinh cao cả, cũng như tầm quan trọng của việc giữ vững tình người và lòng tốt trong cuộc sống. Câu chuyện này làm cho chúng ta suy ngẫm về những giá trị sống và mối quan hệ giữa con người trong cuộc sống hiện thực.

Chia sẻ bài viết 👉 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Của Người Khác

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Đặc Sắc Nhất – Cây Diêm Cuối Cùng

Truyện ngắn Cây diêm cuối cùng của Cao Huy Thuần mang đến cho độc giả một câu chuyện tưởng chừng đơn giản nhưng lại chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa và sự đặc sắc. Tác phẩm xoay quanh cuộc chiến tranh trên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn, nơi nhân vật chính “tôi” trải qua những trải nghiệm đầy khó khăn và đối đầu với sự sống cùng cái chết.

Cây diêm cuối cùng được đặt làm trọng tâm của câu chuyện, tượng trưng cho hy vọng và ánh sáng trong cuộc sống đen tối của nhân vật. Mặc dù đối mặt với sự chết chóc và hơn thua trong cuộc chiến, nhưng ngọn lửa cuối cùng vẫn sáng lên, cho thấy sức mạnh của sự sống và lòng kiên nhẫn của con người. Từ đó, tác giả gửi gắm thông điệp về sự quý giá của mỗi ngọn lửa nhỏ bé trong cuộc sống, dù chỉ còn cuối cùng một cây diêm, nó vẫn đủ để thắp sáng niềm hy vọng và giữ cho sự sống tiếp tục.

Một trong những điểm đáng chú ý của truyện là cách tác giả sử dụng ngôn từ và miêu tả tinh tế, tạo nên một bầu không khí đậm đà và căng thẳng. Nhân vật tôi được tác giả xây dựng một cách tinh vi, mang trong mình nỗi sợ hãi và bất an của một người sống trong cuộc chiến tranh. Bằng cách mô tả chi tiết các tình huống và cảm xúc của nhân vật, Cao Huy Thuần thành công khi khắc họa hình ảnh một con người gặp đối đầu với nguy hiểm và cảm nhận rõ rệt sự sợ hãi và lo lắng trong từng hơi thở.

Bên cạnh đó, câu chuyện còn chứa đựng một tầng ý nghĩa về sự đối nghịch và sự thật ngoài cuộc sống. Dù ở phe đối diện, khi đối mặt với nguy hiểm và cùng chung một số phận trong căn nhà bị bão tuyết thổi bay, hai nhân vật phát hiện ra sự tương đồng và sự nhân cách của họ. Sự khám phá này làm cho nhân vật tôi hoài nghi về khái niệm “kẻ thù” và chấp nhận sự đồng loại giữa con người dưới cái nhìn bề ngoài khác biệt.

Cây diêm cuối cùng còn có thể hiểu là biểu tượng cho cuộc sống và hy vọng, nhưng cũng đồng thời là biểu tượng cho sự nguy hiểm và khát vọng sự tồn tại. Trong bối cảnh chiến tranh, cây diêm cuối cùng có thể mang ý nghĩa của việc hy vọng cuối cùng vẫn còn tồn tại, dù chỉ trong một phút chốc.

Tác giả Cao Huy Thuần đã thông qua câu chuyện này, tạo nên sự cân nhắc về giá trị của cuộc sống và lòng kiên nhẫn của con người trong những thời điểm khó khăn nhất. Đồng thời, việc tác giả sử dụng một ngôn ngữ tường minh và đơn giản trong việc diễn đạt những tình huống và suy nghĩ của nhân vật, tạo nên một liên kết mạnh mẽ giữa người đọc và câu chuyện. Sự tường minh và súc tích trong cách viết của Cao Huy Thuần không chỉ giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và hiểu rõ nội dung, mà còn tạo nên sự chân thực và sâu sắc trong việc diễn tả cảm xúc và tâm trạng của nhân vật chính.

Cây diêm cuối cùng của Cao Huy Thuần là một tác phẩm đáng chú ý với những tầng ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống, sự sống và con người. Qua câu chuyện, chúng ta nhận thấy sự hy vọng và lòng kiên nhẫn của con người, cũng như sự đồng loại và sự tương đồng giữa những người có thể nhìn khác nhau bề ngoài.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Chọn Lọc – Chiếc Lược Ngà

Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn Chiếc lược ngà thấm đượm tình cha con.

Ông Sáu là người chiến sĩ xa nhà đi lính từ khi bé Thu – con gái ông vẫn còn rất nhỏ. Tám năm sau, ông Sáu có dịp trở về thăm gia đình, để được gặp lại vợ và con gái. Ngỡ tưởng rằng con gái ông sẽ hạnh phúc, vui mừng khi nhìn thấy ba nhưng không, bé Thu không nhận ra ba vì trông ông Sáu không giống với người ba của bé trong ảnh. Bé hét lên gọi má khi ông Sáu lại gần: “Thu! Con”.

Trong suốt ba ngày ở bên ba, bé Thu thường nói trống không, lạnh nhạt với ba. Đỉnh điểm, trong bữa ăn, khi ông Sáu gắp cho con cái trứng cá, bé Thu đã hất văng ra, khiến ông Sáu giận dữ và đánh con. Tối hôm đó, bé Thu nghe bà kể về vết sẹo trên gương mặt ba nên bé đã thấy mình cư xử không đúng, bé thương ba. Khi ông Sáu đi, bé Thu đã chạy ra gọi ba, ôm hôn ba khiến cho mọi người đều thấy cảm động.

Sau khi chia tay, ông Sáu vẫn luôn nhớ về con gái, ông tỉ mẩn khắc Chiếc lược ngà để tặng cho con gái. Nhưng trong một trận càn của giặc, ông Sáu đã hi sinh. Trước khi chết, ông trao cho anh Ba chiếc lược ngà, chờ anh Ba hứa sẽ trao cho bé Thu rồi mới yên tâm nhắm mắt.

Câu chuyện trước hết ca ngợi tình cảm phụ tử thiêng liêng cao đẹp giữa bé Thu và anh Sáu. Tuy họ nhận nhau ở những giờ phút muộn màng nhưng chính khoảnh khắc ấy đã vờ òa và bóp nghẹt bao trái tim bạn đọc. Bên cạnh đó, câu chuyện còn ca ngợi lòng hi sinh, sự kiên nhẫn của người cha dành cho đứa con nhỏ, dù nó có không nhận mình, thậm chí xa lánh mình nhưng vẫn luôn cố gắng để được nhận tình yêu thương từ con gái.

Câu chuyện khiến bạn đọc xúc động bởi sự ngây ngô của đứa bé, trong lòng chỉ tôn thờ người ba duy nhất mà mình biết qua tấm ảnh chứ không chịu nhận người khác là ba. Đến khi hiểu ra cơ sự thì ăn năn, tình cảm bao năm dồn ném bùng nổ thành hành động ôm chặt ba, khóc và không cho ba đi lính.

Câu chuyện ca ngợi những con người dũng cảm thời chiến, không màng đến những lợi ích nhỏ nhoi mà một lòng lên đường đánh giặc bỏ lại phía sau mẹ già con thơ vì sự nghiệp tổ quốc. Nguyễn Quang Sáng cũng gián tiếp phê phán tội ác của đế quốc đã gây ra chiến tranh khiến con người xa lìa cuộc sống đời thường và chia rẽ tình cảm của họ.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng câu chuyện vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng, bài học sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Xem bài viết đầy đủ tác phẩm 🔻 Chiếc Lược Ngà 🔻

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Siêu Hay – Nắng Đẹp Miền Quê Ngoại

Trang Thế Hy là nhà văn Nam Bộ, quê ở Bến Tre. Ông tham gia rất năng nổ vào hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ. Ông là nhà văn hàng đầu đóng góp vào hình thành văn chương hiện đại Việt Nam ở cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là “Nắng đẹp miền quê ngoại” in trong “Nhìn lại một chặng đường văn học”.

Tác giả kể về nhân vật “tôi” trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhân vật tôi hiện lên có một điều kiện cuộc sống rất tốt, nhưng chính cái sự tham lam quan tâm vật chất này đã khiến cho nhân vật tôi có những việc làm thiếu trong sạch. Sống trong cái xã hội mà thực dân Pháp chiếm đóng, con người cũng dần bị tha hóa theo. Nhân vật tôi vì những món lợi của bản thân, muốn tạo mối quan hệ với trung úy Pháp mà đã làm ra hành động bỉ ổi với một cô gái.

Tác giả đã dùng cái giọng vừa từ tốn như đang kể chuyện, nhưng cũng hết sức là châm biếm. Vì một chút món lợi mà cuộc đời của một cô gái bị phá hủy mà có lẽ cả đời nhân vật tôi sẽ phải hối hận. Nhân vật tôi có hối hận, day dứt với việc tàn ác mình đã làm nhưng đã muộn. Trở về thăm miền quê ngoại, nơi mà nhân vật tôi không có quá nhiều những kỉ niệm.

Nhưng chính nơi này sẽ mang lại những ký ức và kỷ niệm không bao giờ quên trong tâm trí nhân vật tôi. Ở nhà dì ba, nghe dượng kể về gia đình trong những năm tháng khói lửa của đất nước. Có những người mất đi, có những người ở những nơi khác nhau.

Dượng kể về người con của mình đã từng bị lừa cho trung úy Pháp rồi bị bắn chết. Một cô gái mới đôi mươi bị bắn chết nhưng cô vẫn giữ được sự trong sáng và can đảm của mình. Đến đây nhân vật tôi đã biết được cái xấu xa, tội lỗi mà mình đã gây ra cho người em của mình. Nhân vật tôi nhận lỗi trước dượng của mình. Nhưng dượng chỉ im lặng, thoáng chút giận dữ nhưng rồi lại dịu dàng và không nói lại lời nào.

Cũng là những con người chịu ảnh hưởng bởi khói lửa khốc liệt. Cả dượng và em Thơm đều giữ được cái trong sạch, cái bao dung và không chịu khuất phục. Còn “tôi” thì vì cái lợi của bản thân mà đánh mất lương tâm của mình. Khung cảnh về bức tranh thiên nhiên buổi chiều ở quê ngoại lại mở ra.

Qua ngòi bút của tác giả cái nắng chiều hiện lên thật đẹp, với những biển cỏ bao cùng với nắng chiều được phủ một lớp men vàng lấp lánh. Cái khung cảnh này thật đối lập với tâm trạng của tôi khi đứng trước mộ của em Thơm. Có những thứ xấu xa tồn tại như muốn hủy đi sự tươi đẹp của cuộc sống này. Những khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ này, cùng với những con người tốt đẹp, như rọi một thứ ánh sáng vào tâm hồn của nhân vật. Nhân vật như được gội rửa những thư tăm tối, xấu xa của tâm hồn nhờ thứ ánh nắng soi rọi của miền quê ngoại.

Qua truyện ngắn “Nắng đẹp miền quê ngoại” của nhà văn Trang Thế Hy, đã khắc họa chân dung của những con người trong chiến tranh khốc liệt. Để từ đó thấy được những cái xấu, cái tốt trong tính cách của con người. Cái thứ ánh sáng giản đơn ở miền quê ngoại giống như là thứ ánh sáng soi rọi tâm hồn của mỗi người con quê hương.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Ấn Tượng – Tầng Hai

Phong Điệp, tên khai sinh là Phan Thị Phong Điệp, sinh năm 1976, quê ở Nam Định, là một nhà văn có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của văn xuôi Việt Nam đương đại. Tác phẩm của bà thường mang đậm hơi thở của cuộc sống đời thường, với những điều bình dị nhưng chân thực.

Trong tác phẩm “Tầng hai,” một phần của tập truyện ngắn “Kẻ dự phần,” Phong Điệp mô tả một câu chuyện về lối sống của các thành viên trong một căn nhà cho thuê. Từ những đoạn mở đầu, tác giả giới thiệu về nhân vật Phan, người thuê trọ và lắng nghe cuộc sống của gia đình ở tầng hai.

Cuộc sống của Phan được miêu tả rất chân thực và cô đơn. Mỗi ngày, cô nghe những âm thanh từ gia đình ở tầng trên, những cuộc sống bận rộn và những khúc nhạc của bản tin cuối ngày. Mặc dù công việc luôn chiếm giữ tâm trí cô, nhưng trước khi đi ngủ, cô lắng nghe những âm thanh từ tầng trên, như tiếng người con dâu khóc, tiếng nước chảy, tạo ra một bức tranh đầy đủ và đa chiều về cuộc sống gia đình.

Tác giả khéo léo lồng ghép sự đối lập giữa cuộc sống của Phan và cuộc sống ấm áp của gia đình ở tầng hai. Gia đình này, với người mẹ hiền từ, người con dâu quan tâm và người chồng yêu thương, tạo ra một bức tranh bình dị nhưng đầy tình cảm. Phan, thông qua việc quan sát và lắng nghe, nhận ra giá trị của sự bình dị và tình cảm gia đình.

Tác phẩm không chỉ là một bức tranh hình ảnh về cuộc sống gia đình, mà còn chứa đựng những triết lý về hạnh phúc. Phan hiểu rằng hạnh phúc thường xuất phát từ những điều nhỏ bé, bình dị, và đôi khi nó đã có sẵn xung quanh chúng ta mà chúng ta thường xuyên lơ là.

Phong Điệp đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế và khéo léo để chuyển tả những chi tiết cuộc sống hàng ngày thành một tác phẩm văn xuôi đầy cảm xúc, làm cho độc giả cảm nhận được vẻ đẹp và ý nghĩa của cuộc sống gia đình Việt Nam.

Xem thêm bài 👉 Thuyết Phục Người Khác Từ Bỏ Thói Quen Xấu

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Dài Hay – Một Người Hà Nội

Một người Hà Nội là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Khải. Qua đó, tác giả thể hiện cái nhìn vô cùng mới mẻ của nhà văn về con người, cuộc sống với một hình thức nghệ thuật in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.

Ngay từ cách đặt tên nhan đề “Một người Hà Nội” nhà văn đã mở ra hình tượng trung tâm của tác phẩm là một người Hà Nội mang trong mình vẻ đẹp hà Nội thuần túy không trộn lẫn. Bên cạnh đó còn mở ra không gian nghê thuật cổ kính, mảnh đất Kinh Kì, nghìn năm văn hiến đã trải qua cùng những thay đổi của thời đại. Cũng từ nhan đề có thể soi sáng được tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.

“Một người Hà Nội” với nhân vật chính là cô Hiền – người xuất thân từ gia đình Hà Nội giàu có, thân thiện. Ở cô Hiền thấm sâu vẻ đẹp tinh thần, văn hóa cốt cách của một người Hà Nội gốc, tạo nên nơi người đọc về vẻ đẹp ấy sẽ bền vững, không bị nhạt nhòa theo thời gian. Cô cũng là người có tình yêu và gắn bó sâu sắc với mảnh đất hà Nội. Ngay cả khi nơi đây có đang oằn mình trong bom đạn thì cô vẫn bám trụ lại mảnh đất này bằng tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn của Hà Nội.

Ở cô Hiền người ta nhìn thấy hội tụ đầy đủ vẻ đẹp ngoại hình, tính cách và tâm hồn. Về ngoại hình cô mang vẻ đẹp quý phái, sang trọng của mọt người phụ nữ gốc Hà Nội. Bên cạnh đó, cô là người thẳng thắn, có cái nhìn nhạy bén, sâu sắc trước thực tế và là người dám bộc lộ quan điểm sống của mình, dám thẳng thắn nói lên và sóng thật với chính mình. Ở cô cò n là người có lối sống văn minh hiện đại nhưng giữ được lối sống đẹp, không xô bồ, bon chen.

Một người hà Nội như cô Hiền mang vẻ đẹp riêng trong cốt cách và nó được tỏa sáng trong bất kì hoàn cảnh nào. Cô Hiền thể hiện là người hiểu được giá trị của cuộc sống, biết hướng đến giá trị cuộc sống và biết hài hòa giữa vật chất và tinh thần. Ngoài ra, cô vẫn giữ được thói quen thời trẻ của mình đó là giao lưu với văn nhân, nghệ sĩ, một cuộc sống phóng khoáng về tinh thần và một tâm hồn nghệ sĩ, là người biết yêu và trân trọng cái đệp.

Tuy vậy, cô vẫn là người có đầu óc thực tế trong việc lựa chọn chồng. gần 30 tuổi cô mới lấy chồng. Nhưng người chồng cô chọn không mơ mộng một người làm quan hay làm nghệ sĩ. Người cô chọn là một ông giáo dạy tiểu học hiền lành chăm chỉ. Cô Hiền là người có đầu óc thực tế, khôn ngoan việc gì cũng tính toán trước sau, đã tính là làm, đã làm là không sợ lời đàm tiếu từ thiên hạ. Phải là người hiểu đời, trải đời có bản lĩnh cô mới vượt lên những chuyện thị phi được mất ở đời như thế.

Trong quan hệ với gia đình cô làm tròn bổn phận của một người vợ đảm đang, thông minh, tài giỏi trong việc làm kinh tế và tài giỏi trong việc quản lý gia đình. Đồng thời trong cách dạy con cái thì cô Hiền là người mẹ nghiêm khắc. Từ dáng ngồi trên bàn cô cũng chấn chỉnh và dạy con phải có lòng tự trọng. Một người mẹ có lòng tự trọng và ý thức rõ trách nhiệm của một công dân có lòng yêu nước .

Trong quan hệ với người ở cô hiền là người sống tình nghĩa nhân hậu, có trước có sau và gần gũi với mọi người như người thân trong gia đình. Chính vì vậy mà Nguyễn Khải ví cô như “hạt bụi vàng” và nhà văn trân trọng vẻ đẹp cốt cách và tâm hồn của một người Hà Nội như cô Hiền.

Ngoài cô Hiền, mặc dù không trọng tâm miêu tả nhưng Nguyễn Khải cũng khắc họa lại hững nhân vật Hà Nội khác trong tác phẩm. Đó là những thanh niên hà Nội đại diện cho thế hệ trẻ có tự trọng, có trách nhiệm với quê hương, Tổ quốc.

Những chàng trai mang trong mình lí tưởng sống cao đẹp sẵn sàng xả thân vì Hà Nội, vì Tổ quốc mình. Đặc biệt là Dũng – chàng trai có lòng yêu nước sâu sắc, sống có lí tưởng và trách nhiệm. Đó là Tuất một chàng trai biết kiềm lại cam xúc của bản thân để hướng đến những điều lớn lao hơn. Và là mẹ Tuất- người mẹ phải gánh chịu sự mất mát to lớn, đánh đổi cả đứa con thân yêu của mình. Một người mẹ đầy nghị lực và bản lĩnh.

Tất cả tô lên một bức tranh khắc họa nhân vật là những con người hà Nội luôn âm thầm và lặng lẽ bằng những cách khác nhau để bảo vệ sự trường tồn của Hà Nội, bảo vệ những vẻ đẹp cốt cách và tâm hồn của những người Hà Nội.

Đừng bỏ lỡ tác phẩm 👉 Một Người Hà Nội

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Hay Nhất – Vợ Nhặt

Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nhan nhản, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi.

Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.

Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.

Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh. Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt.

Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cái nghèo đè nén đến chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.

Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên.

Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.

Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”.

Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.

Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.

Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.

Chia sẻ cho bạn đọc🌿 Vợ Nhặt 🌿 nội dung + nghệ thuật

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Lớp 11 Ngắn Nhất – Chí Phèo

Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại.

Truyện ngắn Chí Phèo (1941) đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rât rõ tài nghệ đó của Nam Cao.

Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình.

Về các nhân vật phản diện nhà văn tập trung vào ba nhân vật đó là Bá Kiến, Lí Cường và Đội Tảo. Trong đó tác giả tập trung khắc hoạ bản chất của nhân vật Bá Kiến, Bá Kiến thức sự là một con hổ biết cười. Đối với một con mồi như Chí Phèo khi thì Bá Kiến nhỏ nhẹ để làm mềm nhũn Chí Phèo, có khi thì Bá Kiến doạ nạt bằng những lời lẽ có gang có thép.

Ngoài cái thủ đoạn đó thì Bá Kiến được tác giả liệt kê ra nhiều thủ đoạn thâm độc xảo quyệt. Với những nét khắc hoạ đó nhà văn đã dựng lên được một Bá Kiến rất sống động, rất điển hình cho bọn cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng tháng tám.

Về nhân vật chính diện nhà văn tập trung vào hai nhân vật và mối quan hệ của hai nhân vật đó là Chí Phèo và Thị Nở. Hai nhân vật này có số phận khác nhau nhưng lại làm sáng tỏ cho nhau. Trong đó Thị Nở thực chất là nhân vật để làm nổi bật con người Chí Phèo, bi kịch Chí Phèo.

Chí Phèo hiện hình dưới ngòi bút của Nam Cao có số phận rất duyên từ xuát than đến đời sống, nhưng Chí Phèo là nhân vật điển hình vì bên cạnh Chí Phèo còn có Năm Thọ, Binh Chức là những hình đồng dạng với Chí Phèo. Có thể khẳng định thành công nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo là xây dựng được hai điển hình văn học, trong đó điển hình nổi bật nhất là nhân vật Chí Phèo.

Nói đến văn xuôi là nói đến nhân vật, nói đến nhân vật là nói đến tâm lí tính cách nhân vật, nói đến tác phẩm Chí Phèo là người ta nghĩ ngay đến cái tinh tế của nhà văn trong việc phát hiện ra được những nét tâm lí rất thật rất đúng của những con người tưởng là không có những nét tâm lí đó. Mỗi nhân vật sở dĩ thành công bởi những nét tâm lí tính cách khác nhau. Tâm lí của Bá Kiến là biết tâm lí của người đời, biết mềm nắn rắn buông, tâm lí của vợ Bá Kiến là hiếu kì lẳng lơ, tâm lí của người nông dân là sợ tai hoạ.

Khả năng miêu tả tâm lí sâu sắc nhất của Nam Cao trong tác phẩm này là đã khám phá được diễn tả được tâm lí của nhân vật chính đó là Chí Phèo và Thị Nở. Người đọc rất tâm đắc với nhà văn rất cảm phục nhà văn khi Nam Cao phát hiện được tâm lí của Chí Phèo khi gặp Thị Nở.

Khi Chí Phèo nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo từ ngạc nhiên rồi sau đó là mắt ươn ướt cảm động và tiếp đến là có cái gì đó như là ăn năn muốn làm hoà với mọi người rồi làm nũng với Thị như với mẹ đó là những nét tâm lí rất thật của những con người muốn được tái sinh.

Cái sâu sắc của Nam Cao chính là chỗ đó.Một biểu hiện nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đó là cách tổ chức kết cấu tác phẩm. Đó là một cách kết cấu vừa linh hoạt vừa độc đáo vừa đa dạng. Cái độc đáo đầu tiên của kết cấu tác phẩm là tác giả đã đảo ngược thời gian đi từ hiện tại rồi đến quá khứ rồi đến hiện tại.

Một biểu hiện của kết cấu không mới nhưng lại rất hợp lí ở tác phẩm này đó là kết cấu theo lối khép kín. Nhà văn mở đầu tác phẩm bằng một lò gạch cũ nơi Chí Phèo ra đời rồi kết thúc tác phẩm cũng mọt lò gạch cũ với một sự liên tưởng một Chí Phèo con sắp ra đời. Cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời Chí Phèo vẫn cứ tiếp diễn đó là vòng luân hồi nhưng lại bế tắc. Ýnghĩa của tác phẩm toát ra rất sâu sắc từ kết cấu này.

Ngoài hai kiểu kết cấu trên nhà văn đã tổ chức được một sự đa dạng của hành văn khi thì độc thoại khi thì đối thoại, khi thì kể, khi thì tả, khi thì tường thuật.

Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo, đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá.

Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tác phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyên ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám nói chung của nhà văn Nam Cao nói riêng.

Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫn điển hình hoá được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Lớp 11 Kết Nối Tri Thức – Cải Ơi

Trong tác phẩm Cải ơi của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta được đưa vào một thế giới đau buồn và đầy lòng nhân ái, nơi những con người lưu lạc tìm kiếm sự thương yêu và ý nghĩa cuộc sống. Tác phẩm này được viết bởi một trong những nhà văn nữ tiêu biểu của văn học đương đại – Nguyễn Ngọc Tư, nữ thi hào sinh năm 1976 ở Cà Mau. Với việc sử dụng truyện ngắn, tiểu thuyết và tản văn, tác giả đã tạo ra một tập truyện đa dạng, trong đó Cải ơi được coi là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất.

Qua câu chuyện, người đọc thấy nhân vật chính là ông Năm Nhỏ, một người nông dân xuất thân từ làng Cỏ Cháy. Số phận của ông được quyết định bởi việc mất con Cải. Ông đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm con, đi qua những khó khăn và nghèo khổ.

Ông có tình yêu thương vô hạn dành cho con và không từ bỏ bất kỳ cơ hội nào để tìm kiếm con. Ông cũng có lòng bao dung, sự vị tha và thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Trong truyện “Cải ơi”, tác giả đã sử dụng trật tự kể chuyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật tình yêu của ông Năm đối với con. Có một chi tiết đặc biệt là ông Năm muốn lên truyền hình để con thấy mình đã chứng tỏ ông không ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Điều này thể hiện rõ mong muốn và quyết tâm của ông trong việc tìm kiếm con yêu.

Trong những khoảnh khắc lặng người, ông Năm hồi tưởng lại những kỷ niệm đáng yêu khi còn có Cải bên cạnh. Ông nhớ từ những kỷ niệm nhỏ như dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang, chặt chuối làm bè và dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều cho Cải. Những hình ảnh này thể hiện tình yêu và sự quan tâm của ông đối với con trước khi họ bị chia cắt.

Có một lần ông Năm đậu xe kẹo đầu chợ và thấy người ta đang quay phim, ông còn rất vui mừng và sẵn sàng chạy lại để xuất hiện trước ống kính và gọi “Cải ơi…”. Đó vẫn là hai tiếng “Cải ơi…” ấy, ông đã gọi không biết bao nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc mà vẫn chẳng có một tin tức gì về con. Sự sẵn lòng và sự kiên nhẫn của ông Năm trong việc tìm kiếm con đáng được ngưỡng mộ.

Nhân vật Thàn, một người có ước mơ và hoài bão, đồng cảm với ông Năm và có tình yêu chân thành với Diễm Thương. Cuộc sống của Thàn trở nên lưu lạc vì không thể thực hiện được ước mơ của mình. Nhân vật Diễm Thương, một nhân vật khác trong truyện, có một quá khứ đau buồn khi bị cha mẹ bỏ rơi.

Cô có ngoại hình và tính cách lạnh lùng, vô cảm. Tuy nhiên, cô khao khát được yêu thương và có một cuộc sống đáng sống. Ông Năm cũng dành cho Thàn và Diễm Thương sự bao dung vô bờ. Ông không trách cứ hay mắng mỏ trò đùa ác ý của Diễm Thương. Thậm chí khi biết rằng Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về quê, ông còn muốn đại diện cho họ như một người cha.

Điều này cho thấy ông Năm đã thấu hiểu nỗi đau của những người không có gia đình, không có nơi để trở về. Mỗi nhân vật đều được tác giả xây dựng cụ thể và điểm nhìn linh hoạt cho phép lời người kể và lời nhân vật hòa quyện với nhau. Tác giả cũng xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật một cách tinh tế. Ngôn ngữ trong tác phẩm mang chất khẩu ngữ miền Nam, tạo nên sự chân thực và chặt chẽ với ngữ cảnh của câu chuyện.

Tình yêu và lòng nhân hậu của ông Năm Nhỏ không chỉ dành riêng cho con gái mình, mà còn lan tỏa đến những người xung quanh. Qua những câu chuyện và nhân vật trong tác phẩm Cải ơi, chúng ta được mở mang tầm nhìn và suy ngẫm về cuộc sống và con người.

Gợi ý cách 👉 Viết Bài Văn Giới Thiệu Một Cuốn Sách Yêu Thích

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện Lớp 11 Cánh Diều – Chữ Người Tử Tù

Nguyễn Tuân là một nhà văn có tài và yêu thích cái đẹp. Ông có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam, những tác phẩm đều mang đậm chất thơ, có một vẻ đẹp vượt thời đại. Tiêu biểu cho phong cách hành văn này chính là tác phẩm Chữ người tử tù trong tập Vang bóng một thời. Tác phẩm khiến cho nhiều người yêu thích văn học phải bật thốt lên vì vẻ đẹp như tranh vẽ của tác phẩm.

Nguyễn Tuân xây dựng một tình huống truyện hết sức độc đáo và mới lạ. Đó là cảnh gặp gỡ của hai nhân vật chính tại nhà tù, một nơi tối tăm chuyên giam giữ những phạm nhân mang trên mình trọng tội. Người tử tù Huấn Cao, một người có tài, có đức nhưng lại sinh ra không đúng thời thế và một người quản ngục đại diện cho hệ thống pháp luật đương thời nhưng lại trân trọng cái đẹp.

Vốn dĩ, quan hệ giữa hai người phải như nước với lửa. Nhưng tại nhà tù tăm tối ấy, vai vế của cả hai như đổi ngược cho nhau. Người quản ngục kính trọng tài năng viết chữ nhanh và đẹp của Huấn Cao, dường như lại ở vị trí dưới so với một kẻ tử tù. Tuy nhiên, chính nhờ cách xây dựng sáng tạo ấy lại khiến cho tính cách các nhân vật càng thêm rõ và nổi bật được nội dung chủ đề của câu chuyện.

Tác giả xây dựng hình ảnh của người tử tù Huấn Cao vô cùng chi tiết. Đầu tiên, tài năng của ông là một thứ không thể nào chối cãi. Ông có tài viết chữ nhanh và đẹp, nổi danh khắp mọi nơi. Con chữ cũng đại diện cho tính cách con người, vậy nên ta có thể thấy được luôn con người ông. Ông có cái sự kiêu ngạo về tài năng của mình, nhưng không vì thế mà lấy làm tự mãn.

Ông cũng sẽ cho chữ, nhưng lại không vì quyền thế tiền tài mà mất đi vẻ đẹp của con chữ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Tuy giỏi chữ nghĩa nhưng ông lại không dùng nó cho những mục đích xấu. Ông là đại diện cho những người muốn lật đổ chế độ phong kiến đầy tàn ác. Do chống lại triều đình, ông mới bị đưa vào ngục và phải nhận cái chết.

Một chi tiết càng tôn lên nhân cách của Huấn Cao nữa là khi người quản ngục đến xin chữ. Lúc đầu, ông khinh bạc kẻ bán mình cho cái ác, không chịu cho vẻ mặt thân thiện. Nhưng khi biết mục đích của người quản ngục, ông đồng ý và nói: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Người đọc thấy được lòng quý trọng người yêu cái đẹp, thấu tình đạt lý.

Viên quản ngục là một người có số phận trái ngược, cũng từ đó tạo nên sự bi kịch của ông. Vốn dĩ, ông là người hiền lành, dịu dàng và yêu cái đẹp. Tuy nhiên, ông lại phải giam mình trong cái lồng tăm tối và tàn nhẫn. Trong hoàn cảnh ấy, ông vẫn khao khát cái đẹp và muốn xin chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Những hành động và lời nói của ông đều thể hiện sự trân trọng, sùng kính. Thậm chí, ông còn vái người tù “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Khung cảnh chấn động nhất tác phẩm có lẽ chính là cảnh cho chữ. Hai nhân vật trong đó, bất kể trước đây làm gì, có đứng ở hai thái cực ra sao thì tại khoảnh khắc này, họ chỉ là những con người có cùng đam mê con chữ. Ngọn đèn hiu hiu dường như bừng sáng rực rỡ trong ngục tù tối tăm, nền giấy trắng và dòng chữ đen nổi bật. Người viết chú tâm, người xin sùng kính. Khung cảnh ấy làm người đọc thấy được sự thần thánh, trang nghiêm như một nghi thức.

Nhờ những hình ảnh đối lập, nghệ thuật xây dựng nhân vật sâu sắc, Nguyễn Tuân đã làm cho tác phẩm trở nên vô cùng đặc biệt. Những cái thiện lương, tàn ác được phân biệt rạch ròi, làm tôn lên nghệ thuật trong mọi hoàn cảnh khác nhau. Qua những chi tiết, tác giả cũng kín đáo bộc lộ tình yêu nước của mình, cũng thể hiện được vẻ đẹp của văn học như những thước phim.

Đọc thêm cách 👉 Viết Đoạn Văn Ghi Lại Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Có Yếu Tố Tự Sự, Miêu Tả

Viết một bình luận