Độc Tiểu Thanh Kí: Đọc Hiểu, Soạn Bài, Phân Tích, Thuyết Minh

Thohay.vn chia sẽ nội dung bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí của đại thi hào Nguyễn Du gồm đọc hiểu ý nghĩa, soạn bài, phân tích, thuyết minh, giáo án chi tiết để bạn có thêm nhiều tư liệu hữu ích trong quá trình học tập, làm văn.

Giới Thiệu Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí

“Độc Tiểu Thanh ký” là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng của đại thi hào Nguyễn Du, nằm trong tập “Thanh Hiên thi tập”. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú, thể hiện cảm xúc và suy tư của Nguyễn Du về số phận của những người tài hoa nhưng bạc mệnh trong xã hội phong kiến.

Nội dung chính:

  • Bài thơ kể về Tiểu Thanh, một giai nhân tài sắc vẹn toàn nhưng có cuộc đời đầy bi kịch. Sau khi qua đời, những tác phẩm văn chương của nàng bị đốt bỏ, chỉ còn lại một vài bài thơ sót lại. Nguyễn Du, khi đọc những bài thơ này, cảm thấy đồng cảm sâu sắc với số phận của nàng và tự coi mình là người cùng cảnh ngộ.

Ý nghĩa:

  • Cảm thông và tri âm: Nguyễn Du bày tỏ sự cảm thông với Tiểu Thanh và những người tài hoa bạc mệnh khác. Ông tự hỏi liệu ba trăm năm sau, có ai còn nhớ đến mình như ông nhớ đến Tiểu Thanh.
  • Phê phán xã hội: Bài thơ cũng là lời phê phán xã hội phong kiến, nơi những người tài hoa thường phải chịu nhiều oan trái và bất công

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí

Hiện tại chưa rõ bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí được Nguyễn Du sáng tác trong hoàn cảnh nào bởi có nguồn thì ghi được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt trước khi ông đi sứ đến Trung Quốc. Nhưng cũng có thông tin viết Nguyễn Du sáng tác bài thơ này khi ông đi sứ đến Trung Quốc và có dịp đọc “Tiểu Thanh kí”, ghi chép về cuộc đời của một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh.

Mời bạn xem thêm 👉 Truyện Kiều Của Nguyễn Du

Nội Dung Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí

Thohay.vn chia sẽ đến bạn đầy đủ nội dung bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du bên dưới.

Độc Tiểu Thanh kí
Tác giả: Nguyễn Du

讀小青記

西湖花苑盡成墟,
獨吊窗前一紙書。
脂粉有神憐死後,
文章無命累焚餘。
古今恨事天難問,
風韻奇冤我自居。
不知三百餘年後,
天下何人泣素如。

Phiên âm

Tây Hồ hoa uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chí thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hậu sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch nghĩa

Vườn hoa bên Tây hồ đã thành bãi hoang rồi,
Chỉ viếng nào qua một tập sách đọc trước cửa sổ.
Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chiết,
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở.
Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được,
Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.
Không biết hơn ba trăm năm sau,
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?

Dịch thơ

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Tuyển tập 🌹 Thơ Nguyễn Du Về Tình Yêu 🌹 [Hay nhất]

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí

Nhan đề “Độc Tiểu Thanh Kí” của bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du mang ý nghĩa sâu sắc và đặc biệt. “Kí” trong tiếng Hán có nghĩa là những ghi chép, vì vậy “Tiểu Thanh Kí” có thể được hiểu là những ghi chép của nàng Tiểu Thanh. Do đó, “Độc Tiểu Thanh Kí” có nghĩa là việc đọc những ghi chép hoặc tập thơ của nàng Tiểu Thanh.

Nhan đề không chỉ đơn thuần chỉ việc đọc mà còn phản ánh sự đồng cảm và xót xa của Nguyễn Du trước số phận và những đau khổ mà nàng Tiểu Thanh đã trải qua. Nó cũng gợi lên sự quan tâm của ông đối với vận mệnh của những người phụ nữ tài năng nhưng bất hạnh trong xã hội phong kiến.

Đọc Hiểu Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí

Nắm vững thêm bài học qua phần đọc hiểu bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí bên dưới.

👉 Câu 1: Bài thơ thể hiện tâm trạng gì của Nguyễn Du?

Trả lời: Bài thơ hiện tâm trạng xót thương, day dứt của Nguyễn Du đối với nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh.

👉 Câu 2: Xác định thể thơ của văn bản?

Trả lời: Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

👉 Câu 3: Xác định phép đối trong câu thơ 3 và 4? Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép đối đó?

Trả lời:

  • Phép đối trong câu thơ 3 và 4 : Son phấn có thần- Văn chương vô mệnh ; Chôn vẫn hận-đốt còn vương
  • Hiệu quả nghệ thuật của phép đối đó: Khẳng định cái đẹp văn chương sẽ không bao giờ chết, dẫu người sở hữu chúng thì luôn long đong, lận đận, thậm chí là chết trong buồn tủi, cô đơn.

👉 Câu 3: Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ về sự đồng cảm trong cuộc sống hôm nay từ bài thơ của Nguyễn Du.

  • Gợi ý trả lời

Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:

  • Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành
  • Nội dung: từ sự đồng cảm, sẻ chia của nhà thơ Nguyễn Du với cái đẹp và người làm ra cái đẹp ( nàng Tiểu Thanh), thí sinh suy nghĩ về sự đồng cảm trong cuộc sống hôm nay. Đoạn văn cần trả lời các câu hỏi : đồng cảm là gì ? Ý nghĩa của sự đồng cảm ? Phê phán lối sống vô cảm. Rút ra bài học nhận thức và hành động.

👉 Câu 4: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi nêu hiệu quả nghệ thuật của câu hỏi tu từ ở cuối văn bản?

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Trả lời : Hiệu quả nghệ thuật của câu hỏi tu từ ở cuối văn bản : Đó là câu hỏi nhưng không có câu trả lời. Nguyễn Du xót thương Tiểu Thanh đồng nghĩa xót thương bản thân mình. Tiểu Thanh may mắn được nhiều người biết đến, trong đó có Nguyễn Du. Nguyễn Du thì không biết rồi đây có ai khóc mình như mình khóc Tiểu Thanh không? Tâm sự của nhà thơ là tâm sự u hoài của một tài năng văn chương, của một nhân cách lớn, thể hiện tấm lòng nhân đạo bao la của một đại thi hào dân tộc.

Chia sẽ thêm trọn bộ 🔰 Thơ Chữ Nôm Của Nguyễn Du 🔰

Giá Trị Nghệ Thuật Độc Tiểu Thanh Kí

Dưới đây là giá trị nghệ thuật của bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí.

  • Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí có thể thơ thất ngôn bát cú đường luật
  • Sử dụng nghệ thuật đối, câu hỏi tu từ và phương thức biểu đạt là biểu cảm
  • Hình ảnh thơ hàm súc, giàu giá trị biểu tượng

Qua đó bài thơ thể hiện được dòng vận động nội tâm của tác giả: thương người, đồng cảm với người rồi thương mình.

Bố Cục Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí

Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí được chia thành 4 phần theo bố cục: đề – thực – luận – kết. Bạn có thể xem chi tiết từng phần bên dưới.

  • Hai câu đề: Nguyễn Du đọc phần dư cảo Tiểu Thanh để lạ.
  • Hai câu thực: Nói về số phận tài hoa bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh
  • Hai câu luận: Thể hiện nỗi thương cảm của Nguyễn Du dành cho nàng Tiểu Thanh
  • Hai câu kết: Thương xót Tiểu Thanh từ đó Nguyễn Du thương cho số phận mình

Dàn Ý Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí

Lưu lại ngay dàn ý bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí mà thohay.vn chia sẽ bên dưới để khi làm bài văn phân tích, cảm nhận bạn có thể liên kết các ý thêm mạch lạc, logic mà không lo bỏ sót ý chính quan trọng nào.

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí và tác giả Nguyễn Du

II. Thân bài

👉 Khái quát chung

  • Xuất xứ: Trích từ tập Thanh Hiên thi tập
  • Thể loại: Thất ngôn bát cú đường luật
  • Nàng tiểu thanh: người con gái có tài sắc vẹn toàn nhưng chịu số phận bất hạnh, hẩm hiu nàng đành phải chịu kiếp làm vợ lẽ cô đơn lẻ bóng. Cuộc đời nàng Tiểu Thanh côi cút chốn Côn Sơn cạnh Tây Hồ

👉 Phân tích

Hai câu đề:

  • Nguyễn Du mượn sự thay đổi của cảnh sắc để nói lên được sự thay đổi của cuộc sống. Nhìn hiện tại mà nhớ về quá khứ Tây Hồ nơi cảnh đẹp hút hồn người nay đã hóa gò hoang
  • Tâm trạng nỗi niềm của tác giả: đang ngậm ngùi, xót thương thân phận của một người con gái đẹp đã không còn, chỉ còn lại đây với những mảnh giấy tàn.

Hai câu thực:

  • Nhà thơ mượn hình ảnh “son”, “phấn” để diễn tả sắc đẹp của nàng Tiểu Thanh
  • Mượn vật để nói người, nhà thơ đã bày tỏ được sự đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của nàng Tiểu Thanh.
  • Kết cục bi thảm của nàng Tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng của người đời, của tạo vật…

Hai câu luận

  • Nỗi oan khuất của thân phận người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến đầy bất công
  • Sự đồng cảm, khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu của người xưa và nay
  • Nói lên tâm sự của số phận con người ai oan, cái oán khó giải trên đường đời không chỉ riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơi thời bấy giờ.

Hai câu kết

  • Tiếng khóc cho nàng Tiểu Thanh nay đã có tác giả thấu hiểu và giải oan cho nàng.
  • Tác giả nhìn nhận và nghĩ đến số phận cô độc, lẻ loi trong hiện tại của chính mình. Câu hỏi đặt ở cuối bài thơ chính là khao khát tìm được tấm lòng tri kỉ giữa cuộc đời của tác giả.

Nhận xét:

  • Nội dung: Bài thơ cho thấy lời cảm thương của Nguyễn Du trước số phận oan nghiệt, đồng thời cũng là bản cáo trạng vì xã hội với những quy luật của tạo hóa luôn đố kị với tài sắc của con người. Lời tâm sự chân thành, tha thiết của tác giả
  • Nghệ thuật: Sử dụng phép đối, và các hình ảnh ngôn từ có giá trị sâu sắc. Ngôn ngữ mang đậm chất triết lí

III. Kết bài

  • Nêu nhận xét, cảm nhận chung về bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí
  • Nêu suy nghĩ, liên tưởng của mỗi cá nhân

Chia sẽ đến bạn 🍁 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du 🍁

Sơ Đồ Tư Duy Độc Tiểu Thanh Kí

Với những mẫu sơ đồ tư duy Độc Tiểu Thanh Kí mà thohay.vn chia sẽ bên dưới sẽ giúp bạn nhớ và biết cách phân tích bài thơ một cách khoa học hơn.

Sơ đồ tư duy Đọc Tiểu Thanh Kí ngắn gọn
Sơ đồ tư duy Độc Tiểu Thanh Kí ngắn gọn
Sơ đồ tư duy Đọc Tiểu Thanh Kí đầy đủ
Sơ đồ tư duy Độc Tiểu Thanh Kí đầy đủ
Sơ đồ tư duy Đọc Tiểu Thanh Kí đơn giản
Sơ đồ tư duy Độc Tiểu Thanh Kí đơn giản
Sơ đồ tư duy Đọc Tiểu Thanh Kí chi tiết
Sơ đồ tư duy Độc Tiểu Thanh Kí chi tiết

Đón đọc trọn bộ 🌺 17+ Bài Văn Chiêu Hồn Của Nguyễn Du 🌺

Soạn Bài Độc Tiểu Thanh Kí

Đừng bỏ qua khâu soạn bài Độc Tiểu Thanh Kí khi học bạn nhé. Bạn có thể tham khảo cách trả lời các câu hỏi mà thohay.vn biên soạn bên dưới.

👉 Câu 1: “Son phấn”, “văn chương” là để nói về điều gì ở nhân vật Tiểu Thanh?

Lời giải: “Son phấn”, “văn chương” có ý nghĩa nói Tiểu Thanh là một cô gái vô cùng xinh đẹp, có tài hoa nhưng vô cùng bạc mệnh.

👉 Câu 2: Chú ý nghệ thuật đối ở hai câu thực và hai câu luận.

Lời giải chi tiết:

“Son phấn” với “văn chương”
“vẫn hận” với “còn vương”
“Nỗi hờn” với “cái án”

→ Việc sử dụng phép đối ở trong những câu thơ thực và luận thể hiện được cái tài và cái sắc đi kèm theo số phận bi thảm và đau khổ.

Trả lời câu hỏi cuối bài

👉 Câu 1 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Ngoài kết cấu đề, thực, luận, kết trong thơ Đường luật, bài Độc Tiểu Thanh Kí còn có thể phân chia theo kết cấu gồm hai phần (bốn câu thơ trên với bốn câu thơ dưới) được hay không? Tại sao?

Lời giải chi tiết:

Bài Độc Tiểu Thanh Kí có thể được phân chia theo kết cấu gồm hai phần (bốn câu thơ trên với bốn câu thơ dưới) được. Do nội dung giữa những câu đề và câu thực vô cùng gần nhau, nội dung của câu luận và câu kết cũng gần nhau như vậy.

  • 4 câu đầu: Thể hiện nỗi xót thương về phận bi thương và uất hận của nhân vật Tiểu Thanh.
  • 4 câu sau: Thể hiện niềm suy tư cùng mối đồng cảm với nhân vật Tiểu Thanh và với chính bản thân mình của Nguyễn Du.

👉 Câu 2 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Qua hai câu thơ: “Son phấn có thần chôn vẫn hận,/Văn chương không mệnh đốt còn vương.” em hiểu như thế nào về số phận Tiểu Thanh cùng với tình cảm, thái độ của tác giả?

Lời giải chi tiết:

  • “Son phấn”: Là đồ vật dùng để trang điểm của phụ nữ, tượng trưng cho sắc đẹp và vẻ đẹp của người phụ nữ. Ở đây được hiểu theo nghĩa Tiểu Thanh rất xinh đẹp.
  • “Văn chương”: Là biểu tượng của tài năng.

→ Tiểu Thanh là một người con gái vừa xinh đẹp lại tài hoa.

  • “hận, vương”: Nhằm diễn đạt cảm xúc.
  • “Chôn”, “đốt”: động từ cụ thể hóa lên sự ghen ghét và sự vùi dập rất phũ phàng của người vợ cả đối với nhân vật Tiểu Thanh.

→ Tiểu Thanh là một người con gái vừa xinh đẹp lại tài hoa nhưng lại bị chôn vùi bằng chính những điều như thế, bị hại bởi sự ghen tuông của người vợ cả.

→ Gợi lại cuộc đời và số phận bi thương của Tiểu Thanh, ca ngợi, khẳng định tài sắc của Tiểu Thanh đồng thời xót xa cho số phận bi thảm của nàng – cái nhìn nhân đạo mới mẻ, tiến bộ.

👉 Câu 3 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Vì sao nhà thơ lại tự nhận mình là người cùng hội với người “phong lưu” thanh lịch và tài hoa nhưng mang một nỗi oan lạ lùng? Qua đó, em hiểu được gì về Nguyễn Du?

Lời giải chi tiết:

Tiểu Thanh nàng vừa có tài lại vừa có sắc nhưng mệnh bạc, bị đày đọa đến chết trong tủi cực. Nguyễn Du cũng như thế, ông là một người vô cùng tài hoa nhưng phải sống trong một thời kỳ loạn lạc, cuộc đời ông chỉ toàn những thăng trầm và biến cố. Nguyễn Du là một người có trái tim nhân đạo, mỗi tác phẩm của ông đều nêu lên một hiện thực xã hội. Trái tim nhân đạo của đại thi hào đã được thể hiện ở lòng thương người cùng với niềm tự thương. Nguyễn Du hướng tới những số phận đau khổ và bất hạnh với niềm cảm thông sâu sắc. Đó cũng chính là lý do nhà thơ tự coi mình là người cùng hội với người “phong lưu” thanh lịch và tài hoa nhưng lại mang một nỗi oan lạ lùng.

👉 Câu 4 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Phân tích vai trò của nghệ thuật đối của bài thơ.

Lời giải chi tiết:

  • Trong tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí, Nguyễn Du đã sử dụng vô cùng tài tình phép đối cùng khả năng thống nhất các hình ảnh đối lập trong hình ảnh và ngôn ngữ:
  • Cảnh đẹp >< gò hoang

→ Đối lập giữa quá khứ với hiện tại nhằm nhấn mạnh về sự hoang tàn của cảnh vật ở đây, vốn từng vô cùng xinh đẹp nhưng giờ lại héo úa và hoang tàn. Qua đó thể hiện được sự xót xa và tiếc nuối của tác giả đối với những số phận éo le như nàng Tiểu Thanh.

👉 Câu 5 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Tác giả đã gửi gắm tâm sự gì thông qua hai câu thơ kết?

Lời giải:

Hai câu thơ kết tạo ra một câu hỏi. Từ thương người, Nguyễn Du đã chuyển mạch tới thương mình. Câu hỏi hướng tới những điệu hồn tri âm. Không hỏi về quá khứ, cũng không hỏi hiện tại do quá khứ và hiện tại đều vô cùng bế tắc. Câu hỏi hướng tới tương lai. Nguyễn Du cũng không hỏi ông trời, ông chỉ hỏi người vì còn mong muốn ở đời có thể tìm thấy được những tri âm.

👉 Câu 6 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Hãy viết một đoạn văn ngắn (dài khoảng 10 – 12 dòng) nói về suy nghĩ của em về tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Du thông qua bài Độc Tiểu Thanh Kí.

Lời giải:

Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí đã được đại thi hào Nguyễn Du viết vào một chuyến thăm ngôi mộ của nhân vật Tiểu Thanh. Tiểu Thanh là một người con gái có tài sắc vẹn toàn, thế nhưng cuộc đời lại vô cùng bi thảm, nàng chết trong nỗi cô đơn khi mới bước qua tuổi 18.

Nàng vốn rất yêu thích thơ ca, trong những ngày cuối đời của mình, nàng đã viết rất nhiều bài thơ nhưng không may lại bị người vợ cả đem đốt hết. Để đến bây giờ, Nguyễn Du khi đến thăm mộ nàng vẫn còn chất chứa đâu đó nỗi oán hận và xót thương. Rồi ông cũng xót thương cho chính số phận của mình bởi ông cũng là người có tài và “phong lưu” như nhân vật Tiểu Thanh mà cuộc đời lại gặp phải quá nhiều biến cố.

Thông qua bài thơ, tác giả muốn thể hiện giá trị nhân đạo rất sâu sắc về khát vọng được sống, được người đời kính trọng và cảm thông trước những số phận nhỏ bé và bất hạnh nhất là những người phụ nữ tuy tài hoa nhưng lại bạc mệnh như Tiểu Thanh hay Thúy Kiều. Từ đó gợi ra vấn đề về quyền được sống và khao khát về sự yêu thương, tôn trọng với những người tài hoa.

Chia sẽ 🍁 Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh Của Nguyễn Du 🍁 (Nội Dung + Ý Nghĩa)

Giáo Án Độc Tiểu Thanh Kí

Thohay.vn chia sẽ mẫu giáo án dạy học bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí để các thầy, cô giáo tham khảo thêm.

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC: Giúp HS

1. Kiến thức

– Cảm nhận được giá trị nhân đạo của tác phẩm: Tiếng khóc xót thương cho số phận Tiểu Thanh – người phụ nữ tài hoa bạc mệnh, đồng thời là tiếng nói khao khát tri âm của nhà thơ.

– Thấy được nghệ thuật đặc sắc của thơ trữ tình Nguyễn Du: Hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, ngôn ngữ tài tình, giàu cảm xúc cùng với vận dụng sáng tạo lối kết cấu thơ Đường.

2. Về kỹ năng

Đọc – hiểu một bài thơ Đường luật theo đặc trưng thể loại.

3. Về tư duy, thái độ

– Trân trọng tình cảm Nguyễn Du

– Trân trọng, đồng cảm, thương yêu những kiếp người tài hoa bất hạnh trong xã hội xưa và nay. 

4. Định hướng phát triển năng lực

   – Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản.

  –  Năng lực đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại

  – Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong các văn bản

  – Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về tác phẩm.

  – Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung của văn bản

B. BẢNG MÔ TẢ CÁC MỨC ĐỘ YÊU CẦU CẦN ĐẠT

Nội dungNhận biếtThông hiểuVận dụng cấp độ thấpVận dụng cấp độ cao
1. Hướng dẫn HS tìm hiểu chung.– Nêu được cảm hứng sáng tác chính của Nguyễn Du.- Biết được vài nét về xuất xứ, thể loại và chủ đề của tác phẩm.- Nêu được bố cục của bài thơ.– Khái quát ngắn gọn về cuộc đời và vị trí của Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc. –           
Câu hỏi– Cảm hứng sáng tác chính trong hệ thống tác phẩm của Nguyễn Du là cảm hứng gì?
– Giới thiệu vài nét về bài thơ “Đọc Tiểu Thanh ký”? (Xuất xứ, thể loại, chủ đề)?
– Cho biết bố cục tìm hiểu bài thơ?
– Khái quát ngắn gọn về cuộc đời và vị trí của Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc?  
2. Hướng dẫn HS đọc – hiểu văn bản.– Nhận biết được sự mô tả cảnh vật và tâm thế tri giao của tác giả trước người đã khuất.– Trình bày được giá trị biểu cảm của ngôn từ nghệ thuật: ý nghĩa từ, biện pháp tu từ… 
– Khái quát được nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong mỗi khổ thơ.
– Khám phá  mối liên hệ giữa nội dung nhân đạo trong tác phẩm này với “Truyện Kiều”.  
Câu hỏi– Cảnh Hồ Tây quá khứ và hiện tại có gì khác nhau?
– ND viếng Tiểu Thanh bằng cách nào? 
– Xác định biện pháp nghệ thuật và giá trị biểu cảm của các từ “son phấn” “văn chương”, “chôn”, “đốt”…?
– Lí giải “người xưa” và “người nay” mà tác giả nhắc đến là những ai? 
– Nhận xét về tình cảm của Nguyễn Du đối với tài sắc và số phận của Tiểu Thanh?
– Nỗi bất hạnh của Tiểu Thanh đã khơi dậy trong lòng Nguyễn Du cảm nhận gì cho số phận những người tài hoa nói chung trong xã hội cũ, số phận của chính mình?
– Chỉ rõ tâm sự mà Nguyễn Du gửi gắm qua câu hỏi cuối bài thơ?
– Em có sự liên hệ nào giữa Tiểu Thanh và những người phụ nữ khác trong sáng tác của ND? Nỗi niềm chung của tác giả đối với họ là gì?  
3. Hướng dẫn HS tổng kết – Khái quát được những đặc sắc về nghệ thuật và giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm. – Khám phá sự đáp lại của hậu thế dành cho nỗi lòng khao khát tri âm của ND.
Câu hỏi – Khái quát lại những đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ?
– Khái quát ý nghĩa của văn bản? Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm thể hiện ở đâu?
  – Người đời nay đã đáp lại những khao khát tri âm của ND ra sao?

C. PHƯƠNG TIỆN, PHƯƠNG PHÁP DẠY- HỌC

1. Phương tiện:  SGK, SGV, thiết kế bài dạy- học

2. Phương pháp: phát vấn, gợi mở.

D. TIẾN TRÌNH DẠY- HỌC:

1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số.

2. Kiểm tra bài cũ: Đọc thuộc lòng bài thơ “Nhàn”. Bài thơ thể hiện quan niệm sống, cách xử thế như thế nào của Nguyễn Bỉnh Khiêm?

3. Bài mới

Dẫn nhập

  • Hỏi về 2 nội dung lớn của VHTĐ VN được nêu trong bài Khái quát…Bài học hôm nay là tác phẩm có nội dung nhân đạo đầu tiên trong chương trình.
  • Liên hệ những người phụ nữ tài sắc nhưng gặp số phận bất hạnh trong văn học trung đại VN.
Hệ thống HĐ- TT của GV & HS Nội dung cần đạt
HĐ1.  Hướng dẫn HS tìm hiểu chung.
TT1. Tìm hiểu tác giả:- GV? Khái quát đôi nét chính về tác giả?
– HS trả lời
– GV nhận xét, chốt ý.
– GV mở rộng về đề tài, cảm hứng sáng tác chính:
+ Đề tài này không mới, nhưng chỉ đến ND mới được cụ thể hóa thành 1 hệ thống tác phẩm
+ Người phụ nữ có tài, có nhan sắc, nhưng gặp phải số phận khổ đua, bi thảm: Dương Quý Phi, Đạm Tiên, Thúy Kiều, người đàn bà gảy đàn ở Long thành, là những người kĩ nữ “Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa”…
+ Tài tử nói chung: Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Giả Nghị, những nhân vật có tài mà bất hạnh trong lịch sử.
+ Quan tâm đến con người ở phương diện tinh thần, con người với tư cách là chủ nhân của những giá trị tinh thần như thi ca, âm nhạc…
+ Chia sẻ thân phận bất hạnh của họ (coi mình thuộc số họ), thực chất là đòi hỏi xã hội phải biết trân trọng tài năng, trân trọng những người làm ra các giá trị văn hoá tinh thần
I. Tìm hiểu chung:
1. Nguyễn Du: (1765 – 1820)– Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
– Để lại kho tàng thơ ca cả chữ Hán lẫn chữ Nôm, thấm đẫm tinh thần dân tộc và nhân đạo.
– Cảm hứng sáng tác chính: Đồng cảm, thương xót cho số phận người phụ nữ tài sắc, những con người tài hoa bị xã hội phong kiến vùi dập
TT2. Tìm hiểu tác phẩm:- GV?1. Giới thiệu về bài thơ “Đọc Tiểu Thanh ký”?
– HS trả lời
– GV nhận xét, chốt ý.
– G V mở rộng về HCST và nhan đề: 2 các hiểu:
+ tập di cảo của TT à Khi đi sứ sang TQ.
+ tập truyện viết về nàng TT à Trước khi ra làm quan triều Nguyễn.
– GV mở rộng về Tiểu Thanh:
+ 1594-1612, tên thật là Phùng Tiểu Thanh, là một cô gái Trung Quốc, sống khoảng đầu thờ Minh, con nhà gia thế.
+ Từ nhỏ đã thông hiểu các môn nghệ thuật cầm kì thi họa, lại có phong tư lộng lẫy hơn người
+ Năm 16 tuổi, được gả làm vợ lẽ cho Phùng Sinh, 1 công tử nhà gia thế.
+ Vợ cả tính hay ghen, cay nghiệt, bắt nàng ra sống riêng trên Côn Sơn cạnh Tây Hồ
+ Vì đau buồn, cô đơn, nàng sinh bệnh rồi qua đời khi chỉ mới 18 tuổi.
+ Sau khi nàng chết, người vợ cả căm ghét, ghen tức đã đem đốt văn thơ của nàng, còn lại 12 bài thơ bị đốt dở; người đời sau thương tiếc sưu tầm lại, đặt tên đó là phần dư.
2. “Đọc Tiểu Thanh ký”
–  Xuất xứ: cuối “Thanh Hiên thi tập”
– Thể loại: thất ngôn bát cú Đường luật.
– Chủ đề: Tiếng khóc xót thương cho số phận Tiểu Thanh – người phụ nữ tài hoa bạc mệnh, đồng thời là tiếng nói khao khát tri âm của nhà thơ.
– Nhân vật Tiểu Thanh: (sgk)
– GV?2. Cho biết bố cục tìm hiểu bài thơ?
– HS trả lời
– GV nhận xét, chốt ý.
– Bố cục:
+ Đề: Đọc phần dư cảo, thương cảm cho Tiểu Thanh.
+ Thực: Số mệnh đầy bi thương, uất hận của người con gái có tài, sắc.
+ Luận: Niềm suy tư và mối đồng cảm với nhân vật.
+ Kết: Khao khát tri âm của thi sĩ Tố Như
HĐ2. Hướng dẫn HS đọc – hiểu văn bản.
TT1. Tìm hiểu phần đề:– GV1. Cảnh Hồ Tây quá khứ và hiện tại có gì khác? Nhìn thấy điều đó, nhà thơ cảm khái về điều gì?
– HS trả lời
– GV nhận xét, bình: Thừa số chung giữa con người và thiên nhiên là cái đẹp. Mà ở đây cái đẹp bị tàn phá. Chính cái đẹp đã làm cho trời đất ghen ghét. Nếu bên cạnh Tây Hồ, vườn hoa biến thành bãi hoang thì cuộc đời người con gái tài sắc vừa độ trăng tròn đã thành người thiên cổ…
– GV?2. ND viếng Tiểu Thanh bằng cách nào?- HS trả lời- GV nhận xét, chốt ý.
– GV?3. Qua nỗi niềm hoài cổ và cách tri giao đặc biệt của Nguyễn Du, em nhận xét ông là người nghệ sĩ ra sao? Sự đồng cảm này bắt đầu từ đâu?
– HS trả lời
– GV nhận xét, bình:  Bắt đầu từ: thân phận hẩm hiu, đau khổ của Tiểu Thanh à căn cứ để suy nghĩ về định mệnh nghiệt ngã của những người có tài văn chương nghệ thuật
II. Đọc hiểu văn bản:1. Hai câu đề: Cuộc gặp gỡ bằng tâm tưởng.– “ Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”
+ Đối lập: Quá khứ huy hoàng >< hiện tại hoang tàn
+ “Tẫn” ( hóa): hết, triệt để à Sự đổi thay khốc liệt của cuộc đời à Tâm sự hoài cổ + tiếng thở dài, xót xa, nuối tiếc trước lẽ biến thiên của cuộc đời dâu bể, trước cái đẹp bị hủy hoại.
–  “Độc điếu    ….… nhất chỉ thư”  một mình viếng       
Tâm thế: tri giao, tương ngộ bằng văn chương, giữa người đời sau với người đời trước, giữa những nghệ sĩ tài hoa với nhau.
* Tiểu kết: Trái tim Nguyễn Du nhạy cảm,  dễ bắt nhịp với nỗi đau của đồng loại.
.TT2. Tìm hiểu phần thực:. Qua phần chú giải và giải nghĩa thêm những từ khó của cô, em nào có thể giải nghĩa 2 câu thơ thực? Các em giải nghĩa nó dựa trên các phép tu từ nào?
– HS trả lời
– GV:+ Câu còn có nghĩa son phấn có thần, tượng trưng cho cái đẹp nến khiến người ta phải thương xót cho những việc mà người sống đã làm đối với nàng…
Thông thường, những di vật của người chết thường vẫn được những người thân còn sống trân trọng giữ gìn, hơn nữa đây còn là di cảo của một con người tài hoa, suốt những năm tháng ở Tây Hồ cô quạnh, tập kí chính là người bầu bạn, nơi Tiểu Thanh thổ lộ tâm sự nỗi niềm, đồng thời những trang viết bộc lộ sự tài hoa của nàng…tập sách ấy, …lại bị người vợ cả đốt bỏ, đó là hành động chà đạp không thương tiếc lên linh hồn của người đã khuất… Lúc sống, người đời đã đày đọa TT: ép nàng lên sống cô đơn và phải chết vì buồn tủi ở Cô Sơn khi mới chỉ 18 tuổi…giữa độ tuổi thanh xuân, đáng lẽ phải được trân trọng, phải được hưởng hạnh phúc….Khi chết đi rồi, văn chương di cảo của nàng vẫn bị chà đạp….cái chết đã mang theo cả sự nghiệp văn chương của nàng?
2 từ liên và lụy đã thể hiện rõ nét nhất mối liên quan giữa nhan sắc và văn chương, tái hiện rõ nhất nỗi đau, sự bẽ bàng, chua xót… mà nàng gặp phải
Từ việc tái hiện số phận bất hạnh, nghiệt ngã của TT, nhà thơ thể hiện tình cảm gì?
– HS trả lời
– GV:+ Vì  sao vậy? Vì TT xinh đẹp, vì TT tài hoa, nên cuộc đời nàng lắm truân chuyên…chính là vì văn chương ấy, tài hoa ấy là văn chương và tài hoa của một con người đẹp; cái tài, cái đẹp khiến cho kẻ phàm trần và trời đất ghanh ghét, đố kị, tìm cách vùi dập…+ Người ta thường nói“Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”Hoặc chính ND đã từng nói về Thúy Kiều:. Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Đã mang lấy chữ hồng nhan. Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!+ xưa nay nhan sắc và tài năng có ai nói chúng có thần, có linh hồn…, vậy mà đối với ND, nhan sắc vẫn có hồn, văn chương tuy không có mệnh nhưng vẫn còn vương vấn, ko hề mất đi…
Chốt nội dung 2 câu thực?
– HS trả lời
– GV: Không cần có từ “thổn thức như trong bản dịch/  nước mắt nhà thơ cũng tuôn rơi đầy xót thương và hết sức chân thành. Tiếng khóc Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh cũng chính là tiếng khóc nhà thơ dành cho số kiếp “tài hoa bạc mệnh” như nàng] Tiếng khóc đó sẽ được tiếp nối ở mục sau…
2. Hai câu thực: Suy nghĩ về số phận bất hạnh của Tiểu Thanh“ Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư.”
– Cuộc đời TT:+  Ẩn dụ: Chi phấn, văn chương: à nhan sắc và tài năng của TT
+ Nhân hóa:  hữu thần…, vô mệnh…phần dư:
Nghĩa cả câu: Nhan sắc nếu có linh hồn, có thần chắc hẳn sẽ phải oán hận xót xa về những việc sau này của người đời (người vợ cả, xã hội phong kiến); bởi văn chương tuy không có mệnh, nhưng cũng vì nhan sắc mà phải chịu liên lụy, đốt uổng.
Con người tài sắc vẹn toàn nhưng có số phận bất hạnh, nghiệt ngã, bị vùi dập, chà đạp không thương tiếc từ nhan sắc, nhân hình đến văn chương, tài hoa.
– Tình cảm của tác giả: thể hiện qua giọng điệu:
+ Ngưỡng mộ, trân trọng để rồi xót thương cho người phụ nữ tài sắc quá cố.+ Phẫn uất, tố cáo xã hội phong kiến bất công
+ ca ngợi cái đẹp, cái tài của nàng có sức sống mãnh liệt, bất tử
Tiểu kết: qua việc đồng cảm, xót thương, căm phẫn cho số phận bất hạnh oan trái của nàng TT, ND gửi gắm nỗi lòng đồng cảm với những con người tài hoa bạc mệnh, đây chính là biểu hiện của nội dung thương tiếc tài hoa, chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của ND.      
TT3. Tìm hiểu phần luận:– GV?1. Tại sao lại là “mối hận của người xưa và nay”? Xưa và nay là những ai?- HS trả lời- GV nhận xét, chốt ý:+  Người xưa: Tiểu Thanh và những người như nàng.+  Người nay: Những phụ nữ “hồng nhan bạc mệnh” cùng thời với Nguyễn Du+ chính thế hệ những nhà thơ tài năng như Nguyễn Du đã gặp nhiều không may trong cuộc đời.– GV?2. Câu hỏi trời bộc lộ cảm xúc gì? ( vì sao lại hỏi trời? nỗi đau có giải tỏa được ko?)- HS trả lời- GV nhận xét, mở rộng: “Đã mang lấy nghiệp vào thân – Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa”– GV?3. Đặt mình vào cùng hội với Tiểu Thanh, tác giả cho ta thấy rõ thái độ, tình cảm gì?- HS trả lời- GV nhận xét, chốt ý: Có thể nói ND thuộc những nhà thơ đầu tiên ở VN nghĩ về thân phận những người nghệ sĩ trong XHPK + tiếng nói khẳng định tài năng cá nhân, thời đại không cho người tài một chỗ đứng xứng đáng.– GV?4. Như vậy, nỗi bất hạnh của Tiểu Thanh đã khơi dậy trong lòng Nguyễn Du cảm nhận gì cho số phận những người tài hoa nói chung trong xã hội cũ?- HS trả lời- GV nhận xét, chốt ý.3. Hai câu luận: Suy ngẫm về tài và mệnh (Khái quát, nâng vấn đề liên tưởng đến sự tương đồng giữa tác giả và Tiểu Thanh và bình luận đây là chuyện đáng hận)– “Cổ kim hận sự thiên nan vấn”à Thông luật, định lệ bất công từ xưa đến nay đối với những người tài sắc: “tài mệnh tương đố”à “Thiên nan vấn”: trời cũng không thể trả lời –> đau đớn mà bất lực, bế tắc.- “Phong vận kỳ oan ngã tự cư”: Tự coi mình như người cùng hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.à Đồng cảm sâu sắc với Tiểu Thanh + khẳng định tài năng của bản thân* Tiểu kết:  Lời oán trách, nỗi đau khổ và bất bình bởi ý thức về sự chà đạp giá trị của nghệ thuật và văn chương trong xã hội phong kiến. Nguyễn Du khóc người cũng là khóc mình.
TT4. Tìm hiểu phần kết:– GV?1. Qua câu chuyện cuộc đời của người đã khuất, Nguyễn Du đặt ra câu hỏi nào cho người đọc? Khoảng thời gian trong câu hỏi có gì đặc biệt?
– HS trả lời
– GV nhận xét, chốt ý: Nguyễn Du như hỏi Tiểu Thanh: hôm nay ta khóc nàng cách ta trên 300 năm, 300 năm sau ai người khóc ta ” thể hiện sự băn khoăn mong đợi gửi gấm ở hậu thế: hãy đồng cảm chia sẻ.
– GV?2. Em cảm nhận được tâm sự gì của tác giả qua câu hỏi này? Ý thức này là một biểu hiện của tư tưởng nào (nổi bật trong sáng tác Nguyễn Du)
– HS trả lời
– GV nhận xét, chốt ý: Câu thơ là sự kết đọng tâm sự u hoài: niềm tự thương, tự đau vì cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cô đơn trước cuộc đời. Đây chính là ý thức cá nhân chính đáng mang tư tưởng nhân văn sâu sắc.
– GV?3. Người đời sau đã đáp lại lời nhắn nhủ của Nguyễn Du như thế nào?
– HS trả lời
– GV nhận xét, mở rộng:
Hỡi người xưa của ta nay  Khúc vui xin lại so dây cùng người(Tố Hữu)
+Tiếng đàn xưa đứt ngang dây Hai trăm năm lại càng say lòng ngườiTrải bao sóng dập gió dồi Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha  + “Ba trăm tính chưa đầy nửaThiên hạ ngày nay hiểu Tố Như”(Xuân Diệu)
4. Hai câu kết: Nỗi lòng của Nguyễn Du. “ Bất tri tam bách dư niên hậu,   Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.”– “Ba trăm năm lẻ” ” Biểu tượng cho thời gian dài.
– câu hỏi tu từ +đại từ phiếm chỉ “ai” à  Nỗi cô đơn trong hiện tại, nỗi khao khát sự đồng cảm tri âm tri kỉ ở hậu thế.
* Tiểu kết: Câu hỏi thấm đẫm ưu tư, khát vọng được hiểu, được trân trọng của người nghệ sĩ mọi thời đại. Đặt ra một vấn đề nghiêm túc, mang tính nhân văn cho hậu thế.
HĐ3. Hướng dẫn HS tổng kết:
TT1. Khái quát về nghệ thuật:– GV?. Những đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ?- HS trả lời- GV chốt ý. 
III. Tổng kết:
Nghệ thuật:
– Ngôn ngữ trữ tình, giàu cảm xúc- Cùng với vận dụng sáng tạo lối kết cấu thơ Đường: phép đối.
– Thủ pháp đối lập, hoán dụ, câu hỏi tu từ…
TT2. Khái quát về nội dung:
– GV?. Nêu ý nghĩa văn bản? Giá trị nhân đạo sâu sắc của bài thơ thể hiện ở đâu?
– HS trả lời
– GV nhận xét, chốt ý:  Nhà văn, nhà thơ không chỉ đồng cảm với những con người bất hạnh (đói cơm rách áo) mà còn biết yêu thương trân trọng chủ nhân của các giá trị tinh thần. Khi những chủ nhân này là người phụ nữ thì sự đồng cảm có ý nghĩa sâu sắc hơn.
2. Ý nghĩa văn bản: Bài thơ thể hiện nỗi niềm đồng cảm, xót thương của ND đối với số phận người phụ nữ tài hoa bạc mệnh Tiểu Thanh; qua đây, nhà thơ đã bộc bạch khao khát tìm kiếm được sự đồng cảm, tri âm từ hậu thế… 
*  Củng cố:? Hãy giải thích vì sao Nguyễn Du đặc biệt quan tâm tới những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh?
 Số phận của nhà thơ và số phận những người tài hoa có điểm tương đồng. Đồng thời sâu xa hơn qua số phận những người tài hoa, NDu nhìn thấy sự bất công của tạo hóa, sự vùi dập những giá trị tốt đẹp của con người; hơn nữa Nguyễn Du còn là nhà thơ có trái tim rất đỗi nhân hậu…
 

4. Dặn dò

– Nắm kĩ nội dung bài, Học thuộc bài thơ.

– Chuẩn bị bài mới: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (tt)

E. RÚT KINH NGHIỆM

Tuyển tập trọn bộ 👉 Thơ Về Hoa Thiên Điểu [hay nhất]

5+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí Hay Nhất

Thohay.vn mời các bạn tham khảo các bài văn mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du bên dưới để có thêm tài liệu văn mẫu hay giúp ôn tập, củng cố kiến thức về bài học này một cách hiệu quả.

Văn Mẫu Phân Tích Độc Tiểu Thanh Kí Của Nguyễn Du Hay Nhất

Nguyễn Du đặc biệt xót xa cho những số phận “hồng nhan bạc mệnh”, và dĩ nhiên, trong tình thương người, có nỗi niềm thương mình. Đó chính là cảm hứng nhân đạo làm nên giá trị lớn của bài thơ Đường luật: “Độc Tiểu Thanh kí”.

Tây Hồ hoa uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chí thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hậu sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
Bất tri tam bách niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.

Nếu không có bài thơ của Nguyễn Du, có lẽ chúng ta ít biết đến Tiểu Thanh một người con gái có số phận buồn đau, sống vào đầu đời Minh (Trung Quốc). Qua bài thơ ta biết được nỗi đau khổ của Tiểu Thanh so với nàng Kiều nào có kém gì? Tiểu Thanh đau khổ vì phải làm vợ lẽ, đau khổ vì bị vợ cả đánh ghen, đau khổ vì sống cô đơn, héo hắt buồn đau cho đến khi nàng mười tám xuân xanh, nhưng chết rồi Tiểu Thanh vẫn chưa được buông tha.

Tương truyền khi ốm nặng, Tiểu Thanh có thuê người vẽ chân dung mình, khi nàng chết, vợ cả còn tìm đến đốt cả chân dung và những bài thơ của nàng. Thật xót thương thay cho một số phận và cũng độc ác thay cho đời có kẻ chà đạp cái đẹp, cái tài đến thế thì thôi!

Cả cuộc đời, tài năng của Tiểu Thanh chỉ còn “mảnh giấy tàn” mà người đời sau soạn lại gọi là phần dư cảo. May thay cho Tiểu Thanh, nàng gặp được một trái tim nhân đạo Nguyễn Du, ông đã mở đầu 1 bài thơ khóc Tiểu Thanh bằng hai câu:

Tây hồ hoa uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chí thư

“Hoa uyển” và “khử” là hai khái niệm đối lập: “Hoa uyển” là cái đẹp do con người tạo nên, một vẻ đẹp lộng lẫy quá vãng – cái đẹp ấy chính là hiện thân một số phận cụ thể Tiểu Thanh. Câu thơ có sự ngậm ngùi về cái vô hạn của trời đất và cái hữu hạn của đời người, đồng thời nó cũng gợi lên sự khổ đau không thể nào tránh khỏi của kiếp hồng nhan trong xã hội cũ. Nỗi lòng này ta cũng từng gặp khi nhà thơ rơi lệ với “Người gảy đàn đất Long Thành”. Tiểu Thanh chỉ là một số phận cụ thể kết tinh cho những số kiếp “hồng nhan bạc mệnh”.

“Vườn hoa” biến thành “gò hoang” – sự đổi thay của cuộc sống vẫn cứ diễn ra. Nguyễn Du đã cảm nhận thật sâu sắc cái quy luật tàn nhẫn ấy… Sau khi Tiểu Thanh chết, tất cả những gì gợi nhớ về con người ấy chỉ còn lại một tập thơ bị đốt dở. Cuộc đời đau khổ của nàng đã được hậu thế ghi lại thành truyện. Không biết Nguyễn Du viếng nàng, thương cảm với nàng qua việc đọc tập thơ hay tập kí viết về nàng? Chỉ biết trái tim lớn của thi nhân luôn luôn thổn thức:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư

Nói “chi phấn” tức là nói đến nhan sắc, nói “văn chương” là nói đến tài năng. Với hai câu thơ, Nguyễn Du đã đặt ra câu hỏi: Phải chăng “son phấn có thần” nên chết đi rồi vẫn để cho người đời sau thương cảm? Qua việc khẳng định “son phấn có thần”, Nguyễn Du muốn nói đến giá trị cao quý, giá trị bất diệt của cái đẹp, Nguyễn Du hỏi, nhưng thật ra là để bộc lộ sự trân trọng tài năng, ngưỡng mộ cái đẹp.

Cái đẹp có sức sống bất diệt, vì thế mà ba trăm năm sau dù “hoa uyển” đã “tận thành khử” nhưng Tiểu Thanh vẫn sống, vẫn không bị lãng quên, đời nàng còn làm xúc động sâu xa tấm lòng con người. “Chi phấn hữu thần” riêng ý thơ ấy đủ để khẳng định một tấm lòng nhân đạo hiếm có giữa xã hội trung đại xã hội không công nhận tài hoa, trí tuệ của phụ nữ.

Đến như Tây Thi, Dương Quý Phi… May mắn lắm cũng chỉ là vật điểm trang cho các triều đại. Và ta không lạ gì khi Nguyễn Du đã ca ngợi nhan sắc Thúy Kiều, ca ngợi nhan sắc nàng Đạm Tiên và nhà thơ đã khẳng định:

Những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh.

“Chi phấn hữu thần” và “còn là tinh anh” không biết ý thơ nào có trước, nhưng cả hai câu thơ đó đã khẳng định tâm hồn, tư tưởng Nguyễn Du vượt lên trên thời đại.

Với con mắt sắc sảo, tinh thần trân trọng, yêu thương, Nguyễn Du còn phát hiện ở người phụ nữ một vẻ đẹp khác – vẻ đẹp tài hoa, trí tuệ ẩn giấu bên trong nhan sắc khuynh thành. Tiểu Thanh cũng như nàng Kiều, là những người phụ nữ, trọn vẹn cả tài và sắc.

Tài của Tiểu Thanh thể hiện trong “văn chương”, văn chương không có số “mệnh”, sao nó cũng bi “lụy”. “Văn chương” là hồn, là nước mắt của Tiểu Thanh cũng bị vợ cả căm ghét, tìm cách đốt đi. Như vậy: “văn chương” cũng có “thần” có “mệnh” như con người để rồi cũng hoặc được yêu dấu, quý trọng hoặc bị căm ghét, sát hại.

Số phận của Tiểu Thanh thật đau thương, nhan sắc bị đọa đày, tài hoa của nàng làm cho nàng đau khổ. Cuộc đời thật bất công phi lí. Nàng chết vẫn chưa hết khổ, chút ít nỗi niềm kí thác trong thơ vẫn bị truy đuổi đến cùng. Trong xã hội cũ, những giá trị cao quý của cái đẹp, cái tài đến chịu chung số phận:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang.

Nguyễn Du tiếp tục khai triển niềm thương cảm. Cái “hờn”, cái “hận” cho số kiếp Tiểu Thanh là cái “hận” muôn đời, triền miên không bao giờ chấm dứt, Nguyễn Du từ “cái hận” của đời mà thương cho “cái hận” Tiểu Thanh, đã dồn “cái hận kim cổ” vào “cái hận” Tiểu Thanh. Ghê gớm thay cái “hận” đó, và cũng lớn lao thay niềm thương cảm của Nguyễn Du.

“Cái hận” kia không sao giải thoát được phải “hỏi trời” vì không thể hỏi người, nhưng “hỏi trời”, trời vời vợi trên chín tầng mây, làm sao biết nghe, biết nói, làm sao có thể trả lời? Câu thơ như một tiếng kêu vút tận trời xanh và lơ lửng giữa trời – “Một câu hỏi lớn không lời đáp” (Huy Cận).

Trong nỗi đau của con người có nỗi đau của mình, nỗi đau chung cả cuộc đời, Nguyễn Du không đứng ngoài nỗi đau để nói đến nỗi đau mà ở trong nỗi đau ấy, chịu trọn vẹn nỗi đau ấy. Bằng sự từng trải, bằng tất cả những gì chiêm nghiệm. Nguyễn Du đã nhận ra sự trùng hợp lạ lùng của lớp người “Giai nhân và nghệ sĩ”. Ông tự coi mình với Tiểu Thanh “cùng hội cùng thuyền”, “cùng một lửa bên trời lận đận”, nên có chung một cái án: “Án phong lưu”. Khách phong lưu sao lại phải mang “án phong lưu”. Đúng là oái ăm nghịch cảnh Nguyễn Du đã gợi lên những điều nhức nhối trong lòng người đọc bao đời nay.

Thi nhân đã kết thúc thi phẩm bằng hai câu thơ độc đáo. Đó là câu hỏi day dứt, cắt cứa vào tâm can người đọc.

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

Nguyễn Du từ người mà nghĩ đến ta. Từ “”hương người đến thương mình”. Trong thơ trung đại hiếm có người tự nói về bản thân mình như thế. Toàn bài có hai lần Nguyễn Du nói đến mình. “Phong vận kì oan ngã tự cư”, và “Thiên hạ hà nhân khấp Tổ Như”, giữa Tiểu Thanh và Nguyễn Du là một gạch nối. Tiểu Thanh là hình tượng để ông bộc lộ cảm xúc trữ tình và kí thác tâm sự.

Với Tiểu Thanh ít ra đã có Nguyễn Du thương cảm, còn với Nguyễn Du sau đấy ba trăm năm thì sao? Không biết vì lẽ gì, Nguyễn Du nêu ra con số ba trăm năm? (Ông mất sau Tiểu Thanh hai trăm mười năm).

Độc Tiểu Thanh kí có niềm tự đau tự thương đến cực độ. Nguyễn Du cảm thấy bơ vơ giữa dòng đời. Lời thơ nói chuyện ba trăm năm, nhưng thực ra là chuyện trước mắt. Trước mắt ông là cuộc sống cô đơn không tri âm tri kỉ. Nguyễn Du đang khóc thương Tiểu Thanh bỗng quay ra tự khóc thương mình mà bài thơ vẫn không hề lạc giọng. Bởi lẽ Nguyễn Du và Tiểu Thanh là một.

Ba tiếng cuối cùng của câu kết (“khấp Tố Như”) gieo vào lòng người đọc một nỗi đau. Tâm sự của Nguyễn Du đầy ắp bị thương. Ông sống giữa cuộc đời đầy phong ba với bao tâm sự uẩn khúc. Không ai có thể nghĩ một cách nông nổi: Mình đã khóc Tố Như, đã hiểu hết Nguyễn Du. Chỉ biết Nguyễn Du đã khóc Tiểu Thanh, khóc cho thân phận mình và khóc cho bao kiếp tài hoa bạc mệnh Mà tài hoa bạc mệnh thì đời nào chả có. Nên tiếng khóc của Nguyễn Du sẽ còn đồng cảm tới muôn đời.

Độc Tiểu Thanh kí là tiếng nói nhân đạo, trân trọng con người tài sắc bị xã hội vùi dập và cũng là nỗi niềm cô đơn, khát khao được cảm thông, được chia sẻ… Và dường như trong khoảnh khắc thần hứng Nguyễn Du đã linh cảm được một điều gì đó ở mai sau.

Bài Văn Phân Tích Độc Tiểu Thanh Kí Ngắn Gọn

Nhà thơ vĩ đại Nguyễn Du, được coi là một đại diện xuất sắc trong văn học Việt Nam, đã chuyên sâu nghiên cứu về cuộc sống và số phận của những con người ‘tài hoa, bạc mệnh’, đặc biệt là những người phụ nữ như Thúy Kiều, Ca Nhi, Tiểu Thanh,… Các tác phẩm thơ của ông như một Kim Tự Tháp vĩ đại đứng giữa một vùng sa mạc khổng lồ, vẫn còn nhiều bí ẩn và giá trị kì diệu chưa được khám phá hết. Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí, một tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Hán, nằm trong tập Thanh Hiên, thể hiện lòng nhân ái và đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, một người tài sắc nhưng đầy phận bạc.

Tiểu Thanh, một cô gái tài sắc vẹn toàn, chỉ mới 16 tuổi nhưng đã phải đối mặt với những biến cố đau lòng của cuộc đời. Cuối cùng, nàng được chôn vùi dưới đất khi còn trẻ xanh. Phần tinh hoa của nàng, những trang thơ tuyệt vời, cuối cùng cũng chỉ trở thành ‘mảnh giấy tàn’ vì lòng đốt đồng lòng của người vợ ghen tuông. Sự thay đổi đau buồn của cuộc đời nàng được thể hiện trong cảnh vật:

Tây Hồ, với vẻ đẹp tươi trẻ, đã hoá gò hoang,
Độc điếu trôi nổi trước mắt chính nhà thơ.

Vườn hoa bên Tây Hồ xưa kia là nơi trứ danh với vẻ đẹp tuyệt vời của Trung Quốc. ‘Hoa uyển’ và ‘khư’ là hai khái niệm đối lập, hình dung cho sự biến mất của cảnh đẹp Tây Hồ, trở thành gò hoang lạnh lẽo. Núi Cô Sơn bên cạnh Tây Hồ, nơi Tiểu Thanh từng bị giam giữ, giờ trở nên vắng vẻ và lạnh lẽo. Chỉ còn lại mồ của Tiểu Thanh và tờ giấy tàn ‘nhất chỉ thư’ – tập sách duy nhất còn sót lại của Tiểu Thanh.

Câu thơ là lời thở dài của tác giả trước sự biến thiên không ngừng của cuộc sống và thương cảm với tấm lòng nhân đạo lớn: mọi thứ đều thay đổi theo thời gian, và Tiểu Thanh cũng dần bị lãng quên theo dòng thời gian. ‘Độc điếu’ – biểu tượng cho sự cô đơn, đơn độc khi Nguyễn Du một mình vượt qua không gian và thời gian để quay về quá khứ, khóc than cho số phận của Tiểu Thanh thông qua ‘nhất chỉ thư’.

Chi phấn mang đặc tính thần thánh cuối cùng,
Văn chương không có số mệnh chỉ còn lại phần dư.

‘Son phấn’, ‘văn chương’ là những biểu tượng ẩn dụ cho vẻ đẹp và tài năng của Tiểu Thanh. Nguyễn Du sử dụng hình ảnh của chúng để nói về sự đố kị, ganh ghét từ phía người vợ cả và xã hội. Nhớ lại bi kịch của cuộc đời Tiểu Thanh – một cuộc đời đơn độc và lạc lõng.

Ông thổi hồn vào son phấn để chúng truyền đạt tiếng nói thương cảm, xót xa cho số phận đau buồn, với son phấn ‘có thần’ phải xót xa vì những bi kịch sau khi chết. Giống như hoa đã tàn nhưng hương sắc vẫn tồn tại, tỏa hương đâu đó, người đời sẽ mãi thương xót cho những phụ nữ ‘hồng nhan bạc mệnh’. Còn ‘văn chương’ – một thứ vô tri, vô giác, không có số mệnh nhưng vẫn còn lại như ‘phần dư’, như là một linh hồn cố gắng đối đầu với số phận.

Dù có bị đốt cháy, nhưng những gì còn sót lại đã làm cho người đời cảm thấy hết sức quý giá. Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm cho số phận của những phụ nữ tài sắc nhưng bị xã hội xưa coi thường và đồng thời thay họ bày tỏ nỗi uất hận sâu sắc.

Mối hận khó giải hỏi đời tận trời,
Phong vận kỳ oan, tự chịu số mình.

‘Cổ kim hận” là những nỗi oan khó khăn mà những người tài năng từ xưa đến nay vẫn phải chịu đựng cay đắng và đau lòng. Kêu trời nhưng biết làm thế nào, câu hỏi vẫn đặt ra mà không có câu trả lời. Nỗi oan của những con người tài sắc vẹn toàn như Tiểu Thanh trở nên sống động qua câu thơ, làm rung động cả trời đất.

Nguyễn Du xem mình như một phần của hội của Tiểu Thanh – những người tài hoa bị đánh bại bởi ‘phong vận’ kì lạ. Cuộc đời của Tiểu Thanh là nguồn sáng tạo cho tâm hồn của Nguyễn Du, ông cảm nhận nỗi đau của những người tài năng đa tài và đa vấn đề. ‘Ngã tự cư’ – Nguyễn Du biết mình không thể tránh khỏi sự nghiệt ngã trong hội của những con thuyền giữa biển đời sóng gió. Đau lòng tận cùng, ông thốt lên tiếng than của một trái tim đầy nỗi đau nhân sinh.

Bất tri tam bách dư niên sau,
Thiên hạ có ai nhớ Tố Như?

Nguyễn Du, một tài tử trong lịch sử, và Tiểu Thanh, một cô gái hồng nhan. Mặc dù chia cách 300 năm, nhưng ông cảm nhận sự tương đồng giữa mình và người con gái ấy. ‘Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh.’, Tiểu Thanh để lại một ‘nhất chỉ thư’, một mảnh giấy tàn phai mà 300 năm sau Nguyễn Du vẫn thương xót cho số phận của nàng.

Câu hỏi đặt ra như là ông tự hỏi liệu 300 năm sau có ai nhớ đến ông giống như ông nhớ đến Tiểu Thanh. Ông phân vân, mong đợi rằng những người đến sau cũng sẽ cảm thông, thương cảm với ông. Hai câu thơ là biểu hiện của tâm trạng cô đơn của ông ở ‘đất khách quê người’ trong những chuyến đi sứ, ông cảm thấy mình cô đơn, không có tri kỉ, một mình mang nỗi oan của kẻ tài hoa bạc mệnh: ‘Người đời ai khóc Tố Như chăng?’.

Ngày 1/11/1965, trong kỷ niệm ngày sinh của Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu đã viết những dòng thơ:

Trong đêm tối ở huyện Nghi Xuân, những kí ức về Cụ Nguyễn Du và tình cảm đặc biệt đối với nàng Kiều hiện lên như những hình ảnh mơ mộng.

Bài thơ ‘Đọc Tiểu Thanh ký’ với thể thất ngôn bát cú là tác phẩm phản ánh sâu sắc về sự bất công và tàn nhẫn trong xã hội. Nguyễn Du thông qua hình ảnh của Tiểu Thanh diễn đạt những nỗi niềm sâu thẳm về số phận đau đớn của phụ nữ với tài năng văn chương trong thời kỳ phong kiến.

Xem thêm ❣️ Thơ Về Hy Vọng Trong Cuộc Sống ❣️ [Ý Nghĩa]

Phân Tích Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí Hay Ngắn

Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ chữ Hán đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du được xếp trong Thanh Hiên thi tập. Bằng những chứng nghiệm từ cuộc đời mình, trong sáng tác của ông, ta thấy một nhân vật Thúy Kiều, một người gảy đàn đất Long Thành, một Tiểu Thanh… hiện lên như những dấu hỏi nhức nhối của số phận, của kiếp người.

Bài thơ giãi bày tấc lòng của Nguyễn Du đối với số phận một con người cụ thể – Tiểu Thanh, nhưng ý nghĩa của nó lại khái quát được toàn bộ cái nhìn cảm thông của tác giả trước những thân phận tài hoa mệnh bạc trong xã hội cũ. Dường như, đó còn là tiếng nói, là nỗi nhức nhối của muôn đời. Viết về đề tài này, thi hào của chúng ta đã có được một cái nhìn của người trong cuộc.

Cũng như Truyện Kiều, Nguyễn Du (trong bài thơ này) đã viết về một người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Nàng Tiểu Thanh là một cô gái có sắc, có tài sống vào đầu đời Minh (Trung Quốc), vì lấy làm lẽ một người tên Phùng, nàng bị vợ cả ghen, bắt ở một ngôi nhà trên núi Cô Sơn, cạnh Tây Hồ nên buồn mà chết lúc mới mười tám tuổi.

Cô đơn là thế, bạc mệnh là thế, khi nàng chết rồi, còn một tập thơ còn sót lại cũng bị vợ cả ghen mà đốt đi, chỉ còn vương lại vài bài. Thế là, Tiểu Thanh khi còn sống cũng như khi đã chết rồi vẫn còn bị đối xử bất công và tàn ác, vẫn chưa được yên, vẫn còn cô đơn. Không chỉ còn là nỗi đau nữa mà còn là hận. Hận chẳng thể nào nguôi.

Mượn cảnh thực (Tây Hồ ở Trung Quốc) người thực (nàng Tiểu Thanh đã chết cách đây ba trăm năm) Nguyễn Du làm bài thơ để thổ lộ đồng cảm, đồng điệu về tâm hồn của mình với những con người có đơn đẹp lí tưởng đã tiêu tan. Tây Hồ còn đây, “mảnh giấy tàn” tức tập thơ của nàng Tiểu Thanh bị đốt còn sót lại còn đây mà Tiểu Thanh còn đâu, nàng đã chết trong buồn tủi, cô đơn và bất hạnh giữa tuổi trăng tròn, giữa lúc khát khao nhất về hạnh phúc, giữa độ tài sắc nảy nở nhất.

Hình ảnh “thổn thức bên song” là chính nàng Tiểu Thanh lúc còn sống trong ngôi nhà ở núi Cô Sơn. Đó cũng chính là hình ảnh của Nguyễn Du, cũng chính là tâm sự của nhà thơ luyến tiếc về những ngày vàng son của đất nước, nuối tiếc về những ngày trai trẻ đầy tài hoa của mình giữa những con người tài hoa ở đất La Thành, quê hương tác giả như đã có lần nhắc đến trong thơ ông (tráng niên ngã diệt vì tài giả: thời trẻ tuổi ta cũng là kẻ có tài năng).

Hai câu thực:

Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Nhà thơ đã nêu cụ thể nỗi đau của nàng Tiểu Thanh bằng cách nhân hóa những vật dụng và dư cảo của nàng, bằng cách “thần” cho “son phấn”, tạo “mệnh” cho “văn chương”. Tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du được bộc lộ rõ qua những câu thơ có hồn này, làm cho câu thơ có sức nặng.

Đến như những vật vô tri như son phấn, văn chương bị chôn vẫn còn hận, bị đốt vẫn còn vương, thử hỏi rằng con người thì sao? Nàng Tiểu Thanh bị đau đớn, bị dằn vặt, bị phũ phàng như thế sao không hận, cái hận về thể xác, bị vùi dập, cái hận vì tài năng bị chôn vùi. Làm sao Tiểu Thanh không hận được, một khi “văn chương” là máu, là nước mắt nàng. Đó cũng chính là cái hận của Nguyễn Du, ông cũng gán cái “mệnh” vào văn chương để cùng xót thương cùng Tiểu Thanh.

Đến hai câu luận:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.

Là tiếp tục cái niềm thương cảm, chỉ có điều là niềm thương cảm ấy, cái hận ấy là muôn đời, không sao giải thoát được. Người đã chết đem theo mối hận vào lòng đất để rồi vĩnh viễn bị chôn chặt, người còn sống (chính nhà thơ) phải tự mang.

Nguyễn Du đã hòa cái cảm xúc, cái nghịch cảnh đó vào cùng với Tiểu Thanh, người đã chết ba trăm năm trước. Thử hỏi: người đang sống, kẻ phong lưu tài hoa như nhà thơ thì có tội gì, vì sao phải hóa thân vào người đã chết để nói lên tâm trạng của mình. Phải chăng là xã hội bất công đã đố kị với tài năng của ông, đã bóp chết tâm hồn ông.

Như thế, ai hận mà nhà thơ phải mang nặng biết chừng nào, cái hận không biế, nói cùng ai, chỉ có thể chia sẻ với người cùng cảnh ngộ, kẻ tài tử gặp giai nhân là ở chỗ đó. Cái đớn đau, nỗi bế tắc của họ làm nhức nhối trái tim ta.

Nếu như ở sáu câu thơ trên, Nguyễn Du lồng cảm xúc, nỗi đớn đau của mình vào Tiểu Thanh, thương tim cho thân phận người con gái tài sắc là để ẩn ý tự thương mình, hai câu thơ cuối nhà thơ nói thẳng với độc giả bằng một câu hỏi:

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Nguyễn Du đã đặt câu hỏi ra với đời, với muôn đời: liệu ba trăm năm lẻ, có thể là hơn ba trăm năm sau, có ai khóc Tố Như (hiệu của Nguyễn Du) chăng? Nàng Tiểu Thanh sau ba trăm năm thì đã có ít ra một người là nhà thơ khóc thương nàng. Câu hỏi đặt ra cho đời cũng là cho mình mà không lời đáp, bị rơi vào hư không. Nói với quá khứ, nói với tương lai như thế, thổn thức về một người phụ nữ cách ngàn dặm, chết đã ba trăm năm, ta như thấy Nguyễn Du thổn thức trăn trở biết bao!

Không phải chỉ một người, mà là cả dân tộc ta, cả nhân loại tiến bộ nữa chỉ hai trăm năm, đã long trọng kỉ niệm ngày sinh của thi hão, ghi tên ông vào danh sách những danh nhân văn hóa của thế giới. Hắn là, Nguyễn Du và những “nàng Kiều”, “nàng Tiểu Thanh” ở dưới suối vàng cũng ngậm cười, “nỗi hờn kim cổ” của họ đã được trả, thân phận con người, nhất là người phụ nữ đã được giải phóng khỏi những áp bức, bất công và đã được coi trọng về tài năng, địa vị xã hội, đã được tự do yêu thương và sống hạnh phúc.

Bài Cảm Nhận Về Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí Đặc Sắc

Nguyễn Du – một trong những tác giả nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam, khi nhắc đến ông, người ta thường nghĩ ngay đến tác phẩm Truyện Kiều vang danh, nhưng ít ai biết được, ông còn có một tác phẩm nổi tiếng khác là “Đọc Tiểu Thanh Kí” – một tác phẩm mang giá trị nhân văn sâu sắc như Truyện Kiều.

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

(Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi
Trước song một mình nhớ tới người xưa qua một tờ giấy viết).

Câu thơ mở đầu như một tiếng thở dài não ruột. Không gian Tây Hồ vẫn còn đây, khuôn viên của một vườn hoa với những bông hoa thắm đẹp giờ đã không còn nữa. Vườn hoa đã thành gò hoang, gò hoang vắng đã thay thế cho vườn hoa. Cái “hữu” đã thành cái không, cái “đẹp” đã bị thay bởi cái “tàn tạ” hủy diệt. Từ “tận” mang ý nghĩa phủ định tuyệt đối; đã thay đối hết không còn một dấu vết gì nữa.

Chứng thực một không gian đẹp là khoảng đất bên Tây Hồ, để đối chứng quá khứ vàng son với hiện tại hủy diệt, Nguyễn Du đã nhìn thấy cuộc thương hải tang điền trong chớp mắt “Trải qua một cuộc bể dâu”, “Thế gian biến cải vũng nên đồi”, một con người được ghi ở một tờ giấy viết thật mong manh. Tờ giấy viết đây chính là bài “kí” có khoảng 2300 chữ ghi lại chuyện Tiểu Thanh của người đời sau.

Nếu vườn hoa đã tận thành gò hoang là chứng tích của một thời thì mảnh giấy này là chứng tích còn sót lại của một đời người. Một oan hồn thông khổ trong hành lang hun hút của thời gian ba trăm năm trước. (Theo trong bài kí thì Tiểu Thanh chết 1492 và Nguyễn Du đi sứ nhớ tới nàng, khóc nàng năm 1813 nghĩa là hơn 300 năm).

Cái nhìn trầm ngâm của Nguyễn Du về cuộc bể dâu của sự vật và cái lẽ nhân sinh của kiếp người sao mà cô đơn đến thế. Cái đẹp bị hủy hoại cùng triệt, dòng thời gian cứ chảy vô tình. Cái lẻ loi và đơn độc của Nguyễn Du không chỉ hiện hình ở cái cảnh buổi chiều tàn bên song cửa sổ, ngồi đọc chuyện buồn mà còn thể hiện ở hai chữ “độc” và “nhất” đó.

Hai câu thực:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Son phấn có thần sắc chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết. Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở. Trong truyện Tiểu Thanh kí tác giả kể, trước khi chết, Tiểu Thanh thuê họa sĩ vẽ chân dung mình. Bức hình thứ nhất nàng chê có hình tự mà không có thần, bức thứ hai có thần nhưng phong thái khô cứng, gò bó.

Sang bức thứ ba nàng khen vừa có hình, có thần, lại dịu dàng yểu điệu. Tiểu Thanh treo bức hình mình lên tế rồi khóc đến chết. Người chồng nghe tin chạy đến nhìn sắc mặt vợ và bức tranh thấy như người còn sống thương tiếc và khóc lóc. Lúc vợ cả cái nạp tranh và thơ, người chồng chỉ nạp thơ và bức tranh thứ nhất. Do đó, Nguyễn Du đã viết rất thực tế để tả cái oan trong đời Tiểu Thanh. Sắc là thế nhưng chết rồi mới được chồng đoái thương, văn chương là thế mà cũng bị đốt, may còn sót lại mấy bài.

Ý nghĩa của hai câu thực còn chìm ấn bên trong tính chất luận. Bề ngoài thì Nguyễn Du đã nắm bắt hai chi tiết có thần nhất để làm nổi bật cốt truyện, nhưng bên trong thì nói lại một quan điểm. Dù có bị những lực lượng hắc ám phũ phàng tận diệt thì nhan sắc của giai nhân, tài hoa của con người không dễ gì bị tiêu diệt. Quy luật vô hình vẫn dành cho nó những cơ may để tồn tại. Nó không chết, nó vẫn cùng cây đời mãi mãi xanh tươi. Tuy nhiên, để tồn tại sắc tài vẫn phải vật vã và trầm luân đau khổ lắm!

Nếu như bốn câu trên có phần “hướng ngoại”, quan tâm tới câu chuyện Tiểu Thanh thì bốn câu sau tác giả suy ngẫm về mình. Cảm hứng bốn câu trên nằm trong cảm hứng chung của Nguyễn Du về sự thương xót và ngưỡng mộ những tài tử giai nhân: “Sắc tài sao mà chịu kiếp truân chuyên”. Bốn câu sau “hướng nội”. “Trông người lại ngẫm đến ta”, cảm xúc chủ đạo ỡ đây là sự cô độc tuyệt đối của Nguyễn Tiên Điền!

Hai câu luận:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư.

(Những việc tiếc hận ngày xưa không hỏi trời
Ta tự ở vào cái oan kì lạ của phong vận)

Ở đây ta nên hiểu “hận sự” đó là những việc không hài lòng một cách sâu sắc có thể để hối tiếc mãi. Nó không phải là “thù hận” mà là “tiếc hận”. Vì thế nghĩa hàm ẩn của nó là: “Những việc tiếc hận xưa nay không thể truy tìm được nguyên nhân”. Ta nên lưu ý các nhà Nho không oán người, không trách trời, nên không thể coi đây là lời chỉ trích oán hận trời.

“Phong vận” là từ nói tắt của “lưu phong dư vận” nghĩa là gió thổi nước trôi, biểu hiện sự hài hòa rất mực, biểu hiện của tài tình, của bất diệt. Những kẻ “phong vận” thường có con đường hạnh phúc may mắn vạch ra phía trước, họ phong lưu tức họ bất diệt.

Thế nhưng sao ở ta, ở số kiếp bao nhiêu người mà ta chứng kiến thì những người ấy thường gặp oan trái kì lạ khó hỏi trời. Các quy luật đã bị lộn ngược oái oăm đến mức không thể giải thích. Nghĩa hàm ẩn của câu này là: Những kẻ phong vận tài tình bị oan trái thì thông cảm được với nhau.

Ta thấy mình cũng chịu nỗi oan kì lạ như người phong vận đấy (Người thơ phong vận như thơ ấy). Nguyễn Du đã xếp mình đồng hội đồng thuyền với những số kiếp tài hoa bạc mệnh. Ông không lí giải được tại sao đời mình lại gặp nhiều trầm kha oán trái thế: “Tráng niên ngã diệc vi tài giả” (Thời trẻ ta cũng là kẻ có tài mà).

Ý thức được mình như thế, để hôm nay ngậm ngùi ngơ ngác hỏi vào thinh không. Thế mà sao ta cứ như những người phong vận mắc nỗi oan lạ lùng? Các câu thơ thúc ép nhau để rồi “thiên nan vấn”. Câu hỏi ấy va đập vào cái vô hình tạo thành một nỗi đau thấm đến gan ruột.

Hai câu kết:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai nhỏ nước mắt khóc cho Tố Như chăng?)

Người xưa cho rằng những kẻ đồng thanh thì tương ứng, đồng khí thì sẽ gặp nhau. Vì thế chỉ cần Kiều tỏ lòng thành với Đạm Tiên: “Chớ nề u hiển mới là chị em”, thì: “Phút đầu ngọn gió cuốn cờ đến ngay”. Con người “đồng khí” thường tái sinh và gặp nhau ở tương lai.

Nguyễn Du sống sau Tiểu Thanh hơn ba trăm năm, ông hiểu và đống nỗi oan kì lạ như Tiểu Thanh nên ông khóc nàng. Chẳng biết sau khi ta nhắm mắt ai là kẻ đồng oan khóc ta? (Hôm nay em khóc chị, ngày mai ai khóc em?).

Nguyễn Du quả nhắm mắt không yên khi không biết tương lai có ai hiểu ông không? Niềm khắc khoải ấy lại là một sự tiên cảm của thiên tài; ông mong chờ một tấm lòng hô ứng nhưng chỉ mới hai trăm năm trôi qua Nguyễn Du đã được đánh giá là đại thi hào dân tộc:

Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày

(Tố Hữu – Kính gửi cụ Nguyễn Du)

Con cháu của Nguyễn đã khóc Nguyễn thực lòng. Đã “khấp” tức là nhỏ nước mắt chân thành chứ không phải “khóc” tức là khóc to lên, nhiều lúc không cần nước mắt.

Giới thiệu đến bạn chùm ❤️️ Thơ Về Niềm Tin Tình Yêu, Cuộc Sống ❤️️ hay nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí Sâu Sắc

Nguyễn Du là tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX với “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời”. Những người phụ nữ có tài có sắc nhưng đường đời truân chuyên bất hạnh là cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Du.

Và nàng Tiểu Thanh cũng là một kiếp người tài hoa bạc mệnh như thế. Là người con gái tài sắc, vốn thông minh nên từ nhỏ nàng Tiểu Thanh đã thông hiểu các môn nghệ thuật cầm kỳ thi họa. Năm 16 tuổi, nàng được gả làm vợ lẽ cho Phùng Sinh, một công tử nhà gia thế. Vợ cả tính hay ghen lại cay độc, bắt nàng ra sống riêng trên Côn Sơn, gần Tây Hồ.

Vì đau buồn, nàng sinh bệnh rồi qua đời khi mới tròn mười tám xuân xanh. Những đau khổ, muộn phiền được gửi gắm vào thơ nhưng phần lớn bị vợ cả đem đốt hết, may mắn còn một số bài sót lại. Thương xót, đồng cảm với số phận của người con gái tài sắc vẹn tròn mà số mệnh ngắn ngủi, Nguyễn Du viết ra bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí”. Bài thơ không chỉ thể hiện cảm xúc, suy tư sâu sắc của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ mà còn thể hiện niềm xót xa cho những giá trị tinh thần bị chà đạp.

Khi đọc những dòng thơ cuối cùng còn sót lại của nàng, Nguyễn Du đã thật sự thấu hiểu và bày tỏ lòng thương cảm của mình qua bài thơ “Độc tiểu thanh kí” như là lời xót thương của nàng trước nỗi đau cuộc đời, hai câu đầu là hai câu tả cảnh nhưng để kể việc:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

Bằng giác quan nghệ thuật, ta bắt gặp một vườn hoa với sắc hương và hình dáng trong quá khứ. Cái đẹp ấy đã chi phối choáng ngợp đến tâm hồn ta. Cái đẹp ấy tưởng chừng sẽ trường tồn vĩnh cửu với thời gian nhưng dần theo năm tháng cũng lụi tàn dần, một sự lụi tàn đến ngỡ ngàng và chua xót.

Vườn hoa bình yên, êm ả ngày nào giờ đã trở thành một bãi hoang phế trơ trụi và tiêu điều. Từ “tẫn” được Nguyễn Du sử dụng để miêu tả nhưng lại mang một hàm ý thể hiện sự thương tiếc, có thể thấy thời gian đã tàn phá mọi thứ. Đứng trước sự nuối tiếc, thương xót pha lẫn chút ngậm ngùi. Nguyễn Du mượn sự biến đổi của thiên nhiên mà ngụ ý sự biến đổi khôn lường của cuộc sống, con người. Đó là sự ý thức về cái vô hạn của trời đất và cái hữu hạn của con người.

Nó gợi lên sự tàn lụi không thể nào tránh khỏi cho một kiếp người, cho hồng nhan. Ước chăng cũng một lần được nói ra tâm tư, cũng một lần được nhung nhớ như người phụ nữ trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấu
Thấy xanh xanh mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

Nguyễn Du đã rất đau xót! Câu thơ không chỉ ý nghĩa cho sự mở đầu, giới thiệu sự việc mà chính là cảm xúc của nhân vật trữ tình:

“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.

Một khung cửa sổ tương thông lòng người với vũ trụ, tương thông lòng người với tình người. Bên những mảnh thơ tàn của một tài hoa bị vùi dập, Nguyễn Du cảm nhận và thổn thức đau thương. Ông muốn níu giữ tất cả, níu kéo tất cả nhưng cuối cùng chỉ còn lại sự tàn tạ. Sâu sắc của câu thơ nằm ở chỗ từ “độc” và từ “nhất” đều mang ý nghĩa lại “một” lại cùng hiện hữu.

“Độc” là một mà “nhất” cũng là một, nhưng nếu “nhất chỉ thư” là số từ chỉ lượng một tập thơ thì “độc điếu” là trạng từ chỉ tâm thế của nhà thơ một trạng thái cô độc một mình. Việc dùng cùng một nghĩa qua hai từ khác nhau, Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này.

Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh. Cái để gợi cho lòng người thi sĩ đau có nhiều mà tình thì mênh mông, vô hạn, Nguyễn Du đã khóc Tiểu Thanh – khóc nàng qua một tập sách nhỏ. Lòng Nguyễn Du mênh mông mà sâu lắng quá!

Nguyễn Du có cảm giác mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của nàng, còn phảng phất đến tận bây giờ. Ông xót xa cho thân phận bạc mệnh đó:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

Hai câu thơ gói trọn tiếng lòng xót xa của Nguyễn Du, chua xót đến tột độ khi nghĩ đến người con gái bạc mệnh ấy. Trước phần di cảo của một tài năng, Nguyễn Du cảm nhận được cả cái tài, cái tình Tiểu Thanh, “chi phấn” được hiểu là son phấn ẩn dụ cho nhan sắc, thì “văn chương” chính là ẩn dụ cho tài năng của nàng. Đó đều là những giá trị đáng quý, nhưng đau xót thay những giá trị tốt đẹp ấy đều bị dập vùi dập, chà đạp bởi một xã hội tàn ác, xấu xa .

Nghệ thuật đối được dùng rất chỉnh giữa những hình ảnh “chi phấn hữu thần” với “văn chương vô mệnh”, “liên tử hậu” với “lụy phần dư” dẫn đến sự song hành của hai cặp đối tượng: son phấn và văn chương, sắc đẹp và tài năng. Ở Tiểu Thanh hội tụ tất cả những tinh túy ấy. Người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, trái ngang. Những nghiệt ngã đời nàng là nỗi sầu vạn kỉ. Dưới suối vàng, Tiểu Thanh chắc còn đau đớn, u uất…

Nỗi đau ai oán của nàng sâu sắc, mạnh mẽ hơn nhiều khi cả linh hồn nàng cũng bị hủy diệt: “Văn chương không mệnh đốt còn vương”. Văn chương vốn “vô mệnh” nay lại thành hữu mệnh, có lẽ đó là ẩn dụ cho tài năng của nấy cũng phải “lụy” cái bạc mệnh của con người. Nó cũng biết đau khổ, biết buồn vui, biết vương vấn,…và rồi bỗng chợt nhận ra cái oan trái, ngang ngược mà ông trời sắp đặt cho nó. Có sắc, có tài rồi cũng để làm gì:

“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Hai câu thực khép lại là lòng thương cảm sâu sắc về số phận bất hạnh tài hoa nhưng bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời mang niềm tin vào thuyết luân hồi đạo phật cũng như là nguồn cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du. Ông nhận ra được những giá trị tốt đẹp của con người qua đó ta thấy một tâm hồn đa cảm đến sâu sắc!

Hai câu luận vẫn là niềm thương cảm ấy nhưng giờ đây còn vang lên tiếng nói của tri âm nghe mà nhói lòng người, nhưng biết làm sao đây?

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư”

Hai câu thơ cất lên đầy sự tuyệt vọng, ai oán và u sầu nặng nề. Tài hoa nhưng bạc mệnh có lẽ đã trở thành “Cổ kim hận sự”, xưa thì có số phận của nàng Tiểu Thanh và những người cùng cảnh ngộ, nay thì là những người như ông. Nhưng rồi khi ngẩng đầu lên hỏi trời thì trời cũng chỉ biết lặng thinh không nói một lời khiến cái hận càng thêm hận, thấm thía lại càng thêm thấm thía,… khi trời không đáp con người cũng chỉ biết bất lực, bế tắc, nó thể hiện một hiện thực bất công của xã hội phong kiến nhiều hủ tục.

Cái tài và sắc đẹp phải được trở lại đúng với giá trị của nó, không ai có quyền phủ nhận. Nhưng hiện tại, sự thực hoàn toàn khác. Người tài tử buộc phải chấp nhận cái án phong lưu mang nặng tình nhân thế. Từ xúc cảm xót thương cho Tiểu Thanh đến tình thương dành cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh nói chung rồi nhìn lại thì tự thương mình, tự coi mình cũng cùng mang nỗi oan lạ lùng, sự vận động của cảm xúc nhà thơ như từng lớp sóng lòng âm ỉ nhưng thấm thía, từng lớp từng lớp dần dần cho thấy sự đồng cảm đã đạt đến mức tri ân, chủ nghĩa nhân đạo đã biểu hiện ở mức cao nhất, để rồi Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” cũng phải thốt lên rằng:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Đứng trước số phận của nàng Tiểu Thanh Nguyễn Du trở lại lòng mình mà “Giật mình mình lại thương mình xót xa” và đó vô tình trở thành một nét mới trong văn học trung đại – cảm hứng tự thương. Hai câu thơ cuối như xoáy chặt vào lòng ta một nỗi đau đớn, tuyệt vọng của một trang tài tử:

“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Hai câu thơ mở ra như cả thế giới nội tâm của Nguyễn Du, lời thơ như vừa tuyệt vọng, vừa hy vọng, vừa cô đơn, vừa tìm kiếm. “tam bách dư niên hậu”- con số 300 năm chỉ mang tính chất ước lệ tượng trưng nhưng đó lại là nỗi niềm cô đơn của ông trong thời đại Nguyễn Du tự đặt ra để kiếm tìm cho mình một người tri âm tri kỉ như ông đã khóc cho Tiểu Thanh, như Thúy Kiều đã từng khóc cho Đạm Tiên.

Câu hỏi tu từ ở cuối bài bày tỏ niềm khao khát, mong muốn tìm được sự thấu hiểu, thương cảm. Tiếng khóc của người đời là thứ mà Nguyễn Du luôn tìm kiếm bởi đó là tiếng vang của sự tri âm, đồng cảm.

Từ xót thương cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh và rồi ông cũng tự khóc cho chính mình, ông cũng là một trong những số ít nhà thơ đưa tên chữ của mình vào trong thi phẩm, dường như đó là cái tôi, cái cá nhân mà ông muốn khẳng định qua đó lại một lần nữa Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo lớn lao của mình đó là sự tự thương.

Khép lại bài thơ là tiếng nói bất bình lần nữa của ông, bằng hai câu thơ thất niêm đã phá tính quy phạm vốn có của văn học trung đại để lên án mạnh mẽ những kẻ không chân trọng giá trị của con người đặc biệt là những con người tài hoa. Tấm lòng Nguyễn Du còn thấu đến ngàn đời. Nhưng có lẽ giờ đây, trang tài tử đã yên lòng nhắm mắt bởi đời sau đã có bao tấm lòng gửi lời tri ân đến ông, như vần thơ của Tố Hữu đầy thương cảm và trân trọng:

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!”

“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình.” Để làm nên thành công của tác phẩm “Đọc tiểu thanh ký” thì yếu tố nghệ thuật nắm giữ một vai trò vô cùng quan trọng qua việc vận dụng thể thơ đường luật, những hình ảnh đối lập đem lại hiệu quả nghệ thuật cao qua đó thể hiện sự thương cảm sâu sắc mà tác giả dành cho Tiểu Thanh ​​- một hồng nhan bạc mệnh, một tài năng thi ca đoản mệnh, cho những kiếp hồng nhan đa truân, tài tử đa cùng, mà với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề: quyền sống của người nghệ sĩ, sự cần thiết phải tôn vinh, trân trọng những người làm nên các giá trị văn hóa tinh thần.

Nhà văn Bùi Hiển cho rằng: “Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết”. Nhưng với một Nguyễn Du trong “Độc Tiểu Thanh kí” ta còn thấy ở ông một nỗi niềm, một sự trăn trở, một niềm khát khao được mọi người cảm thông với chính mình.

Qua tác phẩm Nguyễn Du đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc với số phận số phận bất hạnh của người phụ nữ và cả những kiếp người tài hoa bạc mệnh nhưng đó cũng là sự cảm thông mà ông dành cho chính mình. Trải qua biết bao năm tháng cái tình của Nguyễn Du vẫn còn nguyên trong lòng bạn đọc.

5+ Mẫu Thuyết Minh Độc Tiểu Thanh Kí Hay

Chia sẽ thêm bạn một số mẫu thuyết minh về bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du bên dưới.

Thuyết Minh Độc Tiểu Thanh Kí Nguyễn Du Ngắn Hay

Nhắc đến Nguyễn Du người ta thường nghĩ ngay đến thiên cổ tình thư Truyện Kiều của ông. Điều ấy có lí do của nó. Truyện Kiều là một thành công kiệt xuất của thơ ca tiếng Việt. Nhưng bên cạnh Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du còn làm rất nhiều thơ chữ Hán có giá trị – cũng vò xé, cũng nhức nhối lòng người không khác gì khúc nam âm tuyệt xướng ấy.

Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ chữ Hán trác tuyệt, sinh hoa diệu bút của đại thi hào Nguyễn Du, được xếp trong Thanh Hiên Thi Tập. Bài thơ đã bộc lộ một cách sâu sắc cái nhìn cảm thông của tác giả trước những thân phận tài hoa mà bạc mệnh trong xã hội cũ và dường như đó còn là bức thông điệp tình thương, nỗi nhói buốt can tràng của muôn đời.

Ôi Tiểu Thanh, nàng là ai vậy? Con tạo hóa vốn yêu thương tài sắc, nàng đã biết thế hay chưa? Người khôn thì hay gặp gian truân, chuyện đời khéo làm trò quanh quẩn. Chuyện của đời nàng sao nhiều uẩn khúc phải chăng cũng là chuyện của bao người tài tình chi lắm cho trời đất ghen trong xã hội phong kiến kéo đài hàng mấy trăm, mấy nghìn năm xưa.

Xã hội ấy đâu có dung nổi những người tài sắc, đa cảm khiến những người như Đỗ Thập Nương phải làm kĩ nữ, những Thuý kiều phải bán mình. Truân chuyên lận đận… hay những Lâm Đại Ngọc của Tào Tuyết Cần – than ôi cái đẹp thì mong manh và yểu mệnh, tài sắc thì dễ bị dập vùi. Chắc nàng Tiểu Thanh phải có nét mặt rầu rầu như Bao tự. Nàng sống vào đầu đời Minh – Tức là từ năm 1368 đến năm 1644. Nàng là người tài sắc, có chồng nhưng hẩm hiu thay chỉ là vợ lẽ. Tài sắc của nàng, bị vợ cả ghen tuông đọa đày cho hả dạ. Nàng bị bắt phải sống một mình trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ, chẳng bao lâu đau buồn mà chết, bấy giờ mới mười tám tuổi.

Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương, câu thơ viết về Đạm Tiên ấy không chỉ vận vào nàng Kiều mà còn là chuyện của những người con gái có tài sắc mà bị ghen ghét, đến nỗi văn chương cũng bị vạ lây như nàng Tiểu Thanh nước Trung Hoa. Khi Tiểu Thanh còn sống, nàng làm rất nhiều thơ bộc bạch những lời gan ruột – chắc thơ cũng như người, hay nhưng thấm đẫm nỗi buồn, uất hận – nhưng khi nàng chết người vợ cả chưa tắt lửa hờn ghen nên tìm lục đất thơ nàng hòng xóa sạch dấu vết.

Sau khi nàng vĩnh viễn không còn làm thơ trên cõi trần này nữa, nhiều người thương tiếc bới trong đống tro tàn chỉ còn sót lại vài bài làm thành một tập thơ mà người đời gọi là phần dư cảo.

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

(Truyện Kiều)

Phải chăng đó là giọt nước mắt xót thương của thi nhân nhỏ xuống số phận bi thảm của Đạm Tiên, của Kiều, của Long Thành cầm giả ca, của Ngô Gia đệ cựu ca cơ và bây giờ là Tiểu Thanh? Giọt nước mắt ấy là giọt nước mắt của mối đồng cảm đặc biệt mang những nỗi ám ảnh, ngậm ngùi về thân phận con người.

Bài thơ thất ngôn bát cú xinh xắn Độc Tiểu Thanh ký đã bộc lộ những cảm xúc rất trần gian, rất con người tức là Tất nhân văn của một nhà thơ lớn Việt Nam sau khi đọc phần dư cảo ấy. Bài thơ là cả một biển trời tình thương và nếu muốn lấy dẫn chứng về cách viết thơ hàm súc dư ba thì không thể không coi bài thơ này là một mẫu mực. Đọc xong bài thơ rồi, cảm xúc trong lòng ta như vẫn còn vang ngân, khắc khoải, day dứt. Sống ở trên đời có được thứ tình cảm cao thượng ấy thật quý vậy thay!

Từ đầu đời Minh, cái lúc nàng tiểu Thanh sống và chết, cái lúc nàng quằn quại trong cái ghen kiểu Hoạn Thư tàn nhẫn đến lúc này, Nguyễn Du không phải đứng trước mộ nàng mà chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.

Theo nghiên cứu của nhà phê bình Tương Chính, khi đi sứ ở Trung Quốc năm 1838, Nguyễn Du không vượt sông Trường Giang, không đến Tây Hồ nơi có núi Cô Sơn, mộ nàng Tiểu Thanh, mà xuôi thuyền theo dòng Trường Giang về Võ Xương – khi Nguyễn Du viếng di chỉ của một người mệnh bạc, thời gian đã hơn ba trăm năm. Ba trăm năm thật quá đủ để một người bị lãng quên, đủ để nương dâu thành bãi biển. Nhưng đối với cả hai con người ấy lại khác, họ có mối đồng bệnh tương lân.

Một người con gái như Tiểu Thanh lẽ nào lại không lưu lại trong lòng hậu thế những nỗi day dứt dằn vặt khổ đau? Một người có trái tim lớn như Nguyễn Du lẽ nào lại dửng dưng, thờ ơ trước lời xưa của một hồn đau vọng về? Và Nguyễn Du đã viết Độc Tiểu Thanh ký với tất cả tấm lòng. Phải trên hết là tấm lòng, sau đó mới là dụng công nghệ thuật. Bởi lấy tấm lòng để hiểu tấm lòng, mới thấu được những lòng đau. Mở đầu bài thơ Nguyễn Du viết:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành thư
Độc điếu song tiền nhất chi thư.

Dịch giả Vũ Tam Tập dịch là:

Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí đã cho thấy tấm lòng nhân hậu, cảm thông của Nguyễn Du mênh mông sâu nặng biết nhường nào. Nếu Thuý Kiều đến với Đạm Tiên trước nấm đất sét sè sè bên đường, thì ở bài thơ này, nhà thơ đến với Tiểu Thanh đáng thương trước hai di vật: cái gò hoang tức núi Cô Sơn, nơi trước đây nàng bị vợ cả hắt hủi và mảnh giấy tàn tức những bài thơ não nùng tâm can sót lại.

Từ hai di vật này, Nguyễn Du đã phi lộ và tạo cho mình nguồn cảm hứng sâu xa. Xưa viếng Đạm Tiên, nay viếng Tiểu Thanh – cùng một lứa bên trời thân cận Mộng Liên Đường chủ nhân đã nói đúng: Trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy.

Tài thơ của Tiểu Thanh thời ấy có ai biết đến, có ai ngưỡng mộ ngợi khen, hay phải chịu lụi tàn bởi ngọn lửa bất nhân tình: tình của Tiểu Thanh thời ấy, có được đền đáp trọn vẹn hay không, hay là phải gánh chịu cái ghen ngút trời. Cái căn nguyên ấy thật xót xa. Hồ Tây đẹp là như vậy, giờ Tiểu Thanh chết rồi, bên cạnh mồ của nàng, núi Cô Sơn trở nên lạnh lẽo, hoang vắng và tàn tro.

Cảnh đẹp thì lộng lẫy, sinh động, cổ sức sống, nay trở thành gò hoang tức là cùng với con người chôn sâu vào huyệt lộ – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Thế là cuộc sống đã đến hồi tàn tạ, thảm khốc, héo hon, trớ trêu và nghịch cảnh. Thế đấy, sự thay đổi vẫn diễn ra trong cuộc sống, cái gì rồi cũng lụi tàn cùng với bụi thời gian sắc úa màu phai Đọc di cảo của Tiểu Thanh, nhà thơ càng nhận ra cái quy luật biến thiên ấy của đời sống.

Nhà thơ trước đó đã nhận ra cái quy luật phũ phàng ấy rồi, từ sự chiêm nghiệm của chính bản thân và đời mình, bởi vậy mà tác giả đã viết một cách đầy thương tâm:

Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Ba trăm năm sau, cùng với biết bao dâu bể, tất cả những gì gợi nhớ về con người ấy hầu như bị hủy diệt tàn phá. Đến hôm nay con người tài sắc một thời ấy chỉ lại có một tập thơ nhỏ. Nguyễn Du chỉ còn được biết về nàng, được viếng hồn nàng, thổn thức tỏ lòng thương cảm vô bờ qua việc đọc tập thơ trước cửa sổ. Trong những câu thơ vào đề, Nguyễn Du đã tỏ rõ tấm lòng đồng cảm của minh về một đời người, về cả cuộc đời chung.

Cho nên nói về Tiểu Thanh kí thật ra là Nguyễn Du nói về Tiểu Thanh, nói về con người chứ không phải nói về nghệ thuật, hai câu thực, nhà thơ tiếp tục suy tưởng, thổn thức về thân phận và tài hoa của nàng Tiểu Thanh:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Nói đến son phấn là nói đến nhan sắc nói văn chương là nói đến cái tài. Son phấn thì làm gì có thần nhưng Nguyễn Du đã tạo hồn, tạo thần cho nó để rồi cũng biết hận biết đau nỗi đau bị vùi dập. Nói son phấn có thần hẳn Nguyễn Du muốn nói đến giá trị cao quý, bất tử của nhan sắc người đẹp.

Phải, nhan sắc – cái đẹp chính là giá trị quý báu của cuộc sống, nó có sức sống bất tử vì thế mà ba trăm năm sau cho dù hoa uyển có tàn tạ, hồ Tây có hoang phế, núi Cô Sơn có trở thành gò đống xấu xí thì nhan sắc của Tiểu Thanh vẫn không bị lãng quên, ít nhất là nó gây niềm thương cảm ngậm ngùi trong lòng người. Chi phấn hữu thần riêng một ý thơ này đủ để khẳng định con người nhân đạo chủ nghĩa đáng quý trong tâm hồn, trái tim Nguyễn Du.

Trong xã hội phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến, mấy ai dám nghĩ như vậy về chi phấn, về vẻ đẹp của người phụ nữ. Son phấn là sắc đẹp giai nhân. Còn văn chương là nói đến văn tài. Sắc tài là vậy nhưng làm sao tránh khỏi tài mệnh tương đối, tạo hóa trêu ngươi, thậm chí chính tài sắc lại là nguyên nhân của tai họa. Cho nên con người bị vùi dập, chà đạp một cách tàn nhẫn:

Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Văn chương là vật vô tri, làm gì có số mệnh, định mệnh. Ấy vậy mà đối với Nguyễn Du văn chương cũng có mệnh, cũng biết vương vấn, cũng biết lụy trước những nỗi oan khuất của kẻ tài hoa. Vợ cả đốt thơ Tiểu Thanh. Thế là văn chương cũng cùng với con người bị nguyền rủa, bị căm thù, bị tàn phá, tiêu huỷ.

Vậy thì văn chương cũng hữu mệnh như con người – thật là một buổi chiều thu tê tái – buổi chiều của xã hội phong kiến ở Việt Nam, ở Trung Quốc phản ánh trong tâm hồn Nguyễn Du khi tất cả những cái gì đẹp đẽ cao khiết đều bị dập vùi. Hai câu thực đã khẳng định lòng cảm thương sâu sắc và nỗi oán hận, nỗi uất ức của ông đối với thời đại. Bản chất ấy là bản chất nghệ sĩ nhưng không phải là nghệ sĩ nào cũng có được.

Son phấn có thần chôn vẫn hận – Văn chương không mệnh đốt còn vương – một ý nghĩ như thế thật là táo bạo, ngay cả đến thời đại chúng ta.

Hai câu luận tiếp tục khai triển niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với thân phận bé nhỏ của con người. Một câu hỏi khắc khoải, quan hoài vang lên đầy xót xa:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

Vẫn là cái hờn, cái hận của Tiểu Thanh nhưng đã nằm trong cái hận của muôn đời, muôn người – một cái hận triền miên dài đến nghìn năm day dứt mãi khôn nguôi. Cái nỗi đau nhân tình thế thái, cái nỗi hận cổ kim từ xưa đến nay ấy thật khó mà hỏi trời. Trời thăm thẳm, trời cao xa quá, tận trên chín tầng mây làm sao hỏi được đây.

Nhà thơ đã từ cái hận của muôn đời mà thấu hiểu cái hận của Tiểu Thanh, đã dồn cái hận cửa cổ kim vào cái hận của nàng bởi thế cái hận trở nên có sức mạnh, có sức lay động lòng người. Và không hỏi được, không lí giải được lại càng thêm hận khiến cái hận trở nên thấm thía. Với những thanh trắc (cổ, hận, sự, vấn), Nguyễn Du đã diễn tả một cách đầy bi phẫn nỗi đau của những con người tài hoa bạc mệnh.

Tác giả đau đớn, căm giận trước sự thất bại của cái đẹp, cái thiện, trước sự thắng thế của cái ác và do đó lời thơ đã tố cáo mạnh mẽ cải chế độ phong kiến hà khắc với những khuôn phép bất nhân (chữ dùng của Xuân Diệu) chà đạp con người, đặc biệt là con người tài sắc, yếu đuối.

Phong vận kỳ oan ngã tự cư – cái án phong lưu khách tự mang. Cái án phong lưu là án gì? Phải chăng đó là cái án của con người tài sắc. Là con người tài sắc mà phải chịu cái án ấy – cái án bị đọa đầy, bị hắt hủi, bị hành hạ cho đến chết thì thật thương tâm. Khách ở đây là ai? Sao cái án ấy khách lại tự mang vào mình? Khách tự mang là do lòng cảm cựu ai xui thương mướn hay là do một nguyên do nào khác. Không, đó là cách tự vận vào mình một cách cao cả đó là cái thông lụy của bọn tài tử trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy.

Nguyễn Du cũng là một trong những người cố tình hữu ái nhất phiến tài tình tiên cổ lụy bởi đó tự coi mình là đồng hội đồng thuyền với kẻ mang nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Nhà thơ thông cảm với Tiểu Thanh, bênh vực Tiểu Thanh, uất ức mà khóc cho Tiểu Thanh.

Đau đớn trước nỗi oan lạ kì của Tiểu Thanh, xót xa trước sự quên lãng của người đời, Nguyễn Du khóc cho Tiểu Thanh một người con gái hồng nhan đa truân của hơn ba trăm năm về trước và đặt câu hỏi lớn cho ba trăm năm sau:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Hai câu kết, Nguyễn Du chuyển mạch cảm xúc khóc mình, ấy vậy mà không hề lạc điệu, rời rạc mà vẫn phù hợp, vẫn đảm bảo bài thơ là một chỉnh thể. Từ sự xót thương kiếp tài hoa mệnh bạc của Tiểu Thanh, từ tâm sự cùng hội cùng thuyền tự đặt mình vào nỗi oan khiên đó, tác giả liên hệ đến bản thân mình, nghĩ đến thân phận mình cũng giống nàng cho nên nói người hóa ra nói mình, thương người hóa ra tự thương mình và băn khoăn không biết sau này ba trăm năm lẻ nữa có ai còn nhớ đến mình, khóc cho mình như khóc cho Tiểu Thanh không? Vì thế khóc cho người rồi khóc cho mình là phù hợp với mạch cảm xúc của Nguyễn Du. Ba trăm năm không hoàn toàn là một con số chuẩn xác.

Hai câu kết đã hé mở một thế giới riêng của một con người mà từ trước ta ít để ý: Đó là con người Tố Như với những băn khoăn, trăn trở, riêng tây. Nguyễn Du không hề nói đến Tố Như, bỗng nhiên nhân câu chuyện Tiểu Thanh, lại tự hỏi một câu vớ vẩn… Một tấm lòng vẫn giấu che, bỗng lộ trong một phút giây, chệch nhẹ bức mành, mà ta trông được cả một thế giới còn chưa nói.

Dường như Nguyễn Du muốn đưa ra một lời dự cảm, một lời tiên tri: Hơn ba trăm năm sau chắc còn có người khóc mình có nghĩa là phải khóc thương cho số phận chịu nhiều đau khổ, nhân loại vẫn còn những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đó là một nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời cũng là một triết lý sâu sắc về thuyết tài mệnh tương đồ. Ông thương cho người xưa, thương cho chính mình và thương cho cả người sau phải khóc mình nữa. Con mắt trông thấy sáu cõi, hay tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du là như vậy đó.

Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí đã cho thấy tấm lòng nhân hậu, cảm thông của Nguyễn Du mênh mông sâu nặng biết nhường nào. Ông có tình thương bao la với những kiếp người tài hoa, bạc mệnh dù là người Việt Nam hay Trung Quốc. Rồi ông lại tự vận vào mình cái án phong lưu để mà tự đau, tự thương cho mình bơ vơ, không tri âm, tri kỷ trước cõi đời.

Trong văn chương thời trung đại, quan niệm vô ngã, phi ngã chi phối dễ gì có nhiều người biết thương mình, thương một cách cực độ như Nguyễn Du. Nguyễn Du luôn sống mãi trong lòng người với tinh thần nhân đạo cao cả, xứng đáng là nhà nhân đạo lớn.

Xem thêm 🌹 Thơ Châm Biếm Thói Đời 🌹 [Sâu Cay]

Thuyết Minh Về Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí Xuất Sắc

Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc, có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời”. “Độc tiểu thanh kí” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thơ văn Nguyễn Du, là tiếng nói đồng cảm với thân phận người phụ nữ bất hạnh xưa- là những nạn nhân của chế độ phong kiến
Tác giả sinh ra trên mảnh đất Hà Tĩnh- vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình ông có học vấn uyên bác, nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là mảnh đất phù nhiêu nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du. Bài thơ “độc tiểu thanh kí” được viết khi tác giả đi sứ ở Trung Quốc. Đây là một trong số những tác phẩm viết bằng chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du. Nhan đề bài thơ đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ, là mạch cảm xúc xuyên suốt tác phẩm. “Độc tiểu thanh kí” là đọc những ghi chép của nàng Tiểu Thanh (đọc tập thơ của nàng Tiểu Thanh). Hai câu đề đã nói lên tấm lòng cảm khái trước sự thay đổi của cuộc đời con người:

thuyết minh Độc tiểu thanh kí
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Đó là sự đối lập giữa quá khứ tươi đẹp với hiện tại là những gò hoang lụi tàn buồn vắng và thê lương. Câu thơ là tiếng lòng bày tỏ sự xót thương đối với nhân thế, là sự biến đổi của cảnh vật trong dòng chảy của thời gian. Sự thay đổi đến tàn khốc, xót xa của hiện tại hay đó chính số phận đau khổ của con người, của cái đẹp. Nhắc đến địa danh Tây Hồ ta nghĩ ngay tới nàng Tiểu Thanh- người con gái xinh đẹp. Tiểu Thanh là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh là người rất thông minh và nhiều tài nghệ. Tuy có tài sắc vẹn toàn nhưng cô phải chịu số phận làm lẽ cô đơn bất hạnh và hẩm hiu. Sự lụi tàn của cảnh vật, của thiên nhiên Tây Hồ là những lời cảm khái trước số phận người con gái đẹp đang dần bị hủy hoại. Nhà thơ bày tỏ nỗi tiếc nuối xót xa cho cảnh đẹp nay thành bãi gò hoang nhưng thực chất là dùng thiên nhiên để nói lên sự đau xót tiếc nuối người con gái tài sắc mà bạc mệnh.
“Độc điếu” nghĩa là một mình ta khóc thương, đó là tiếng khóc thương viếng nàng qua một tập sách nhỏ. Tiểu Thanh cô đơn giữa chốn không người, cảnh vật thê lương. Còn Nguyễn Du thì cô đơn giữa dòng đời bởi chẳng ai có thể hiểu được ông, hiểu được cái nhân đạo cao quý, cái tư tưởng sâu sắc của con người cao cả hướng tới bấy lâu nay. Ông không khỏi xót xa bởi cái phũ phàng của cuộc đời đặt ra để thử thách đời người và có lẽ chính ông cũng đã sớm chiêm nghiệm được điều ấy.

Cuộc đời Tiểu Thanh số phận của nàng luôn làm người đời phải suy tư thổn thức ngay cả Nguyễn Du cũng vậy:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.

Son phấn là những vật dụng gắn liền với người phụ nữ, là ẩn dụ về nàng Tiểu Thanh một người vô cùng xinh đẹp. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, xót thương như một tiếng khóc thầm cho số phận người con gái tài hoa bạc mệnh. Nguyễn Du đã dùng lời thơ của mình để ngợi ca vẻ đẹp của Tiểu Thanh một cái đẹp hoàn thiện và hoàn mỹ. Nhưng cái đẹp ấy đặt trong xã hội phong kiến xưa, xã hội mà người phụ nữ luôn bị coi thường thì thật chua xót.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

“Cổ kim hậu sự” là mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp, mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh. Câu thơ thể hiện nỗi oan khuất của thân phận người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Trong xã hội phong kiến đầy bất công người có tài sắc thì luôn gặp bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc.

Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Hai câu kết bài thơ là tiếng khóc cho nàng Tiểu Thanh đã được tác giả thấu hiểu và giải oan, ông vẫn luôn băn khoăn rằng không biết hậu thế ai sẽ là người khóc thương và thấu hiểu cho mình. Ý thơ là nơi chuyển đổi đột ngột từ “thương người” qua “thương mình”. “Người đời ai khóc Tố Như chăng?” là câu hỏi thổn thức, da diết đầy ngậm ngùi thể hiện sự cô độc của chính tác giả trong xã hội hiện tại. Ông luôn khao khát tìm được một tấm lòng tri kỷ giữa cuộc đời, tìm được một người thương mình và hiểu mình.

Bài thơ “độc tiểu thanh kí” sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cùng với các từ ngữ sâu sắc đầy tính triết lý, nghệ thuật đối kết hợp với câu hỏi tu từ cùng các hình ảnh giàu tính biểu tượng. Nguyễn Du đã thể hiện thành công suy tư của mình về số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thể hiện những giá trị nhân đạo sâu sắc, để lại những ấn tượng sâu đậm sâu đậm trong lòng đọc giả.

Thuyết Minh Về Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí Súc Tích

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có một loạt bài viết về các nhân vật lịch sử mà ở đó nhà thơ gửi gắm rất nhiều tâm sự. Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) là một bài thơ như thế. Bằng tiếng nói tri âm sâu sắc với một người con gái sống cách mình hơn 300 năm, Nguyễn Du muốn bày tỏ nhiều tâm sự về con người và cuộc đời trong bối cảnh hiện tại và vượt thời gian, mang dự cảm của mình tới 300 năm sau để tìm tri âm.

Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).

Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.

Tiểu Thanh là người phụ nữ thông minh, tài hoa, nhan sắc nhưng phận bạc. Nàng sống một cuộc đời ngắn ngủi đầy trái ngang. Di cảo còn sót lại của Tiểu Thanh với những vần thơ bị đốt dở là bằng chứng cho số phận oan nghiệt ấy, mà người đa cảm như Nguyễn Du khi đọc nó đã không thể cầm lòng. Nỗi “thổn thức” đã khiến thi nhân viết nên những dòng tuyệt tác trong Đọc Tiểu Thanh kí.

Trước hết Độc Tiểu Thanh kí là tiếng lòng nhân đạo cao cả, sâu sắc của Nguyễn Du. Bài thơ đã mở ra bằng hai hình ảnh biểu tượng cho sự biến thiên dâu bể của cuộc đời:

Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang.

Cảnh đẹp trước đây (hoa uyển) đã biến thành gò hoang (thành khư). Câu thơ xuất phát từ một thành ngữ Trung Quốc: “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh biến thành nương dâu). Dẫu biết rằng: sinh – hoá, trụ – diệt,… vốn là lẽ thường, vốn là quy luật sao vẫn thấy có gì xót xa? Nhất là nơi ấy lại gắn với cuộc đời và số phận của Tiểu Thanh, một cuộc đời gợi bao nỗi cảm thương qua những vần thơ cháy dở.

Độc Tiểu Thanh kí có thể coi như một bài thơ viếng Tiểu Thanh. Câu thơ thứ hai đã hé mở: trong nỗi ngậm ngùi luyến tiếc, một mình viếng người đã khuất (độc điếu) qua một tập giấy mỏng (nhất chỉ thư). Tập giấy mỏng ấy là mảnh hồn Tiểu Thanh còn vương lại. Người chết cô đơn mà người viếng cùng cô đơn, một lòng đau tìm đến một hồn đau. Câu thơ với cách nói hàm súc đã vượt qua thời gian và sinh tử để tri âm.

Hai câu thơ tiếp vươn rộng tới nhiều lớp nghĩa:

Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.

“Son phấn” là biểu tượng của sắc đẹp, còn “văn chương” là bằng chứng của tài năng. Cái đẹp, cái tài ở đời là bất tử, là không có số mệnh, vậy mà vẫn bị “liên tử hậu”, “lụy phần dư”, vẫn luôn bị chà đạp phũ phàng, nghiệt ngã. Cuộc đời này quả là nhiều bất công, ngang trái.

Hận cho số kiếp Tiểu Thanh, hận cho muôn đời, muôn người. Trong cái hận của Tiểu Thanh có cái hận của muôn người và của bản thân nhà thơ. Thương người và thương mình. Nỗi hận, nỗi đau thương ấy thật khó mà hỏi trời (Cổ kim hận sự thiên nan vấn) đành ôm trọn vào lòng thành nỗi cô đơn. Câu thơ là một kết luận mang tính chất triết lí thấm đẫm nước mắt. Câu thơ tiếp theo giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn tại sao Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh mà lại da diết đến thế? Nguyễn Du khóc cho người cũng là khóc cho mình đó thôi.

Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ bộc lộ nỗi niềm trăn trở, dự cảm nhói buốt, cứ day cứa mãi vào tâm trạng người đọc các thế hệ:

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?

(Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?)

“Ba trăm năm lẻ” là một con số ước lệ chỉ mai sau khi nhà thơ đã chết cũng như hơn ba trăm năm sau cái chết của Tiểu Thanh vậy. Mai sau liệu có ai khóc cho Tố Như, cùng Tố Như khóc cho mỗi kiếp người dâu bể? Bài thơ với hai lần tự xưng (“ng” [tôi] và “Tố Như” ) đã hé mở một cái “tôi” đang cô đơn đến tột độ, một cái “tôi” tự thương, tự đau. Nguyễn Du thương cho người xưa (quá khứ), thương cho mình và nhiều con người bất hạnh cùng thời với mình (hiện tại), thương cả cho người sau phải khóc mình nữa (tương lai). Đây chính là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời và cũng là một triết lý sâu sắc về kiếp người.

Hãy cứ đọc trực tiếp bài thơ từ phiên âm chữ Hán rồi lắng nghe âm điệu réo rắt đau thương cố kìm, cố nén của nó ta sẽ chạm được phần nào tới tiếng lòng của thi nhân. Bài thơ vượt lên cả những bản ai điếu thông thường bởi Nguyễn Du đâu chỉ viếng mộ cô hồn thuộc về quá khứ, Nguyễn Du khóc cho cả “thập loại chúng sinh” trong hiện tại và dòng lệ nhân văn thấm đẫm tình đời, tình người ấy đã tràn cả đến hậu thế. Phải thật tinh, thật sâu mới hiểu và cảm được tình thơ, ý thơ, câu chữ trong bài thơ bởi với thiên tài của mình, Nguyễn Du đã viết một cách hàm súc cao độ, mỗi từ đều có độ nén, sức nặng và sức bật để tạo nên những cộng hưởng trong lòng người.

Bụi thời gian có thể phủ mờ nhiều thứ nhưng những bài thơ được chất ra từ máu và nước mắt như Đọc Tiểu Thanh kí, được luyện bởi một thiên tài văn học như Nguyễn Du chắc chắn thời gian càng giúp thi phẩm đứng vững trong lòng người.

Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Độc Tiểu Thanh Kí Siêu Hay

Nguyễn Du là một cái tên mà nhắc đến thì ai cũng biết. Tên tuổi của ông thường gắn liền với Truyện Kiều thế nhưng ông còn nhiều sáng tác khác nữa. Có thể nói Nguyễn Du là một người có sự đồng cảm với những người phụ nữ đương thời. Chính vì thế những bài thơ của ông thường khóc cho số phận của những con người hồng nhan bạc mệnh. Ngoài Kiều ra thì chúng ta còn thấy Nguyễn Du khóc thương cho nàng tiểu Thanh đời nhà Minh qua tác phẩm độc tiểu thanh ký. Qua bài thơ Nguyễn Du thể hiện sự thương cảm cho những con người tài sắc nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đó ông thể hiện sự day dứt trăn trở cho số phận những người có tài trong đó có chính bản thân ông.

Cảnh Hồ Tây gắn liền với những với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.

Mở đầu bài thơ tác giả dựng lên một hình ảnh Hồ Tây đầy những u ám, nó không đẹp phảng phất ngây ngất nữa mà nó mang một nỗi niềm oan ức của người con gái đa tài có nhan sắc kia:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. ”

(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)

Nhắc đến Tây Hồ người ta thường nghĩ đến những cảnh đẹp thế nhưng ở đây Nguyễn Du lại nói là gò hoang. Có thể nói ở đây ngày xưa đúng là một cảnh đẹp thật đấy nhưng giờ đây thì không. Nó chỉ còn lại một gò hoang vu mà thôi. ở nơi ấy nàng Tiểu Thanh đã mất đi và chính sự mất đi ấy đã làm cho cảnh vật nơi đây âm u tràn trong những uất ức mà cô phải chịu. Nó không còn đẹp nữa giống như người con gái ấy không còn nữa.

Tây Hồ thành gò hoang cũng như cô ấy đã ra đi và giờ đây chỉ còn là một nắm xương khô mà thôi. Hai chữ “thổn thức” như gợi lên bao đau đớn buồn thương của người con gái ấy. Tiếng lòng Tiểu Thanh hay chính là tiếng lòng của Nguyễn Du. Ở đây có một sự đồng điệu về nhân vật và tác giả. Họ cùng chung một sự nghiệp văn chương cho nên trước sư ra đi của người tài giỏi Nguyễn Du đồng điệu tâm hồn mình.

Đến hai câu thơ sau chúng ta lại thấy được những linh hồn của cô nàng tài sắc ấy vẫn còn vấn vương trên cõi trần, vẫn ở đâu đó khiến cho nhà thơ cảm nhận được:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư:”

(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)

Son phấn ở đây chỉ nhằm nói đến Tiểu Thanh, son phấn để chỉ người phụ nữ bởi nó là một vật trang điểm khiến cho nhan sắc của những người phụ nữ thêm phần lộng lẫy và xinh đẹp hơn. Tác giả như cảm nhận thấy được cái thần thái của người con gái ấy vẫn còn đâu đây mặc dù bị chôn đi nhưng mà nỗi hận vẫn còn. Chính nhà thơ dùng tâm hồn đồng điệu của mình để cảm nhận được điều đó.

Và chính cái chết ấy đã mang đi sự nghiệp văn chương của cô. Vốn dĩ nó còn được phát triển nữa nhưng thật sự không thể được vì cái người làm ra nó vì xinh đẹp mà bị giết hại. Có thể nói nhan sắc kia đã làm cho văn chương bị liên lụy. Thế nhưng những tác phẩm văn chương của nàng tiểu Thanh ấy dù bị đốt đi nhưng hãy còn vương. Văn chương đâu có mệnh có linh hồn vậy mà ở đây lại có. Tất cả để nói lên rằng linh hồn của tiểu Thanh.

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi lòng mình với nàng Tiểu Thanh tài sắc trong hai câu thơ tiếp. có thể nói rằng những câu thơ như càng ngày càng thấm đẫm sự thương xót người xưa của nhà thơ. Từ đó ta thấy được nhà thơ đang như “thương người như thể thương thân” vậy:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)”

Nỗi hận của nàng Tiểu Thanh là một nỗi hận kim cổ, câu thơ chứa đựng biết bao nhiêu tuyệt vọng. Không những thế Nguyên Du đã nâng nỗi hận của Tiểu Thanh thành nỗi hận của đời này truyền sang đời khác. Cái chết oan ức của Tiểu Thanh không thể hết oan ức được. Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? đúng là:

“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Càng thương tiếc Tiểu Thanh bao nhiêu thì Nguyễn Du lại nghĩ đến bản thân mình bấy nhiêu:

“Bất tri tam bách dư niên hậu, .
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Nhà thơ lo lắng cho bản thân mình trước sự trôi chảy của cuộc đời. Rồi mai này Nguyễn Du cũng mất đi nhưng không biết rằng có ai khóc Tố Như không. Câu hỏi cất lên mang đầy sự trăn trở về số phận mình. Ba trăm năm con số ấy là rất dài nhưng đến ngày nay thì người ta đã nhớ đến Nguyễn Du rất nhiều rồi.

Qua đây ta thấy được sự thương cảm xót xa đồng điệu của những con người tài hoa bạc mệnh với nhau. Nguyễn Du quả thật là một nhà văn của người phụ nữ, ông không những có một tác phẩm về cuộc đời nàng Kiều mà ông còn thương cảm với nàng Tiểu Thanh bên Trung Quốc. Tóm lại nhà thơ viết lên bài thơ này một mặc để bày tỏ sự thương tiếc với người tài hoa nhưng bạc mệnh lại vừa thể hiện sự trăn trở về số phận của bản thân mình.

Cười đau bụng với 🍁 Chùm Thơ Về Lương Hài Hước 🍁

Thuyết Minh Tác Phẩm Độc Tiểu Thanh Kí Điểm Cao

Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc.

Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.

Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.

Phiên âm chữ Hán:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch thơ Tiếng Việt:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,)

Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh:

Độc điếu song tiền nhất chi thư.
(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)

Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào?

Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận.

Nguyễn Du có cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư:
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)

Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chi phụ nữ; tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.

Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sống và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.

Đến hai câu luận:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử.

Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa ? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận.

Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy?

Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái oăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt.

Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang thương thân:

Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế không chỉ khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác.

Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc thương chặng?

Câu thơ như tiếng khóc xót xa cho thân phận, thương mình bơ vơ, cô độc, không kẻ tri âm, tri kỉ; một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa cõi đời. Dường như nhà thơ, đang mang tâm trạng của nàng Kiều sau bao sóng gió cuộc đời: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,/ Giật mình, mình lại thương mình xót xa.

Mở đầu bài thơ là thương người, kết thúc bài thơ là thương thân. Tứ thơ không có gì lạc điệu bởi đến đây, Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã hòa làm một – một số kiếp tài hoa mà đau thương trong muôn vàn số kiếp tài hoa đau thương trong xã hội phong kiến cũ.

Bài thơ cho thấy niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông biết chừng nào! Nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người đang sống mà thương cả người đã khuất mấy trăm năm. Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Đời người hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.

Viết một bình luận