Nhận Định Về Quang Dũng, Tây Tiến [Liên Hệ Tây Tiến Hay Nhất]

Nhận Định Về Quang Dũng, Tây Tiến ❤️️ Liên Hệ Tây Tiến Hay Nhất ✅ Chia Sẻ Cho Bạn Những Nhận Định Hay Nhất Về Quang Dũng Và Tác Phẩm Của Ông.

Những Nhận Xét, Nhận Định Về Quang Dũng Hay Nhất

Nhà thơ Quang Dũng lớn lên trên quê hương “Xứ Đoài mây trắng lắm” – nơi “đất đá ong khô nhiều ngấn lệ” đã đi vào thơ ông thật ân tình, lãng mạn. Để hiểu hơn về tác giả Quang Dũng thì bạn có thể đọc những nhận xét, nhận định về Quang Dũng hay nhất sau đây:

  • Nhận định về Quang Dũng thứ nhất: “Đẹp thay tâm hồn Quang Dũng! Dù đi đến đâu, lòng anh bao giờ cũng quay về nỗi nhớ nhung vùng đất đá ong cằn cỗi Sơn Tây, với cánh đồng Bương Cấn, với núi Sài Sơn, mây trắng xứ Đoài bay ngang đỉnh núi Ba Vì…”– Thanh Châu, trích “Người thơ Quang Dũng”.
  • Nhận định về Quang Dũng thứ 2: “Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn”.- Nhà thơ Vân Long.
  • Nhận định về Quang Dũng thứ 3: “Không chỉ thành công ở lĩnh vực thơ, văn xuôi, Quang Dũng còn là tác giả của nhiều bức tranh khá đạt về con người, phong cảnh miền Tây và trung du, về một bến sông mênh mang có những bông lau phất phơ, một con thuyền độc mộc ẩn hiện trong sương với tấm khăn piêu và cái dáng cô lái đò thật mềm…”– Nguyễn Thị Như Trang, lời bình trong “Nhà thơ Quang Dũng và một thời Tây Tiến gian khổ, hào hùng”.
  • Nhận định về Quang Dũng thứ 4: “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng… Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó.”– Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp.
  • Nhận định về Quang Dũng thứ 5: “Quang Dũng là một nhà thơ của Hà Nội, một nhà thơ của Việt Nam, một nhà thơ của thời đại”.- Phạm Xuân Nguyên.
  • Nhận định về Quang Dũng thứ 6: “Một người chiến sĩ trẻ, tài hoa trong đoàn quân Tây Tiến ngày đó, sau này là nhà thơ Quang Dũng”. – Võ Nguyên Giáp.

Tổng hợp thông tin về 🔰Thơ Quang Dũng🔰 Bên Cạnh Những Nhận Định Về Quang Dũng

Những Nhận Định Về Tây Tiến Của Quang Dũng

Ngoài những nhận định về Quang Dũng, tiếp theo là những nhận định về tác phẩm Tây Tiến nổi tiếng của ông:

  • “Đọc “Tây Tiến” ta như ngậm nhạc trong miệng”. – Xuân Diệu.
  • “… Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh” – Vũ Thu Hương.
  • “… Tây Tiến … nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ… Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên…”. – Đinh Minh Hằng, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng.
  • “Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, hoang mang mà ấm áp”. – Bình giảng Văn học Việt Nam.
  • “Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ”.– Phan Quế.
  • “… Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy não nùng. Cũng khơi nguồn cảm hứng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể- nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ da diết và lòng tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này…”. – Vũ Thu Hương, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng.
  • “Bài thơ viết ra với những màu sắc thẩm mĩ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương’. – Giáo sư Hà Minh Đức.
  • “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng… Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó.” – Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp, Phó Viện trưởng Viện Văn học.
  • “ Thiên nhiên Tây Băc qua ngòi bút Quang Dũng vừa được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng , vừa đọc đáo vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp”- bình giảng VHVN.
  • “ Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng nhất của Quang Dũng. Nó như cánh cửa dẫn dắt anh bước vào làng thơ cách mạng. Như mối duyên ràng buộc, bài thơ gắn bó với người làm ra nó đến mức nói đến Quang Dũng là người ta nhắc đến bài thơ Tây Tiến và ngược lại” – Trần Lê Văn.
  • “Tây Tiến – sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn” – Đinh Minh Hằng.
  • “ Tây Tiến là bài thơ có giá trị về tư tưởng, về nghệ thuật. bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mĩ phong phú” – Hà Minh Đức.

*Một số nhận định về tác giả Quang Dũng, tác phẩm Tây Tiến

  • Nhận xét về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến, có ý kiến cho rằng: “Một ngọn hút đầy tài hoa vừa khắc họa được cái dữ dội, hào hùng lại vừa diễn tả được cái tươi mát, sâu lẳng, đau thương mà không hề bi lụy”. 
  • Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét và bài thơ Tây Tiến: “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”.
  • Bút pháp của Quang Dũng thích tung hoành trong biên độ rất rộng, giữa những nét khỏe khoắn dữ dằn và những nét tinh vi, e ấp” – Vũ Quỳnh Phương.
  • Nhà giáo Lương Duy Cán rất say sưa ca ngợi Tây Tiến “ có những ngày tháng không thể quên, cái gian khổ ác liệt không thể quên, cả cái hào hùng lãng mạn không thể quên. May mắn thay, giữa những ngày tháng không thể quên ấy, lại có những bài thơ không thể quên, như Tây Tiến của Quang Dũng”
  • Với cảm hứng và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.(Ngữ văn 12 tập 1, Nxb Giáo dục, 2008, tr.87.)
  • “Quang Dũng đã đem tượng đài người lính Tây Tiến đặt giữa ngàn non ngàn mây, ngàn cây Tây Bắc. Bởi vậy lời thơ như âm u vọng mãi tiếng gọi hoang sơ của núi rừng và mỗi khi nhắc đến tên đất tên mường, hồn thơ Quang Dũng lại rộn rã, phiêu du nhịp lên tiếng gọi đàn thăm thẳm” – Nguyễn Đình Thi.

Bên Cạnh Các Nhận Định Về Quang Dũng, Chia Sẻ Thêm❤️️Bài Thơ Tây Tiến [Quang Dũng] ❤️️ Nội Dung, Tác Giả, Tác Phẩm 

Những Liên Hệ Tây Tiến

Cùng liên hệ tác phẩm Tây Tiến với những tác phẩm văn học khác, tìm những điểm tương đồng.

Liên Hệ Tây Tiến Với Việt Bắc

Văn học Việt Nam trong những năm 1945 – 1975 được bao trùm bởi cảm hứng sử thi lãng mạn. Cảm hứng ấy đã được nhiều cây bút khai thác nhằm hướng về cuộc kháng chiến của quân và dân trong hành trình giành lại chủ quyền dân tộc. Trong đó, hình tượng người lính trong “Tây Tiến” – Quang Dũng và “Việt Bắc” – Tố Hữu đã được hai tác giả tái hiện một cách chân thực, rõ nét nhất. Đặc biệt, hai đoạn thơ dưới đây đã điểm tô và làm nổi bật vẻ đẹp sáng ngời của người lính Việt:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
(Tây Tiến – Quang Dũng)

Và:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
(Việt Bắc – Tố Hữu)

Quang Dũng là một nhà thơ, nhà soạn nhạc tài ba và cũng chính là một người lính tham gia vào đội ngũ chiến đấu của Tổ quốc. Trong thời thanh xuân của mình, ông đã từ bỏ mọi hoài bão của tuổi trẻ để sống một đời lính đầy oanh liệt hào hùng.

Có lẽ, chính vì thế mà cái đời lính đã ăn sâu vào đời thơ của ông. “Tây Tiến” là một bài thơ được viết vào năm 1948. Với âm hưởng hào hùng, bi tráng, bài thơ đã in sâu trong tâm trí người đọc những nét đẹp sáng ngời cùng sự hy sinh quên mình của những anh hùng dân tộc.

Nói về Tây Tiến, ta không thể không điểm qua đôi chút về lịch sử và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để thấu hiểu những giá trị mà nó mang lại.

Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập vào năm 1944 tại Tuyên Quang. Lúc bấy giờ, quân ta đã dần trưởng thành hơn sau khi trải qua bao khó khăn, thử thách nơi chiến trường khắc nghiệt. Đây cũng là thời điểm hình ảnh người lính của quân đội nhân dân được nhiều tác giả khai thác. Mỗi một trang thơ đều ghi lại những nét đẹp cùng sự hi sinh to lớn của người chiến sĩ, để rồi tạo nên những minh chứng hùng hồn cho một đoạn lịch sử đáng tự hào của dân tộc.

Trong đó. Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập từ 1947 với thành phần tham gia chủ yếu là thanh thiếu niên tri thức Hà thành. Quang Dũng là một trong những người chiến sĩ được đứng trong đội ngũ quân đội nhân dân.

Trải qua bao thăng trầm của cuộc cách mạng, hơn ai hết, ông đã sống hết đời lính với Tây Tiến và chứng kiến những sự kiện lịch sử oai hùng. Có lẽ, chính bao khó khăn, thiếu thốn cùng sự tự hào về cuộc đời lính, ông đã cất lên những vần thơ rất đẹp, rất riêng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Chỉ với hai câu thơ đã giúp người đọc hình dung được sự bi tráng ẩn trong vẻ đẹp “kỳ dị” của người lính. Ở đây, ta có thể hiểu câu thơ với hai cách. Có thể người lính Tây Tiến “không mọc tóc” – “quân xanh màu lá” – đầu trọc da xanh là do cái đói cái khát hút đi thần sắc, do trận sốt rét rừng đã làm rụng tóc, da dẻ héo úa.

Cũng có thể hiểu rằng, đó là hình ảnh người lính đã cạo trọc đầu, còn “quân xanh màu lá” chính là màu xanh áo lính, màu của núi rừng. Tuy nhiên, cách hiểu đầu tiên vẫn được mọi người ưa chuộng hơn, bởi nó phần nào lột tả được những khó khăn, thử thách mà người lính phải trong trận chiến khắc nghiệt.

Bên cạnh cái bi, là cái hào hùng. Tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và tâm hồn, để rồi làm nổi bật sự ngang tàng cùng khí chất mạnh mẽ của người lính.

Trong cái ngang tàng ấy, dường như có những nét đùa vui thể hiện sự lạc quan, yêu đời và coi gian khổ chỉ là điều tầm thường. Nước ta xanh xao cùng đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, nhưng họ vẫn đứng vững tư thế hiên ngang, khiến cho mọi quân thù phải kinh hồn hoảng sợ. Đồng thời, việc sử dụng từ “đoàn binh” đã góp phần gợi nên sự mạnh mẽ, hùng dũng, oai phong lẫm liệt.

Và dù cho mọi khó khăn, thử thách đang cố làm nhụt chí người chiến sĩ, thì họ vẫn ngang tàn thách thức, làm chủ núi rừng và chế ngự mọi khắc nghiệt để tiến lên từ chính gian khổ. Cùng với cái bi tráng, là sự lãng mạn của những chàng thanh niên trẻ mang trong mình cái tình nồng cháy:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Dẫu khắc nghiệt, gian nan luôn cận kề, nhưng người lính ấy vẫn luôn mở to mắt nhìn thẳng về kẻ thù cùng ý chí mạnh mẽ. Bên trong cái mộng gửi vào sự nghiệp của dân tộc ấy, còn là đôi mắt tình, đôi mắt thao thức nhớ nhung quê hương – nơi có bóng dáng người thương vẫn hoài khắc khoải. Người lính ấy chỉ mới là những chàng trai trẻ, làm sao thiếu đi sự rung động của trái tim được?

Nhưng tình yêu ấy không khiến họ chùn bước, không khiến họ lo ngại rời xa, mà nó đã trở thành động lực, thành sức mạnh để vững bước tiến lên.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Một người lính đã chọn dứt áo ra đi, cũng chính là họ đã chọn “đầu không ngoảnh lại”, chọn quyết tử vì tổ quốc. Càng mất mát, càng hy sinh, càng khó khăn thì họ càng quyết tâm. Đẹp làm sao những lý tưởng cao đẹp, trọn nghĩa trọn tình của người chiến sĩ quả cảm, oanh liệt.

Qua sáu câu thơ trên, với bút pháp sử thi, cảm hứng lãng mạn kết hợp cùng việc sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, Quang Dũng đã thành công khai thác hình ảnh đoàn quân Tây Tiến thời chống Pháp với đầy gian khổ, mất mát và hi sinh nhưng cũng vô cùng hào hùng, bi tráng.

Đến với nghệ thuật sớm hơn Quang Dũng, Tố Hữu chính là một trong những cây bút đi đầu trung thành với lý tưởng của Đảng, là người cầm lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi một cột mốc quan trọng trong lịch sử nước nhà đi qua, ông đều có những tác phẩm riêng để ghi nhớ sự kiện quan trọng ấy.

Trong đó, Việt Bắc là bài thơ được lấy cảm hứng từ buổi chia tay với chiến khu Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Chính vì những giá trị nghệ thuật cùng vần thơ mang đậm chất trữ tình chính trị ấy, bài thơ này đã được ví là “đỉnh cao thơ của Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung”.

Trong bài thơ, Tố Hữu không chỉ tái hiện hồi ức đẹp đẽ nghĩa tình, mà còn vẽ nên một bức tranh ra trận đầy khí thế của quân và dân ta:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

Đoạn thơ đã giúp người đọc hình dung ra những cuộc hành quân gian khổ mà hào hùng khi tập trung miêu tả cuộc thánh chiến của dân tộc ta. Đó là sự khẳng định về sức mạnh đoàn kết của dân tộc, là sự tái hiện hình ảnh những đoàn quân oai hùng, là bức tranh vẽ nên khung ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh gắn liền với hình ảnh những đoàn dân công, đoàn xe cơ giới làm bừng sáng cả những đêm kháng chiến, bùng sáng cả ước mơ, hi vọng mà cả dân tộc cùng thắp lên trong đêm đen của dân tộc.

Ở hai câu thơ đầu, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào của mình với giọng thơ khẳng khái, hùng hồn. Con đường ấy đã mở ra chiến thắng của dân tộc, là con đường ghi lại mọi cuộc chiến khắc nghiệt, cũng là con đường tượng trưng cho sự trưởng thành, phát triển của kháng chiến và cách mạng. Và chính con đường ấy, đã tạo thành con đường chiến thắng trong Việt Bắc.

Có lẽ vì thế mà sức mạnh của dân tộc ta gắn liền với con đường chiến thắng “đêm đêm rầm rập như là đất rung” này. Sang hai câu tiếp theo, ta như hình dung khung cảnh Việt Bắc rực sáng, hùng vĩ trong những năm tháng kháng chiến bởi hình ảnh đoàn quân ra trận.

Đoàn binh hành quân mà như cả đất trời đang cùng người lính ra trận. Nếu như nói khẩu súng là ý chí đánh giặc của người lính, thì chiếc mũ xuất hiện trong thơ lại là hình ảnh của người lính với tầm vóc vươn tới sao trời. Từ đó, trước mắt người đọc như hiện lên vẻ đẹp rất hào hùng của đoàn binh ra trận.

Bên cạnh đó, không thể thiếu đi bức tranh tái hiện sức mạnh của đoàn dân công – những người đã kề vai sát cánh, cùng bộ đội viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

Câu thơ như gợi ra một sự điệp trùng vô tận của đoàn dân công, dẫu cho tác giả không dùng bất cứ từ “điệp trùng” nào. Cùng với đó, hình tượng bàn chân đã góp phần biểu tượng cho sức mạnh của con người gắn liền với chặng đường đấu tranh oai hùng.

Tố Hữu đã thành công trong việc sử dụng thể thơ lục bát mang âm điệu hùng tráng, kết hợp với chất sử thi đầy lãng mạn. Cùng với đó, việc sử dụng phép tương phản, đối lập, điệp từ… đã giúp đoạn thơ thêm phần ấn tượng khi tái hiện một cách sâu sắc không khí kháng chiến khắc nghiệt mà vẻ vang của dân tộc. Dẫu đã đọc xong bài thơ, nhưng âm điệu hào hùng cùng không khí xuất trận ấy vẫn còn vang vọng mãi nơi tâm trí ta.

Cả hai bài thơ đều được hai tác giả viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và sử dụng bút pháp sử thi, lãng mạn để tái hiện hình ảnh đoàn quân trên con đường cách mạng. Tuy nhiên, cảm hứng của mỗi người đều có sự khác nhau khi Tây Tiến hiện lên hình ảnh người lính rất hiện thực mà cũng rất đỗi mộng mơ, còn Việt Bắc lại mô tả người lính với hình ảnh thiên về sự bay bổng, tự hào.

Tìm hiểu chi tiết về 🍃Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu🍃Ngoài Việc Tìm Hiểu Nhận Định Về Quang Dũng

Liên Hệ Tây Tiến Với Đất Nước

Đất nước trong mỗi người, chỉ có một nhưng lại mang hình hài khác nhau, mang theo những câu chuyện khác nhau. Với Quang Dũng, đó là hình ảnh:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(“Tây Tiến” – Quang Dũng)

Còn với Nguyễn Khoa Điềm:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
(“Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm)

Quang Dũng và Nguyễn Khoa Điềm được coi là những thế hệ nhà tiêu biểu của hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc: kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nếu Quang Dũng là bông hoa nở rộ giữa rừng thơ chân thực, dân dã với vẻ đẹp hào hoa, kiêu hùng thì Nguyễn Khoa Điềm lại nổi bật giữa những áng thơ gân guốc, bụi bặm bởi phong cách trữ tình, chính luận rất riêng.

Quang Dũng viết “Tây Tiến” từ nỗi nhớ, bằng nỗi nhớ và trong nỗi nhớ. Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ cùng quân đội Lào bảo vệ vùng biên giới Việt – Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Cuối năm 1948, khi buộc phải rời quân đoàn đi làm nhiệm vụ khác, nỗi nhớ về Tây Tiến và núi rừng, con người Tây Bắc đã giúp ông viết lên bài thơ.

Còn Nguyễn Khoa Điểm viết “Đất nước” bởi sự ý thức, bằng tinh thần trách nhiệm và hướng tới sự thức tỉnh. “Đất nước” là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt, tư tưởng của lớp thanh niên trí thức ở miền Nam đang dần bị lung lay. Bài thơ như một sự khẳng định, thức tỉnh và cảnh tỉnh con người.

Đầu tiên, ta có thể cảm nhận được hình ảnh đất nước thật hào hùng mà cũng bi tráng trong sự hi sinh anh dũng của con người:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Câu thơ là một trong những bức tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. Nơi viễn xứ, những con người ấy chỉ còn là áo vải mong manh. Cái bi, cái mất mát trong chiến tranh là chẳng thể nào chối bỏ. Vì thế, Nguyễn Duy từng đúc kết một cách đau xót: “Kì quan nào chẳng hắt bóng xót xa” (“Đứng trước tượng đài Kiev). Nhưng bi mà không hề lụy.

Câu thơ sử dụng hệ thống những từ Hán Việt: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc hành” làm cho không khí trở nên trang giọng, lời thơ trầm lắng, giọng thơ trầm hùng, bi tráng. Lại một cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng định khí thế ngang tàng của những bậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa hồng mao.

Hình ảnh “áo bào” gợi về bóng dáng những Kinh Kha bên bờ sông Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn” cùng biện pháp nói giảm nói tránh càng làm cho người lính hiện lên cao đẹp. Cái chết đối với họ, đơn giản chỉ là sự trở về khi mình đã sống và chiến đấu hết mình trong một tâm thế ung dung, nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này của Quang Dũng, người ta thường thấy ở đó những biểu hiện tiêu cực của “mộng rớt”, “buồn rớt” hay “yêng hùng tư sản”.

Cái khẩu khí của nhà thơ, của những anh bộ đội Tây Tiến ấy, thực ra, vô cùng đáng trọng. Nó là biểu hiện quyết tâm của những con người yêu giống nòi, sẵn sàng đổ máu hi sinh vì những lẽ sống lớn lao. Họ không phải nạn nhân, những con tốt đen vô danh vô nghĩa trên bàn cờ trận mạc mà là những “chủ thể đầy ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng giây phút, biết ước mơ, hi vọng và khi cần thì sẵn sàng hiến dâng.

Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.

Nhận thức được điều đó, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định một lần nữa:

“Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”

Đoạn thơ mở đầu bằng đại từ xưng hô “Em” – một người vô danh, là người em gái, những “em gái hái măng một mình” trong thơ Tố Hữu? Hay là tất cả những thế hệ đi sau, phía sau? Cũng là lời gửi gắm đến chính mình.

“Em ơi em” là cho câu thơ như mềm ra, nhẹ nhàng như những lời tâm sự, dặn dò ân cần của “anh” cho “em”. Chính điều đó giúp cho thơ của Nguyễn Khoa Điềm viết về chính trị mà không khô khan, là chính luận nhưng cũng đậm chất trữ tình.

Em phải nhớ: “Đất nước là máu xương của mình”. Một cách định nghĩa rất cụ thể và rất mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm: ý niệm phi hình thể được hữu hình như “máu xương của mình” – là một phần cơ thể, không thể thay thế, không thể cắt bỏ, tách rời; đồng thời cũng là máu xương, mồ hôi và cả linh hồn của những người lính như người lính Tây Tiến phải chịu cảnh “rải rác biên cương mồ viễn xứ”.

Vì thế chúng ta “phải biết gắn bó và san sẻ” – sự yêu thương và sẻ chia, đoàn kết; “hóa thân cho dáng hình xứ sở” – biết bỏ cái tôi, cái ích kỷ để làm một phần của đất nước, sẵn sàng hi sinh, sẵn sàng dâng hiến. Điệp từ “Phải biết”, không chỉ đơn giản là sự gợi nhắc mà đã trở thành yêu cầu, là sự thức nhận ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, thể hệ trẻ đối với hai tiếng “Đất nước” đã cưu mang mình để làm nên “đất nước muôn đời” mãi mãi vững mạnh.

Như vậy, đối với cả Quang Dũng hay Nguyễn Khoa Điềm, đất nước là tất cả những gì rất thiêng liêng và cao cả nhưng cũng rất đỗi gần gũi, giản dị. Với Quang Dũng, đất nước là sự hào hùng, bi tráng của những con người đã dũng cảm “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Hiểu được điều đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tái khẳng định cũng như xác nhận trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước.

Cuối cùng, đều chính là tư tưởng đóng góp, dâng hiến hết mình cho Tổ quốc. Nhưng nếu “Tây Tiến” đã trở thành địa chỉ của thương nhớ với những từ Hán Việt trang trọng, giọng thơ dứt khoát, âm hưởng hào hùng thì “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm lại là cái nhìn mới mẻ, sâu sắc, toàn hiện về những khái niệm tưởng như đã quá quen thuộc được viết bằng thể thơ tự do, từ ngữ giản dị, giọng điệu tâm tình thủ thỉ.

Dòng chảy của văn học Việt Nam đã qua được ngàn đời và còn tiếp tục chảy dài bởi sự tiếp thu và cách tân, bởi những điểm gặp gỡ và độc đáo riêng như vậy. Bom đạn đã qua đi, những chiến tuyến được lập lên rồi lại san bằng nhưng những câu thơ kia còn sống mãi. Đó là câu thơ của một thời, của chân lí thời đại.

Đón đọc và tìm hiểu 🔰Đất Nước [Nguyễn Khoa Điềm]🔰 Bên Cạnh Tìm Hiểu Nhận Định Về Quang Dũng

Liên Hệ Tây Tiến Với Đồng Chí

Người lính là hình tượng trung tâm trong văn học kháng chiến, ở mỗi thời kì lịch sử của mỗi cuộc chiến tranh, người lính trong đời sống thực tế cũng như trong thơ ca đều có những nét khác nhau.

Đầu cuộc kháng chiến chống Pháp có hai loại người lính: một là người lính xuất thân từ nông dân như trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên, Cá, nước của Tố Hữu, Đồng chí của Chính Hữu; hai là người lính xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản thành thị (hồi đó có phong trào xếp bút nghiên lên đường tranh đấu) như Tây Tiến của Quang Dũng. Cả hai đều cùng chung lí tưởng yêu nước giết giặc, cùng thể hiện tinh thần xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân.

Người lính trong bài thơ Tây Tiến được xây dựng bằng cảm hứng lãng mạn. Bút pháp lãng mạn thường thể hiện bằng cái phi thường. Khung cảnh hoạt động của người lính là khung cảnh phi thường:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Những độ cao, những vực thẳm, những heo hút chỉ tăng vẻ hào hùng cho người lính chứ không đe dọa người lính. Thiên nhiên còn ẩn chứa cả những bí mật, những hiểm nguy:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.

Hình tượng người lính cũng thật là phi thường. Người lính Tây Tiến gần với người hiệp sĩ vì nghĩa lớn, nhưng họ là những con người bằng xương bằng thịt đang chiến đấu gian khổ trong những ngày đầu kháng chiến.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Diễn tả những gian khổ của người lính ở rừng rất chân thật, thiếu ăn, thiếu thuốc sốt rét… đến nỗi rụng hết tóc. Nhưng bút pháp lãng mạn không làm yếu người lính mà càng oai hùng đầy tự hào.

Cái chết cũng bi hùng, đượm tinh thần hi sinh của hiệp sĩ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Người lính Tây Tiến mang theo nét hào hoa của những thanh niên Hà Nội đi chiến đấu thời bấy giờ – trong đó có Quang Dũng. Tình quân dân cũng nhuốm màu sắc lãng mạn:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Con người như lạc vào thiên nhiên mơ mộng, lạc vào xứ lạ, phương xa thường thấy trong cảm hứng lãng mạn.

Giấc mơ của người lính cũng là giấc mơ của những thanh niên Hà Nội tràn đầy tinh thần lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu được tác giả viết với bút pháp hiện thực. Người lính hiện lên với tất cả các dáng vẻ chất phác lam lũ của người nông dân mặc áo lính. Họ là người của tứ xứ, của những làng quê nghèo đói gặp nhau trong lí tưởng cứu nước:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Từ tình yêu giai cấp, họ đã nâng lên thành tình đồng chí, một tình cảm mới mẻ:

Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!

Tấm chăn đắp lại thì tâm tư họ mở ra, họ hiểu rõ hoàn cảnh của nhau:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.

Ở ngoài chiến trường mà nghe rõ gió lung lay từng gốc cột của ngôi nhà mình, người lính thương yêu gia đình, quê hương biết bao nhiêu, nhưng trước hết họ phải vì nghĩa lớn. Về tinh thần hiệp sĩ này họ lại rất gần với người lính Tây Tiến.

Họ sẵn sàng chịu đựng những gian khổ tột cùng của cuộc kháng chiến:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài miếng vá
Nụ cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Tình đồng chí đã nuôi dưỡng tâm hồn của những người lính và họ đã biến nó thành sức mạnh chiến đấu.

Bút pháp miêu tả cũng khác nhau. Một chi tiết trong thơ: Chiếc áo Quang Dũng nói là áo bào có tính chất hiệp sĩ còn Chính Hữu nói áo anh rách vai rất hiện thực.

Từ tình thương yêu giai cấp, họ đã cùng vươn lên đỉnh cao của tình đồng chí:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí; áo anh rách vai, quần tôi có vài miếng vá là một cặp đồng chí; đêm nay giữa rừng hoang sương muối đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới là một cặp đồng chí. Lạ thay, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí: Đầu súng trăng treo.

Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nói được cái cụ thể và gợi đến vô cùng. Súng và trăng, gần và xa, Tôi với anh hai người xa lạ, Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Súng và trăng cứng rắn và dịu hiền. Súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ. Súng và trăng là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.

Sự kết hợp yếu tố hiện thực tươi rói với tinh thần lãng mạn cách mạng là vẻ đẹp riêng của hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.

Đọc hiểu 🌿Bài Thơ Đồng Chí [Chính Hữu]🌿 Bên Cạnh Nhận Định Về Quang Dũng

Liên Hệ Tây Tiến Với Người Lái Đò Sông Đà

Với Tây Tiến của Quang Dũng và Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân đều đề cập đến vẻ đẹp của con người giữa thiên nhiên Tây Bắc. Với Tây Tiến, hình ảnh những anh chiến sĩ hiện lên trên rừng núi Tây Bắc thật đẹp, thật dũng cảm. Từ đó ta liên hệ với hình ảnh dũng cảm của người lái đò trên dòng sông Đà chảy siết, dữ tợn.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Điệp từ “dốc” cùng cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” tạo thành hai vế gợi cảm giác những con đường dốc nối tiếp nhau. Dốc cao dựng đứng hiểm trở, dốc tiếp dốc, trùng điệp. Những từ láy tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đặt trong câu thơ nhiều thanh trắc góp phần miêu tả cảnh hùng vĩ, đầy hiểm trở của núi rừng miền tây. Con đường hành quân qua dốc núi vừa gập ghềnh, trắc trở; vừa cao vừa sâu hun hút, con đường như dài ra theo bao nhiêu nguy hiểm khó khăn, vất vả với “cọp trêu người” (“chiều chiều”, “đêm đêm”) và thác cao nghìn thước.

Các từ láy tạo hình “khúc khuỷu” (quanh co, khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người) gợi hình ảnh những con dốc quanh co, gập ghềnh. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy.

Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” cho thấy đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp lãng mạn. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới.

Điệp từ “ngàn thước”, “lên” đối lập “xuống”, nhịp thơ 4/3 như tô đậm chiều cao, độ sâu và tạo một nét gãy đầy ấn tượng của núi đèo. Chiều cao và chiều sâu của dốc núi dựng đứng đã đặc tả được sự nguy hiểm đối với chiến sĩ. Dường như trong thế đứng hùng vĩ ấy, trong âm hưởng câu thơ có cả dáng mệt mỏi và nhịp thở đứt quãng nhọc nhằn của chiến sĩ Tây Tiến.

Vất vả, gian lao nên không ít người đã mệt mỏi “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cách nói giảm làm dịu bớt đau thương – họ hi sinh như đi vào giấc ngủ thanh thản – nhưng cũng không che giấu bớt những gian khổ, nhọc nhằn đã vắt kiệt sức của các chiến sĩ. Tuy vậy, trên đỉnh núi cao, họ vẫn giữ cho mình cái nhìn, cách nói hóm hỉnh, vui tươi của một tâm hồn trẻ trung “súng ngửi trời”.

Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Cái chết đậm chất bi hùng “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” tả gian khổ, vất vả. Ba chữ “bỏ quên đời” gợi tâm thế ngang tàng, kiêu bạc, coi thường cái chết, coi thường hiểm nguy. Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính, chết không rời bỏ đội hình, đội ngũ.

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Hai câu thơ gợi hình ảnh núi rừng hoang sơ, huyền bí. Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều “gầm thét” hòa điệu với tiếng gầm của cọp beo “đêm đêm” hợp thành một bản hòa tấu rùng rợn vang động núi rừng. Điệp từ: “Chiều chiều, “đêm đêm” chỉ thời gian, sự lặp lại, nhưng còn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến luôn phải đối mặt với những hiểm nguy ngày đêm rình rập, đe dọa.

Trong khi đó với Người lái đò sông Đà:

Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, người lái đò được khắc họa như linh hồn muôn thuở của sông nước miền
Tây Bắc.

Ông làm nghề lái đò đã hơn mười năm. Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần
rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần.. Kinh nghiệm và sự từng trải của người lái đò còn thể hiện,
dòng sông Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất
cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở.

Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”.

Ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.

Một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… 

Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.

Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà.

Cuộc đọ sức giữa con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (…). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”

Tìm hiểu chi tiết về 🔰Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🔰 Bên Cạnh Các Nhận Định Về Quang Dũng

Liên Hệ Tây Tiến Với Tiểu Đội Xe Không Kính

Cả hai tác phẩm Tây Tiến của Quang Dũng và Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đều làm nổi bật hình tượng người lính anh dũng, lạc quan trong kháng chiến chống giặc, tuy nhiên với Tây Tiến là kháng chiến chống Pháp còn Tiểu đội xe không kính là kháng chiến chống Mỹ.

Tây Tiến được Quang Dũng sáng tác vào năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh và được in trong tập Mây đầu ô. Hình ảnh người lính Tây Tiến được khắc họa dưới ngòi bút của Quang Dũng mang một vẻ đẹp vừa bi tráng vừa lãng mạn tỏa sáng giữa núi rừng thiên nhiên.

Hình tượng người lính người lính Tây Tiến được khắc họa rất lạ để tả màu da khi bị sốt rét rừng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Người lính giữ cho mình một tư thế oai phong, hùng dũng là “dữ oai hùm”. Nhưng tư thế đó được tả thực đến từng chi tiết. Người chiến sĩ không có tóc do những trận sốt rét rất khủng khiếp mà hầu như ai cũng phải trải qua. Đoàn quân Tây Tiến đã ra đi không ít người vì những căn bệnh nguy hiểm như vậy, người hành quân phải đối mặt với mọi khó khăn, gian nguy, thiếu thốn.

Đằng sau ngoại hình là một sức mạnh tâm hồn:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Một nét đẹp lãng mạn giữa khung cảnh hiểm nguy của cuộc kháng chiến. Có một thời giấc mơ lãng mạn ấy được xem là mộng tưởng vô thực của tiểu tư sản thể hiện tâm hồn yếu đuối không nên có ở người anh hùng ra trận. Tác giả đã đem đến cho ta sự quý giá của những câu thơ tả thực như thế. Giấc mơ ấy thật bay bổng và cũng là sức mạnh tinh thần của Tây Tiến.

Những giấc mộng ấy đã biến thành động lực giúp người chiến sĩ vượt qua bao gian khổ và thúc họ tiến về phía trước, vượt qua mọi kẻ thù.

Lí tưởng và khát vọng của người lính Tây Tiến được thể hiện một cách sâu sắc qua câu thơ:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.”

Tuổi trẻ khát vọng của những người lính trẻ tuổi vẫn còn đang ở phía trước nhưng Tổ quốc thân yêu vẫn còn đang ở phía trước, không có tình yêu cao hơn Tổ quốc. Vì vậy khát vọng của họ là được ra đi, được dâng hiến, xả thân. Bao chiến sĩ anh dũng vung gươm ra chiến trường. Những người ra đi không ngoảnh lại với tình cảm tươi đẹp đã được thể hiện và trở thành lí tưởng của người chiến sĩ.

Trên chặng đường gian nan nhiều người lính không thể vượt qua và đã vĩnh viễn gục lên súng mũ bỏ quên đời. Trên con đường hành quân có rất nhiều phải hi sinh. Sự hi sinh đầy bi tráng của họ được khắc họa vô cùng đẹp:

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Trong khi đó, với Tiểu đội xe không kính thì hình tượng người lính cũng hiện lên thật đẹp, thật lạc quan và dũng cảm.

Bài thơ có nhan đề vô cùng độc đáo nó góp phần thể hiện tâm hồn vô cùng lạc quan yêu đời của những chiến sĩ lái xe tiếp viện cho tiền tuyến. Những con người đầy ngang tàng, nhưng cũng không kém phần giản dị chuẩn mực. Hình ảnh của những người chiến sĩ lái xe gắn liền với những chiếc xe không kính, một hình ảnh miêu tả vô cùng chân thực. Bom đạn của giặc đã khiến cho những chiếc xe trở nên thiếu hụt đủ thứ: không đèn, không kính , không mui thậm chí còn xước xác….

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Thế nhưng chính vì không có kính nên hình ảnh những người chiến sĩ lái xe mới hiện lên một cách chân thực và tài tình đến vậy. Những con người bất chấp sự thiếu thốn, khó khăn vẫn băng băng lao về phía trước một lòng vì tiền tuyến:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.

Đến đây ta thấy nhịp thơ trở nên dồn dập và nhanh đến lạ nó như là những nhịp xe chạy trên đường vậy. Chính vì xe không có kính nên các anh mới có thể cảm nhận rõ nhất những thứ đang ở ngoài đến vậy: thấy gió, thấy con đường, cánh chim, sao trời…. Chỉ có những con người đã trải qua thực tế mới có thể có những cảm nghĩ chân thực đến vậy.

Gió ùa vào làm xoa dịu đi mắt đắng. Mắt đắng ở đây không phải do bụi mà là do thiếu ngủ, chính cơn gió ùa vào nơi cửa đã giúp các anh trở nên tỉnh táo và minh mẫn hơn khi cầm lái. Tất cả những cảnh vật bên ngoài “như sa, như ùa” vào bên trong để các anh có thể nhìn thấy cả con đường chạy thẳng vào tim. Thế nhưng dù thiếu thốn đến vậy khó khăn đến vậy tâm hồn người lính vẫn hết sức lạc quan và ngang tàng:

Không có kính, ừ thì có bụi
……
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!

Dẫu cho phải trải qua ngàn khó khăn ngàn gian khổ thì chỉ cần con người còn có niềm tin còn có say mê thì xe vẫn chạy thẳng về phía trước. Bầu trời kia như xanh thêm khi có các anh có nụ cười của các anh.

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Khổ thơ cuối cùng mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm đặc biệt. Trong khói lửa hoang tàn của chiến tranh mọi thứ đều bị phá hủy. Chiếc xe thảm hại vì không có kính, chẳng có đèn, không có mui mà lại còn xước thế nhưng bom đạn của kẻ thù dường như chẳng thể thắng nổi ý chí con người.

Chỉ cần trong buồng lái vẫn còn một trái tim còn đập còn một tinh thần bất diệt thì xe vẫn còn chạy. Đó chính là điều mà nhà thơ muốn gửi gắm, tinh thần yêu nước sẽ trở thành một ngọn lửa bất diệt chiến thắng mọi kẻ thù, nó vượt lên trên hết cả những mũi tên hòn đạn, đạp lên mọi kẻ thù tàn bạo.

Hình ảnh người chiến sĩ lái xe là hình ảnh đại diện cho vô số lớp người chiến sĩ trong khói lửa chiến tranh. Tinh thần của các anh cũng chính là thứ tình yêu nước thiết tha mà cả dân tộc thời bấy giờ đang hừng hực.

Chiến tranh tuy đã lùi xa hơn ba mươi năm thế nhưng hình tượng người chiến sĩ trong hai tác phẩm Tây Tiến và Tiểu đội xe không kính vẫn sống mãi trong lòng độc giả. Nó trở thành những bức tượng đài bất diệt về tinh thần yêu nước và sự quả cảm trong những năm tháng đau thương mà anh hùng của dân tộc.

Đọc thêm 🔰Người Lái Đò Sông Đà 🔰 Ngoài Các Nhận Định Về Quang Dũng

Liên Hệ Tây Tiến Với Các Bài Thơ Khác

👉VD1. Phân tích câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, ta có thể liên hệ đến thơ Lí Bạch như sau:

Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở đầu 2 vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, cũng phần nào gợi ra những nỗi nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân: Con dốc này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, núi rừng miền Tây Bắc như muốn thử thách nghị lực của các anh. Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây đã hiện ra trong ý nghĩa tạo hình của biểu cảm của các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”.

Từ láy “khúc khuỷu” miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh ngay dưới chân chiến sỹ, còn từ láy “thăm thẳm” lại gợi độ cao, độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo ngút ngàn như không cùng, con đường lên miền Tây quả là: “Nan ư hướng thiên thanh” (khó như lên trời xanh) trong thơ Lý Bạch.

👉VD2. Phân tích hai câu thơ “Anh bạn dãi dầu không bước nữa /Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, ta có thể liên hệ đến những câu thơ trong bài “Trăng trối” của Tố Hữu:

Từ láy “dãi dầu” đã thể hiện tất cả những vất vả nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi phải vượt qua những núi cao vực thẳm, những thác ghềnh dữ dội, những sương gió nắng mưa.

Hai câu thơ tựa như một bức ký họa đầy ấn tượng về người lính. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc, vô tư, trẻ trung. Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức, gục ngã, không thể bước tiếp cùng đồng đội.

Cũng có thể thấy người lính quỵ xuống khi đang đi giữa hàng quân nhưng “súng mũ” vẫn bên mình – như vậy là dù không vượt qua được khó khăn nhưng anh cũng không thoái lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và nhất là hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn để qua đó làm hiện lên không phải khó khăn mà là tinh thần dũng cảm vượt lên khó khăn. Đó chính là vẻ đẹp hào hùng của người chiến binh Tây Tiến – vẻ đẹp của những anh lính cụ Hồ đã từng được Tố Hữu ngợi ca trong bài thơ “Trăng trối” :

“Vui vẻ chết như như cày xong thửa ruộng.
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê vui sướng
Nằm trên liếp cỏ ngủ ngon lành”

👉VD3. Phân tích 2 câu thơ: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, có thể liên hệ:

“Chiều chiều” và “đêm đêm” là những khoảnh khắc yên tĩnh nhất của đại ngàn. Chính sự tĩnh mịch của rừng núi sâu thẳm lúc chiều buông đêm xuống càng làm cho tiếng thác đổ, tiếng cọp gầm càng trở nên rùng rợn. Chất phương xa xứ lạ của miền biên giới đã được tô đậm trong những câu thơ này.

Cách phối thanh có “thác”, “thét” mang thanh sắc ở câu trên gợi âm thanh tiếng thác nước man dại nơi vòm cao thăm thẳm, và “hịch”, “cọp” mang thanh nặng ở câu dưới lại như mô phỏng bước chân nặng nề của thú dữ. Câu thơ tô đậm sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây.

Sự bí hiểm, dữ dội ấy như ngự trị muôn đời nơi đây qua cách nhà thơ sử dụng các trạng ngữ chỉ thời gian miên viễn, vĩnh hằng. “Chiều chiều” và “đêm đêm” là những điệp từ chỉ thời gian lặp lại gợi ấn tượng về sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp của núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm. Câu thơ của Quang Dũng có nét tương đồng với những vần thơ trong “Từ đêm 19” của Khương Hữu Dụng:

“Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác không tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim”

👉VD4. Phân tích hai câu thơ cuối: “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, ta có thể liên hệ:

Những năm tháng ngắn ngủi sống trong đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong lòng nhà thơ những hoài niệm không thể phai mờ. Bài thơ kết lại bằng lời nhắn nhủ da diết:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Có thể hiểu nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm mà thủy chung son sắt của tất cả những “ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy” – trong lòng họ, thời gian gắn bó với trung đoàn, với miền Tây từ mùa xuân ấy là những thời gian quý giá nhất trong đời, những thời gian vời vợi nhớ thương. Dù có thể chia xa nhưng tâm hồn những người lính Tây Tiến sẽ mãi mãi ở lại với miền Tây, với Sầm Nưa, Pha Luông, Mường Hịch.. những vùng đất xa xôi đựng đầy kỷ niệm với đồng đội, với trung đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng bởi:

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

👉VD5. Phân tích câu thơ: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”, ta có thể liên hệ:

Bức tranh thơ mộng ấy càng trở nên đẹp hơn, tình tứ hơn khi Quang Dũng điểm thêm vào dòng nước đang chảy xiết những bông hoa rừng duyên dáng:

“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Phát huy tối đa hiệu quả của bút pháp tương phản trong thơ lãng mạn, câu thơ đã vẽ lên hai nét vẽ đối lập: “Hoa” – “nước lũ”.

Nói đến nước lũ là nói đến sự dữ dội, cuồng loạn. Còn hoa lại gợi nét đẹp mong manh, yếu đuối. Thế nhưng, bất chấp sức mạnh cuồng loạn, dữ dội của thiên nhiên, đóa hoa rừng vẫn dập duềnh theo sóng nước một cách đầy duyên dáng.

Quang Dũng không viết “đung đưa”, mà dứt khoát phải là “đong đưa”. Vì “đung đưa” chỉ gợi sự chuyển động cơ học, còn “đong đưa” lại gợi bao nhiêu tình tứ.. Dưới con mắt người nghệ sĩ đa tình, đến cả bông hoa rừng bên dòng nước lũ cũng không hề vô tri, vô giác, ngược lại chúng còn biết làm duyên, làm dáng, gợi cảm và đáng yêu. Cái đẹp kiêu hãnh mà gợi tình của thiên nhiên Tây Bắc đã được Quang Dũng tô đậm trong câu thơ này. Người đọc không khỏi bâng khuâng nhớ đến một tứ thơ lãng mạn:

“Cảnh vĩ đại nghiêng trời thác ngàn đổ
Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay” (Thế Lữ)

Sưu tầm văn mẫu bài 🌿Đôi Mắt Người Sơn Tây🌿 Bên Cạnh Nhận Định Về Quang Dũng

Viết một bình luận