Thị Đệ Tử (Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Phân Tích)

Thohay.vn chia sẽ đến bạn một trong những bài kệ Thị Đệ Tử nổi tiếng của thiền sư Vạn Hạnh lúc ngài chuẩn bị viên tịch bên dưới.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Thị Đệ Tử

Bài thơ “Thị Đệ Tử” của Thiền sư Vạn Hạnh là một tác phẩm văn học Phật giáo có giá trị sâu sắc, được sáng tác trong bối cảnh cuối đời của ông. Thiền sư Vạn Hạnh, vốn là một nhà sư có uy tín lớn trong lịch sử Việt Nam, đã sáng tác bài thơ này như một lời dặn dò cuối cùng cho các đệ tử của mình.

Bài thơ được sáng tác vào ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), ngay trước khi Thiền sư qua đời. Thiền sư Vạn Hạnh đã gọi các đệ tử lại và đọc bài kệ này, sau đó không lâu, ngài viên tịch.

Xem thêm bài thơ 👉 Không Đau Khổ Lấy Chi Làm Chất Liệu [Thích Nhất Hạnh]

Nội Dung Bài Thơ Thị Đệ Tử

Sau đây là nội dung bài thơ Thị Đệ Tử của Thiền sư Vạn Hạnh.

示弟子
身如電影有還無,
萬木春榮秋又枯。
任運盛衰無怖畏,
盛衰如露草頭鋪。

Thị đệ tử
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Dịch nghĩa

Người đời như bóng chớp, có rồi lại không,
Như cây cối, mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo.
Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy, đừng sợ hãi,
Vì sự thịnh suy [cũng mong manh] như giọt sương đầu ngọn cỏ.

Ngô Tất Tố dịch thơ:

Thân như bóng chớp, có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.

Mời bạn thưởng thức 👉 Bài Thơ Ngôn Hoài Của Không Lộ

Ý Nghĩa Bài Thơ Thị Đệ Tử

Bài thơ này không chỉ là lời dạy của một vị thiền sư cho đệ tử mà còn là thông điệp về sự giác ngộ và nhận thức sâu sắc về thế giới tự nhiên và cuộc sống con người. Thiền sư khuyên rằng, chúng ta không nên sợ hãi trước sự thịnh suy của cuộc đời, vì chúng cũng chỉ là những hiện tượng nhất thời, giống như giọt sương đọng trên ngọn cỏ.

Thông qua bài thơ, Thiền sư Vạn Hạnh muốn truyền đạt thông điệp về sự giác ngộ và nhận thức sâu sắc về thế giới tự nhiên và cuộc sống con người, khuyến khích mọi người sống một cuộc đời ý nghĩa, không bị ràng buộc bởi những thăng trầm của số phận.

Đọc Hiểu Bài Thơ Thị Đệ Tử

Xem thêm phần đọc hiểu bài thơ Thị Để Tử để có thêm nhiều tư liệu hữu ích.

  • Câu 1: Bài thơ Thị Đệ Tử thuộc thể thơ nào?

👉 Trả lời: Bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

  • Câu 2: Bài thơ thể hiện điều gì?

👉 Trả lời: Bài thơ thể hiện quan điểm nhìn nhận về cuộc đời và sự vô thường, một trong những lý thuyết cốt lõi của Phật giáo. Nó cũng phản ánh quan niệm của Thiền sư về sự tồn tại và bản ngã, với thông điệp rằng không nên sợ hãi trước sự thịnh suy của cuộc sống.

  • Câu 3: Các biện pháp nghệ thuật mà thiền sư Vạn Hạnh đã sử dụng trong bài thơ Thị Đệ Tử là gì?

👉 Trả lời: Bài thơ đã sử dụng những hình ảnh để ẩn dụ, so sánh, biểu tượng để nói về giáo lý đạo Phật.

Tuyển tập trọn bộ 🍁 Thơ Thích Nhất Hạnh 🍁 [Những Bài Kệ Của Thiền Sư Nổi Tiếng Nhất]

Giá Trị Nghệ Thuật Thị Đệ Tử

Bài thơ Thị Đệ Tử của Thiền sư Vạn Hạnh không chỉ có giá trị tư tưởng sâu sắc mà còn là một kiệt tác nghệ thuật. Sau đây là một số điểm nổi bật về giá trị nghệ thuật của bài thơ mà bạn có thể tham khảo để hiểu thêm.

  • Sự giản dị trong ngôn từ: Bài thơ sử dụng ngôn từ giản dị, gần gũi nhưng lại chứa đựng những ý nghĩa triết lý sâu sắc về cuộc sống và thế giới tự nhiên.
  • Hình ảnh thơ phong phú: Bài thơ sử dụng hình ảnh “bóng chớp”, “cây cối xuân tươi, thu khô héo”, “giọt sương đầu ngọn cỏ” để biểu đạt sự vô thường và thịnh suy của cuộc sống.
  • Bài thơ áp dụng kỹ thuật điệp ngữ và điệp cấu trúc, tạo nên sự nhấn mạnh và dễ nhớ cho người đọc.
  • Nhịp điệu đa dạng: Bài thơ có nhịp điệu đa dạng, phản ánh sự linh hoạt và uyển chuyển của thể thơ, tạo nên sự hấp dẫn và thu hút người đọc.

Bố Cục Bài Thơ Thị Đệ Tử

Bài thơ Thị Đệ Tử của thiền sư Vạn Hạnh được chia bố cục thành 2 phần như sau:

  • Hai câu thơ đầu: Tác giả diễn tả sự vần xoay của vũ trụ, nói lên sự biến đổi không ngừng, quy luật của thời gian.
  • Hai câu thơ sau: Nói lên quy luật về đời sống con người đó là quy luật của: “Sinh, lão, bệnh, tử”

Tặng bạn những ❣️ Bài Thơ Phật Giáo Về Vô Thường ❣️

Dàn Ý Bài Thơ Thị Đệ Tử

Nhằm giúp bạn làm một bài văn về bài thơ Thị Để Tử logic, đầy đủ ý thì thohay.vn chia sẽ đến bạn mẫu dàn ý chi tiết bên dưới.

I. Mở bài

  • Giới thiệu về Thiền sư Vạn Hạnh và vai trò của ông trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
  • Hoàn cảnh sáng tác bài thơ

II. Thân bài

  • Nêu bật giá trị văn học và tinh thần của bài thơ.
  • Nội dung bài thơ: Phân tích từng câu thơ, làm rõ ý nghĩa triết lý sâu sắc về sự vô thường của cuộc sống và thế giới tự nhiên.
  • Ý nghĩa của từng câu:
    • Câu 1: Sự chóng vánh của cuộc đời, biểu hiện qua hình ảnh “bóng chớp”.
    • Câu 2: Sự thay đổi không ngừng của tự nhiên, từ sự tươi tốt đến héo khô.
    • Câu 3: Khuyến khích không sợ hãi trước sự thịnh suy, vì mọi sự đều là nhất thời.
    • Câu 4: So sánh sự thịnh suy với giọt sương trên ngọn cỏ, nhấn mạnh sự mong manh và không bền vững.
  • Thông điệp và giá trị nhân sinh: Bài thơ là lời nhắc nhở về việc sống trong hiện tại, không lo lắng về quá khứ hay tương lai.
  • Thông điệp về sự giác ngộ và nhận thức sâu sắc về thế giới tự nhiên và cuộc sống con người.
  • Tác động và ảnh hưởng:• Bài thơ đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ và được coi là một trong những tác phẩm văn học Phật giáo tiêu biểu.

III. Kết luận: Tóm lược ý nghĩa và giá trị của bài thơ trong văn hóa và tâm linh.

Chia sẽ thêm đến bạn trọn bộ ✨Thơ Phật Giáo Về Cuộc Đời✨ thấm nhất

3+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Thị Đệ Tử Hay Nhất

Tổng hợp và chia sẽ đến bạn những bài văn mẫu cảm nhận, phân tích về bài thơ Thị Đệ Tử hay nhất.

Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Thị Đệ Tử Hay Nhất

Thơ văn là đứa con tinh thần của người dân Đại Việt, là nơi thể hiện tâm tư, tình cảm và nỗi niềm của tác giả về cuộc đời hay sự chứng ngộ đạo pháp. Các tác giả nổi bật trong thời kỳ này lại là các thiền sư, họ đã mang thơ văn khô khan, gò bó trong khuôn khổ chữ nghĩa đến với tinh thần nhập thế tích cực, nhằm nâng cao ý thức cộng đồng nhưng vẫn đậm chất Thiền, chất tu và sự chứng đắc của mình.

Trong đó, thiền sư Vạn Hạnh là một trong những bậc anh tài trong rừng hoa thơ ca và cũng là người có công lớn trong việc giúp vua Lê Đại Hành chống giặc ngoại xâm, sau lại đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, thành lập triều đại nhà Lý, Ngài đã có những tác phẩm tiêu biểu để đời thể hiện linh hồn của thiền ca Việt Nam.

Tác phẩm “Kệ Thị Tịch” được thiền sư Vạn Hạnh đọc trước khi viên tịch có thể xem là bài thơ trực tiếp phát biểu các triết lý Phật giáo và quan niệm về thiền rõ nét nhất. Theo sách Thiền Uyển Tập Anh (1337) tác phẩm này còn gọi với tên thân mật khác là “Thị Đệ Tử” – nhan đề này do người đời sau đặt, nhưng ý nghĩa mà thiền sư muốn truyền đạt qua tác phẩm vẫn nguyên vẹn, không thay đổi giá trị theo thời gian. Nguyên văn bài kệ theo âm Hán Việt như sau:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”

Hiện tại bài kệ trên có nhiều bản dịch nghĩa khác nhau mà người viết sẽ chọn một trong số đó để phân tích, góp phần làm rõ âm hưởng Phật giáo trong thơ ca Việt Nam thời bấy giờ. Phần dịch nghĩa như sau:

“Thân như bóng chớp chiều tà,
Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời
Xá chi suy thạnh việc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.”

Bài thơ Thị Đệ Tử được thiền sư Vạn Hạnh sáng tác bằng chữ Hán, theo thể thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt, gồm có 4 câu với 28 chữ, bài thơ này có bố cục rõ ràng bằng hai phần trên cơ sở cấu trúc Đường thi. Phần thứ nhất là hai câu thơ đầu trình bày về lý thuyết Thiền thông qua các hiện tượng trong tự nhiên, phần thứ hai là hai câu thơ cuối trình bày tư tưởng Thiền thông qua sự chiêm nghiệm và thực hành của tác giả mà có được.

Như vậy, Thiền có ngay trong cảnh tự nhiên và trong tâm của mỗi con người, khi tâm lắng trong thường trụ, hành giả sẽ thấy đâu đâu cũng là Thiền và có thể chứng ngộ bất cứ lúc nào.

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô”

Phần đầu trình bày rõ về các hiện tượng tự nhiên trong cuộc sống cốt làm tiền đề cho chất Thiền dần hiện ra một cách tình cảm, cụ thể. Nghệ thuật Đường thi cho phép con người thể hiện sự chiêm nghiệm lý thuyết ở dạng thực tại hiện hành.

Nhìn vào thực tế, bất kỳ ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy “bóng chớp” xuất hiện mau chóng trên bầu trời trong những cơn mưa chiều và sau đó biến mất trong tích tắc như chưa từng xảy ra, mùa xuân là mùa cây trái đơm hoa, là mùa hoan ca của sự sinh sôi, nảy nở, hoa lá vui cười đua sắc thắm, những chồi non vươn mình trong ánh nắng dịu dàng khiến lòng người trở nên vui vẻ lạ thường.

Mùa hè đến bỗng có sự oi bức, khó chịu khi ánh nắng không còn dịu dàng như trước nữa, nó gắt gỏng như muốn thiêu đốt tất cả, khiến con người cũng trở nên khó chịu, lạnh lùng; rồi mùa thu cũng đến, lá vàng lại rụng rơi theo những cơn gió, để lộ những thân cây trơ trọi giữa những ngọn đồi hay bên cạnh những con phố nhỏ xinh, không khí bắt đầu se se lạnh khiến lòng người buồn bã, não nùng.

Mùa đông về, cái lạnh giá tê buốt như muốn ôm chầm lên sự sống, phủ kín luôn tâm trạng chán chường, cô đơn của con người trong sương tuyết. Thiền sư mượn những hình ảnh sắc nét ấy để nói lên sự vô thường trong thân và tâm của con người.

Xét về thân thì nó được vay mượn từ tứ đại (đất, nước, gió, lửa) để hợp thành, khởi điểm này đã là tạm bợ thì lấy gì y cứ để trường tồn? Một kiếp sống liệu có dài như chúng ta thường nghĩ hay cũng chỉ vỏn vẹn vài năm đến vài chục năm?

Thế nhưng, có ai là người mạnh mẽ dám chấp nhận sự thật? Hay vẫn mặc kệ sự vô thường và sự trôi chảy âm thầm của thời gian mà chạy theo những dục vọng thấp hèn để rồi bất chợt nhận ra bên ta chẳng còn ai, chính ta cũng không giữ được mạng sống này, thì cái bản ngã ta nuôi nấng bấy lâu chắc chắn đã làm tổn thương nhiều người, vật chất ta tạo dựng cả đời cũng về tay kẻ khác khi ta nhắm mắt xuôi tay, có đó rồi cũng không đó, nó cũng như bóng chớp buổi chiều tà, thì có gì để tiếc nuối?

Thân người rồi cũng sẽ theo quy luật sanh, lão, bệnh, tử ngầm minh chứng cho sự hiện hữu của con người không bao giờ vĩnh cữu, thân thể này chứa đựng bản chất của vô thường, đủ duyên thì đến, hết duyên thì tan rã. Thế nhưng, điều quan trọng là chúng ta phải biết là “vô thường tấn tốc” để kịp nhận ra ta đã, đang và sẽ làm gì để không phải hổ thẹn với chính mình và mọi người.

Hãy mạnh mẽ bỏ qua cái tôi ích kỷ của mình, hãy mở rộng trái tim để hiểu và thương, hãy góp nhặt phước nghiệp trên hành trình đi về bến giác, có như thế ta mới có được hạnh phúc trong thực tại và tương lai mai sau.

Xét về tâm: Nếu như bốn mùa có những đặc trưng khác nhau và tiếp nối không ngừng, thì tâm cũng vậy, nó cũng biến chuyển đan xen lẫn lộn giữa thiện và ác. Một người học đạo cần phải linh hoạt trong việc điều chỉnh tâm, luôn giữ nó trong trạng thái tốt lành để những hành động của ta không làm thương tổn đến mình và người, biết và ngăn chặn tâm bất thiện khi nó manh nha dấy khởi trong từng sát na tâm.

Khi có sự tĩnh lặng nhất định trong thân và tâm thì hoàn cảnh bên ngoài bỗng trở nên êm ả lạ thường, dù hoa nở hay mùa lá rụng cũng chỉ là cảnh vật vô thức, dù cuộc sống của ta có sung sướng hay khổ đau cũng chỉ là tạm bợ, người đã am hiểu thiền vẫn luôn tự tại, an nhiên, tiếp nhận và xem chúng như những thứ cần phải trải qua trên cuộc hành trình ngao du dạo chơi với đời của mình.

Phần cuối là tâm huyết của thiền sư Vạn Hạnh khi mong muốn con người hãy hành động thay vì cứ hoài niệm trên mặt lý thuyết:

“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”

Thiền sư Vạn Hạnh rất tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ để nhấn mạnh tư tưởng Thiền trong hành động khi sử dụng hai chữ “Thịnh suy” đến hai lần với nghệ thuật điệp ngữ nhằm nhấn mạnh sự vô thường của lẽ sống. Có hưng thịnh thì cũng có lúc suy tàn, đó là quy luật tất yếu mà chúng ta cần phải nắm chắc trong lòng bàn tay. Thịnh được gì và suy sẽ được gì?

Chẳng phải tất cả đều là giả tạm cả sao, vậy có nhất thiết phải ôm nó vào lòng để phiền muộn, khổ đau. Khi chuyện sanh tử của chính mình chưa giải quyết xong thì tội tình gì quan tâm đến sự thế bên ngoài, hãy học cách xem nhẹ trên tinh thần “vô bố úy”, nghĩa là không sợ hãi trước sóng gió của cuộc đời và mạnh mẽ buông bỏ những thứ không cần thiết có thể làm chướng ngại đạo Thiền.

Tác giả đã dùng biện pháp so sánh sự thịnh và suy ấy với hình ảnh ngọn sương rơi trên cành trong những buổi sáng sớm tinh mơ, nó rất mỏng manh và yếu ớt, chỉ cần một ngọn gió đi qua cũng khiến giọt sương rơi mất, hay khi bình minh xuất hiện, giọt nước cũng hòa tan trong ánh nắng vô tình.

Nói đến đây, không phải để con người hiểu sai ý Thiền là bi quan, là tiêu cực, mà đó là tâm huyết được đúc kết từ các bậc tiền nhân, họ đã trải qua những bước thăng trầm của cuộc đời, họ đã từng là những người tiên phong trên con đường xây dựng và bảo vệ đất nước, họ cũng đã từng chiến đấu với bản ngã của chính mình, để giờ đây họ chỉ muốn truyền tải kinh nghiệm cho người đời sau để chúng ta có cái nhìn đúng đắn và chính xác nhất về chính mình và những gì đang diễn ra xung quanh chúng ta, để từ đó chúng ta có động lực vươn lên, thoát ra khỏi vỏ bọc của thế gian bình phàm để đến với pháp thân thường trụ.

Bằng cách này hay cách khác, dù bước đi có khác nhau nhưng luôn y cứ theo chánh pháp thì đích đến là như nhau, quan trọng hơn là chúng ta phải có sự tinh tấn, nỗ lực hết sức mình, luôn trân quý những phút giây hiện tại để làm tươi mới giữa đạo và đời. Đó là giá trị tích cực mà Thiền Tông đem lại cho đời từ những con người luôn sống với đạo lý Thiền.

Tóm lại, nội dung tư tưởng xuyên suốt của bài thơ là giá trị hiện thực với những hình ảnh minh chứng cụ thể, rõ ràng. Chất Thiền trong thơ làm sống lại cuộc đời cho những ai đã từng vấp ngã, là tiếng lòng của tác giả muốn gửi gắm đến thế hệ mai sau, là cả một bầu trời yêu thương đến những người cùng khổ, mãi lang thang phiêu bạt trên đường đời.

Có thể nói đây là tác phẩm Thiền ca rất nổi tiếng vào thời Lý, và càng ý nghĩa hơn khi nó là bài thơ cuối cùng của Thiền sư Vạn Hạnh- bậc thầy am hiểu triết lý và ứng dụng đạo Thiền trong cuộc sống. Việc của hành giả giờ đây chỉ là hiểu và hành Thiền bằng mọi cách theo đúng chánh pháp để giảm thiểu khổ đau cũng như những ác nghiệp đã tạo hằng ngày để hướng đến chân lý cao thượng là độ mình và độ đời.

Tặng thêm bạn 👉 Thơ Thiền Hay Nhất

Phân Tích Bài Thơ Thị Đệ Tử Ngắn Gọn

Vào ngày Rằm tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (tức 30/6/1018), khi công hạnh đã viên mãn, Thiền sư Vạn Hạnh gọi đồ chúng lại dặn dò, đọc bài kệ rồi thị tịch. Bài thơ này được ghi chép trong cuốn sách Thiền uyển tập anh (1337), với tên gọi là “Thị đệ tử” (Bảo đệ tử), nhan đề này do người đời sau đặt. Bài kệ có nội dung như sau:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhâm vận thịnh suy vô bổ uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”

Ngô Tất Tố dịch thơ:

“Thân như bóng chớp, có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”.

Bài kệ này nói lên sự vô thường của vạn vật và nhắc nhở mỗi chúng ta cần phải nhận thức, biết đúng về vô thường để làm chủ vô thường…

Trong câu thơ đầu tiên “Thân như bóng chớp, có rồi không”, bằng biện pháp so sánh, câu thơ nói về thân mạng của mỗi kiếp người, có đấy rồi lại không, cuộc đời con người tính đến trăm năm nhưng nhìn lại chỉ như một giấc mộng, như ánh chớp lóe lên rồi trở về miền vô biên vắng lặng.

Tất cả các yếu tố khi đủ duyên thì hợp thành thân mạng của mỗi chúng ta, nhưng cái thân mạng của mỗi chúng ta cũng như tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng… có hợp rồi lại có tan. Vì vậy, người tu tâm phải thường xuyên quán chiếu để thấy nó chỉ là hư vọng chiêm bao để đừng chấp, đừng phiền não khổ đau…

“Cây cối xuân tươi, thu não nùng”, có nghĩa rằng, vạn vật khi gặp đúng thời vận thuận lợi có thể vinh hiển lẫy lừng… cũng như các loại cây khi mùa xuân đến thì đâm chồi nảy lộc tươi tốt. Nhưng trong mùa thu thì rụng lá trơ cành… đó là vô thường, là lẽ dĩ nhiên. Cũng chính từ đó, dòng đời của vạn vật không ngừng biến đổi và cuối cùng lại trở về vô thủy vô chung… trở về vô ngã… theo cái trục luân hồi sinh tử tưởng như không bao giờ dừng dứt.

Khi người tu hành biết rõ cuộc đời là vô thường, vô ngã như vậy rồi thì không còn lo sợ, tham đắm, tiếc nuối hay phiền não nữa…

Thiền sư Vạn Hạnh từng nói: “Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi” với ý dặn người tu hành sau khi giác ngộ được vô thường rồi thì tâm ta sẽ được bình yên. Điều này giúp người tu hành không vướng bận, không thương tiếc, sầu bi hay sợ hãi, không tức giận tham sĩ trước vô thường nữa.

“Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”, trong câu thơ cuối cũng bằng biện pháp so sánh, tác giả đã ví sự vô thường cái được, cái mất, cái thịnh suy đó cũng chỉ như giọt sương trên đầu ngọn cỏ buổi sớm. Cái thịnh suy đó cũng chỉ là mộng ảo, rất mong manh… nắng lên nó cũng sẽ tan trở về bản thể vô thường.

Qua bài kệ Thị Đệ Tử cho chúng ta biết rằng sự chứng đắc của thiền sư Vạn Hạnh đã nói lên tất cả từ sự tu tập cho đến việc phụng sự đất nước, mặc dù trong cuộc sống phải đối diện với những công việc thế sự nhưng thiền sư Vạn Hạnh vẫn luôn giữ được phong thái của một người xuất gia.

Tuyển tập 🌟Thơ Phật Giáo Về Tình Yêu, Tình Duyên🌟 ý nghĩa nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Thị Đệ Tử Đặc Sắc

Thiền sư Vạn Hạnh với bài thơ Thị đệ tử (Bảo học trò) có thể được coi là tác giả mở đầu cho dòng thơ Thiền đời Lý. Ở đây, triết lý Thiền của ông được thể hiện một cách đầy đủ nhất:

“Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận, thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.

Dịch nghĩa:
Thân người như bóng chớp, có rồi lại không,
Cây cối đến tiết xuân thì tốt tươi, đến tiết thu thì lại héo.
Đã nhậm vận, thì thịnh hay suy không làm cho sợ hãi,
Thịnh hay suy chẳng qua như giọt sương ở đầu ngọn cỏ.
(Vạn Hạnh thiền sư, Thị đệ tử)

Theo quan niệm “sắc”, “không” của Phật giáo thì sự tồn tại của con người cũng như vạn vật là “sắc” (hiện hữu) mà cũng là “không” (vô hình), sắc mà không, không mà sắc. Đọc bài thơ này, chúng ta gặp một số khái niệm quan trọng của đạo Phật là hữu vô và nhậm vận. Thân người đời trong bài Thị đệ tử chỉ là giả hữu. Nó tồn tại rồi biến đi nhanh như một “tia chớp”, theo dòng chảy bất tận của thời gian, của luật tuần hoàn, hết xuân rồi tới thu, tốt tươi rồi khô héo. 

Bài kệ của Vạn Hạnh thể hiện đậm nét tư tưởng triết lý của Phật giáo Thiền tông, mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong thế giới này luôn luôn biến động, vô thường. Con người với tư cách là một sinh thể trong thế giới ấy cũng không nằm ngoài quy luật này.

Một khi người tu hành đã đạt tới “nhậm vận” thì có thể hoà đồng giữa ngoại giới và nội tâm, vượt lên trên sự phân định giữa cái ta và cái không ta. Như vậy, “nhậm vận” như thể là biết trở về với sự an nhiên nằm trong sự vận động vĩnh cửu, một sự vận động vô thuỷ, vô chung, trong đó cuộc đời con người chỉ như là ánh chớp, có rồi không, rất ngắn ngủi và sự thịnh suy như giọt sương treo đầu ngọn cỏ. Thân như bóng chớp có rồi không nhưng chẳng phải là mất mà là chuyển sang trạng thái trở về với bản thể.

Khi thân xác ấy không còn nữa thì không mất hẳn đi mà chẳng qua là sự kết thúc một dạng thức tồn tại mà thôi. Nên con người ta không cần băn khoăn, buồn đau cho sự ra đi của kiếp người bởi bản thể là vĩnh hằng. 

Bài thơ như một sự nhận thức về lẽ sinh tồn, diệt vong của đời người. Con người sống và chết là lẽ thường, lẽ tự nhiên. Triết lý mà Thiền sư Vạn Hạnh muốn dạy bảo học trò qua lời kệ “Thị đệ tử” chính là tinh thần “vô úy” đầy lạc quan mà các môn đồ Thiền tông hướng tới. 

Thơ thiền, nếu không có một chiếc chìa khoá của giác ngộ, chân như thì không thể giải mã được. Bởi mối liên hệ của những câu thơ, những hình ảnh thơ được xác lập và tưởng tượng từ cảm hứng riêng, cảm hứng Thiền, không hẳn giống mạch thơ thông thường của các nhà thi sĩ. Và ở đây, một lần nữa, ta thấy niềm tin của con người và chỉ có ở con người được tô đậm trong thơ Thiền. Đó là triết lý của một lối sống nhập thế, một tư tưởng nhập cuộc rất đáng trân trọng của các Thiền sư đời Lý. 

Mời bạn thưởng thức trọn bộ ❣️ Thơ Phật Giáo 4 Câu Hay Nhất ❣️

Viết một bình luận