Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ [Nội Dung, Ý Nghĩa, Phân Tích]

Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa, Phân Tích ✅ Thohay.vn Chia Sẽ Những Bài Văn Phân Tích Về Tác Phẩm Hay Nhất.

Nội Dung Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ

Bài thơ: Đường Về Quê Mẹ 
Tác giả:   Đoàn Văn Cừ

U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bảy sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.

Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.

Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.

Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.

Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.

Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.

Thohay.vn Tặng Bạn tuyển tập ❤️️ 30+ Bài Thơ Về Thăm Quê ❤️️ HAY, Ý NGHĨA NHẤT

Ý Nghĩa Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ

Bài thơ Đường Về Quê Mẹ là một tác phẩm của nhà thơ Đoàn Văn Cừ, in trong tập Thôn Ca năm 1942, đây là một trong những bài thơ hay nhất về tình cảm con cái dành cho mẹ và quê hương. Bài thơ nói về kỉ niệm và tình cảm của người con khi về quê cùng mẹ vào mùa xuân, thể hiện sự yêu thương và ngưỡng mộ về người mẹ hiền lành và quê hương yên bình. Bài thơ có sáu khổ thơ, viết theo bút pháp tả thực, chân mộc và giản dị, không dùng những hình ảnh siêu thực hay lời nói hoa mỹ, mà chỉ dùng những hình ảnh gần gũi và quen thuộc với cuộc sống nông thôn Việt Nam.

Bài thơ Đường Về Quê Mẹ là một bức tranh tĩnh vật, nhưng lại có sức sống và cảm xúc rất mãnh liệt. Bài thơ là một ca ngợi về người mẹ Việt Nam xưa, là một lời tỏ lòng biết ơn về quê hương đất nước.

Bài thơ này đã diễn tả được tâm trạng vui mừng, háo hức của người con mỗi lần cùng mẹ về quê ngoại. Đồng thời còn thể hiện tình cảm yêu mến, niềm tự hào của con về vẻ xinh đẹp, nết na của mẹ.

Chia sẽ bài thơ nổi tiếng không thể bỏ qua ❤️️ Bài Thơ Quê Hương của Đỗ Trung Quân ❤️️

Những Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ Hay

Chia sẽ những bài văn cảm nhận, phân tích về bài thơ đường về quê mẹ hay cho các bạn tham khảo.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ Học Sinh Giỏi

Đường về quê mẹ của Đoàn Văn Cừ viết theo thể thât ngôn tứ tuyệt, 6 khổ, 24 câu, vẽ lại hình ảnh người phụ nữ nông thôn VN khi xưa, muốn cho con cái không quên cội nguồn, người mẹ trẻ dắt các con về thăm quê ngoại.

Bài thơ chỉ miêu tả khung cảnh đồng quê trên đường đi mà không bình luận. Tác giả ’’chộp’’ lấy khoảng thời gian, không gian, khung cảnh cánh đồng, làng quê… đẩy cảm xúc nghệ thuật lên cao rồi ghi lại.  Chỉ tới 4 câu kết, nhàq thơ mới gían tiếp bày tỏ tâm tư thông qua nhận xét của dân làng: Dẫn là thân phận ’’nữ nhi ngoại tộc’’, người phụ nữ thảo hiền vẫn không quên quê cha đất tổ…

Theo nguyên tắc của thể thơ Đường, tác giả vào đề bằng hồi ức của đứa con vẫn giữ lại trong trí tưởng hình ảnh lúc bé theo mẹ về thăm quê ngoại:

U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.

U – là cách gọi mẹ của dân mấy huyện xung quanh thành Nam. (gọi cha, bố là Thầy). Nguyễn Bính người huyện Vụ Bản cũng xưng hô với mẹ như thế. Ông đưa vào bài thơ Chân quê: Thầy U mình với chúng mình chân quê (1). Thế nhưng dân ở hai huyện Giao Thủy, Hải Hậu – cũng là đất Nam Định – thì vẫn xưng hô: Bố – Mẹ.

Hai thân (hay song thân) – là cách gọi bố mẹ của những người có học thể hiện sự kính trọng, văn hoa. Nhà thơ dùng cụm từ:: ’’dặm liễu – mây bay – (sắc) trắng ngần’’ – vừa như tả cảnh trí (mây trắng bay…) nhưng cũng thể hiện cách điệu sắc đẹp ngoại hình của mẹ: Tinh tế, thướt tha, uyển chuyển…

Tôi nhớ đi qua những rặng (cây) Đề
Những giòng sông trắng lượn ven đê
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp
Người xới cà, ngô – rộn bốn bề.

Quê cụ Đoàn làng Đô Quan, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực – nằm cách chân đê sông Hồng không xa.

Tại sao lại có Những giòng sông trắng lượn ven đê ?

Dọc con đê, phía ngoài là sông Hồng – sông lớn nhất ở miền Bắc, ven đê phía trong lại có những sông con lượn quanh. Nguyên do: Để chống lại những cơn lũ gây vỡ đê khi nước sộng dâng cao mỗi mùa lũ tới, dân cư hai bên bờ tả ngạn (Nam Định) – hữu ngạn (Thái Bình), đào đất trên cánh đồng, đem bồi đắp đê ngăn nước. Đê sông Hồng là con đê to nhất miền Bắc, bởi vậy đất đào nhiều, tạo thành những con sông chạy dọc theo đê. Khoảng cách giữa đê chính và sông đào tuy không xa nhưng khoảnh đất này khá lớn lại khó có thể trồng lúa vì khi xưa không có bơm điện nên ở đây úng lụt.

Không để lãng phí đất, dân quê phải tôn lên cao (vượt), tạo thành những cồn đất. Còn bãi – thường nằm dưới chân đê cạnh mép nước sông. Trên bãi, dân cư trồng hoa mằu như ngô, khoai, rau cải, cà pháo, cà tím, đâu… các cây trồng đã tạo cảnh sắc ’’Cồn xanh (mầu lá rau cải…) bãi tía (tím nhạt) – cà tím, khoai tía…) kề liên tiếp’’…

Dọc bờ sông đào được trồng những hàng cây đề, tạo thành rặng cây. Cây đề cùng họ rễ buông với cây đa. Trên bờ, đề buông rễ xuống mặt nước… đây đó từng đoạn vài trăm mét lại có một lều cất vó hoặc những con thuyền nan có những cụ gìa buông cần câu cá, làm phong cảnh sông nước, đồng quê thật bình yên, tĩnh lặng, nên thơ…

Thúng cắp bên hông, nón đội đầu
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông U chẳng khác thời con gái
Mắt sáng môi hồng má đỏ au.

Người phụ nữ thời xưa thường dùng (cái) thúng – đan bằng tre, vành cạp mây – đựng đồ vật để buôn bán hay di chuyển, mang đi. Thi sĩ Nguyễn Vĩ đã viết trong Gửi Trương Tửu: Còn tôi bưng thúng theo đàn bà/ ra chợ bán văn ngày tháng qua .  Lần về này, mẹ mang thúng đựng qùa tặng thầy, u và người thân. Vì trọng lượng thúng nhẹ – dăm ba cân, đi gần – mẹ cắp bên hông chứ không đội.

Người mẹ mà nhà thơ miêu tả – dắt theo mấy đứa con (…dẫn chúng tôi…), chắc thời con gái mẹ đẹp lắm. Bây giờ dù đã có đàn con, nhưng nhìn trang phục: Yếm thắm, khuyên vàng, áo the nâu và ’’má (vẫn) đỏ ău’’, cậu bé có cảm nhận mẹ mình vẫn như thời con gái! Dưới cái nhìn của câu, người mẹ thân yêu thật đẹp. Đó cũng là hình ảnh của những người mẹ trẻ đương thời, vì khi nhà thơ viết Đường về quê mẹ đã ở tuổi 29 (1913 – 1942). Kí ức về mẹ của tác gỉa chỉ còn rất ít, vì khi theo mẹ về quê ngoại, nhà thơ mới 5 tuổi…

Tà áo nâu in giữa cánh đồng
Gío chiều cuốn bốc bụi sau lưng
Bóng U như bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng 

Về làng, mẹ con phải vượt qua cánh đồng. Tấm áo the nâu của mẹ mỏng tang. Gió chiều thổi mạnh, cuốn bốc bụi sau lưng. Mẹ khép mình, như tránh những làn bụi hắt vào thân thể. Cúi đầu, kéo nón che cả khuôn mặt để tránh bụi bay vào mắt. ’’Cúi nón’’ – khiến che cả má hồng của mẹ. Trông mẹ như e ấp… cậu bé cảm thấy mẹ mình như bao cô gái quê ở tuồi cập kê – khép nép, dịu dàng…

Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn người về ấp gánh khoai lang
Trời xanh , cò trắng bay từng lớp
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.

Làng Đô Quan, phía nam là vùng đất trũng chỉ trồng được lúa. Phía bắc giáp với các làng Thôn Nội, Liên Tỉnh… là vùng đất cao, pha cát, thích hợp trồng hoa mầu nên dân cư không trồng lúa…

Khoai lang của vùng đất pha cát – rât đặc biệt: Củ to bằng bắp chân người lớn, nặng từ 300 đến 1 kilô. Có nhiều củ nặng đến vài ba kí lô. Khi luộc, bột khoai bở, nuốt phát nghẹn. Có loại khoai nghệ, luộc chín, bóc vỏ, ruột khoai vàng như nghệ, đường tứa ra ngọt như chấm mật nên dân Nam Định gọi là khoai nghê – khoai mật.

Thời gian mẹ về quê vào buổi chiều nên gặp nhiều nông dân bới khoai gánh về thôn ấp. Chiều quê hương thật đẹp: Bầu trời xanh cao thăm thẳm, từng đàn cò trắng bay về tổ, in trên nền xanh làm nổi hẳn những cánh cò trắng phau. Qua chiếc chợ ở đầu làng (người mua kẻ bán đã về hết), nhựng chiếc lêu qúan xiêu vẹo ngập xác lá (cây) bàng, thứ cây thường được trồng ở những nơi dân cư tụ tập (chợ, trường học, đình làng…) để lấy bóng râm, che cho người đứng dưới mát mẻ, giảm oi nồng trong mùa hè nóng nực.
Qua khỏi chợ, mẹ con tiến vào làng:

Tới đầu làng gặp những người quen
Ai cũng khen U nết thảo hiền
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.

Người mẹ trẻ gặp bà con chòm xóm. Ai cũng vui mừng hồ hởi vì biết nàng dù đã đi lấy chồng nơi xa nhưng vấn nhớ quê hương, tổ tiên, ông bà, cha mẹ – về thăm. Dân làng coi Mẹ là người con gái thảo hiền. Thơi xa xưa, dân ta đã tổng kết: ’’Con gái là con ngưòi ta’’. Con gái gả chồng coi như ’’bát nước đổ đi’’. Trên thực tế: Người con gái lấy chồng phải đổi họ, phải gánh vác ’’giang sơn’’ nhà chồng. Gánh nặng cuộc đời đè nặng trên vai gầy vì nghèo…đã bắt người phụ nữ không còn khả năng giúp đỡ bố mẹ đẻ.

Bố mẹ đẻ cũng cưới con dâu cho em (anh) trai cô gái đã đi ở riêng. Người con dâu kia cũng lặp lại theo chu kì mà con gái ông bà đã đi…. Đây chính là quy luật cuộc đời, là cái ’’nợ đồng lần’’ mà tất cả mọi gia đình trong cộng đồng tộc Việt đều chia sẻ.

Theo nhiều tư liệu: Đoàn Văn Cừ sinh năm 1913, mồ côi mẹ từ lúc 5 tuổi. Cũng giống Nguyễn Bính, dù mất mẹ lúc còn nằm trong nôi, cũng viết về mẹ rất hay (bài Lòng Mẹ). Người Mẹ trong thi ca của cả hai nhà thơ đất Nam Định đều được người đọc Việt Nam tán thưởng đến xúc động.

Tuy nhiên, tôi góp ý về nhận định của Trần Ngọc Thụ Trong một bài viết, có đoạn:

’’… Nói nhiều đến từ “thật” là vì gần đây một nhà thơ khi bình thơ Đoàn Văn Cừ có nói: Đường về quê mẹ là bài thơ nhiều màu sắc, đủ 12 màu như bài Chợ tết, và Đoàn Văn Cừ lấy hình ảnh của những thiếu nữ nông thôn đương thời để viết về mẹ mình ngày xưa, tạo nên hình ảnh người phụ nữ nông thôn tiêu biểu thời xưa.
Nói như thế thật không thấu lý đạt tình’’
(Mẹ trong thơ Nguyễn Bính và Mẹ trong thơ Đoàn Văn Cừ – Trần Ngọc Thụ )

Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến nhận xét của nhà thơ mà tác giả Trần Ngọc Thụ không tán thành. Cụ Đoàn Văn Cừ viết Đường về quê mẹ trên nền sự thật, cảnh thật mà tác gỉa nhìn thấy trên đường về quê ngoại (làng Cổ Gỉa). Tuy cảnh phải nói là rất ’’THẬT’’, nhưng đã được điển hình hóa của nhiều cảnh thật xung quanh, chứ không phải cái  thật cụ thể trên đường từ Đô Quan (quê nội) đến Cổ Gỉa (quê ngoại). Đoạn đường này nằm ở phía tây , không có ’’Những giòng sông trắng lượn ven đê’’, càng không có  ’’cồn xanh bãi tía kề liên tiếp’’ – để nhà thơ dựng lên khung cảnh bài thơ Đường về quê mẹ

Bởi vì, khi tác giả mới 5 tuổi, cụ bà – mẹ nhà thơ – đã mất. Một đứa trẻ 5 tuổi không có nhận xét về mẹ… như các câu thơ của bài thơ. Sự thực, bài thơ được tái tạo vào năm 1942 – lúc Đoàn Văn Cừ 29 tuổi. Tác giả kết hợp từ quan sát ’’thì’’ hiện tại, với hồi ức của quá khứ mới viết ra Đường về quê mẹ.

Bài thơ là sự khái quát được kết tinh hoàn toàn do trí sáng tạo. Nói cụ thể hơn: Cái ’’thật’’ trong thơ chỉ là ’’Bột’’ đề ngòi bút tài năng gột nên ’’Hồ’’ – Đường về quê Mẹ!

Cũng giống như Nguyễn Bính viết bài Lòng Mẹ. Hình ảnh người mẹ trong bài thơ hoàn toàn do tác gỉa tưởng tượng ra trên nền của các hình ảnh diễn ra xung quanh, do người thân, do dân cư trong vùng kể lại hoặc do chính Nguyễn Bính chứng kiến sau này. Bà mẹ trong bài thơ Lòng mẹ có cô con gái đi lấy chồng… trong khi Nguyễn Bính mất mẹ từ khi hãy còn ẵm ngửa.

Có rất nhiều thí dụ về sự sáng tạo của nhà Thơ. Nhân vật – Thật – Gỉa gắn quyền – tạo ra nhân vật sống động, trường hợp này là ’’GIẢ’’, nhưng trường hợp khác lại  hoàn toàn ’’THẬT’’… Dù giả đấy, nhưng là hình ảnh của nhiều người được tác giả chắt lọc xây dựng lên. Người nữ du kích trong Núi Đôi  của Vũ Cao, được sáng tạo từ những anh hùng liệt sĩ khác… Ngược lại, nhân vật ’’nàng’’ trong  Mầu Tím Hoa Sim của Hữu Loan – lại là bản sao thật của người vợ trẻ của nhà thơ…

Một chi tiết khác: Tôi là người làng Xối Tây (Xã Nam Long), làng tôi và làng Đô Quan của cụ Đoàn (Xã Nam Lợi) – chỉ cách nhau 1 cánh đồng (4). Quê ngoại của cụ là làng Cổ Gỉa (xã Nam Tiến) – nằm ở phía tậy – phía trong 2 xã kia, gần đưòng tỉnh lộ số 55. Cổ Gỉa nằm cách xa đê sông Hồng nên không có ’’những giòng sông… lượn ven đê’’, không có ’’cồn xanh, bãi tía’’. Nhưng từ làng Đô Quan đi ra phía đê sông Hồng, nghĩa là ngược hướng với Cổ Giả (quê ngoại) , thì cảnh trí này toàn là… thật – như câu thơ đã viết.

Cũng như vậy – Bài Chợ Tết nổi tiếng cũng của Đoàn Văn Cừ – không phải cảnh chợ tết ở quê hương nhà tho. Vì huyện Nam Trực không có núi đồi đề miêu tả ’’Trên con đường viền trắng mép đồi xanh’’. Điều này cũng đã đưọc cụ Đoàn nói rõ trong một bài phỏng vấn của phóng viên Văn Nghệ – ND.(khi đó cụ Đoàn đã yếu lắm, phải trò truyện bằng bút đàm):

’’…
Hỏi: Ông đã lấy những hình ảnh phiên chợ tết quê mình để viết bài thơ Chợ Tết phải không?

Trả lời: Phải vậy cũng không phải vậy… Từ năm tám tuổi tôi đã thích theo mẹ đi chợ. Có những chợ ở cạnh sông, lại có những chợ ở bên núi. Chợ ở giữa trời đất. Những cái chợ đấy có cả ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Việt Trì… chứ đâu chỉ có ở quê mình. Cái chợ này là hồn vía của người Việt Minh ở miền bắc. Mấy năm trước bên làng Lao có một đoàn người sang gặp tôi bảo rằng đó chính là phiên chợ của làng họ. Họ xin phép tôi cho khắc đá bài thơ…’’ (*)

Nói tóm lại: Các bài thơ hay nhất của Đoàn Văn Cừ đều là thơ miêu tả khung cảnh đồng quê Việt Nam.  Trước hết được tác gỉa sáng tạo trên nền của cái ’’Thật’’. Có điều vốn sống của nhà thơ qúa dồi dào, tài năng, công với sự quan sát kỹ càng, tỷ mỉ, sâu sắc, nắm bắt được cái thần – bản chất của người và vật, xử dụng ngôn từ tinh tế, dân dã… đã tạo ra tác phẩm thành công mĩ mãn.

Hầu như toàn bộ sáng tác thơ của Cụ Đoàn trong 2 tập thơ Thôn Ca (I, II) – đều được thể hiện theo phong cách tả cảnh. Dù là tả cảnh ’’sao chép… chụp ảnh’’, nhưng… người đọc nhìn cảnh – sinh tình, cảm thụ đưọc hết vẻ đẹp của thôn quê Việt Nam. Vả lại, dưới ngoài bút tài hoa, hiểu biết đồng quê, ’’Người thư kí thời đại’’ Đoàn Văn Cừ đã mang đến cho người đọc cảm xúc rạt rào, nhận thức sâu sắc, đẩy khoái cảm thẩm mĩ lên cao…

Điều quan trọng hơn: Từ chủ đề rõ ràng, cấu trúc chặt chẽ, câu, ý thơ trong sáng khiến hiệu qủa truyền cảm của tác phẩm thêm mãnh liệt. Hai câu kết của Đường Về Quê Mẹ có thể đã vượt ra ngoài dụng ý của tác gỉa. Người đọc phải suy tư, đi đến đồng cảm… Tận trong cõi sâu tâm hồn nhận ra – bài thơ đã chuyển ý, vượt ra khỏi khuôn mẫu, bay bổng, kích thích trí tưởng: Đó là lời nhắn nhủ, là thông điệp của tác gỉa chuyển đến mọi người đọc:

Dù đã đi theo người…
Dù đã về làm dâu nhà người…

– Đừng bao giờ quên Đường về quê mẹ! Trong trí tưởng người đọc: Mẹ ở đây đã trở thành Mẹ tổ quốc – Mẹ Việt Nam mến yêu! 

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Bài Thơ Trở Về Quê Nội ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ Hay Nhất

Hoài Thanh đã viết: “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ”. Câu nói đã như một lời khẳng định Đoàn Văn Cừ luôn hướng ngòi bút của mình tới quê hương, và “Đường về quê mẹ” là một trong số tác phẩm như thế.

      Chỉ với sáu khổ thơ, tuy không dài nhưng cũng không ngắn nhưng cũng đã đủ thể hiện tình cảm yêu thương về quê hương, đặc biệt về mẹ của tác giả. Trong sáu khổ thơ, hai khổ thơ đầu của bài đã thể hiện rõ nỗi nhớ về quê hương và kỉ niệm về con đường về quê cùng mẹ.

U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bảy sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.

Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.

       “U tôi”, một tiếng gọi thân thương cũng như một lời khẳng định. Vào mỗi mùa xuân, u sẽ đưa tôi về quê ngoại, nhận lại họ hàng và thăm mọi người ở quê. Có con đường nào đẹp bằng con đường về quê, nơi có người luôn yêu thương và chờ đợi ta. Con đường về quê luôn đẹp với những rặng liễu, rặng đề ven đường, trời trong xanh với những áng mây trắng bay. Đường về quê luôn có dòng sông trắng uốn lượn chào đón, luôn có những cồn xanh bãi tía cùng người nông dân bộn bề việc nông. Quang cảnh tả thực chứ không hề tô vẽ, phóng đại. Tuy nhiên, cái đẹp của quang cảnh cũng không thể nào sánh được với vẻ đẹp của u.

Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.

       U chính là đại diện cho những nét đẹp của người con gái Việt Nam thời xưa. Dù đã lớn tuổi nhưng u vẫn không khác gì thời con gái với thúng cắp bên hông, đầu đội nón lá, đeo khuyên vàng, mặc yếm thắm, áo the nâu. Tuổi tác cũng không che được những nét hồng hào ở u. Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au, tất cả đã làm bừng sáng cả bài thơ. Đối với tác giả, với cương vị là người con và dưới con mắt đa tình của nhà thơ, u luôn đẹp, luôn trẻ, luôn hiện hữu bên cạnh mình, để chỉ cần nhấc bút là có thể vẽ lên mẹ trên những vần thơ.

Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.

       Tuy nhiên, sự thật vẫn luôn là sự thật. Ở khổ thơ bốn, tác giả đã mượn cảnh đông vui của làng quê để che giấu đi nỗi buồn, nỗi cô đơn trong lòng mình. Dù con đường về quê vẫn vậy, dù cảnh sắc thiên nhiên vẫn thế, nhưng mùa xuân này, tác giả lại về quê một mình. Thời gian cứ trôi, con người vẫn luôn miệt mài trong cuộc sống của họ, những hình ảnh bình dị về quê hương như những buổi chiều mát, con đường đón nhận những tia nắng vàng cùng đoàn người gánh khoai lang ra về. Tất cả vẫn còn hiện hữu, chỉ có người cùng mình về quê mỗi mùa xuân là không còn. Mùa xuân đến cũng là lúc lá bàng lìa khỏi cây. “Xác lá bàng” ở đây chỉ là cái lá rụng rơi trên mặt đất còn hồn lá bàng đã đi theo sự tan biên của mùa đông. Qua hình đó, tác giả đã thể hiện sự biết ơn và nỗi nhớ về mẹ.

Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.

Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.

       Hai khổ thơ cuối đã cho ta thấy những hoài niệm của tác giả về u. Không chỉ mang nét đẹp ngọt ngào, dịu dàng mà còn mang nét đẹp lao động cần mẫn, chăm chỉ. Tà áo nâu cùng chiếc nón lá, u “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Dưới gió chiều bụi mịt mù, bóng lưng chăm chỉ làm tác giả phân vân không biết là của mẹ hay của thiếu nữ nào.

Còn gì vui hay tự hào khi về quê, nghe được những lời khen ngợi về gia đình. Cũng chính vì nết na, thảo hiền, lại chăm chỉ, biết lẽ đúng, u luôn được người làng khen ngời hết lời. U không chỉ là đại diện cho nét đẹp thời xưa của con gái Việt Nam mà còn là biểu tượng đẹp nhất trong lòng con.

      Với ngôn từ giản dị, với những nét bút tả thực, hình ảnh làng quê cùng người mẹ đã hiện lên thật đẹp và ý nghĩa. Có thể nói, với mỗi nhà thơ, nhà văn, việc viết lên trang giấy những dòng chữ cùng chính là cách mà họ lưu giữ lại những kỉ niệm, những điều mà họ muốn giữ lại đến muôn đời, và mẹ cùng đường về quê mẹ chính là thứ mà Đoàn Văn Cừ muốn lưu giữ cho bản thân mình.

Viết một bình luận