20+ Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Lớp 6 Ngắn Gọn (Siêu Hay)

Trong bài viết này, Thohay.vn giới thiệu cho học sinh lớp 6 top 20 bài văn kể lại một truyền thuyết siêu hay để các em trau dồi thêm kĩ năng viết.

NỘI DUNG CHÍNH

Kể Lại Một Truyền Thuyết Là Gì?

Kể lại một truyền thuyết là thuật lại một câu chuyện truyền thuyết đã được truyền miệng hoặc ghi chép từ trước. Việc kể lại này có thể diễn ra bằng lời nói, viết lách hoặc các hình thức nghệ thuật khác như kịch, tranh vẽ, hay phim ảnh. Mục đích của việc kể lại truyền thuyết có thể là để gìn giữ và truyền bá văn hóa dân gian, giáo dục thế hệ trẻ hoặc đơn giản là để giải trí và tạo kết nối giữa các thế hệ.

Xem thêm tuyển tập những 👉 Mẫu Viết Bài Văn Đóng Vai Nhân Vật Kể Lại Một Truyện Cổ Tích

Cách Kể Lại Một Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em

Đón đọc cách làm bài văn kể lại một truyền thuyết đơn giản dựa vào các bước cụ thể sau đây:

  • Bước 1: Giới thiệu về truyền thuyết định kể, khái quát chung về các nhân vật.
  • Bước 2: Tập trung vào việc kể lại truyền thuyết dưới góc nhìn cá nhân
    • Có thể kể lại truyền thuyết theo trục thời gian;
    • Kể lại truyền thuyết thông qua từng nhân vật;
    • Đảm bảo các tình tiết, nội dung mạch lạc, rõ ràng và có logic, dễ hiểu.
  • Bước 3: Đánh giá về truyền thuyết, bài học rút ra (nếu có).
    • Đưa ra cảm nhận cá nhân về truyền thuyết.
    • Nêu lên lý do vì sao truyền thuyết này lại có ý nghĩa đặc biệt với em hoặc cộng đồng.

Các Chủ Đề Câu Chuyện Truyền Thuyết Hay

Các câu chuyện truyền thuyết hay thường xoay quanh nhiều chủ đề phong phú và đa dạng, phản ánh văn hóa, lịch sử và tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Dưới đây là một số chủ đề phổ biến trong các câu chuyện truyền thuyết hay:

  • Nói về nguồn gốc, hình thành của một quốc gia, một hiện tượng hoặc sự vật gì đó
  • Thường kể lại cuộc đời và chiến công của nhân vật lịch sử
  • Giải thích nguồn gốc các phong tục, sản vật địa phương theo quan điểm của tác giả dân gian.

Tham khảo thêm viết 👉 Mẫu Kể Lại Một Truyện Cổ Tích Bằng Lời Một Nhân Vật

Dàn Ý Kể Lại Một Truyền Thuyết

Tham khảo mẫu dàn ý kể lại một truyền thuyết được Thohay.vn biên soạn sau đây để các em có thể triển khai bài văn thêm logic, đầy đủ ý.

I. Mở bài

  • Chọn một truyện thuyết mà em yêu thích để kể.
  • Giới thiệu tổng quan về truyện, bao gồm tên truyện, nguồn gốc, nội dung chính và ý nghĩa.

II. Thân bài

  • Kể lại các chi tiết của truyện theo thứ tự thời gian, bao gồm các nhân vật, sự kiện và địa điểm liên quan.
  • Nêu ra những bài học hay giá trị mà truyện mang lại cho bạn và người đọc.

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về truyện hoặc nhân vật chính trong truyện.

Gợi ý 🔽 Viết Bài Văn Thuyết Minh Thuật Lại Một Sự Kiện 🔽 hay nhất

20+ Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Lớp 6 Ngắn Hay

Đón đọc thêm những mẫu bài văn kể lại một truyền thuyết lớp 6 ngắn hay sau đây để có thể rèn luyện thêm kĩ năng viết cũng như cách diễn đạt bài văn sao cho thật hấp dẫn.

Kể Lại Một Câu Chuyện Truyền Thuyết Mà Em Biết

Nữ Oa (女媧) còn gọi là là Nữ Oa nương nương (女媧娘娘). Bà là nữ thần thượng cổ vĩ đại nhất trong thần thoại Trung Hoa,. Được liệt vào trở thành một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Có truyền thuyết cho rằng Nữ Oa và Phục Hy là hai anh em. Nhưng về sau họ đã dâng đồ tế để xin đấng tạo hóa cho phép họ lấy nhau. Thế nên Nữ Oa vừa là vợ vừa là em gái của Phục Hy.

Sau khi khai thiên lập địa, trên trời có mặt trời, trăng, sao, dưới đất thì có cỏ cây, chim muông…chỉ không có loài người. Thế nên mà trời đất vẫn có chút cô quạnh.

Không biết từ lúc nào thì xuất hiện một vị nữ thần vô cùng thần thông quảng đại, bà tên là Nữ Oa. Một hôm đi đường bà cảm thấy rằng nhân gian quá vắng vẻ, thiếu đi thứ gì đó, bà cứ nghĩ. Rồi đi qua một cái hồ nhỏ. Bà soi được bóng mình trong phản chiếu trên mặt nước. Bà cười, hình ảnh trên mặt nước cũng cười theo. Bà giả vờ giận, hình bóng trong nước cũng giận theo. Bà nghĩ rằng: “nhân gian thứ gì cũng có rồi, nhưng lại không có ai giống mình, sao lại không tạo ra những sinh vật như mình đây?”

Vừa nghĩ thì bà lấy bùn vàng trộn với nước, nặn thành các hình người. Bà bỏ chúng lên mặt đất thì chúng lại hoạt bát chạy nhảy mở miệng gọi mẹ. Bà vô cùng vui mừng rồi đặt tên cho đứa trẻ là “người”.

Tuy rằng thân thể của người nhỏ bé nhưng dù sao cũng là được thần tạo ra. Thế nên diện mạo và hành động của nó đều giống với thần, nó có thể chạy nhảy, bay,…Thế rồi bà lại tiếp tục tạo ra các đứa bé người nữa. Dần dần bà cũng bớt cô đơn. Cứ thế ngày nào bà cũng nặn, nặn từ sáng đên tối. Bà muốn trên mặt đấy có nhiều hơn những con người nhưng mà mặt đất quá rộng. Bà cố gắng rất lâu mà vẫn chỉ nặn được một phần nhỏ.

Thế rồi bà lại nghĩ ra một cách khác rằng kết hợp nam với nữ để họ tạo ra những đứa bé. Như vậy bà không cần phải tiếp tục nặn nữa mà con người còn có thẻ tiếp tục duy trì cho đến về sau. Chính nhờ bà mà nam nữ mới có quan hệ hôn nhân, loài người tiếp tục phát triển.

Giữa lúc con người đang không ngừng sinh sôi nảy nở thì trời đất bỗng nhiên xảy ra dị tượng. Trên mặt đất đã xuất hiện rất nhiều vết nứt, trong những vết nứt đó không ngừng bốc ra lửa nóng và nước thối. Trên trời xanh thì xuất hiện rất nhiều lỗ dột, nước mưa, băng tuyết và thiên thạch không ngừng rơi xuống qua những lỗ dột này. Tai nạn đột ngột giáng xuống con người ở thế gian. Trên mặt đất có chỗ lửa bốc cao ngùn ngụt, có nơi trở thành biển rộng mênh mông, hung cầm, mãnh thú thừa cơ giết hại con người. Cảnh ngộ của con người quả thực là cực kỳ bi đát và muôn vàn nguy hiểm.

Chính trong lúc này Nữ oa đã ra tay cứu vớt con cháu của bà. Bà đốt cháy từng đống củi lau để luyện thành những tảng đá năm màu đỏ, vàng, xanh, trắng, đen. Dùng những tảng đá này để tu bổ, vá lấp những chỗ thủng dột trên trời xanh.

Bà lại bắt từ biển cả những con rùa cực lớn. Chặt lấy bốn chân của chúng thay thế bốn cột trời đã bị mục gẫy. Nước mưa từ trên trời đổ xuống lênh láng, là tai họa do Rồng đen tạo ra. Nữ Oa liền giết chết Rồng đen. Nước hôi thối từ dưới đất phun lên quá nhiều.

Nữ Oa liền dùng đất trộn củi lau bịt chặt chỗ nứt có dòng nước phun. Cuối cùng bầu trời xanh đã được hàn vá xong. Trên mặt đất cây cối và hoa cỏ lại bắt đầu đâm chồi, nẩy lộc. Loài người lại có thể được sống bình yên. Nữ Oa chẳng những đã tạo ra con người, còn cứu vớt được loài người thoát khỏi thảm cảnh hủy diệt của thiên nhiên.

Kể Lại Một Truyền Thuyết Mà Em Đã Đọc Hay Đặc Sắc – Cố Ghép

Ngày xưa, ở dưới chân núi Hồng Lĩnh về phía Đông Nam, có một xóm nhỏ gồm mấy gia đình đánh cá. Họ luôn sống giữa những tiếng gầm thét của sóng biển. Nhưng không may, một ngày kia, một trận bão lớn đã cuốn đi khá nhiều nhân mạng cùng thuyền mảng và lưới chài xuống thuỷ phủ.

Những người sống sót hết đường sinh nhai, đành rủ nhau ngày ngày lên núi kiếm củi đem về bán ở chợ. Đó là nghề ít vốn nhất nhưng lại là nghề mệt nhọc nhất đối với họ, vì sườn núi phía họ ở mọc dựng đứng như bức tường, muốn leo núi với gánh củi trên vai không thể không đi đường vòng ngoắt ngoéo qua bao nhiêu thôn xóm khác. Thành ra, rừng thì gần nhưng đường thì lại quá xa. Cho nên mọi người ước làm sao có một con đường từ xóm thẳng lên núi để đi được nhanh chóng.

Bấy giờ trong xóm có một ông lão nhà nghèo sống với vợ con trong một túp lều. Người ta gọi ông là cố Đương, là vì hễ gặp việc gì khó khăn, bất kì việc của ai, ông đều ra đương lấy và quyết làm kì được. Thấy việc trèo núi phải đi đường vòng rất xa, cố Đương cho là việc vô lý hết sức. Thường những lúc rảnh rỗi, ông vẫn một mình lần mò bám đá leo cây để tìm con đường đi kiếm củi gần nhất.

Nhưng mỗi khi đứng trước sườn núi cheo leo ông vẫn bực mình, nghĩ bụng: “Nếu không ghép đá thành bậc thang thì đừng có hòng vượt lên khỏi mấy cái dốc này!”. Ông đem ý ấy hỏi vợ. Vợ ông cho là việc điên rồ. Ông hỏi thử một vài người làng, họ đều lắc đầu bảo:

– Không được đâu cố Đương ạ! Chúng ta còn phải lo miếng ăn hàng ngày đã chứ!

Cố Đương trầm ngâm bảo họ:

– Cứ mỗi lần phải đi “năm xóm cây đa, ba xóm cây thị” để vào nơi lấy củi, tôi lại muốn lộn tiết lên được!

Năm tuần trăng trôi qua. Nghề kiếm củi đã trở nên nghề chính của mấy gia đình đánh cá thất bại kia. Họ đã yên tâm với nghề nghiệp mới. Chỉ trừ có cố Đương là chưa thật yên tâm. Một hôm cố bảo vợ:

– Từ ngày mai trở đi, bà gắng đi kiếm củi một mình. Còn tôi, tôi sẽ tìm cách trổ một con đường mới lên núi. Ngày nào tôi làm xong, hai vợ chồng mình tha hồ đi củi.

Người vợ vốn biết tính chồng hễ nói là làm, nhưng lần này thì bà hết sức can ngăn:

– Ông đừng có địch với vua, đừng có đua với trời. Già kề miệng lỗ rồi chứ còn trẻ trai gì nữa đâu!

Nhưng cố Đương an ủi:

– Bà đừng lo! Biển kia rất rộng người ta cũng vượt được. Dãy Giăng Màn rất cao người ta cũng trèo qua. Bạt núi này thành đường thực ra không khó. Một mình tôi cũng làm được. Bà hãy chịu khó ít lâu. Mai kia ta sẽ đi đốn củi gấp đôi gấp ba hôm nay, lúc ấy cả xóm chúng ta sẽ sung sướng.

– Ông định ghép bao lâu thì xong?

– Không nói trước được. Một năm chưa xong thì hai, hai năm chưa xong thì bốn. Nếu tôi chết đi mà vẫn chưa làm xong thì sẽ có người khác tiếp tục…

Thế là từ hôm đó, cố Đương ngày ngày mang một mo cơm lên núi. Ông bạt đất. Ông nhổ cây. Ông khiêng đá. Và ông ghép đá thành con đường tam cấp hướng thẳng lên núi. Công việc biết bao nặng nề! Nhưng quả không có gì cản được cái chí con chim hồng chim hộc. Ông càng làm càng khoẻ, càng nhọc càng hăng. Cứ thế trong năm sáu tuần trăng, ông vẫn sớm đi tối về như không biết mỏi là gì. Người vợ không nhịn được nữa, một hôm kêu lên:

– Tội gì để cho mình ông đầu tắt mặt tối, cả nhà ông nheo nhóc rách rưới như thế. Ốc mang mình ốc chưa nổi lại còn mang cả cọc! Đường làm thành thì ai cũng đi, đâu có riêng mình ông. Thôi! Từ nay ông đi đâu thì đi, đừng có về nhà này làm gì nữa.

Nghe nói thế, cố Đương lựa lời dỗ dành vợ. Nhưng người đàn bà cố tình làm cho chồng nản chí. Bà ta nhất định không nuôi báo cô ông nữa.

Từ đấy ông thôi không về nhà, dựng một túp lều ngay bên chỗ mình làm việc. Hễ ghép được đến đâu ông lại dời lều đến đó. Thấy ông đói, những con vượn mang hoa quả đến cho ông. Thấy ông đuối sức, những con bò rừng, những con nai ghé sừng nạy những tảng đá giúp ông. Rồi những con chim thay nhau ca hát suốt ngày để cho ông quên mệt. Về sau có mấy người trong xóm cũng tình nguyện đến làm với ông. Thấy thế, cố Đương như tăng thêm sức mạnh, càng miệt mài với công việc.

Cứ như thế, sau năm lần sim có quả, cố Đương đã mở được một con đường truông ngắn nhất từ xóm mình thông lên những đỉnh cao trên dãy Hồng Lĩnh. Ông đã ghép đá thành tam cấp của ba dốc núi khó đi nhất. Dân xóm lên núi xuống núi rất tiện và từ đó họ có thể trong một ngày kiếm được mấy lần củi.

Ngày nay, ở phía Nam Hồng Lĩnh, chỗ giáp giới hai huyện Nghi Xuân và Can Lộc có một cái truông gọi là truông Vắn [*] hoặc gọi là truông Ghép. Cái tên cố Đương người ta quen gọi là cố Ghép.

Đọc thêm bài 👉 Chia Sẻ Một Trải Nghiệm Về Nơi Em Sống Hoặc Từng Đến

Kể Lại Một Truyền Thuyết Ngoài Sách Giáo Khoa Chọn Lọc – Chử Đồng Tử Và Tiên Dung

Đời Hùng Vương thứ mười tám, tại làng Chử Xứ, có chàng trai tên là Chử Đồng Tử. Nhà nghèo, mẹ mất sớm, chàng sống cùng với cha. Họ chỉ có một chiếc khố để mặc chung. Khi cha mất, Chử Đồng Tử thương cha nên đã quấn khố chôn cha, còn mình đành ở không.

Một hôm, Chủ Đồng Từ đang mò cá dưới sông thì nhìn thấy một đoàn thuyền sang trọng đi tới. Đó là đoàn thuyền của công chúa Tiên Dung, con gái Vua Hùng. Chàng hoảng hốt chạy tới khóm lau để trốn, rồi lấy cát phủ lên mình.

Nào ngờ, công chúa lại chọn chỗ bãi sông đẹp làm nơi dừng chân và sai người quây màn nơi khóm lau mà tắm. Nước dội làm cát trôi đi, để lộ ra một chàng trai tuấn tú. Công chúa Tiên Dung rất đỗi bàng hoàng. Nhưng khi biết được gia cảnh của chàng trai, nàng rất cảm động và cho rằng đây là duyên phận nên đã quyết định lấy Chử Đồng Tử làm chồng.

Hai vợ chồng Chử Đồng Từ quay về kinh, tìm thầy học đạo rồi đi khắp nơi truyền dạy cho nhân dân nhiều nghề như trồng lúa, dệt vải. Sau này, cả hai đều hóa lên trời. Tuy vậy, Chử Đồng Tử vẫn hiển linh giúp nhân dân đánh giặc.

Nhân dân ghi nhớ công ơn Chử Đồng Tử đã lập đền thờ bên bờ sông Hồng. Ngoài ra, họ còn nô nức làm lễ, mở hội để tưởng nhớ ông.

Kể Lại Một Truyền Thuyết Thánh Gióng Nổi Tiếng

Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ ai khi ấy cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế.

Đời Hùng Vương thứ sáu, ở láng Gióng, có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng phúc đức nhưng đến lúc sắp về già mà vẫn chứa có lấy một mụn con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng, thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, nhưng mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu nằm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.

Thuở ấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược bờ cõi nước ta, gây nên bao nhiêu tội ác, dân chúng vô cùng lầm than, khổ sở. Xét thấy thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Sứ giả đi đến mọi nơi, đi qua cả làng của Gióng. Nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng cất tiếng nói đầu tiên:

– Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.

Thấy vậy, bà mẹ rất bất ngờ vui mừng, vội đi ra mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.

Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi không đủ đành nhờ đến hàng xóm láng giềng. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ngày ra giết giặc giúp nước, trừ họa cho dân.

Ngày ấy, giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sĩ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận.

Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, tả đột hữu xung, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Gióng nhanh như chớp nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Khi trời đất đã sạch bóng giặc, Gióng phi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, vái tạ mẹ rồi bay về trời.

Vua phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân dân lập đền thờ phụng, ghi nhớ công ơn. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa sắt thét ra lửa, lửa đã thiêu trụi một làng. Đến nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.

Đón đọc bài văn kể lại một truyền thuyết hay nhất 🔻 Truyện Thánh Gióng 🔻

Kể Lại Một Truyền Thuyết Ngắn Gọn Nhất – Sơn Tinh, Thuỷ Tinh

Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Người đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua hết mực yêu thương nên muốn tìm cho con một người chồng xứng đáng.

Nghe tin nhà vua muốn kén rể, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Tên của chàng là Thủy Tinh.

Cả hai người đều vô cùng xuất chúng nên vua Hùng không biết chọn ai. Vua bèn ra lệnh:

– Hai người đều vừa ý ta cả. Vậy nên nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về. Sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.

Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, lấy được Mị Nương. Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ liền nổi giận, đem theo quân đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước. Thấy vậy, Sơn Tinh bốc từng quả đồi dời từng dãy núi, ngăn chặn dòng nước lũ.

Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Từ đó càng thêm oán nặng thù sâu, hằng năm, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng đều thua trận.

Khám phá thêm bài văn kể lại một truyền thuyết hay nhất 👉 Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh

Kể Lại Một Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em – Truyện Cây Khế

Truyện Cây khế là một trong những câu chuyện cổ tích Việt Nam mà em yêu thích nhất. Em đã đọc đi đọc lại câu chuyện này rất nhiều lần, lần nào cũng thấy truyện rất hay và ý nghĩa.

Câu chuyện kể về hai anh em trai trong cùng một gia đình nhưng tính cách trái ngược hoàn toàn. Người anh trai vừa keo kiệt, bủn xỉn lại độc ác, nên chẳng được mấy ai yêu quý. Ngược lại, người em rất chăm chỉ làm ăn, thường xuyên giúp đỡ bà con nên ai ai cũng yêu quý. Sau khi kết hôn, hai gia đình vẫn sống cùng người bố già yếu. Tuy nhiên, khi bố vừa qua đời, người anh trai lập tức lấy danh nghĩa anh cả, đuổi vợ chồng người em ra khỏi nhà rồi độc chiếm gia sản. Hắn lấy hết ruộng đất, nhà cửa về phần mình rồi chia cho người em một cây khế già và túp lều tranh cạnh đó.

Dù bị anh trai đối xử tệ bạc, người em vẫn không hề oán trách hay hậm hực. Anh ta cùng vợ dọn ra túp lều nhỏ và tiếp tục cuộc sống bình dị. Hằng ngày, anh cùng vợ đi làm thuê trong làng kiếm tiền trang trải cuộc sống. Tối đến lại tưới nước, bón phân, chăm sóc chu đáo cho cây khế già. Trời không phụ lòng người, năm đó, cây khế cho ra rất nhiều quả. Quả nào cũng to, thơm ngon và mọng nước. Vì vậy, hai vợ chồng người em vui mừng khôn xiết.

Ngờ đâu, một ngày nọ, có con chim lạ từ xa bay về, đậu trên cây rồi ăn khế chín. Chim to nên ăn khỏe, lại ngày nào cũng đến, khiến quả trên cây vơi dần đi. Thấy vậy, người em hết sức buồn rầu, bền ra tâm sự với chim, mong chim đừng ăn khế nữa.

Thật bất ngờ, con chim lớn ấy lại biết nói tiếng người. Nó quay ra trả lời người em, rằng mình sẽ dùng vàng để trả cho những quả khế đã ăn, dặn người em may túi ba gang mang theo để đựng. Sáng hôm sau, như lời hứa, chim lớn đến đưa người em bay đến đảo vàng. Đứng trước cả hòn đảo ngập vàng bạc, người em chỉ lấy đúng số vàng bằng chiếc túi chim đã dặn. Khi trở về nhà, người em và vợ dùng số vàng đó để làm ăn, nhanh chóng trở nên giàu có.

Còn người anh, thấy em trai như vậy, liền lân la đến hỏi bí quyết. Người em thật thà liền chia sẻ hết với anh mình. Hay tin, người anh liền đòi đổi nhà cửa của mình để lấy cây khế của em trai. Thấy anh kiên quyết, người em bèn gật đầu. Sau khi người anh làm chủ cây khế, chim lại đến ăn và hứa với hắn ta như đã hứa với người em. Tuy nhiên người anh tham lam đã làm trái lời hứa với chim lớn.

Hắn may chiếc túi to gấp bốn lần, đã vậy còn cố bốc vàng bạc cho vào túi áo, đeo lên cổ để có thể mang về nhiều hơn. Điều đó khiến cho chim thần chật vật mãi mới bay lên được. Trên đường về băng qua biển rộng, có cơn bão lớn quét qua, chim không trụ được đã rớt xuống biển. Nhưng ngay lập tức, chim bay vọt lên và thoát chết. Còn người anh độc ác thì vì trên người nặng trịch toàn vàng bạc đã bị nước biển nhấn chìm.

Kết cục ấy thật xứng đáng cho một kẻ độc ác và tham lam như người anh. Còn người em trai thì được sống cuộc sống bình yên, hạnh phúc ở quê nhà. Từ kết thúc ấy, ông cha ta nhắn nhủ một bài học ý nghĩa, rằng ở hiền thì ắt sẽ gặp lành.

Xem thêm bài văn kể lại một truyền thuyết hay nhất ✅ Truyện Cây Khế ✅

Kể Lại Một Truyện Truyền Thuyết Hoặc Cổ Tích – Con Rồng Cháu Tiên Hay Nhất

Các bạn có biết vì sao ta luôn tự hào là “Con Rồng cháu Tiên” không? Câu chuyện Con Rồng cháu Tiên tôi kể sau đây sẽ giúp các bạn hiểu thêm về điều đó.

Ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, tên gọi Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ. Thần có sức khoẻ vô địch, thường lên cạn để dạy dân cách ăn ở, giúp dân diệt trừ yêu quái.

Bấy giờ, ở vùng núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ là con của thần Nông – vị thần giúp dân trồng trọt lúa ngô,… Nghe nói vùng đất Lạc Việt nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng Âu Cơ xin phép vua cha cho tới thăm. Ở đó, nàng gặp Lạc Long Quân. Hai người yêu nhau và nên duyên chồng vợ, cùng sống ở cung điện Long Trang.

Thời gian sau, Âu Cơ có mang. Đủ ngày đủ tháng, nàng sinh ra một cái bọc có trăm trứng. Lạ thay, trăm trứng lại nở ra trăm người con trai đẹp đẽ, hồng hào. Chúng không cần bú mớm gì mà vẫn lớn nhanh khoẻ mạnh như thần.

Sống với nhau một thời gian, cảm thấy mình không thể tiếp tục cuộc sống trên cạn, Lạc Long Quân đành từ biệt vợ con trở về Long cung.

Lại nói về Âu Cơ. Ngày đêm nàng buồn tủi chờ mong Lạc Long Quân trở về. Không chịu được, nàng gọi chồng lên, bảo:

– Sao chàng lại bỏ thiếp mà đi, không ở lại cùng thiếp nuôi dạy các con?

Lạc Long Quân nắm tay vợ, bùi ngùi nói:

– Ta ở miền nước thẳm, nàng ở chốn non cao, ta là Rồng còn nàng là Tiên. Rồng và Tiên không thể sống mãi cùng nhau. Nay, ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, cùng nhau cai quản bốn phương, bảo vệ đất nước, có việc gì thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn.

Âu Cơ nghe theo, từ biệt chồng lên đường. Người con lớn của Âu Cơ theo mẹ lên núi, được tôn làm vua. Chàng đóng đô ở đất Phong Châu, lấy hiệu là Hùng Vương. Mười tám đời vua Hùng đã nối tiếp nhau. Từ đó, dân tộc ta dù ở khắp mọi nơi nhưng vẫn gọi nhau là đồng bào. Mỗi khi gặp giặc ngoại xâm vẫn cùng nhau đứng lên giữ nước. Mỗi khi nơi nào gặp khó khăn, các nơi khác lại cùng nhau giúp đỡ.

Câu chuyện tôi kể chắc đã giải thích suy tôn nguồn gốc giống nòi dân tộc Việt và cũng gửi gắm ước mơ thống nhất cộng đồng người Việt của dân ta đấy các bạn ạ.

Cập nhật thêm bài văn kể lại một truyền thuyết nổi tiếng 👉 Truyện Con Rồng Cháu Tiên

Kể Lại Một Truyền Thuyết Mà Em Yêu Thích – Mai An Tiêm

Chuyện kể rằng, vào thời Vua Hùng Vương thứ 18, có một chàng trai tên là Mai An Tiêm. Mai An Tiêm nhanh nhẹn, tháo vát, lại chăm chỉ nên được nhà vua rất mực yêu mến và còn gả cả con gái nuôi cho chàng nữa. Vua rất yêu quý An Tiêm nên thường ban cho chàng nhiều của ngon vật lạ.

Tất thẩy mọi người ai được nhận lộc vua ban đều nâng niu ca tụng, riêng An Tiêm lại bảo rằng:

– Của mình làm ra mới quý, còn của biếu là của lo, của cho là của nợ!

Chàng vẫn chăm chỉ làm lụng, không hề có ý trông chờ vào bổng lộc vua ban.

Tất cả chỉ chờ có thế, bon quan ninh thần bèn đem câu nói của Mai An Tiêm tâu lên nhà vua. Nhà vua vô cùng tức giận và cho rằng chàng là một kẻ kiêu bạc vô ơn. Nhà vua giận lắm: “Đã thế để xem, nếu chỉ trông vào sức mình thì hắn có sống nổi không?”. Ngài sai quân lính bắt giữ Mai An Tiêm rồi đuổi cả gia đình chàng ra đảo hoang.

Cả gia đình Mai An Tiêm lênh đênh trên biển hết ngày này đến ngày khác. Cuối cùng, họ cũng cập bến lên một hòn đảo lạ. Vợ Mai An Tiêm khóc lóc kêu lên:

– Sao tôi khổ thế này? Biết vậy thì chúng ta không nên làm nhà vua tức giận!

– Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta. Chỉ cần có đôi bàn tay này thì chúng ta sẽ không sợ chết đói đâu. – Mai An Tiêm an ủi vợ.

Tình cờ một hôm, Mai An Tiêm phát hiện ra có một đàn chim từ phương Tây tới, chúng đậu trên bờ và đang ăn một loại hạt gì đó có màu đen láy. Mai An Tiêm nghĩ thầm:“Hạt này chim ăn được thì chắc người cũng ăn được!”. Nghĩ vậy, Mai An Tiêm liền thu gom hết số hạt lại và đem gieo trồng dưới đất. Ngày ngày, Mai An Tiêm ra sức chăm bón cho ruộng vườn của mình.

Chẳng bao lâu sau, ruộng vườn của chàng trở nên xanh tốt, um tùm. Cây nở hoa, kết thành trái to. Đến mùa thu hoạch, Mai An Tiêm cùng với vợ con đem hết số quả đã chín về nhà. Quả nào quả nấy đều có màu xanh thẫm, khi bổ quả ra, thì bên trong ruột lại có màu đỏ tươi, mọng nước và có cả hạt màu đen nữa. Khi ăn quả, thì lại thấy quả có vị ngon, ngọt, thơm mát. Một ngày kia, có một chiếc tàu gặp bão, bèn cập bến vào đảo để tránh bão.

Mõi người lên bãi cát, thấy có rất nhiều quả lạ, ngon. Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đó, tiếng đồn vang xa rằng có một giống quả rất ngon trên hòn đảo ấy. Các tàu buôn tấp nập ghé đến đổi lương thực, thực phẩm cho gia đình An Tiêm để được nếm vị ngon của quả lạ. Nhờ đó mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, cuộc sống đã sung túc đầy đủ hơn.

Vì chim đã mang hạt quả từ phương Tây tới nên An Tiêm đặt tên cho thứ quả này là Tây Qua. Các thương lái Trung Quốc ăn thấy ngon, khen là “hẩu”, nên sau người ta gọi lái đi là trái Dưa Hấu. Đó chính là nguồn gốc của những trái dưa hấu thơm ngon mát lành ngày nay.

Đón đọc thêm nội dung truyện 👉 Mai An Tiêm

Kể Lại 1 Truyện Truyền Thuyết – Bánh Chưng Bánh Giày Ngắn Hay

Vua Hùng Vương thứ sáu, lúc về già, muốn truyền ngôi cho con. Vua có đến mười hai người con trai, nhưng ngôi báu chỉ có thể truyền lại cho một người. Nên vua bèn nghĩ cách chọn ra một người thật xứng đáng. Người nối ngôi vua phải nối được chí vua, không nhất thiết phải là con trưởng.

Nhân dịp đầu xuân, vua gọi các hoàng tử lại rồi bảo:

– Ai trong số các con tìm đước thức ăn ngon lành, có ý nghĩa bày cỗ dâng lên Trời Đất, tổ tiên, ta sẽ truyền ngôi cho.

Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ, với hy vọng được truyền ngôi báu. Duy chỉ có Lang Liêu, người con thứ mười tám của nhà vua, lại tỏ ra rất băn khoăn. Tuy là người chăm chỉ, hiếu thảo nhưng mẹ chàng mất sớm nên thiếu người chỉ vẽ. Chàng chưa biết làm món gì để tham dự cuộc thi.

Một đêm, Lang Liêu nằm mộng thấy thần đến bảo:

– Này con, trong Trời Đất không có gì quý bằng hạt gạo. Gạo là thức ăn nuôi sống con người, ăn mãi mà không chán. Vậy con hãy lấy thứ gạo nếp để làm ra bánh hình tròn và hình vuông, lấy lá xanh bọc bên ngoài, đặt nhân trong ruột bánh.

Lúc tỉnh dậy, Lang Liêu mừng rỡ. Chàng liền chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vùng gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn.

Ngày lễ Tiên Vương đã đến, các hoàng tử mang biết bao là sơn hào hải vị đến. Vua Hùng xem qua một lượt, rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất vừa ý, liền gọi chàng lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần kể lại, rồi lí giải về nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa từng loại bánh. Nhà vua ngẫm nghĩ rồi chọn hai thứ bánh đem lễ Trời Đất, cùng Tiên vương.

Lễ xong, vua cho đem bánh xuống thưởng thức với quần thần. Ai cũng đều khen ngon.

Nhà vua nói:

– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Còn bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài mĩ vị, ngụ ý cho sự đùm bọc. Lang Liêu dâng lễ vật rất hợp với ý ta. Nên ta sẽ truyền ngôi cho Lang Liêu.

Kể từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt. Hằng năm, cứ vào dịp Tết, nhà nào cũng làm bánh chưng, bánh giầy để dâng cúng trời đất.

Đừng bỏ lỡ nội dung 👉 Truyện Bánh Chưng Bánh Dày

Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Mà Em Yêu Thích Nhất

Lúc bấy giờ, giặc Minh sang xâm lược nước ta. Chúng bóc lột nhân dân đến tận xương tủy. Ở vùng núi Lam Sơn, Lê Lợi đã thành lập nghĩa quân, ngày đêm rèn sức luyện tài để đợi ngày đánh giặc. Do nghĩa quân mới thành lập chưa lâu nên lực lượng còn non yếu lại gặp nhiều khó khăn.

Hồi ấy, ở Thanh Hóa có một người tên là Lê Thận làm nghề đánh cá. Lê Thận khi kéo lưới thấy nặng tưởng rằng cá to. Hóa ra khi vớt lên chỉ thấy một thanh thanh sắt, liền vứt xuống sông. Liên tiếp ba lần như vậy, Lê Thận thấy kỳ lạ nên đã quyết định đem về nhà.

Về sau, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn, chiến đấu vô cùng dũng cảm. Một lần nọ, Lê Lợi cùng tùy tùng đến thăm nhà Lê Thận. Bỗng nhiên thấy phía góc nhà lóe sáng, Lê Lợi tiến đến gần xem là cầm lên xem là vật thì gì thì thấy hai chữ “Thuận Thiên”. Trong một lần bị giặc đuổi, Lê Lợi cùng tùy tùng đi qua một khu rừng, nhặt được một cái chuôi. Ông trèo lên cây xem thử thì thấy một cái chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Bỗng nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông liền mang chuôi về tra vào lưỡi gươm thì vừa như in.

Một năm trôi qua, nhờ có gươm thần giúp sức, nghĩa quân của Lê Lợi đánh đến đâu thắng đến đó. Thanh thế ngày một vang xa. Quân Minh được dẹp tan. Lê Lợi lên làm vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ.

Một ngày nọ, nhà vua cho cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng thì thấy một con Rùa Vàng nổi lên. Rùa không sợ người, còn nói với với vua:

– Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.

Sau khi nghe Rùa Vàng nói, nhà vua bèn đem gươm báu trả lại rồi nói:

– Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.

Nghe xong, Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm (hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm).

Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Bằng Lời Của Em Đặc Sắc

Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng Vương thứ mười sáu, có một đôi vợ chồng tuy đã già nhưng vẫn chẳng có lấy một mụn con. Hai ông bà lão nổi tiếng là người hiền lành, đôn hậu ở làng Gióng nhưng không hiểu sao lại chịu sự không may mắn như vậy. Cho đến một ngày, khi bà lão đi ra đồng thì chợt thấy một dấu chân to khổng lồ.

Lấy làm ngạc nhiên, bà lão đưa chân mình vào ướm thử để đo xem dấu vết chân đó to đến cỡ nào. Thời gian thấm thoát trôi đi, bà lão chẳng còn nhớ đến vết chân ngày xưa nữa thì bỗng một ngày bà có thai. Hai vợ chồng bà lão mừng lắm, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Ấy thế mà đứa trẻ đó từ khi sinh ra lại chẳng biết nói, cũng không biết cười, không biết đi, chỉ đặt đâu thì nó nằm đấy. Hai ông bà từ mừng rỡ khi sinh được con đến lo lắng, buồn bã không hiểu sao lại như vậy.

Lúc bấy giờ, giặc Ân tràn sang xâm lược nước ta. Chúng khiến cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, tình cảnh đất nước lúc này đang ở thế “nghìn cân treo sợi tóc”. Nhà vua sai sứ giả đi rao tin khắp nơi, nhằm tìm người tài đứng lên cứu giúp đất nước. Sứ giả đi rao tin cuối cùng cũng đến làng Gióng. Nghe tiếng sứ giả, cậu bé bỗng nhiên cất tiếng gọi mẹ: “Mẹ ơi, mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con”. Thấy đứa con mình suốt bao nhiêu ngày tháng không nói, không cười bỗng dưng hôm nay lại cất tiếng gọi mẹ, hai ông bà lão mừng lắm, liền mời sứ giả vào ngay.

Khi sứ giả vào nhà, cậu bé đã ngay lập tức yêu cầu sứ giả hãy về chuẩn bị đủ những vũ khí để đi đánh giặc: Ngựa sắt, áo sắt và tấm giáp sắt để phá tan lũ giặc xâm lược. Sứ giả mừng rỡ vội về tâu lên cho nhà vua chuẩn bị. Nhà vua cũng đồng ý theo lời của cậu bé.

Càng lạ lùng thay, Thánh Gióng từ khi gặp được sứ giả của nhà vua thì lớn nhanh như thổi, cơm cha mẹ thổi bao nhiêu cậu ăn cũng không đủ no, quần áo chẳng mấy chốc đều chật hết cả. Cậu bé chẳng mấy chốc hóa thành một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, khí thế ngút trời.

Chẳng bao lâu, nhà mua sai người đem đến đủ cả những thứ mà Gióng yêu cầu. Thánh Gióng lên đường đánh giặc ngay. Cậu đi đến đâu đánh bại quân giặc đến đấy. Khi kiếm gãy, Gióng liền nhổ một bụi cỏ bên đường, quật ngã bọn giặc ngoại xâm. Một hồi, ngựa của Thánh Gióng đã đến chân núi Sóc Sơn, Thánh Gióng liền cởi bộ giáp sắt đang mặc trên người ra mà bay thẳng lên trời.

Để nhớ đến công lao của Thánh Gióng, nhà vua đã cho người lập đền thờ của vị tướng này tại quê nhà của ông là làng Gióng. Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều dấu tích năm xưa còn lưu lại và cứ tháng 4 hằng năm, người ta vẫn thường đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ ông.

Xem thêm cách 👉 Viết Bài Văn Tả Cảnh Sinh Hoạt Lớp 6

Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Mà Em Ấn Tượng Nhất

Ngày xưa ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, sức khoẻ vô địch và có nhiều phép lạ. Thần thường sống dưới nước, thỉnh thoảng lên cạn diệt trừ yêu quái giúp dân và dạy dân chăn nuôi trồng trọt…

Bấy giờ ở vùng núi cao phương Bắc có nàng Âu Cơ thuộc dòng dõi Thần Nông. Biết vùng Lạc Việt nhiều hoa thơm cỏ lạ nên nàng đến thăm. Tại đây, nàng gặp Lạc Long Quân. Họ yêu nhau, kết duyên đôi lứa, sống tại cung điện Long Trang trên cạn.

Ít lâu sau, Âu Cơ có mang. Kì lạ làm sao, đến kì sinh nở, nàng sinh ra một bọc trăm trứng, sau trăm trứng đó nở thành trăm người con trai đẹp đẽ lạ thường. Đàn con không cần bú mớm mà vẫn lớn nhanh như thổi, sức khoẻ như thần. Âu Cơ và Lạc Long Quân mừng vui khôn xiết.

Nhưng Lạc Long Quân vốn quen sống dưới nước. Một hôm, chàng đành từ biệt vợ con trở về thuỷ cung. Âu Cơ một mình vò võ nuôi con trong chờ mong buồn tủi. Một hôm, nàng gọi chồng lên than thở:

– Sao chàng lại bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?

Lạc Long Quân ngậm ngùi:

– Ta thuộc nòi rồng, quen sống dưới vùng nước thẳm, nàng là tiên nữ, quen sống chốn non cao. Kẻ trên cạn, người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó mà ăn ở với nhau lâu dài được. Nay ta đem năm mươi người con xuống biển, nàng đem năm mươi người con lên núi, chia nhau cai quản đất đai, khi có việc cần thì giúp đỡ nhau.

Âu Cơ mang năm mươi người con lên rừng. Người con trưởng của Âu Cơ lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Triều đình có đủ tướng văn tướng võ. Con trai được gọi là Lang, con gái gọi là Mị Nương. Khi cha chết, ngôi báu được truyền cho con trưởng. Cứ thế, mười mấy đời vua Hùng đã thay nhau trị vì đất nước, không hể thay đổi hiệu Hùng Vương.

Kể từ đó, dân Việt Nam, con cháu các vua Hùng, đều tự coi mình là con Rồng, cháu Tiên.

Đấy là truyền thuyết giải thích nguồn gốc của dân tộc ta. Truyền thuyết cũng cho ta hiểu rõ hơn hai tiếng thiêng liêng “đồng bào” (cùng trong một bọc). Chúng ta tự hào hơn về nòi giống Tiên Rồng của mình. Tự hào hơn về tình đoàn kết của các dân tộc anh em trên đất Việt.

Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Siêu Hay – Sự Tích Hồ Gươm

Vào thời giặc Minh xâm lược nước ta, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược. Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần thất bại. Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để giết giặc.

Hồi ấy, ở Thanh Hóa, có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận thả lưới ở một bến vắng như thường lệ. Đến khi kéo lưới lên thấy nằng nặng, nghĩ rằng sẽ kéo được mẻ cá to. Nhưng khi thò tay vào bắt cá thì chỉ thấy một thanh sắt. Chàng vứt xuống sông, rồi lại thả lưới ở chỗ khác. Kì lạ thay, liên tiếp ba lần đều vớt được thanh sắt nọ. Thận liền đưa thanh sắt lại mồi lửa thì phát hiện ra đó là một thanh gươm.

Về sau, Thận gia nhập vào nghĩa quân Lam Sơn. Một lần nọ, chủ tướng Lê Lợi cùng tùy tùng đến thăm nhà Thận. Bỗng nhiên thấy phía góc nhà lóe sáng, Lê Lợi tiến đến gần xem là cầm lên xem là vật thì gì thì thấy hai chữ “Thuận Thiên”. Song lại không ai nghĩ đó là lưỡi gươm thần.

Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng rút mỗi người một ngả. Lúc đi ngang qua một khu rừng, Lê Lợi thấy có ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Bỗng nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về tra vào lưỡi gươm thì vừa như in.

Một năm trôi qua, nhờ có gươm thần giúp sức, nghĩa quân của Lê Lợi đánh đến đâu thắng đến đó. Thanh thế ngày một vang xa. Quân Minh được dẹp tan. Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ. Vua cho cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng thì thấy Rùa Vàng nổi lên đòi lại thanh gươm thần:

– Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.

Sau khi nghe Rùa Vàng nói, Lê Lợi bèn đem gươm báu trả lại rồi nói:

– Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.

Nghe xong, Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm.

Share bài văn kể lại một truyền thuyết hay nhất 👉 Sự Tích Hồ Gươm

Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Xuất Sắc – Sư Tích Hồ Ba Bể

Ngày xưa, có lần dân làng Nam Mẫu thuộc tỉnh Bắc Kạn mở ngày hội cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem hội. Bỗng nhiên, xuất hiện một bà cụ ăn mày không biết từ đâu đến. Trông bà thật gớm ghiếc, thân thể gầy còm, lở loét, mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Bà cụ chỉ phều phào mấy tiếng: “Tôi đói lắm, các ông, các bà ơi!”, rồi chìa tay ra bốn phía cầu xin.

Ngày xưa, có lần dân làng Nam Mẫu thuộc tỉnh Bắc Kạn mở ngày hội cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem hội.

Bỗng nhiên, xuất hiện một bà cụ ăn mày không biết từ đâu đến. Trông bà thật gớm ghiếc, thân thể gầy còm, lở loét, mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Bà cụ chỉ phều phào mấy tiếng: “Tôi đói lắm, các ông, các bà ơi!”, rồi chìa tay ra bốn phía cầu xin.

Nhưng đến đâu bà cụ cũng bị xua đuổi. Lê bước khỏi đám hội, vào nhà nào bà cũng bị hắt hủi. May sao đến ngã ba, bà gặp mẹ con nhà kia vừa đi chợ về. Thấy bà lão ăn xin tội nghiệp, người mẹ thương tình đưa về nhà, lấy cơm cho ăn, rồi mời nghỉ lại qua đêm.

Đến giữa khuya, hai mẹ con bỗng thấy chỗ bà cụ nằm sáng rực lên. Nhưng lạ thay, ở đấy không còn bà lão ăn xin già yếu, lở loét nữa mà có một con giao long to lớn đang cuộn mình, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất. Mẹ con bà goá rụng rời kinh hãi, đành nhắm mắt nằm im, phó mặc cho số phận.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, họ chẳng thấy giao long đâu cả. Trên chõng vẫn là bà cụ ăn mày ốm yếu. Bà cụ đang sửa soạn ra đi. Bà nói: “Vùng này sắp có lụt lớn. Ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc ngay xung quanh nhà mới tránh được nạn”.

Người mẹ nghe vậy lấy làm lạ, bèn hỏi: “Thưa cụ, vậy làm sao để cứu mọi người khỏi chết chìm?”. Bà cụ suy nghĩ giây lát rồi nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa vỏ trấu cho hai mẹ con và bảo: “Hai mảnh vỏ trẩu này sẽ giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”.

Nói rồi, vụt một cái, đã không thấy bà cụ đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi báo cho mấy người gần đó biết. Họ đều bật cười, cho đó là chuyện bâng quơ.

Tối hôm ấy, đám hội đang náo nhiệt, mọi người đang sì sụp lễ bái, bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên, mỗi lúc một mạnh. Đất xung quanh lở dần. Lúc đó. mọi người đều kinh hoảng, chen nhau chạy tháo thân. Nhưng không kịp nữa rồi. Đất dưới chân họ rung chuyển. Một tiếng ầm dữ dội nổi lên, nhà cửa, người và vật đều chìm sâu dưới nước.

Trong khi tất cả đều ngập trong biển nước thì ngôi nhà nhỏ của hai mẹ con người đàn bà goá vẫn khô ráo vì nền nhà của họ mỗi lúc một cao lên. Đau xót trước cảnh nước lũ bất ngờ tàn phá, hai mẹ con đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, vỏ trấu hoá thành hai chiếc thuyền lớn. Thế là mặc gió mưa, họ chèo thuyền đi khắp nơi, cố sức vớt những người bị nạn.

Chỗ đất sụt xuống ấy chính là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con thành một hòn đảo nhỏ trong hồ. Người địa phương gọi chỗ ấy là gò Bà Goá.

Đọc chi tiết hơn 💧 Sự Tích Hồ Ba Bể 💧

Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Đạt Điểm Cao – An Dương Vương Mị Châu Và Trọng Thủy

Truyền thuyết kể rằng: vua An Dương Vương xây Loa Thành cứ gần xong lại đổ, bèn lập đàn trai giới, cầu khấn thần linh. Ngày mồng bảy tháng ba, thần hiển linh thành một cụ già từ phương Đông tiến thẳng tới trước cửa thành.

Cụ già nhìn thành mà than rằng: “Tiếc cho công sức của biết bao người!”. Vua mừng rỡ đón cụ già vào điện, thi lễ và xin cụ già cho biết nguyên nhân vì sao việc xây thành lại chiếm nhiều công sức mà cứ xây xong lại đổ. Cụ già nói với nhà vua là sẽ có sứ Thanh Giang (một sứ giả đến từ dòng sông Xanh linh thiêng) đến giúp. Nói rồi, cụ già từ biệt nhà vua.

Quả nhiên, ngày hôm sau, nhà vua gặp được sứ Thanh Giang. Vị sứ giả này chính là Rùa Vàng (Thần Kim Quy) vật tổ linh thiêng của người Việt. Rùa Vàng đã giúp nhà vua xây thành chỉ nửa tháng là xong. Thành rộng hơn ngàn trượng xây hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành (Quy Long Thành, Côn Lôn Thành).

Rùa Vàng ở lại ba năm rồi từ biệt ra về, nhà vua cảm tạ và xin Thần Rùa kế sách giữ nước. Rùa tháo vuốt đưa cho nhà vua để chế làm lẫy nỏ và dặn: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận”.

Vuốt Rùa được Cao Lỗ chế làm lẫy nỏ thần có thể bắn một phát trúng cả ngàn tên giặc khiến cho Triệu Đà bao lần xâm lược Âu Lạc đều thất bại phải xin hoà.

Không bao lâu, Đà xin cầu hôn. An Dương Vương gả con gái là Mỵ Châu cho con trai Đà là Trọng Thuỷ với mong muốn cuộc hôn nhân này sẽ nối lại hoà hiếu bang giao hai nước. Không ngờ cuộc hôn nhân này lại nằm trong mưu đồ xâm lược của Triệu Đà.

Trọng Thuỷ sau khi lấy được Mỵ Châu đã dỗ nàng cho xem trộm nỏ thần rồi ngấm ngầm làm một cái lẫy nỏ khác giống hệt đánh tráo lẫy nỏ làm bằng vuốt Rùa Vàng. Xong việc, Trọng Thuỷ lấy cớ về phương Bắc thăm cha, đem lẫy nỏ thần về phương Bắc cho Triệu Vương. Trước khi đi, Trọng Thuỷ còn đề phòng “Bắc Nam cách biệt” hỏi Mỵ Châu cách tìm nàng khi có biến. Mỵ Châu mang áo gấm ra nói rằng nàng sẽ dứt lông ngỗng trên áo rải dọc đường làm dấu.

Trọng Thuỷ về nước, Triệu Đà cất quân đánh Âu Lạc, An Dương Vương chủ quan cậy có nỏ thần nên quân giặc đến gần vẫn điềm nhiên đánh cơ nói cười như không. Đến khi cầm nỏ mới biết lẫy thần đã bị mất, nhà vua lập tức hiểu hết sự tình.

Nhà vua nhìn Mỵ Châu đầy trách móc, Mỵ Châu biết tội bèn quì xuống xin cha trừng phạt. Không nỡ giết con, An Dương Vương sai người lấy ngựa đem Mỵ Châu chạy trốn, còn mình thì nhanh chóng tập hợp quân sĩ quyết một phen tử chiến. Khi quân hai bên đánh nhau đến bờ biển, thế giặc mạnh không thể chống đỡ, An Dương Vương cùng đường, gọi: “Sứ Thanh Giang đâu! Mau mau giúp ta!”. Rùa Vàng hiện lên, rẽ nước đưa nhà vua xuống Thủy cung.

Triệu Đà chiếm được Loa Thành. Trọng Thuỷ nhớ lời dặn bèn theo vết lông ngỗng mà tìm. Đến bờ biển, Trọng Thuỷ nhìn thấy Mỵ Châu đang nắm chặt chuôi kiếm đứng đợi. Trọng Thuỷ tiến lại gần, Mỵ Châu tuốt kiếm chĩa về phía Trọng Thuỷ mà rằng: “Chàng vì nghĩa vụ quốc gia mà trở thành kẻ lừa dối, phản bội. Thiếp vì yêu chàng mà đem trái tim đặt nhầm lên khối óc.

Nhưng thiếp thề rằng, tấm lòng thiếp vẫn trong sáng và trung thành với vua cha và xã tắc. Nếu có lòng phản trắc, sau khi chết xin làm mồi cho cá. Ngược lại, xin được làm ngọc trai dưới biển Đông”. Dứt lời, nàng vung kiếm tự vẫn. Trọng Thủy đem xác Mỵ Châu về chôn cất tại Loa Thành. Xong xuôi, chàng quá ân hận và thương nhớ Mỵ Châu bèn nhảy xuống giếng tự vẫn.

Người đời sau đem ngọc trai biển Đông về rửa ở giếng nước Trọng Thủy, viên ngọc bỗng sáng khác thường.

Chia sẻ bài viết 👉 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Của Người Khác

Mẫu Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Tiêu Biểu – Yết Kiêu

Hồi ấy, giặc Nguyên mang 100 thuyền lớn theo đường biển vào cướp nước ta. Chúng làm nhiều điều bạo ngược khiến lòng dân oán hận vô cùng.

Ở một làng chài nọ, có một người tên là Yết Kiêu làm nghề đánh cá. Yết Kiêu có sức khỏe hơn người, không ai địch nổi. Đặc biệt, Yết Kiêu có tài lội nước. Mỗi lần xuống nước bắt cá Yết Kiêu có thể ở dưới nước luôn sáu bảy ngày mới lên. Thấy bọn giặc nghênh ngang, làm nhiều điều tàn ác,

Yết Kiêu rất căm thù chúng và quyết định lên kinh đô Thăng Long để yết kiến vua Trần Nhân Tông, xin nhà vua cho đi đánh giặc. Nhà vua mừng lắm bèn bảo Yết Kiêu hãy chọn một loại vũ khí, nhưng Yết Kiêu chỉ xin vua một chiếc dùi sắt.

Nhà vua rất đỗi ngạc nhiên. Thấy thế Yết Kiêu liền thưa: “Để thần dùi thủng thuyền của giặc”. Nhà vua lại hỏi tiếp: “Ai dạy ngươi được như thế?”. Yết Kiêu kính cẩn tâu đó là cha, ông thần. Vua lại gặng hỏi ai dạy ông chàng. Yết Kiêu tâu: “Vì căm thù giặc và noi gương người xưa mà ông của thần tự học lấy”.

Trong lúc Yết Kiêu lên yết kiến nhà vua thì ở quê nhà cha của Yết Kiêu đang bùi ngùi nhớ con. ông nhớ lại câu chuyện giữa hai cha con trước lúc Yết Kiêu lên đường. Yết Kiêu nói với cha: “Nước mất nhà tan con không thể ngồi im nhìn cảnh quân giặc tàn sát đồng bào ta. Cha ở nhà nhớ bảo trọng, khi nào hết giặc con sẽ trữ về”. Người cha nói với Yết Kiêu: “Con cứ yên tâm mà ra đi giết giặc, cha ở nhà còn có bà con lối xóm giúp đỡ, cha chờ tin thắng trận của con”

Viết Bài Văn Kể Lại Một Truyện Truyền Thuyết Hoặc Cổ Tích Đơn Giản – Thạch Sanh

Xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng, tuổi đã cao mà vẫn chưa có một mụn con. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, liền sai thái tử đầu thai xuống làm con.

Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, một thời gian sau thì người mẹ cũng qua đời. Từ đó, cậu sống một mình dưới gốc đa, cả gia tài chỉ có lưỡi rìu do người cha để lại. Mọi người gọi cậu là Thạch Sanh. Đến khi trưởng thành, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho Thạch Sanh nhiều võ nghệ.

Thấy Thạch Sanh có sức khỏe, Lí Thông mới lân la gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh về ở cùng mẹ con Lí Thông. Bấy giờ, trong vùng có một con chằn tinh hung dữ, nó bắt dân làng mỗi năm phải nộp cho một mạng người. Năm ấy đến lượt nhà Lí Thông phải nộp mạng. Lí Thông chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, dọn một mâm rượu thịt mời ăn, rồi bảo:

– Đêm nay đến lượt anh đi canh miếu thờ, vậy em chịu khó đi thay cho anh một đêm, đến sáng lại về.

Thạch Sanh chẳng có chút nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Nửa đêm hôm ấy, chàng đang ngủ thì bỗng nhiên có một con chằn tinh vồ lấy chàng. Thạch Sanh đánh nhau với con quái vật. Không lâu sau thì lưỡi búa của chàng đã xé xác nó làm đôi. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật đem về. Thấy Thạch Sanh về, mẹ con Lí Thông vô cùng sợ hãi. Sau khi nghe Thạch Sanh kể lại, Lí Thông liền nói với chàng:

– Đó là con vật nuôi của vua, giết nó là mang tội. Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.

Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ, liền trốn đi. Lí Thông nhân cơ hội đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn ban thưởng cho Lí Thông.

Lại nói khi đó, công chúa đã đến tuổi lấy chồng. Trong ngày kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền dùng cung tên bắn đại bàng. Chàng lần theo vết máu thì tìm ra chỗ ở của đại bàng. Lí Thông được vua cử đi tìm công chúa. Thạch Sanh kể cho Lí Thông nghe về hang của đại bàng. Sau đó, hai người cùng đi cứu công chúa. Đến hang Thạch Sanh xin xuống trước. Chàng đánh nhau với đại bàng, thì cứu được công chúa. Nhưng Lý Thông đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá lớn lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.

Biết mình bị lừa, Thạch Sanh đi khắp hang để tìm lối thoát. Chàng đi đến cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh dùng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Đó chính là con vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Trước khi trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho chàng một một cây đàn thần.

Thạch Sanh trở về nhưng lại bị hồn của đại bàng và chằn tinh căm thù hãm hại. Chàng bị bắt giam vào ngục. Về phần công chúa sau khi cứu thoát, trở về cũng thì bỗng không nói, không cười. Ngự y trong triều đều phải bó tay. Ở trong ngục, Thạch Sanh lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng ra đánh để bày tỏ nỗi oan khuất. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh đến gặp, chàng kể hết mọi oan khuất. Lí Thông bị trừng trị. Còn Thạch Sanh được nhà vua gả công chúa cho.

Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa cất lên đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi không hết niêu cơm liền kéo nhau về nước. Về sau, vua không có con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.

Đọc chi tiết hơn 👉 Truyện Thạch Sanh Lý Thông

Viết Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Lớp 6 Ngắn Gọn

Từ những ngày còn bé, chúng ta lớn lên bằng những câu chuyện mà bà và mẹ kể, những câu chuyện về lịch sử hào hùng cũng như những truyền thuyết li kì. Từ những câu chuyện đấy đã gieo trong chúng ta những niềm tự hào và tôn kính những người anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Truyền thuyết Thánh Gióng là một trong những truyền thuyết kể về một vị anh hùng oai phong, lẫm liệt của dân tộc.

Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão nọ chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Ấy vậy mà hai người mãi không có lấy nổi một mụn con. Một ngày nọ, khi bà lão ra đồng bỗng trông thấy một vết chân rất to, bà lại đặt chân mình lên ướm thử.

Kì lạ thay, khi về bà lại thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một người con trai rất khôi ngô. Hai vợ chồng vô cùng mừng rỡ.Thế nhưng thời gian thấm thoắt trôi qua, đứa trẻ lên ba tuổi nhưng vẫn không biết nói cười, cũng chẳng biết đi, chỉ đặt đâu là nằm đó.

Hồi bấy giờ giặc Ân đến xâm chiếm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo lắng nên sai sứ giả đi tìm người tài cứu nước. Thần kì thay, khi nghe thấy tiếng rao của sứ giả, đứa bé bỗng dưng lại nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Khi sứ giả đến, đứa bé bảo: “Ông hãy về tâu với vua làm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa vô cùng kinh ngạc. vừa mừng rỡ vội vàng về tâu lên vua. Nhà vua đã cho những người thợ gấp rút ngày đêm làm những vật phẩm mà cậu bé yêu cầu.

Lạ lùng hơn nữa, sau ngày gặp sứ giả cậu bé lại lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo vừa mặc vào đã đứt chỉ. Hai vợ chồng ông lão làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con nên phải nhờ cậy bà con làng xóm. Mọi người đều vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, chỉ mong rằng cậu sẽ giết giặc, trừ hoạ cho dân.

Ngày đó, khi mà giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khó tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sĩ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng và đánh giết, giặc chết như ngả rạ. Bỗng dưng roi sắt gãy.

Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường để quật vào giặc. Khi đánh cho chúng đến tan tác, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ đã lên đến đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, vái tạ mẹ rồi cả người lẫn ngựa đều từ từ bay lên người.

Để tưởng nhớ công ơn của tráng sĩ, vua đã phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà. Hiện nay, đền thờ vẫn còn ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích chứng minh cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.

Đón đọc thêm mẫu 👉 Viết Bài Văn Kể Lại Một Chuyến Đi Đáng Nhớ Của Em 👉 ngắn gọn

Viết Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Lớp 6 Dài

Sự tích Hồ Gươm là một truyện truyền thuyết mang đậm dấu ấn lịch sử dân tộc, ca ngợi cuộc kháng chiến chính nghĩa của quân và dân ta chống lại giặc Minh. Bên cạnh đó, qua sự tích này chúng ta hiểu được ý nghĩa tên gọi “Hồ Gươm” và sự có mặt của cụ rùa trong hồ.

Vào thế kỉ XV giặc Minh đô hộ nước ta, dưới ách thống trị của giặc Minh, nhân dân ta bị bạo ngược vô cùng tàn ác, bóc lột, đàn áp đến cùng cực, nhân dân ta vô cùng căm ghét. Sự tập hợp của những anh hào nghĩa khí tư khắp nơi trên cả nước đã tạo nên nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, tuy nhiên vì buổi đầu khởi nghĩa và lực lượng còn non yếu thô sơ nên đã nhiều lần thất bại.

Long Quân thương cho dân chúng lầm than nên đã quyết định cho mượn gươm thần để dẹp giặc. Long Quân để lưỡi gươm ở dưới sông, còn chuôi gươm lại để ở trong rừng. Khi đó có một người dân chài tên Lê Thận, một lần đi kéo lưới cả ba lần đều kéo trúng thanh gươm, ban đầu nghĩ là thanh sắt nhưng khi soi đèn biết được là thanh gươm liền đem cất trong nhà.

Về sau Lê Thận gia nhập vào nghĩa quân Lam Sơn, trong một lần Lê Lợi đến thăm nhà đã vô tình nhìn thấy thanh gươm phát sáng hiện lên chữ “Thuận Thiên”, nhưng lúc ấy mọi người vẫn chưa hiểu được ý nghĩa thanh gươm.

Một hôm quân Lam Sơn thua trận, Lê Lợi bị giặc đuổi phải chạy vào rừng và nhặt được chuôi gươm nạm ngọc rất đẹp. Lê Lợi đem chuôi gươm về lắp vào thanh gươm ở nhà Lê Thận ai ngờ thanh gươm liền phát sáng mọi người liền biết đây là ý trời cho mượn gươm thần trừ bạo.

Nhờ có gươm thần phò trợ, nghĩa quân Lam Sơn bách chiến bách thắng, tiếng tăm vang xa, binh lực dồi dào, chẳng bao lâu sau đã đánh đuổi sạch giặc Minh. Sau khi dẹp giặc yên dân, Lê Lợi lên làm vua, trong một lần đi thuyền trên hồ Tả Vọng đã bắt gặp rùa vàng. Rùa vàng đó chính là sứ giả mà Long Quân sai đến lấy lại gươm thần, Lê Lợi hiểu ý bèn cảm ơn và trao trả gươm thần cho rùa vàng, rùa liền ngậm thanh gươm rồi lặn biến mất.

Từ sự tích này, mỗi khi người dân nhắc đến tên Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm đều nhớ về những năm tháng chiến đấu gian khổ của quân và dân ta. Được sống trong hòa bình và ấm no như ngày hôm nay ta phải luôn nhớ về lịch sử hào hùng của dân tộc.

Viết Bài Văn Kể Lại Một Truyền Thuyết Lớp 6 Ngắn Gọn Bằng Lời Văn Của Em

Chuyện xưa kể rằng, hồi ấy có chàng Lạc Long Quân ở miền đất Lạc Việt vốn có tài năng và đức độ, chàng thuộc nòi Rồng. Lạc Long Quân là con trai của thần Long Nữ, với tấm lòng thiết tha với nhân dân cùng khả năng võ nghệ cao cường, chàng thường lên đất liền để giúp dân diệt trừ lũ yêu ma tác oai tác quái và dạy dân nghề trồng trọt.

Nhân dân khắp miền ai cũng yêu mến chàng Lạc Long Quân hiền từ lại giỏi giang. Lúc bấy giờ, ở chốn non cao nơi vùng đất phương Bắc có người con gái xinh đẹp tên Âu Cơ. Nàng là con của thần Nông, một vị thần gắn bó với việc trồng trọt lúa ngô, khoai sắn của nhân dân.

Người người khắp chốn ai cũng ngợi ca về vùng đất Lạc Việt nhiều hoa thơm cỏ lạ, với niềm yêu thích cái đẹp cùng sự tò mò về vùng đất này nên nàng xin phép vua cha đến thăm nơi này. Tại đây, nàng gặp Lạc Long Quân, mến nhau và nên duyên vợ chồng, cùng sinh sống tại mảnh đất Long Trang.

Sau một thời gian, nàng Âu Cơ có mang và sinh ra một cái bọc lớn với trăm quả trứng, sau bảy ngày quả trứng này nở ra được một trăm người con. Là con của những vị thần nên mặt mũi khôi ngô, tuấn tú vô cùng cũng chẳng cần bú mớm sữa mẹ mà đàn con lớn nhanh như thổi, lại rất khoẻ mạnh, tài giỏi.

Sau thời gian sống cùng vợ con ở đất liền, Lạc Long Quân cảm thấy nhớ quê nhà. Nỗi nhớ nhà da diết ấy khiến lòng chàng rất đỗi phân vân, cuối cùng Lạc Long Quân quyết định trở về nơi chàng sinh ra. Một mình vất vả nuôi con lại thiếu thốn tình cảm vợ chồng, nàng Âu Cơ vô cùng buồn bã bèn gọi Lạc Long Quân lên mà than rằng:
– Sao chàng nỡ đành lòng để mẹ con thiếp bơ vơ nơi chốn này mà đi? Không cùng thiếp chăm sóc và dạy dỗ các con chúng ta?

Lạc Long Quân vô cùng thương vợ và các con, chàng ân cần giải thích cho vợ hiểu nỗi lòng mình:

-Ta thân là nòi rồng ở chốn thủy cung, nơi nước non, biển cả, nàng lại là tiên miền cạn nơi núi non hùng vĩ. Hai chốn vốn tập quán, thói quen khác nhau. Vì vậy, ta và nàng khó lòng mà sống cùng nhau lâu dài được. Mong nàng hiểu cho nỗi lòng của ta.

Âu Cơ vẫn sụt sùi trong dòng nước mắt, lặng lẽ nghe lời giãi bày của chồng mình. Lạc Long Quân thương cảm nhìn vợ mà tiếp lời:

– Hãy là thế này, Âu Cơ nàng ạ! Nay ta cùng nàng chia nhau dạy con, ta cùng năm mươi con xuống biển trông nom, nàng đưa năm mươi con lên núi chăm sóc. Bận nếu có việc gì khó khăn thì cùng nhau xây đắp, giúp đỡ. Tuy khoảng cách có xa nhưng lòng nguyện thủy chung son sắt. Đừng quên lời hẹn. Ý nàng thế nào?

Dù buồn lòng song Âu Cơ vẫn nghe lời chồng, nàng đưa 50 con lên đất Phong Châu chăm sóc. Sau này trưởng thành, ai cũng giỏi giang, người con cả xây dựng đất nước lấy niên hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Trải qua bao đời và dựng xây đất nước, các con nối tiếp ngôi vị vua cha đều lấy niên hiệu là Hùng Vương. Các vua Hùng đều góp công lao rất lớn trong quá trình dựng nước của dân tộc ta.

Sau này, khi nhắc về nguồn gốc của dân tộc ai cũng tự hào về nguồn cội con Rồng Cháu Tiên. Mọi người trên khắp mọi miền đất nước cũng nêu cao tinh thần dân tộc, sự tương thân tương ái cùng đoàn kết, giúp đỡ nhau, xứng đáng với lời dặn dò của thế hệ xưa. Truyện “Con Rồng cháu Tiên” là thế đấy các bạn ạ, tuy bình dị nhưng nó để lại cho chúng ta bài học sâu sắc về cội nguồn và tinh thần dân tộc.

Đọc thêm bài 👉 Trình Bày Suy Nghĩ Về Tình Cảm Của Con Người Với Quê Hương

Viết một bình luận