20+ Mẫu Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Truyện Kể

Thohay.vn chia sẻ đến các em học sinh top 20+ mẫu viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một truyện kể hay xuất sắc nhất.

NỘI DUNG CHÍNH

Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Truyện Kể Là Gì?

Phân tích, đánh giá một truyện kể là kiểu bài nghị luận văn học dùng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ đặc điểm, giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện kể như: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười,…

Hướng dẫn 👉 Viết Bài Văn Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Văn Học 👉 Một truyện kể

5 Chủ Đề Truyện Kể Để Nghị Luận, Phân Tích, Đánh Giá

Dưới đây là các chủ đề truyện kể để viết bài nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm được Thohay.vn liệt kê cụ thể nhất.

  1. Thần thoại: Thần Trụ Trời, Cuộc tu bổ lại các giống vật,…
  2. Truyền thuyết: Thánh Gióng, Sự tích Hồ Gươm..
  3. Truyện ngụ ngôn: Thầy bói xem voi, Ếch ngồi đáy giếng,…
  4. Truyện cười: Đến chết vẫn hà tiện, Đất nứt con bọ hung (truyện Trạng Quỳnh).
  5. Truyện cổ tích: Sọ Dừa, Em bé thông minh,…

Cách Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Truyện Kể

Nếu bạn chưa biết cách viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một truyện kể bắt đầu từ đâu, vậy thì hãy tham khảo ngay gợi ý dưới đây:

  • Bước 1: Xác định chủ đề và phân tích, đánh giá ý nghĩa, giá trị của chủ đề.
  • Bước 2: Phân tích, đánh giá được một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật như cốt truyện, tình huống, sự kiện, nhân vật, lời người kể chuyện và lời nhân vật, người kể chuyện, điểm nhìn,… và tác dụng của chúng trong việc thể hiện chủ đề của truyện kể.
  • Bước 3: Đưa ra sự nhận xét về chủ đề và hình thức nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm đối với bản thân.

Xem thêm 👉 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học 

Dàn Ý Văn Bản Nghị Luận Đánh Giá Một Truyện Kể Lớp 10

Đón đọc dàn ý viết văn bản nghị luận phân tích đánh giá một truyện kể lớp 10 chi tiết dưới đây để có thể dễ dàng triển khai bài làm của mình.

1. Mở bài

  • Giới thiệu về truyện kể
  • Trình bày khái quát nội dung cần phân tích, đánh giá

2. Thân bài

  • Giới thiệu chủ đề của truyện kể và ý nghĩa của chủ đề
  • Phân tích, đánh giá các khía cạnh trong chủ đề của truyện kể
  • Đánh giá tác dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề của truyện kể

3. Kết bài

  • Khẳng định lại giá trị của chủ đề và hình thức nghệ thuật của truyện kể.
  • Nêu ý nghĩa của tác phẩm đối với bản thân và người đọc.

Đọc thêm cách 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ

20+ Mẫu Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Truyện Kể Ngắn Hay

Đón đọc ngay những bài viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một truyện kể hay nhất sau đây để có thêm nhiều tài liệu tham khảo để ôn tập thật tốt cho kì thi sắp tới.

Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Ngắn Gọn – Cây Khế

Truyện “Cây khế” thật sự là một trong những câu chuyện cổ tích xuất sắc trong văn hóa dân gian Việt Nam. Điều đáng chú ý là câu chuyện này không chỉ giới hạn trong giới trẻ mà còn có giá trị và ý nghĩa sâu sắc đối với mọi độ tuổi, vì nó mang theo những thông điệp về đạo đức và cuộc sống mà ai cũng có thể học hỏi.

Truyện “Cây khế” là một biểu tượng của sự phản ánh xung đột gia đình và cuộc chiến giữa lòng tham và đạo đức. Trong cuốn truyện này, chúng ta thấy rõ sự tương phản giữa hai người anh em. Người em trai, mặc dù nghèo khó, lại là người chăm chỉ, hiền lành và biết quý trọng tình thân. Ngược lại, người anh trai tham lam và ích kỷ, không coi trọng gia đình và tình anh em.

Chim quý trong câu chuyện đóng vai trò như một thần thánh, thể hiện sự công bằng và trả thù đúng mực. Sự đối xử khác biệt của chim quý đối với hai anh em là một phần quan trọng của câu chuyện, tạo ra một bài học rõ ràng về sự đạo đức và tình cảm gia đình.

Ngoài ra, truyện còn khắc họa nhân vật một cách sâu sắc thông qua ngôn ngữ và hành động của họ. Việc này giúp độc giả dễ dàng nhận biết tính cách của từng nhân vật và hiểu rõ hơn về cuộc xung đột gia đình.

Tác giả dân gian đã thể hiện tài năng trong việc xây dựng tình huống và truyền đạt thông điệp của mình một cách rõ ràng và thú vị. Câu chuyện không chỉ đơn thuần là một câu truyện cổ tích, mà còn là một bài học về đạo đức và giá trị cuộc sống.

Tóm lại, truyện “Cây khế” là một câu chuyện cổ tích xuất sắc với những thông điệp về đạo đức, tình cảm gia đình và sự tham lam. Sự xây dựng nhân vật, tạo tình huống và diễn đạt thông điệp trong câu chuyện đều là những yếu tố nghệ thuật xuất sắc, làm cho câu chuyện trở nên đáng đọc và suy ngẫm.

Chia sẻ đến bạn những bài văn mẫu về 👉 Phân Tích Một Tác Phẩm Truyện 

Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Siêu Hay – Sơn Tinh Thủy Tinh

Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh không chỉ là một câu chuyện cổ tích, mà còn là một tác phẩm vĩ đại trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, gợi nhớ cho chúng ta những giá trị truyền thống và lòng kiên cường của nhân dân trước thiên nhiên hung bạo.

Bắt đầu với viễn cảnh thời đại cổ xưa của Văn Lang, câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bắt đầu với việc vua Hùng muốn chọn một chàng rể phù hợp cho công chúa Mị Nương. Trong viễn cảnh này, chúng ta thấy được tầm quan trọng của núi non và nhân dân, được đặt lên hàng đầu trong lòng vua. Sự lựa chọn của vua Hùng với lễ vật đơn giản, gần gũi như ”voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” cho thấy sự sáng tạo của tác giả trong việc diễn đạt các chi tiết văn hóa và xã hội của thời đại đó.

Khi Thủy Tinh gọi mưa và gió, và nước dâng cao, việc Sơn Tinh đáp trả bằng cách dời núi non lên cao thêm, tạo thành bức tranh sống động về cuộc đối đầu giữa con người và thiên nhiên. Cách mà người dân Văn Lang và Sơn Tinh đồng lòng đồng dạng, không chịu khuất phục trước thiên tai, đã tạo ra một hình ảnh mạnh mẽ về lòng đoàn kết và lòng kiên cường của nhân dân Việt Nam.

Những chi tiết kỳ ảo như việc Sơn Tinh dời núi non và Thủy Tinh gọi mưa gió không chỉ tạo nên hình ảnh của một thiên tai tức giận, mà còn là biểu hiện của lòng bất khuất của con người. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh không chỉ là câu chuyện về hai vị thần, mà còn là câu chuyện về lòng quyết tâm, lòng kiên cường và lòng đoàn kết của nhân dân trước mọi khó khăn và thử thách.

Với sự sáng tạo trong lối diễn đạt và việc sử dụng những chi tiết hấp dẫn, truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh đã trở thành một biểu tượng của lòng kiên nhẫn và lòng đoàn kết của người Việt Nam trước những thách thức của cuộc sống. Câu chuyện này không chỉ là một phần của quá khứ, mà còn là nguồn động viên và sự tự hào cho thế hệ người Việt hiện nay.

Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh là một hòa quyện của văn hóa và tâm hồn Việt Nam, một câu chuyện sâu sắc về lòng đoàn kết và lòng kiên cường của nhân dân trước sức mạnh tự nhiên. Trong văn chương dân gian này, không chỉ có những nhân vật thần thoại đầy quyền lực, mà còn là những dấu tích của tư duy, lòng trung hiếu và lòng quyết tâm không ngừng của những người xưa.

Đọc thêm bài 👉 Trình Bày Suy Nghĩ Về Tình Cảm Của Con Người Với Quê Hương

Bài Văn Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Điểm Cao – Cuộc Tu Bổ Lại Các Giống Vật

Với cách lí giải nguồn gốc muôn loài một cách thú vị, “Cuộc tu bổ lại các giống vật” đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Truyện được nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm và in trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Đặc biệt, truyện còn được coi là tác phẩm độc đáo về chủ đề và đặc sắc trong hình thức nghệ thuật.

“Cuộc tu bổ lại các giống vật” xoay quanh việc Ngọc Hoàng nặn ra vạn vật trước khi tạo nên con người. Trong quá trình hoàn thành công việc, một phần do thiếu các nguyên liệu, một phần do sự nóng vội, các con vật được hình thành nhưng chưa đầy đủ bộ phận trên cơ thể. Chính vì vậy, để khắc phục những thiếu sót ấy, Ngọc Hoàng đã phái ba vị Thiên thần xuống trần gian để tu bổ, bù đắp các bộ phận còn thiếu. Qua câu chuyện, tác giả dân gian đã lí giải một cách thú vị về đặc điểm, tập quán của một số loài vật thân thuộc với cuộc sống con người như vịt, chó, chim.

Quá trình Ngọc Hoàng tạo ra muôn vật diễn ra vào buổi sơ khai, khi ấy thế gian còn chưa xuất hiện loài người “trước khi sáng tạo ra con người đã nặn ra vạn vật”. Trong khoảng không gian vũ trụ rộng lớn mà buồn tẻ đó, Ngọc Hoàng mong muốn “có một thế giới ngay trong một sớm một chiều” nên đã nặn ra vạn vật. Tuy nhiên, vì không có đủ nguyên liệu và vội vàng muốn thế giới đông vui hơn, nhiều con vật được tạo ra nhưng chưa hoàn thiện về cơ thể.

Để khắc phục thiếu sót ấy, Ngọc Hoàng đã phái ba vị Thiên thần xuống núi cùng các nguyên liệu để tiến hành công cuộc tu bổ. Quyết định này được truyền xuống trần gian đã làm vạn vật mừng rỡ và hạnh phúc “Tin ấy ban bố ra, mọi giống vật đều tranh nhau tìm đến nơi ở của Thiên thần để xin những thứ mà mình cần thiết”. Với những cố gắng và sự tận tình, ba vị Thiên thần sau ba ngày ở hạ giới gần như hoàn thành công việc được giao phó, “cố lo làm tròn nhiệm vụ”.

Mọi giống vật sau khi được tu bổ đều mãn nguyện và vui vẻ bởi cuối cùng cơ thể cũng hoàn thiện “khi ra về đều lấy làm thỏa mãn”. Tuy nhiên, trong thời gian bù đắp, ba loài vật là vịt, chó và chim vì đến muộn nên ba vị Thiên thần đã tận dụng các nguyên liệu còn thừa để hoàn thiện những cái chân còn thiếu của chúng. Các vị Thiên thần “bẻ tạm chân ghế chắp một chân cho con vịt và một chân sau bị thiếu cho con chó”, “bẻ một nắm chân hương, gắn cho chúng mỗi con một đôi làm chân”.

Nhờ tấm lòng tốt bụng của ba vị Thiên thần, vịt, chó và chim đã có đầy đủ bộ phận giống như các loài vật khác. Song, chúng lại không hoàn toàn vui vẻ khi cơ thể được hoàn thiện, mà lại hết sức lo lắng “Chết nỗi. Chân như thế này thì đậu thế nào cho vững được”. Qua những chi tiết như vậy, ta thấy được các quan sát tỉ mỉ của con người thời cổ về đặc điểm, tập tính của loài vật. Họ phát hiện ra những điều lý thú gắn với đặc tính trên bộ phận mỗi loài và mong muốn nhận được lời giải đáp chính xác.

Cứ như thế, bằng trí tưởng tượng phong phú, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện dí dỏm gắn liền với chiếc chân sau của chó, chiếc chân còn thiếu của vịt “Vì thế mà sau này hai giống vật ấy lúc nào ngủ đều có một cẳng giơ lên cho nó khô ráo” và đôi chân mềm yếu của các loài chim cùng thói quen chới với ba lần trước khi đậu “Bao giờ muốn dùng nó thì đặt nhóm chân xuống đất xem có vững không đã rồi hãy bay đậu”.

Với những lý giải thú vị, chủ đề của truyện “Cuộc tu bổ lại các giống vật” không còn khắc họa hình ảnh đào non, lấp biển, phân chia trời đất mà trở nên gần gũi, quen thuộc khi xoay quanh các sự vật, hiện tượng gắn liền với chính đời sống hàng ngày của con người.

Đặc sắc về hình thức nghệ thuật cũng góp phần làm nên thành công của tác phẩm. Trước hết, truyện có cốt truyện đơn, gần gũi với cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. Nội dung chính của truyện chỉ đơn giản xoay quanh các lý giải thú vị về đặc điểm, tập quán của vịt, chim, chó,… Và để cho truyện trở nên hấp dẫn và sống động hơn, các tác giả dân gian đã sử dụng sáng tạo yếu tố kì ảo, hư cấu.

Đặc biệt là trong việc khắc họa vật các vị thần Ngọc Hoàng và ba vị Thiên thần với sức mạnh phi thường “Ngọc Hoàng trước khi sáng tạo ra con người đã nặn ra các vật”, “ba vị Thiên thần mang nguyên liệu xuống núi để làm công việc tu bổ, bù đắp cho những con vật nào mà cơ thể còn chưa đầy đủ”. Yếu tố kì ảo cũng được vận dụng linh hoạt, thể hiện qua công cuộc tu bổ, bù đắp những thiếu sót bộ phận cơ thể của mỗi loài vật.

Ngoài ra, một trong những đặc sắc về nghệ thuật phải kể đến là cách xây dựng nhân vật. Trước hết, các tác giả dân gian đã khắc họa thành công hình ảnh Ngọc Hoàng – vị thần quen thuộc trong truyện thần thoại, có sức mạnh siêu nhiên và tài năng vượt trội khi tạo ra con người và thế giới muôn loài. Tiếp đến, Ngọc Hoàng cũng là vị thần có nét gần gũi với con người khi nóng vội “muốn tạo ra thế giới ngay trong một sớm một chiều”.

Qua những phân tích, đánh giá trên đây, chúng ta thấy được truyện “Cuộc tu bổ lại các giống vật” là một truyện thần thoại có chủ đề hấp dẫn cùng các sáng tạo độc đáo về hình thức nghệ thuật. Truyện đã làm phong phú hơn nữa chủ đề lớn của thể loại thần thoại – quá trình tạo lập thế giới, muôn loài.

Truyện “Cuộc tu bổ lại các giống vật” đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc với cách lí giải thú vị của con người thời cổ về các đặc tính, tập quán của loài vật quen thuộc với đời sống. Từ đây, chúng ta càng thêm trân trọng và hiểu biết về trí tưởng tượng và các sáng tạo của dân gian xưa.

Xem thêm mẫu 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Vấn Đề Xã Hội

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Tác Phẩm Truyện Nổi Tiếng – Tấm Cám

Tuổi thơ của mỗi chúng ta có lẽ không ai là không từng được nghe bà, nghe mẹ kể những truyện cổ tích dân gian. Tấm Cám là một trong số đó. Qua câu chuyện này, nhân dân ta muốn gửi gắm một bài học ý nghĩa trong cuộc sống.

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm vốn hiền lành, xinh đẹp lại chăm chỉ. Cha mẹ mất sớm, Tấm phải sống cùng dì ghẻ và Cám. Mọi công việc trong nhà đều đến tay nhưng vẫn bị mẹ con Cám ngược đãi, tìm cách hãm hại.

Một hôm nọ, dì ghẻ đưa cho hai chị em một cái giỏ và bảo rằng: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!”. Chiếc yếm đỏ không chỉ là một phần thưởng mà còn là biểu tượng của sự trưởng thành. Đối với những cô gái như Tấm và Cám thì đó là niềm khao khát. Nên Tấm cố gắng làm việc chăm chỉ để lấy được chiếc yếm. Còn Cám chỉ mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Nhưng Cám lại lợi dụng sự ngây thơ của Tấm để lừa nàng: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tấm làm theo lời Cám, đến khi lên bờ, nhìn vào rổ thì không còn thấy tôm tép đâu.

Tấm chỉ biết ngồi khóc. Bỗng nhiên, Bụt hiện lên bảo Tấm rằng hãy nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Thì ra, trong giỏ vẫn còn một con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, ngày ngày cho ăn. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường. Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội.

Dì ghẻ không cho Tấm đi, mụ nghĩ ra cách lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi. Tấm không biết làm thế nào lại ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp. Chim sẻ nhặt một thoáng đã xong. Sau đó, Bụt liền bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở bốn chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Bụt xuất hiện đã giúp đỡ Tấm trên con đường tìm đến hạnh phúc. Nhân vật này đã làm tròn chức năng của mình trong câu chuyện.

Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh cho toàn dân ai đi vừa hài sẽ được làm vợ vua. Tấm đi vừa đôi hài và trở thành vợ vua. Đến ngày giỗ cha, Tấm về nhà thì bị mẹ con Cám bày kế giết chết. Tấm chết đi lần lượt hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, cuối cùng trở lại làm người sống cùng bà hàng nước. Sự hóa thân này đã thể hiện sức sống mãnh liệt của con người trước sự vùi dập của kẻ ác.

Mỗi một lần hóa thân của Tấm đều gửi gắm một ý nghĩa. Chim vàng anh là hiện thân của một tâm hồn trong trẻo, thánh thiện. Tiếng kêu của chim vàng anh khi Cám đang ngồi giặt quần áo cho nhà vua ở giếng: “Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao” đã cho thấy sự cô Tấm lúc này không còn yếu đuối, bị động như trước đây nữa.

Từ ngày có chim vàng anh, ngày đêm vua chỉ mê mải với chim không tưởng đến Cám. Điều đó khiến Cám vô cùng tức giận liền về nhà mách mẹ. Dì ghẻ sai Cám giết chết chim vàng anh rồi làm thịt, vứt lông chim ra ngoài vườn. Từ chỗ lông chim mọc ra một cây xoan đào. Vua đi qua thấy cây xoan đào “sà xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng”.

Vua thấy cây xoan đào rợp bóng liền sai lính mắc võng để nghỉ ngơi. Hình ảnh cây xoan đào cũng giống như sự quan tâm của Tấm dành cho nhà vua, cũng là tấm lòng thủy chung son sắc của nàng. Khi cây xoan đào bị Cám chặt và đốn thành khung cửi để Cám dệt vải. Tấm lại một lần nữa cảnh báo Cám:

Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra

Lần thứ ba, từ chỗ tro của khung cửi mọc lên một cây thị. Kỳ lạ là cả cây chỉ có duy nhất một quả thị. Quả thị thơm thảo giống như tấm lòng của nàng Tấm. Một hôm, có một bà lão đi qua liền bảo thị: “Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi, chứ bà không ăn”. Quả thị rơi xuống. Từ hôm đó, nhà cửa bà lão luôn sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Cô Tấm trở lại làm người rồi được đoàn tụ với nhà vua. Còn mẹ con Cám phải chịu trừng phạt thích đáng – nhận lấy cái chết. Điều đó thể hiện về mong muốn của nhân dân ta, người ở hiền gặp lành, kẻ ác giả sẽ gặp phải ác báo.

Tóm lại, Tấm Cám là câu chuyện mang tính nhân văn sâu sắc. Truyện thể hiện ước mơ về một cuộc sống công bằng của nhân dân ta.

Chia sẻ mẫu văn 👉 Thảo Luận Ý Kiến Về Một Vấn Đề Trong Đời Sống

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Dài Nhất – Cây Bút Thần

“Cây bút thần” là một trong truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng văn học dân gian Trung Quốc, truyện viết về kiểu nhân vật bất hạnh nhưng có tài năng kỳ lạ. Bằng những chi tiết kỳ ảo, đặc sắc, truyện đã phản ánh ước mơ của nhân dân về sự công bằng trong xã hội và khát khao có những khả năng kỳ diệu của con người.

Mã Lương là một em bé có hoàn cảnh đáng thương. Em mồ côi cha mẹ, hàng ngày phải đốn củi, cắt cỏ,…để kiếm tiền nuôi bản thân. Tuy vất vả song em có một niềm đam mê vẽ bất tận, Mã Lương nuôi dưỡng niềm đam mê của mình bằng cách vẽ vào bất cứ nơi đâu mà em muốn, lúc nào em cũng thích vẽ và mong ước có đủ tiền mua được cây bút để vẽ.

Em không chỉ đam mê vẽ mà còn là một em bé tài năng với bộ môn nghệ thuật này, thấy được tấm lòng và tinh thần ham học hỏi của em, một vị thần thương tình tặng cho Mã Lương cây bút thần quý giá. Cây bút thần dành tặng cho người có tài năng, chịu thương, chịu khó là phần thưởng xứng đáng dành cho em.

Từ khi được tặng cây bút thần, em vẽ được nhiều hơn. Trong làng, những ai khó khăn, thiếu vật dụng gì em đều vẽ ra để giúp họ. Em vẽ cuốc, cày cho lao động, vẽ đèn cho ánh sáng để nhân dân sinh hoạt. Nhờ tấm lòng lương thiện và trong sáng của Mã Lương mà ai cũng quý mến em.

Những thứ em vẽ cho người quanh mình không phải là vàng bạc, của cải vật chất xa hoa mà là những vật dụng cần thiết trong lao động. Hơn ai hết em hiểu được những người nông dân họ tuy vất vả nhưng không bao giờ chịu nhận lấy những vật chất quý giá không phải tự bàn tay mình làm ra. Em cũng hiểu được rằng chỉ có kiên trì lao động, của cải bằng chính sức mình làm ra mới bền lâu và đáng trân trọng. Tình cảm và tấm lòng của Mã Lương thật đáng quý biết bao. Tuy còn nhỏ nhưng em đã rất hiểu chuyện và thông minh.

Em thấy hạnh phúc vô bờ khi mình có thể giúp đỡ được nhiều người, nhưng câu chuyện về cây bút thần lại không mấy đến tai những kẻ tham lam, quyền quý khiến em gặp không ít rắc rối. Đầu tiên là tên địa chủ hống hách, hắn bắt em vẽ theo ý muốn của hắn để thoả mãn lòng tham không đáy nhưng Mã Lương đâu chịu nhún nhường, cam chịu mà làm theo lời hắn.

Em không làm theo ý hắn, quyền uy của hắn không khiến em e dè, sợ hãi mà một mực, kiên quyết không chịu vẽ. Bị bắt giam lại nơi ngục tối, em tìm cách thoát ra ngoài, khi bị sự truy đuổi của tên địa chủ độc ác kia, em dùng bút thần vẽ mũi tên bắn chết hắn. Đó là một sự trừng phạt đích đáng cho kẻ tàn nhẫn, tham lam, coi của cải vật chất trên hết.

Khi đến một thị trấn khác, em bị nhà vua bắt giam. Vừa ép Mã Lương phải vẽ theo những gì mà ông ta muốn và hứa sẽ cho em những vàng bạc, châu báu. Nhưng làm gì em cần những thứ đó, em biết được bản chất độc ác, uy quyền và tham vọng của tên vua kia nên tìm cách trừng phạt hắn.

Những gì vua yêu cầu em đều vẽ trái ngược hẳn, vua bảo vẽ rồng thì em vẽ con cóc ghẻ, vừa bắt vẽ phượng em lại vẽ con gà trụi lông, vua bảo vẽ núi vàng em vẽ toàn những tảng đá lớn, vẽ thỏi vàng biến thành con mãng xà lớn, đầy hung dữ. Cuối cùng, em vẽ sóng biển, bão tố, mưa giông, nhấn chìm con thuyền chở tên vua bạo ngược, tham tàn kia.

Từ đó, em đi khắp nơi giúp đỡ dân nghèo, tài năng và cây bút thần quý gia của em được khắp nơi truyền tụng. Tài năng, sự thông minh, tấm lòng lương thiện đã hội tụ ở con người Mã Lương. Em chính là biểu tượng của cái thiện lương, tấm lòng tốt đẹp đồng thời cũng là nhân vật mà tác giả dân gian gửi gắm khát khao về công lí, lẽ phải và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

Truyện cổ tích “Cây bút thần” đã để lại trong em nhiều bài học quý giá. Đó là bài học về sự chăm chỉ, kiên trì rèn luyện, bài học về lòng đam mê và nuôi dưỡng đam mê. Đó còn là bài học về đạo lý sống tốt đẹp, biết yêu thương và đồng cảm, biết giúp đỡ những người có số phận bất hạnh và khó khăn hơn mình. Đó còn là bài học về lối sống khiêm tốn, biết bằng lòng với những gì mình đang có, tránh tham lam, ích kỉ, ác độc.

Cập nhật nội dung truyện👉 Cây Bút Thần

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Đầy Đủ Ý – Nữ Thần Lúa

Thần thoại Việt Nam là một thể loại cũng mang phong cách huyền huyễn tương tự truyền thuyết, tuy nhiên nó lý giải những điều bình thường và thực tế hơn. Cũng chính vì vậy, những truyện này gần gũi đối với người dân lao động. Hình ảnh cây lúa nước trong những truyện thần thoại Việt Nam rất đa dạng, được sáng tạo nên từ nhiều bàn tay nghệ nhân xây dựng. Đặc biệt, truyện nữ thần Lúa là một truyện thần thoại vô gần gũi với những dân tộc ít người tại Việt Nam.

Trong truyện, nữ thần Lúa được xây dựng là con gái của Ngọc Hoàng, người đứng đầu tam giới. Sau khi con người sinh sôi nảy nở dưới mặt đất, nữ thần Lúa là người ban phép cho nhân gian, tạo ra hạt nảy mầm, kết bông mẩy hạt nuôi sống loài người. Tuy nhiên, do con người thiếu hiểu biết và không tôn trọng thần, người bắt con người phải lao động để kiếm được hạt cơm.

Trong đoạn đầu, nữ thần Lúa được thần tượng hóa, trở thành một vị thần có đầy sức mạnh. Người cũng vô cùng yêu thương con người, tạo ra miếng cơm và còn để cho “lúa chín tự về nhà mà không cần gặt và không phải phơi phóng gì cả”. Cuộc sống ấy chính là cuộc sống mà con người hiện nay mơ ước, không cần đối phó thiên tai mà vẫn có được những hạt lúa mẩy. Và “Cần ăn, cứ ngắt bông vào nồi là lúa sẽ thành cơm.”

Tuy nhiên, cuộc sống như vậy không kéo dài được lâu. Và thứ hủy hoại đi sự tốt đẹp này lại là do con người. Người phụ nữ trong truyện làm trái với tục lệ, không dọn dẹp và còn tỏ ra cáu giận với những bông lúa đang về nhà. Điều đó làm vị thần tức giận, “nhất định không cho lúa bò về nữa.” Từ đây, con người phải đi cắt lúa, phơi phóng rồi xay giã mới có thể tạo ra được hạt gạo để thổi cơm.

Hình ảnh người phụ nữ ẩn dụ ở đây ám chỉ phái nữ mà người thời đó quan niệm, những người dễ cáu giận và hay tính toán chi li, dễ làm hỏng việc. Tuy rằng nghĩa này khiến rất nhiều người tỏ ra bất bình, nhưng đây cũng là một trí tưởng tượng của người xưa trong việc bông lúa không tự về nữa.

Sau câu chuyện, ta còn thấy chi tiết “Trời sai một thiên thần đưa xuống hạ giới một số hạt giống lúa và một số hạt giống cỏ vãi ra khắp mặt đất để nuôi người và vật.” Đó chính là cỏ. Tuy nó cũng có một phần giúp ích cho cuộc sống của người và vật, nhưng cũng giải thích được việc khi có cỏ thì lúa chậm phát triển. “Do đó mà ở trên mặt đất cỏ mọc nhiều mà lại rất khoẻ còn lúa thì ít lại mọc rất khó khăn, nếu không chăm bón, làm cỏ thì bị cỏ át mất.”

Cũng như hiện thực, trong quá trình vun vén, con người hiện nay phải chăm bón và bỏ ra rất nhiều công sức. Sau đó, quá trình để “đưa” hạt lúa về cũng không hề dễ dàng nữa. Quá trình cắt lúa, phơi lúa, xay xát đều mất nhiều thời gian và sức người. Cũng do lỗi lầm trong quá khứ đó, cuộc sống cần nhiều sức lao động hơn.

Tuy nhiên, nếu để ý bạn sẽ thấy ngữ điệu kể chuyện không có sự khó chịu hay tức giận. Họ chấp nhận việc này và cũng chấp nhận phải lao động. Thần thoại Nữ thần Lúa sử dụng nhiều hình ảnh gợi hình, những chi tiết huyền ảo vô cùng hấp dẫn. Nhân vật trong truyện khi xây dựng đều có sự thần thánh hóa, trở thành những vị thần có sức mạnh đúng theo mô típ trong truyện thần thoại.

Nữ thần Lúa là một câu chuyện thần thoại vô cùng đặc sắc với nhiều giá trị nghệ thuật. Câu chuyện giải thích về quá trình thu về hạt lúa – hạt ngọc của trời. Qua đây, ta cũng có thể thấy được những người nông dân ngày xưa, tuy quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhưng trí tưởng tượng của họ lại vô cùng phong phú.

Xem thêm 👉 Viết Bài Văn Trình Bày Ý Kiến Về Một Hiện Tượng (Vấn Đề) Mà Em Quan Tâm

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Ngắn – Thần Sắt

Thần thoại Việt Nam là một thể loại cũng mang phong cách huyền huyễn tương tự truyền thuyết, tuy nhiên nó lý giải những điều bình thường và thực tế hơn. Cũng chính vì vậy, những truyện này gần gũi đối với người dân lao động. Hình ảnh bầu trời với những tia sét trong những truyện thần thoại Việt Nam rất đa dạng, được sáng tạo nên từ nhiều bàn tay nghệ nhân xây dựng. Đặc biệt, truyện thần Sét là một truyện thần thoại vô gần gũi với dân tộc tại Việt Nam.

Thần sét là một trong những tướng lĩnh tài giỏi của Ngọc Hoàng. Thần có bộ mặt mũi nanh ác và luôn quát tháo dữ dội. Ngoài ra tính nết của Thần Sét cũng vô cùng nóng đẩy. Chính vì vậy đôi khi Thần đã làm cho cả người và vật phải chết oan. Có một điểm yếu của thần là thần rất sợ tiếng gà và trong một lần giao tranh, thần Sét đã bị Cường Bạo Đại Vương đánh bại.

Mỗi câu chuyện thần thoại lại mang đến cho chúng ta những kiến thức về các hiện tượng tự nhiên. Khi chúng ta đã đọc truyện Thần trụ trời, thần gió, thần mưa thì chắc chắn không thể nào quên thân Sét.

Với cốt truyện đơn giản và quen thuộc. Kể về cuộc sống, công việc của thần Sét. Sét là một tướng lĩnh của Ngọc Hoàng. Ngoại hình của thần Sét chắc chắn sẽ để lại cho chúng ta rất nhiều ấn tượng mặt mũi rất nanh ác, tiếng quát tháo thì rất dữ dội.

Công việc của thần Sét đó chính là chuyên một việc thi hành luật pháp ở trần gian, hành động của thần phản ánh sự thịnh nộ của Ngọc Hoàng. Thần Sét sẽ dùng lưỡi búa của mình khi xử án.

Câu chuyện còn giúp chúng ta giải thích hiện tượng tự nhiên về việc mùa đông chúng ta sẽ ít khi gặp được hiện tượng Sét vì thần Sét lúc đó sẽ ngủ đông khoảng hai đến ba tháng. Và sét đánh xuống sẽ khiến cho cây cối, vật nuôi và cả con người đều sẽ chết oan. Vì tính tình của thần rất nóng nảy.

Truyện Thần Sét có đầy đủ đặc điểm của một câu chuyện thần thoại. Và thực hiện đúng những chức năng của mình.

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Cực Ngắn – Cô Bé Bán Diêm

Truyện Cô bé bán diêm của An-đec-xen đã đánh thức trong em cảm xúc chẳng giống ai. Cảnh ngộ nghèo đói và cái chết của cô bé không chỉ là một câu chuyện, mà là đau thương của cuộc sống. Điều đó làm em nhận ra giá trị của tình thương và sự chia sẻ trong xã hội.

Truyện Cô bé bán diêm của An-đec-xen đã làm xao lạc trái tim em, mở ra một thế giới nghèo đói và cái chết của cô bé, đưa em đến với những suy tư sâu sắc về ý nghĩa cuộc sống.

Trước cảnh đau đớn và khó khăn của cô bé, lòng tôi như co lại. Cảnh cô bé bán diêm giữa đêm tối lạnh lẽo, trong khi mọi người ấm áp bên lò sưởi, khiến lòng ta chua xót. Hình ảnh cô bé đơn chiếc, không ai để ý, làm đau lòng hơn khi xảy ra trong đêm giao thừa, nơi niềm vui và sự đầy đủ tràn ngập trong những căn nhà âm áp.

Cô bé đau đớn, đầu trần, chân trần, run lạnh và đói. Sự ấm áp của gia đình qua cửa sổ làm ta cảm thấy thương cảm với số phận khốn khổ của cô bé trong đêm giao thừa. Hình ảnh cô bé ngồi cô đơn, nhớ về quá khứ và ước mơ, khiến ta chạnh lòng. Que diêm nhấp nhô làm tái hiện quá khứ hạnh phúc bên bà nội, nhưng sự tắt lụi của chúng là thực tế khắc nghiệt, đưa cô bé vào thế giới khó khăn.

Giá trị của ước mơ của cô bé làm chúng ta đau đớn khi đối mặt với cái chết thương tâm của em. Dù tác giả miêu tả cô bé chết với đôi má hồng và đôi môi cười, nỗi đau trong ta không giảm bớt. Hình ảnh ấy luôn làm ta xao lòng khi nhắc lại.

Hình ảnh cô bé bán diêm để lại dấu ấn sâu sắc, nhắc nhở chúng ta về lòng nhân ái. An-đec-xen đã chạm đến trái tim mọi người bằng tấm lòng nhân hậu của mình.

Đừng bỏ qua nội dung truyện 👉 Cô Bé Bán Diêm

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Đơn Giản – Con Rồng Cháu Tiên

Trong kho tàng văn học truyện cổ tích dân gian của nước ta, có rất nhiều câu chuyện hay lý giải về các sự tích truyền thống của dân tộc. Trong đó, truyện “Con rồng cháu tiên” là một truyện truyền thuyết vô cùng hay và có ý nghĩa với dân tộc ta. Nó nhằm lý giải về sự tích ra đời của những con người Việt Nam

Đây vốn là câu chuyện thần thoại nên có nhiều chi tiết ly kỳ hoang tưởng thể hiện cho nhân vật có những phép lai và hình hài đặc biệt. Hai nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ là hai nhân vật do trí tưởng tượng của con người làm ra, thể hiện sức tưởng tượng vô cùng phong phú của người xa với sự ra đời của dân tộc mình.

Nhân vật Lạc Long Quân là nhân vật con trai của thần long nữ ở Đông Hải, còn Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông sống ở núi cao vùng đất Phương Bắc. Mỗi thần đều có những vẻ đẹp và đức tính riêng. Thần Lạc Long Quân có tài năng và vẻ đẹp của một loài rồng, vô cùng mạnh mẽ, uốn lượn, thể hiện khí khái của một con người dũng cảm

Thần có thể sống được ở cả trên cạn và dưới nước, còn tiên nữ Âu Cơ là người xinh đẹp hiền thục, nàng thích đi ngao du thiên hạ, cứ nghe ở đâu có cảnh đẹp nhiều hoa thơm cỏ lạ nàng đều tới đó.

Trong một lần đi ngao du tiên nữ Âu Cơ gặp được thần Lạc Long Quân hai người đem lòng thương yêu nhau rồi kết hôn, se duyên thành chồng vợ. Chẳng bao lâu sau mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc trứng to có một trăm quả trứng rồng rồi nở ra một trăm người con trai.

Khi sinh sống với nhau một thời gian cả hai cùng nhận thấy rằng việc chung sống này khó có thể kéo dài bởi thần Lạc Long Quân vốn sống dưới biển nay phải sống trên cạn, lên cạn lâu sẽ không thể nào được, còn mẹ Âu Cơ là người vùng núi cao không thể nào theo thần Lạc Long Quân xuống biển được.

Chính vì vậy, hai người buộc lòng phải chia tay nhau mỗi người mang theo năm mươi người con, kẻ lên rừng người xuống biển để mưu sinh. Truyện Con rồng cháu tiên phản ánh về nguồn gốc nòi giống của người Việt Nam Âu Lạc đều là những con người có dòng dõi tiên rồng, có xuất thân quyền quý đáng được tôn vinh, trân trọng.

Hình ảnh mẹ Âu Cơ sinh nở ra một trăm quả trứng rồng có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng thể hiện việc con cháu người Việt chúng ta dù ở đâu cũng là anh em cùng một nhà, do cùng một cha mẹ đẻ ra.

Nó khẳng định tính huyết thống gắn bó của những con người trong cùng một tổ quốc, dù ở núi cao hay biển sâu thì đều có mang chung rồng máu tiên rồng, cần phải sẻ chia giúp đỡ yêu thương che chở lẫn nhau để xứng đáng là dòng dõi rồng tiên.

Việc hai thần Lạc Long Quân và Âu Cơ mang mỗi người năm mươi người con đi khai phá giang sơn cùng nhau cai quản giang sơn là việc làm hết sức ý nghĩa nhằm lý giải việc anh em dù có thể ở nhiều nơi trên đất nước nhưng vẫn cùng có chung một dòng máu lạc hồng.

Truyền thuyết Con rồng cháu tiên thể hiện một câu chuyện vô cùng đặc sắc trong kho tàng truyện cổ dân gian nước ta. Nó nhằm lý giải về nòi giống dân tộc, thắt chặt tình đoàn kết của những người đồng bào trong cùng tổ quốc, nhắc nhở con cháu thế hệ hôm nay nhớ về nguồn cội của mình, dù đi đâu, ở đâu thì hãy sống sao cho xứng đáng với nòi giống rồng tiên trong con người mình.

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Hay Đặc Sắc – An Dương Vương Và Mị Châu Trọng Thủy

Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều câu chuyện ý nghĩa răn dạy ta nhiều điều trong cuộc sống. Và yếu tố kì ảo đóng góp vai trò rất lớn làm cho các tác phẩm khiến tác phẩm trở nên hay và sinh động nhất.Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy là một tác phẩm nói về quá trình dựng nước và giữ nước của An Dương Vương chứa đựng yếu tố kì ảo đầy sự thú vị và đặc sắc.

Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” trích từ “Truyện Rùa Vàng” trong “ Lĩnh Nam chích quái” kể về Vua An Dương Vương xây thành nhưng nhiều lần bị đổ, nhờ có thần Kim Quy mà dựng được Loa thành và được tặng cho chiếc vuốt làm lẫy nỏ . Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà xâm lược. Nhưng vì sự chủ quan khinh thường địch vua đã khiến cơ đồ đắm biển sâu.

Phần mở đầu của câu chuyện cuốn hút người đọc bởi nội dung câu chuyện hướng về chủ đề dựng nước và giữ nước. Vua An Dương Vương lại là người chăm lo việc triều chính. Từ khi bờ cõi mở rộng, vua nghĩ đến việc kinh doanh và phòng thủ đất nước. Xuất hiện là một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình tinh thần chống giặc mạnh mẽ. Rừng núi có thuận tiện cho việc chống giặc bao nhiêu nhưng muốn phát triển nhất định phải rời đô. An Dương Vương nghĩ ngay phải có một tòa thành kiên cố thì mới giữ được giang sơn xã tắc lâu dài.

Nhưng bởi thiếu sự hiểu biết về vị trí địa lí đồng bằng ông xây thành rất khó cứ hễ xây thành lên cao quá đầu người, thì chỉ trong một đêm tự nhiên đổ sụp. Xây đi xây lại đã mươi bận, lớp dân phu này về có lớp khác đến, ấy thế mà thành vẫn không xong. Điều này khiến vua An Dương Vương lo lắng và suy nghĩ rất nhiều. Nhưng không vì thế mà vua nản lòng, ông liền sai các quan lại lập đàn rồi tự mình trai giới cầu cúng. Và sau đó đã có thần Kim Quy xuất hiện giúp đỡ chẳng mấy chốc mà thành đã xây xong chỉ trong vòng nửa tháng.

Yếu tố kì ảo xuất hiện khi Thần Kim Quy tặng một cái vuốt và cua An dương Vương đã tạo ra một chiếc nỏ nhờ cái vuốt ấy. Chi tiết kì ảo được hiểu là những điều không có thực, nó được xây dựng để tăng lên sự biểu đạt mà tác phẩm muốn thể hiện, nó hư cấu và được tạo nên để củng cố niềm tin cho con người. Nỏ thần chính là tượng trưng cho niềm tin sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể vượt xa cái tầm thường, tiêu diệt tất cả bè lũ xâm lược.

Triều Đà cậy có đất rộng, dân đông, lại thiện chiến, mấy lần kéo quân sang đánh, nhưng mỗi lần vượt cõi là một lần chuốc lấy thất bại. Bên này An Dương Vương sai đem nỏ thần ra bắn. Mỗi phát bắn ra, tên bay rào rào, quân Nam-việt chết như rạ. Tuy nhiều lần thất bại thảm hại, Triệu Đà vẫn nuôi âm mưu xâm chiếm nước Âu Lạc. Vì vậy, Triệu Đà mượn cớ giảng hòa, cho sứ giả sang cầu hôn Mị Châu cho con trai mình là Trọng Thủy. Mục đích đích của hắn không phải là thắt chặt tình giao hiếu giữa hai nước mà để dò xét tình hình Âu-lạc.

Bằng sự ngây thơ và thật thà Trọng Thủy đã lừa Mị Châu – con gái Vua An dương Vương để lấy nỏ thần. Bị đánh cắp nỏ thần mà không hề hay biết cũng chính sự thiếu cảnh giác chủ quan của Vua An Dương Vương. An Dương Vương còn là sự ỷ lại vào nỏ thần mà quên mất sức mạnh dân tộc không chuẩn bị nghênh địch mà lại thản nhiên đánh cờ đến khi biết mất nỏ thần mà địch ngay trước mắt mới vội vã mang con gái lên ngựa bỏ chạy. Đây cũng chính là bài học răn dạy dân tộc ta không nên khinh địch và mất cảnh giác ,bất cứ lúc nào đất nước cũng có thể rơi vào tay địch.

Nạn nhân của chiến tranh chính là Mị Châu – Trọng Thủy. Bi kịch của mối tình éo le này mị Châu đã rắc lông ngỗng để Trọng Thủy tìm được mình nhưng không ngờ đã chuốc lấy cái chết bằng nhát chém của cha cho chính mình. Nàng đáng trách là khi không nhận ra ẩn ý rõ ràng trong lời nói ly biệt của Trọng thủy mà chỉ đợi ngày đoàn viên, giặc đuổi giết nhưng vẫn rải lông ngỗng. Đặt tình yêu lên trên vận mệnh quốc gia, Mị Châu vô cùng đáng phê phán.

Nhưng Trọng Thủy cũng thật đáng thương mất Mị Châu chàng như ngây dại và lao đầu xuống giếng mà chết .Tiếng thét “Người ở sau lưng nhà vua chính là giặc đó!” chính là sự giác ngộ thức tỉnh nhà vua. Một lần nữa tinh thần rằng cần phải nâng cao mạnh mẽ được sức mạnh và giá trị to lớn để bảo vệ nền độc lập cho nhân dân. Cái nhìn nhân hậu của nhân dân chính là lòng bao dung, thương cảm cho tình yêu lứa đôi đối mặt với những âm mưu và tương truyền máu Mỵ Châu chảy xuống nước, những con trai con hến ăn vào đều hóa thành ngọc.

Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” đã đẻ lại cho người đọc về bài học dựng nước, không nên chủ quan mất cảnh giác mà khinh thường địch. Yếu tố kì ảo được xây dựng nên nhằm gia tăng lên giá trị của tác phẩm và nhiều ý nghĩa của nó được biểu hiện một cách mạnh mẽ có nhiều giá trị nhất làm cho truyền thuyết trở nên đặc sắc mà hiếm có câu truyện nào được như vậy.

Xem thêm 👉 Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết 

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Ấn Tượng – Con Cáo Và Chùm Nho

Nhắc đến những câu chuyện ngụ ngôn nước ngoài, ta không thể bỏ qua truyện Con cáo và chùm nho của nhà văn nổi tiếng Hy Lạp Aesop (Aisōpos, khoảng năm 620-564 trước CN). Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện ngụ ngôn nước ngoài hay và đặc sắc về chủ đề cùng những hình thức nghệ thuật xuất sắc.

Truyện kể về con cáo vào một hôm xuống triền núi và thấy phía trước là một vườn nho căng tròn mọng nước khiến anh ta thèm thuồng tới mức nước bọt cứ trào ra. Vì thế, cáo đã tìm mọi cách để có thể chén được no nê những chùm nho đó.

Nhưng thật không may mắn, từ cây cao đến cây thấp, cáo vẫn không thể nhảy đến chùm nho. Thậm chí, chùm thấp nhất khiến Cáo tự đắc rằng không gì có thể làm khó được nó cũng thất bại. Sau một hồi cố gắng, Cáo đành thở dài và cho rằng những chùm nho vỏ xanh kia chắc là chưa chín, vừa chua vừa chát, không ăn được. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Đọc Con cáo và chùm nho của nhà văn Hy Lạp Aesop, ta có thể dễ dàng nhìn ra rằng giá trị của truyện trước hết thể hiện qua chủ đề và bài học cuộc sống mà nó gửi gắm. Hình ảnh con cáo đã được tác giả hình tượng hóa để đề cập đến vấn đề về sự biện hộ và tự cao của cá nhân.

Điều mà câu chuyện muốn cảnh tỉnh là đừng quá đề cao bản thân, mình phải tự biết khả năng của mình đang nằm ở vị trí hay con số nào; khi sai lầm hoặc thất bại, hãy tự biết nhận lỗi, rút ra bài học cho bản thân và đừng bao giờ đổ lỗi cho hoàn cảnh. Bản chất là một truyện ngụ ngôn, Con cáo và chùm nho đã mượn câu chuyện về con vật để ám chỉ về lối sống của con người.

Chủ đề của truyện mang tính chất khái quát bởi không chỉ đúng trong đất nước hay con người Hy Lạp – nơi nó được sinh ra, mà đó là lời nhắn nhủ, cảnh tỉnh dành cho tất cả mọi người. Chúng ta đừng như con cáo kia, đừng cho mình là nhất bởi ngoài kia còn rất nhiều người giỏi hơn và khi thất bại cũng đừng đổ lỗi cho bất kì ai, bất kì điều gì; hãy phát huy điểm mạnh bạn đang có, khắc phục điểm yếu, từ thất bại rút ra những bài học kinh nghiệm để vươn tới thành công.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong Con cáo và chùm nho thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Thông thường, khi muốn thể hiện lối ứng xử, tính cách của nhân vật, tác giả truyện ngụ ngôn sẽ đặt nhân vật của mình vào những tình huống nhất định.

Con cáo và chùm nho cũng không ngoại lệ, Aesop đã xây dựng tình huống về cuộc gặp gỡ giữa con cáo với những chùm nho căng mọng nước trong vườn và cách xử lí của nó để có được một bữa ăn no nê. Tình huống tuy khá đơn giản nhưng qua đó người đọc thấy được cách ứng xử của con cáo khi gặp khó khăn và chủ đề mà người kể chuyện muốn nói đến ở đầu truyện càng được làm sáng rõ.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng là một thủ pháp nghệ thuật khá quan trọng trong thể loại truyện ngụ ngôn. Cáo là biểu trưng cho những người luôn cho mình là nhất, mình luôn đúng trong mọi chuyện, nếu sai thì cũng chỉ do hoàn cảnh tác động, không dám chấp nhận sự thật về sự thất bại của bản thân. Chùm nho tượng trưng cho những yếu tố ngoại cảnh. Trong truyện, con cáo không với tới chùm nho nên đã tự nhủ nho còn xanh, chua và chát để biện hộ cho việc không hái được nho của mình, tức là do tác động của ngoại cảnh chứ không phải mình vô dụng.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua lời thoại. Trong Con cáo và chùm nho, tác giả đã để nhân vật tự độc thoại với chính mình và tính cách sẽ được bộc lộ qua từng câu chữ, lời nói đó. Khi thấy những chùm nho khác thấp hơn, Cáo đã tự đắc không có gì làm khó được mình nhưng kết quả vẫn là sự thất bại.

Sau nhiều lần cố gắng, Cáo đã buông xuôi và nói: “Làm sao mình lại cứ phải ăn mấy chùm nho như này nhỉ? Vỏ thì xanh thế, chắc chắn là chưa chín rồi. Không biết chừng còn vừa chua vừa chát, không nuốt được”. Từ đó ta thấy được Cáo là một người luôn tự đắc và chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh. Chính những lời độc thoại đó càng làm nổi bật nhân cách, điểm mạnh, điểm yếu của nhân vật.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Con cáo và chùm nho là một truyện ngụ ngôn tiêu biểu trong kho tàng các sáng tác truyện của Aesop. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống thắng lợi tinh thần. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, lời thoại để nhân vật bộc lộ rõ nhất tính cách của mình để qua đó các bài học nhân sinh được lột tả.

Đọc câu chuyện này, dường như em cảm thấy có đôi lúc em cũng giống như con cáo kia và bây giờ mình cần phải thay đổi để xóa bỏ tính cách không tốt đó.

Chia sẻ bài viết 👉 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Của Người Khác

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Ngắn Nhất – Ếch Ngồi Đáy Giếng

Truyện ngụ ngôn “Ếch ngồi đáy giếng” vốn đã rất quen thuộc. Tuy dung lượng ngắn gọn, nhưng truyện gửi gắm bài học nhân văn sâu sắc.

Cũng giống như các truyện ngụ ngôn khác, Ếch ngồi đáy giếng cũng mượn chuyện loài vật để nói chuyện con người. Nhân vật chính là một con ếch – một loài lưỡng cư có thân hình nhỏ bé, thường sống ở các vùng đầm lầy. Trong truyện, ếch được xây dựng có hoàn cảnh sống là một cái giếng, xung quanh là những con vật nhỏ bé như nhái, cua, ốc.

Mỗi khi ếch cất tiếng kêu “ộp… ộp…” lại khiến các con vật xung quanh cảm thấy sợ hãi. Điều đó khiến nó trở nghĩ rằng bản thân là một vị chúa tể, còn bầu trời chỉ bé như một chiếc vung. Chính môi trường sống nhỏ bé đã ảnh hưởng đến suy nghĩ và tầm nhìn của ếch. Nó không nghĩ rằng cái giếng chỉ là một phần nhỏ của thế giới rộng lớn.

Một sự việc bất ngờ đã xảy ra. Một năm, trời mưa to làm nước trong giếng dềnh lên, đưa ếch ta ra ngoài. Quen thói cũ, ếch nghênh ngang đi lại và cất tiếng kêu. Nó nhâng nháo đưa cặp mắt nhìn lên bầu trời, không để ý xung quanh nên bị một con trâu giẫm bẹp. Rõ ràng môi trường đã thay đổi. Không còn là một cái giếng nhỏ bé nữa, cũng không còn những loài vật nhỏ bé nữa. Thế giới bên ngoài rộng lớn hơn, các loài vật cũng to lớn hơn. Nhưng ếch vẫn tỏ ra kiêu ngạo mà không biết khiêm tốn, tầm nhìn của nó vẫn hạn hẹp như vậy. Để rồi cuối cùng, ếch phải nhận lại một kết cục đáng thương.

Câu chuyện về chú ếch cũng nhằm phê phán những người có thói tự kiêu, khuyên răn con người nên mở rộng hơn tầm nhìn hạn hẹp của mình. Trong giếng sâu, tiếng kêu của ếch thì âm vang mà giếng lại quá nhỏ không đủ để cho ếch nhận ra sự hống hách và kém hiểu biết của bản thân.

Chính vì vậy, cơn mưa hay con trâu không phải là nguyên nhân gây nên cái chết của ếch mà chính và thói chủ quan không coi ai ra gì của nó gián tiếp gây nên. Bài học rút ra từ câu chuyện là môi trường sống nhỏ bé sẽ khiến tầm nhìn trở nên hạn hẹp. Từ đó, truyện phê phán những kẻ hiểu biết nông cạn mà lại huênh hoang. Con người cần phải biết nhìn xa trông rộng dù môi trường sống có giới hạn và không nên chủ quan, kiêu ngạo mà coi thường những người xung quanh.

Như vậy, Ếch ngồi đáy giếng quả là một truyện ngụ ngôn hấp dẫn, ý nghĩa. Bài học được gửi gắm qua đó vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Chọn Lọc – Thầy Bói Xem Voi

Truyện ngụ ngôn là truyện kể dân gian bằng văn xuôi hay bằng thơ, mượn chuyện về loài vật, đồ vật, cây cỏ… làm ẩn dụ, hoặc chính chuyện con người để nói bóng gió, kín đáo chuyện đời, chuyện người, nhằm nêu lên bài học luân lí. “ Thầy bói xem voi” là một trong những câu chuyện ngụ ngôn hài hước, phản ánh một cách chân thực mà thực tế trong xã hội hiện nay đang diễn ra thông qua những đánh giá khách quan của những ông thầy bói.

Đây là một câu chuyện có ý nghĩa giáo dục cao về sự nhìn nhận của con người trong cuộc sống, là một bài học luân lí vô cùng quý báu.

Chuyện được kể về 5 ông thầy bói, mỗi người sờ vào một bộ phận của con voi. Người sờ đầu, người sờ ngà, người sờ tai, người sờ chân, người sờ đuôi. Chỉ như vậy thôi mà những ông thầy bói này đã đưa ra những kết luận dựa trên suy nghĩ của mình, không có một căn cứ nào nhưng họ luôn khẳng định ý kiến cá nhân của mình là đúng và cuối cùng đã gây ra tranh cãi dẫn đến việc đánh nhau.

Thầy sờ ngà thì bảo nó “chần chẫn như cái đòn càn”, thầy sờ tai bảo “bè bè như cái quạt thóc”, thầy xem chân bảo “sừng sững như cái cột đình”, thầy sờ đuôi bảo “chun chun”. Rõ ràng những ý kiến như vậy là hoàn toàn sai lầm, chỉ nhìn vào bộ phận mà đánh giá một cái toàn thể. Những hình thức bề ngoài không thể đánh giá được những thứ bên trong, một bộ phận không thể nói lên được tất cả. Sự bảo thủ của những ông thầy bói như là một trò cười trong mắt người đọc, làm cho con người ta có một cách nhìn nhận đúng đắn hơn về những vấn đề xảy ra trong cuộc sống hằng ngày.

Thực tế cho thấy, những ông thầy bói chỉ sờ bằng tay thôi mà có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng và đầy tự tin, ai cũng nghĩ là mình đúng, không ai nhường ai. Những con người này đã lấy những khuyết điểm trên cơ thể mình để áp đặt vào con voi, một con vật không có nhận thức, bản thân nó chỉ là một loài vật. Chắc hẳn, những ông thầy bói muốn khẳng định bản thân mình đối với những người còn lại chăng?

Không có một sự ràng buộc nào trong suy nghĩ của con người, học có quyền nghĩ rằng là mình đúng và muốn khẳng định ý kiến đó, nhưng những con người đấy không hiểu hết vấn đề, chỉ nông nổi đưa ra ý nghĩ chủ quan của bản thân mà thực tế trong câu chuyện là những ông thầy bói bị mù, chỉ cảm nhận thông qua bàn tay của mình rồi đưa ra kết luận một cách mù quáng, thiếu khoa học.

Qua câu chuyện trên, chúng ta có thể hiểu rõ hơn một phần nào những câu chuyện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, và có thể nhìn nhận một cách khách quan hơn, chính xác hơn. Đừng bao giờ đặt suy nghĩ chủ quan của mình vào người khác, không thể kết luận một sự việc nào đấy theo cảm nhận của mình. Hơn thế, chúng ta không được lấy cái bộ phận để đánh giá cái toàn thể khi nhìn nhận một vấn đề trong xã hội của chúng ta.

Đừng như những ông thầy bói trong câu chuyện để rồi phải gây ra ẩu đả, đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Tác giả dân gian không những chỉ ra những khuyến khuyết trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta thường xuyên gặp phải mà còn là một bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá.

Gợi ý cách 👉 Kể Lại Một Truyện Cổ Tích Bằng Lời Một Nhân Vật

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Đặc Sắc Nhất – Thánh Gióng

Truyện Thánh Gióng đã ca ngợi truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Điều đó không chỉ thể hiện lòng yêu nước, sự đoàn kết của dân tộc ta.

Truyện kể về sự ra đời, cũng như công lao đánh đuổi giặc Ân cứu nước của Thánh Gióng. Câu chuyện bắt đầu bằng lời giới thiệu: “Đời Vua Hùng thứ sáu, ở làng Gióng, có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn nổi tiếng là sống phúc đức nhưng vẫn chưa có một mụn con”. Từ đó, tác giả dân gian bắt đầu gợi mở về sự ra đời kì lạ của Gióng. Một hôm, bà lão đi ra đồng trông thấy một bàn chân to, liền ướm thử vào để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà lão mang thai, sau mười hai tháng thì sinh ra một câu bé. Cậu bé lên ba tuổi mà vẫn không biết nói, biết cười, đặt đâu thì nằm đấy. Có thể thấy rằng sự ra đời không giống với bất kỳ đứa trẻ bình thường nào, trái với quy luật của tự nhiên. Điều đó như một lời báo hiệu cuộc đời phi thường của cậu bé làng Gióng.

Bấy giờ có giặc Ân xâm lược nước ta, nhà vua bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Cậu bé nghe tiếng của sứ giả thì liền cất tiếng nói đầu tiên: “Mẹ mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, Góng yêu cầu sứ giả về nói với nhà vua chuẩn bị “một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một tấm áo giáp sắt” với lời hứa sẽ phá tan lũ giặc này. Câu nói đầu tiên là câu nói với lòng mong muốn xin đi đánh giặc cứu nước cứu dân. Câu nói mang tấm lòng yêu nước của một cậu bé mới ba tuổi nhưng đã có trách nhiệm với đất nước nhân dân.

Để rồi kể từ khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi: “Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ”. Hai vợ chồng làm bao nhiêu không đủ, phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Cả làng vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, ai cũng mong cậu giết giặc cứu nước. Có thể thấy rằng, sức mạnh của tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Gióng lớn lên trong vòng tay chăm sóc nuôi nấng của nhân dân.

Khi quân giặc đến gần bờ cõi, chàng Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ, mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Thánh Gióng đánh tan quân giặc, rồi trở về với cõi bất tử: “Thánh Gióng một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa bay lên trời”. Con người phi thường nên sự ra đi cũng trở nên phi thường. Thánh Gióng đã trở về với cõi bất tử. Đó chính là lòng tôn kính mà nhân dân ta dành cho một con người có công với đất nước.

Ở cuối truyện, tác giả dân gian còn kể về những dấu tích còn lưu lại. Nhà vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương, và lập đền thờ ở quê nhà, nay là làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hay hình ảnh những bụi tre ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun mới vàng óng như thế, những vết chân ngựa thành những ao hồ liên tiếp, ngựa thét ra lửa thiêu cháy một làng gọi là làng Cháy… Điều đó muốn thể hiện niềm tin bất diệt của nhân dân vào sức mạnh thần kì của dân tộc. Tác phẩm đã xây dựng nhiều chi tiết kì ảo, từ đó góp phần thể hiện ý nghĩa của câu chuyện.

Như vậy, Thánh Gióng chính là một trong những truyền thuyết hay, để lại nhiều bài học giá trị cho thế hệ sau.

Xem bài viết đầy đủ 🔻 Truyện Thánh Gióng 🔻 nội dung + giá trị

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Ngắn Hay – Thạch Sanh

 Thạch Sanh là một truyện cổ tích kì diệu nhất trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Hình ảnh chàng dũng sĩ chém Trằn tinh, bắn Đại bàng; cây đàn thần, niêu cơm thần của chàng dũng sĩ đã đem đến cho thế giới tuổi thơ bao kỳ thú, bao giấc mơ đẹp.

Thạch Sanh là con Trời, được đầu thai vào nhà vợ chồng Lục ông hiền lành, tốt bụng. Khác với người trần, Thạch Sanh nằm trong bụng mẹ nhiều năm mới cất tiếng chào đời. Yếu tố hoang đường ấy tạo nên chất kỳ diệu của truyện ca ngợi tính phi thường của Thạch Sanh. Vợ chồng Lục ông đã được Ngọc Hoàng thương cho đứa con trai khôi ngô tuấn tú nối dõi tông đường. Đó là niềm tin của dân gian: ở hiền gặp lành.

Mọi thứ hạnh phúc đều có giá và phải trả giá. Đường đời của Thạch Sanh cũng đầy gian truân. Phải chăng Ngọc Hoàng đang thử thách Thái tử? Chàng sớm mồ côi cả bố lẫn mẹ, nhà lại nghèo, phải trú lại một túp lều ở dưới gốc đa.

Chỉ một chiếc búa cùn, chỉ có một nghề kiếm củi độ thân. Tuổi thơ chàng bơ vơ, thật đáng thương! Thiên thần đã đến với đứa con mồ côi: dạy võ nghệ, các phép thần thông biến hoá, và trao cho chiếc búa thần. Qua các chi tiết hoang đường ấy, nhân dân gửi gắm bao ước mơ: phải có sức mạnh vô địch để sống, để tồn tại, để chiến thắng!

Cuộc đời Thạch Sanh là những năm tháng đầy gian truân thử thách, chiến công nối tiếp chiến công.

Thạch Sanh đến miếu thần là để thế mạng cho Lý Thông. Nhưng chàng đâu có biết? Trằn tinh là một yêu quái khổng lồ, có nanh sắc, có nọc độc, có sức mạnh ghê gớm, lại biết tàng hình, lắm phép lạ, người đời khiếp sợ, vua quan chịu bó tay. Dù bị tấn công trong thế bị động, nhưng Thạch Sanh cực kỳ dũng cảm, tài trí đã dùng phép lạ và búa thần giáng trả quái vật. Trằn tinh bị Thạch Sanh chém giết, bị cắt đầu, bị bổ xác.

Chàng thu được một bộ cung tên vàng. Thạch Sanh đã diệt trừ quái vật, trừ hậu hoạ cho nhân dân. Chàng dũng sĩ có thêm vũ khí mới: cung tên thần. Thạch Sanh đã có búa thần đế đánh gần, đánh ở tầm thấp, giờ đây lại có thêm cung tên thần, đế đánh ở tầm cao, tầm xa. Thử hỏi, kẻ thù nào địch nổi chàng dũng sĩ?.

Đại bàng là một kẻ thù rất nguy hiểm vì nó ở trên trời, lại có hang sâu bí mật. Thái tử con vua Thuỷ tề còn bị đại bàng bắt sống, giam giữ trong cũi sắt! Công chúa con vua còn bị Đại bàng quắp đi giữa thanh thiên bạch nhật, trước mắt bá quan văn võ và đông đủ anh tài trong thiên hạ! Thạch Sanh chỉ bắn một mũi tên vàng đã làm cho Đại bàng bị trọng thương.

Lần theo vết máu, dũng sĩ tìm đến hang ổ ác điểu. Đại bàng có mỏ sắc, vuốt nhọn, có sức mạnh ghê gớm. Thạch Sanh đã vung búa thần giáng trả, dùng cung tên thần bắn mù hai mắt quái vật. Đại bàng bị giết, bị phanh xác. Một kẻ thù nguy hiểm nữa của nhân dân đã bị chàng dũng sĩ tiêu diệt! Chiến công diệt đại bàng là một kì tích vì Thạch Sanh đã cứu được nàng công chúa và Thái tử con vua Thuỷ tề. Chiến công chấn động cõi đời mà còn vang động tới vương quốc Thuỷ tề.

Từ thuỷ phủ trở về, Thạch Sanh chỉ cầm trong tay một cây đàn thần làm kỉ niệm một chuyến viễn du thú vị. Chàng lại trở về gốc đa, chốn cũ yêu thương. Với chàng dũng sĩ thì vàng bạc châu báu cũng như dinh thự nguy nga, của ngon vật lạ đều trở nên xa lạ. Túp lều gốc đa là nơi chàng đã sinh ra, lớn lên, với bao kỷ niệm buồn vui. Thạch Sanh trở về gốc đa, một tình tiết, phải chăng nói lên quan niệm nhân sinh tốt đẹp của nhân dân thời xưa: Một túp lều tranh, một trái tim vàng?

Với Thạch Sanh, cây đàn thần không phải là một nhạc cụ để mua vui mà là một vũ khí vô cùng linh nghiệm. Nơi chàng đánh đành, gảy đàn là trong ngục. Tiếng đàn để giãi bày. Tiếng đàn như một thứ “thần dược” làm cho công chúa đang bị câm nghe tiếng đàn mà nói lên được! Nhờ tiếng đàn mà chàng dũng sĩ được gặp lại người đẹp, rồi được minh oan, vạch trần bộ mặt thật của Lý Thông, tên bán rượu xảo quyệt, cướp công, độc ác, âm mưu hãm hại người…

Thạch Sanh không dùng búa thần, cung tên thần để giao tranh với tướng sĩ 18 nước chư hầu, mà chỉ dùng đàn thần để lui giặc. Đó là tiếng đàn hoà bình. Niêu cơm Thạch Sanh là niêu cơm hàng vạn người ăn mãi không hết; niêu cơm ấm no, hạnh phúc. Đàn thần và niêu cơm thần đã góp phần tô đậm vẻ đẹp kì diệu truyện Thạch Sanh.

Thạch Sanh tha tội cho Lý Thông, kẻ đã cướp công và hãm hại mình. Hành động ấy thể hiện lòng độ lượng, nhân ái, bao dung cao đẹp.

Nhân vật Thạch Sanh thật đẹp. Với búa thần, cung tên vàng, đàn thần, với võ nghệ và phép thần thông biến hoá, chàng dũng sĩ đã chém trằn tinh, giết đại bàng, trừ diệt cái ác, tai hoạ cho nhân dân, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đem lại hoà bình. Thạch Sanh đã trải qua bao gian truân thử thách, lấp lánh bao chiến công hiển hách, được kết duyên với công chúa, chàng đã thể hiện ước mơ của nhân dân, những ước mơ hồn nhiên, trong sáng và rất đẹp. Thật vậy, truyện Thạch Sanh là một truyện cổ tích thần kì, nói lên một giấc mơ đẹp của nhân dân ta bao đời nay.

Đọc chi tiết hơn 👉 Truyện Thạch Sanh Lý Thông

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Dài Hay – Sọ Dừa

Truyện cổ tích Sọ Dừa là câu chuyện đặc sắc và hấp dẫn. Ở câu chuyện này nổi bật ở giá trị nghệ thuật và chủ đề sâu sắc mà câu chuyện mang lại.

Sọ Dừa là một truyện cổ tích thần kì, cũng như những truyện cổ tích thần kì khác, yếu tố kì ảo thường phong phú và tham gia vào sự phát triển của cốt truyện. Trong truyện Sọ Dừa, tác giả dân gian đã sử dụng nhiều yếu tố kì ảo: Bà mẹ uống nước trong cái sọ dừa, thụ thai rồi sinh ra Sọ Dừa không có đầu, mình, chân, tay, chỉ là một cục thịt tròn lăn lông lốc nhưng biết nói.

Sọ Dừa có thể trút lốt thành một thanh niên khôi ngô, tuấn tú, thổi sáo giỏi, chăn bò khéo; hoá phép ra nhiều vàng bạc, lụa đào, biến ngôi nhà tồi tàn lụp sụp thành nhà cao cửa rộng, có kẻ hầu người hạ; hai con gà biết gáy tiếng người mách cho Sọ Dừa vào đảo đón vợ.

Những yếu tố kì ảo kể trên có tác dụng làm cho truyện thêm hấp dẫn người nghe. Hơn nữa, nó làm cho truyện phát triển và kết thúc theo mong ước của nhân dân. Chẳng hạn, nếu không có yếu tố kì ảo thì một người dị dạng như Sọ Dừa làm sao có thể bỗng chốc biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, hay ngôi nhà lụp sụp của hai mẹ con Sọ Dừa làm thế nào chỉ trong một đêm có thể trở thành một tòa nhà lớn và sang trọng được…

Mở đầu truyện Sọ Dừa, tác giả dân gian kể rằng, ở làng nọ có hai vợ chồng nghèo đi ở cho phú ông. Một hôm người vợ vào rừng hái củi, khát nước quá mà chẳng tìm đâu ra nước, chỉ có cái sọ dừa bên gốc cây đựng đầy nước mưa. Bà đành phải uống, thế rồi có mang và sinh ra Sọ Dừa. Đó là sự ra đời không bình thường, nhờ sự tham gia của yếu tố kì ảo. Sự ra đời đó thường báo hiệu một số phận khác thường của nhân vật cổ tích. Đằng sau nhân vật Sọ Dừa là cái nhìn đầy trắc ẩn và nhân đạo của nhân dân đối với những người có hình thức xấu xí và số phận không may mắn.

Sọ Dừa tuy là một người dị dạng, xấu xí, nhưng chàng cũng là một người có tài. Tài năng của chàng trước hết là lao động giỏi. Chàng chăn bò rất giỏi, thể hiện qua chi tiết: đàn bò của chàng, con nào con nấy ăn no béo tròn.

Chàng cũng là người thổi sáo rất hay: tiếng sáo véo von khiến cô Ba ngạc nhiên và tò mò phải để ý và đem lòng yêu. Chàng cũng là người có phép lạ, tạo ra nhiều biến hoá kì dị. Những phép lạ đó vừa thể hiện ước mơ bay bổng của tác giả dân gian, vừa là sự thần thánh hoá, kì ảo hoá những thành công lao động của con người.

Giữa hình dạng xấu xí của Sọ Dừa với tài năng của chàng chưa tương xứng với nhau, nhất là theo quan niệm thẩm mĩ dân gian. Sọ Dừa là người có tài năng kì lạ và phẩm chất tốt đẹp của người lao động nhưng vẻ ngoài của chàng lại quá xấu xí. Sự không tương xứng ấy bộc lộ một triết lí dân gian sâu sắc. Đó là, không nên nhìn con người chỉ qua hình thức bên ngoài, cần phải nhìn nhận và đánh giá con người ở nội dung, ở phẩm chất và tài năng của họ.

Tuy nhiên, cũng theo quan niệm thẩm mĩ dân gian, cái tốt luôn đi cùng với cái đẹp. Quan niệm đó là, người tốt người giỏi nhất định phải là người đẹp, đã là người đẹp thì nhất định phải đẹp từ phẩm chất đến hình thức và ngược lại. Trong truyện cổ tích không có người nào chỉ đẹp về nội dung hoặc chỉ đẹp về hình thức mà thôi. Vì vậy, hình thức xấu xí không cần trổ tài năng và hạnh phúc của Sọ Dừa, song tác giả dân gian vẫn không để cho một người giỏi như chàng phải mãi mang cái vỏ xấu xí như vậy.

Cuối cùng, Sọ Dừa cũng trút bỏ vĩnh viễn cái lốt xấu xí để trở thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú phù hợp với quan niệm thẩm mĩ của nhân dân.

Viết Văn Bản Nghị Luận Đánh Giá Một Truyện Kể Chi Tiết – Cây Tre Trăm Đốt

Truyện cổ tích là một thể loại truyện luôn hấp dẫn và cuốn hút đối với bất cứ ai ngay từ tuổi thơ ấu. Những câu chuyện luôn có các yếu tố tưởng tượng kỳ ảo cùng bài học nhân văn sâu sắc. “Cây tre trăm đốt” là một trong những câu chuyện hay nhất trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam. Truyện cho người đọc, người nghe nhưng giây phút thư giãn, lý thú cùng bài học về cái thiện, cái ác, ở hiền nhất định sẽ gặp lành.

Truyện “Cây tre trăm đốt” khắc họa hai tuyến nhân vật nông dân với địa chủ, kẻ giàu với người nghèo trong đời sống xã hội Việt Nam trước đây. Đại diện cho hình ảnh người nông dân là anh nông dân nghèo khó, lam lũ, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên anh đi làm thuê cho nhà phú ông giàu có. Anh là một người chăm chỉ, chịu khó, làm việc hăng hái quần quật không ngại nắng mưa.

Thấy anh thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, tên phú ông gian xảo đã bày kế lợi dụng anh và nói rằng cứ làm việc chăm chỉ ông sẽ gả con gái cho. Qua hình ảnh anh nông dân nghèo cùng tên địa chủ tham lam, tác giả dân gian đã khắc họa rõ nét hình ảnh người nông dân Việt Nam chịu thương chịu khó, thật thà và lương thiện nhưng vì nghèo khó không có ruộng đất nên phải đi làm thuê làm mướn cho nhà địa chủ.

Còn những tên địa chủ xưa qua cách kể của tác giả dân gian là những tên trọc phú giàu nhưng lại rất gian xảo, luôn bày kế bóc lột sức lao động của người dân lương thiện. Qua đây, người đọc hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân dưới xã hội cũ.

Truyện mang những yếu tố kỳ ảo đặc sắc. Điều đó thể hiện trong chi tiết ông bụt cùng câu thần chú. Đó là chi tiết tưởng tượng rất hay trong câu chuyện cổ tích. Một thần tiên luôn giúp đỡ những người tốt bụng nhưng lại gặp hoàn cảnh éo le. Năm tháng trôi qua, anh nông dân vẫn làm việc chăm chỉ hàng ngày để có thể cưới con gái phú ông như lời hứa năm xưa.

Nhưng đến ngày cô con gái đến tuổi lấy chồng, tên phú ông đã hứa gả cô cho người giàu có khác. Đến ngày cưới, phú ông lừa anh nông dân vào rừng chặt cây tre trăm đốt về ông mới gả con gái cho. Bản tính thật thà, anh hăm hở vào rừng chặt tre. Nhưng anh tìm mãi cũng không có cây nào đủ trăm đốt, anh buồn bã ngồi biết mình đã bị lừa nên khóc. May mắn lúc này bụt hiện lên và giúp đỡ anh, bụt nói anh tìm đủ trăm đốt tre rồi hô “khắc nhập, khắc nhập” thì sẽ có cây tre trăm đốt.

Còn nếu muốn các đốt tre rời ra để mang về anh chỉ cần hô “khắc xuất, khắc xuất”. Chúng ta đã từng bắt gặp hình ảnh bụt qua truyện “Tấm Cám” đã giúp đỡ cô Tấm ngoan hiền, vị tiên trong “Bánh chưng, bành dày” đã giúp đỡ Lang Liêu hiếu thảo, chăm chỉ, thì nay lại gặp lại hình ảnh bụt giúp đỡ anh nông dân trong “Cây tre trăm đốt”. Qua chi tiết này, tác giả dân gian muốn nhấn mạnh rằng những người lương thiện, chăm chỉ và luôn cố gắng thì dù gặp khó khăn gì cũng sẽ được quý nhân giúp đỡ.

Câu chuyện “Cây tre trăm đốt” thể hiện niềm tin, ước vọng của nhân dân lao động xưa, cái thiện luôn chiến thắng cái ác, ở hiền sẽ gặp lành. Anh nông dân trở về thì nhà địa chủ đang làm đám cưới linh đình cho cô con gái. Anh nói với địa chủ rằng đã mang được cây tre trăm đốt về thì ai nấy đều chế giễu anh làm gì có cây tre trăm đốt.

Anh liền hô “khắc nhập, khắc nhập” thì trăm đốt tre liền lại thành cây tre đủ trăm đốt, cả lão địa chủ xấu xa cũng bị dính liền vào cây. Địa chủ van xin mãi và hứa rằng sẽ giữ lời để anh cưới con gái ông. Nói rồi anh nông dân hô “khắc xuất, khắc xuất” các đốt tre lại rời nhau ra và anh được cưới con gái địa chủ làm vợ. Cuối cùng thì người hiền lành, lương thiện cũng thỏa ước nguyện, anh nông dân nghèo chăm chỉ đã cưới được vợ.

Qua đây, chúng ta thấy được niềm khát khao vươn lên, chiến thắng cái ác, khát khao hạnh phúc của nhân dân lao động xưa. Những người lao động nghèo khổ luôn bị trà đạp, bóc lột nhưng họ vẫn không ngừng bày tỏ ước mơ, khát khao của bản thân mình, mượn những câu chuyện dân gian như thế để giãi bày.

“Cây tre trăm đốt” là truyện cổ tích hay có từ lâu đời ở nước ta. Trải qua bao thế hệ nhưng câu chuyện vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay qua lời kể của bà, của mẹ, rồi được in trong sách, báo. Điều đó khẳng định sức sống mạnh liệt và bài học nhân văn sâu sắc từ những câu chuyện dân gian. Câu chuyện là bài học đạo đức sâu sắc của người xưa dạy dỗ con cháu đời đời về cuộc sống “ở hiền gặp lành”.

Gửi đến bạn nội dung truyện 👉 Cây Tre Trăm Đốt

Viết Văn Bản Nghị Luận Đánh Giá Một Truyện Kể (Thần Trụ Trời) Hay Nhất

Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.

Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu.

Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.

Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy.

Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.

Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn.

Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.

Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.

Xem thêm bài 👉 Thuyết Phục Người Khác Từ Bỏ Thói Quen Xấu

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Truyện Lớp 10 – Prô-mê-tê Và Loài Người

Tại sao trên Trái Đất lại có sự xuất hiện của con người và muôn vật? Đây vốn là câu hỏi khiến bất kì ai trong chúng ta cũng thắc mắc và cần tìm lời giải đáp. Để trả lời cho câu hỏi trên, truyện “Prô-mê-tê và loài người” trích trong “Thần thoại Hy Lạp” đã lí giải một cách sáng tạo về nguồn gốc thế giới loài vật và con người. Đặc biệt, truyền còn gây ấn tượng với người đọc bằng nội dung thú vị và nghệ thuật độc đáo.

Truyện “Prô-mê-tê và loài người” kể về việc hai vị thần Prô-mê-tê và Ê-pi-mê-tê nặn ra các loài vật và loài vật, đồng thời ban cho chúng một thứ vũ khí riêng biệt. Câu chuyện đã thể hiện cách lí giải nguồn gốc hình thành con người cùng thế giới các loài vật của người Hy Lạp xưa.

Truyện thần thoại là thể loại có yếu tố không gian vũ trụ và thời gian cổ xưa, không được xác định. Trong “Prô-mê-tê và loài người”, hai yếu tố ấy cũng được thể hiện rõ nét qua khung cảnh buồn tẻ của thế gian khi “chỉ mới có các vị thần”.

Chính vì lẽ đó, hai anh em Prô-mê-tê và Ê-pi-mê-tê đã xin phép U-ra-nôx và Gai-a tạo cho thế gian một cuộc sống đông vui hơn. Nhận được sự ưng thuận, hai vị thần đã quyết định tạo ra con người và muôn vật. Người em Ê-pi-mê-tê vô cùng vui mừng và hào hứng nên đã tranh lấy việc làm ra mọi giống loài với những vũ khí riêng biệt, có loài thì “chạy nhanh như gió”, có loài lại “có nọc độc gớm ghê” rồi có loài thì “có bộ lông dày”, “con có sải cánh rộng”, “con thì có đôi mắt xanh”, “con có thân hình khổng lồ”, “con thì xuống nước không chìm”, “con thì trèo leo thoăn thoắt”.

Tuy nhiên, trong quá trình nhào nặn, thần Ê-pi-mê-tê cũng không thể tránh khỏi những sai lầm. Vì sự đãng trí của mình, thần đã quên bạn phát vũ khí tự vệ cho loài người. Để có thể sửa sai cho em trai của mình, thần Prô-mê-tê đã tái tạo để con người có dáng đứng thẳng, đi bằng hai chân và lấy lửa làm thứ vũ khí đặc biệt để ban cho loài người. Kể từ đây, cuộc sống của con người ngày càng trở nên tốt đẹp, văn minh hơn. Ngọn lửa của Prô-mê-tê chính là ngọn lửa của sự sống, mang đến cho con người ánh sáng thoát khỏi cảnh u tối của màn đêm:

“Và từ đó dẫu mong manh và bấy yếu
Giống loài người đã có ngọn lửa của Prô-mê-tê
Ngọn lửa thiêng dạy cho họ biết bao nghề”.

Truyện “Prô-mê-tê và loài người” đã khắc họa nổi bật chủ đề của truyện thần thoại – lí giải nguồn gốc của con người và thế giới muôn vật, đồng thời là những ngợi ca của người Hy Lạp xưa đối với công lao to lớn của mỗi vị thần. Qua câu chuyện , ta thấy cách lí giải nguồn gốc con người của người Hy Lạp xưa xuất phát từ mong muốn có một cuộc sống phong phú, văn minh và tươi sáng hơn.

Để làm sáng tỏ chủ đề của truyện, chúng ta phải kể đến những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật. Truyện “Prô-mê-tê và loài người” có cốt truyện đơn giản, gần gũi, xoay quanh việc các vị thần tạo ra muôn vật và con người.

Bên cạnh đó, việc khắc họa nhân vật là các vị thần quen thuộc cũng tạo nên sự hấp dẫn cho cốt truyện. Hai nhân vật là Prô-mê-tê và Ê-pi-mê-tê những vị thần, nắm giữ sức mạnh phi thường mà con người không thể có. Tuy nhiên, hai vị thần lại có nét tính cách gần gũi với con người. Đó là thần Ê-pi-mê-tê “đần độn”, đãng trí khi quên ban phát vũ khí cho con người. Đó còn là thần Prô-mê-tê có tầm nhìn xa trông rộng trong việc sửa chữa các sai lầm của người em.

Truyện “Prô-mê-tê và loài người” được lưu truyền qua nhiều thế hệ và được mọi người đón nhận nồng nhiệt. Thế giới tâm linh vẫn luôn là thế giới bí ẩn mà con người sử dụng để giải thích cho những sự vật, hiện tượng không thể lí giải trong cuộc sống hằng ngày. Truyện “Prô-mê-tê và loài người” đã giúp chúng ta thấy được trí tưởng tượng cùng sáng tạo của người Hy Lạp xưa. Qua đây, chúng ta cần trân trọng những giá trị tốt đẹp của các nền văn minh khác nhau trên thế giới.

Gợi ý cách 👉 Viết Bài Văn Giới Thiệu Một Cuốn Sách Yêu Thích

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Truyện Kể Lớp 10 Ngắn Gọn – Đi San Mặt Trời

Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện “Thần Trụ trời”, ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc “Prô-mê-tê và loài người”, ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và loài người.

Không giống hai tác phẩm trên, truyện “Đi san mặt đất” lại là những lí giải đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.

Truyện “Đi san mặt đất” có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:

“Ngày xưa, từ rất xưa…
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa…
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm”

Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản.

Trước khi đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ “bụng đá” “Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá”. Tuy nhiên, sống trong không gian hoang sơ, thiếu thốn khi “Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô” nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.

Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:

“Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài”

Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên “Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy”.

Truyện “Đi san mặt đất” của người Lô Lô không chỉ đơn thuần là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.

Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện “Đi san mặt đất” còn có những đặc sắc ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.

Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.

“Đi san mặt đất” là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.

Khám phá thêm 🔻 Đi San Mặt Đất 🔻 nội dung + nghệ thuật

Viết một bình luận