Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ: Nội Dung, Đọc Hiểu, Ý Nghĩa, Soạn Bài, Giáo Án. Thohay.vn Chia Sẽ Những Bài Văn Phân Tích Về Tác Phẩm Hay Nhất.
NỘI DUNG CHÍNH
Giới Thiệu Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ
“Đường Về Quê Mẹ” là một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Đoàn Văn Cừ. Bài thơ này nằm trong tập thơ “Thôn ca” xuất bản năm 1944 và được viết theo thể thơ bảy chữ
Nội dung chính:
- Bài thơ kể về những kỷ niệm của tác giả khi trở về quê mẹ mỗi mùa xuân. Hình ảnh người mẹ dẫn con về quê ngoại, những cảnh vật quen thuộc như rặng đề, dòng sông, cồn xanh, bãi tía, và những người nông dân làm việc trên cánh đồng được miêu tả một cách sống động và đầy cảm xúc.
Ý nghĩa: Bài thơ không chỉ là một bức tranh tả thực về cảnh quê hương mà còn chứa đựng tình cảm sâu sắc của tác giả đối với mẹ và quê hương. Qua những hình ảnh giản dị và thân thuộc, tác giả thể hiện lòng biết ơn và tình yêu thương đối với người mẹ và quê hương của mình
Thohay.vn Tặng Bạn tuyển tập -> Thơ Đoàn Văn Cừ: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ
Nội Dung Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ
Bài thơ Đường Về Quê Mẹ
Tác giả: Đoàn Văn Cừ
U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bảy sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.
Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.
Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
Thohay.vn Tặng Bạn tuyển tập ❤️️ 30+ Bài Thơ Về Thăm Quê ❤️️ HAY, Ý NGHĨA NHẤT
Ý Nghĩa Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ
Bài thơ Đường Về Quê Mẹ là một tác phẩm của nhà thơ Đoàn Văn Cừ, in trong tập Thôn Ca năm 1942, đây là một trong những bài thơ hay nhất về tình cảm con cái dành cho mẹ và quê hương. Bài thơ nói về kỉ niệm và tình cảm của người con khi về quê cùng mẹ vào mùa xuân, thể hiện sự yêu thương và ngưỡng mộ về người mẹ hiền lành và quê hương yên bình. Bài thơ có sáu khổ thơ, viết theo bút pháp tả thực, chân mộc và giản dị, không dùng những hình ảnh siêu thực hay lời nói hoa mỹ, mà chỉ dùng những hình ảnh gần gũi và quen thuộc với cuộc sống nông thôn Việt Nam.
Bài thơ Đường Về Quê Mẹ là một bức tranh tĩnh vật, nhưng lại có sức sống và cảm xúc rất mãnh liệt. Bài thơ là một ca ngợi về người mẹ Việt Nam xưa, là một lời tỏ lòng biết ơn về quê hương đất nước.
Bài thơ này đã diễn tả được tâm trạng vui mừng, háo hức của người con mỗi lần cùng mẹ về quê ngoại. Đồng thời còn thể hiện tình cảm yêu mến, niềm tự hào của con về vẻ xinh đẹp, nết na của mẹ.
Chia sẽ bài thơ nổi tiếng không thể bỏ qua ❤️️ Bài Thơ Quê Hương của Đỗ Trung Quân ❤️️
Soạn Bài Đường Về Quê Mẹ Lớp 8
“Bài thơ Đường về quê mẹ” của Đoàn Văn Cừ là một tác phẩm đầy cảm xúc, gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp đẽ khi trở về quê hương. Dưới đây là một số điểm chính để bạn có thể soạn bài:
- Giới thiệu
- Tác giả: Đoàn Văn Cừ là một nhà thơ nổi tiếng với những tác phẩm miêu tả cảnh sắc và cuộc sống nông thôn Việt Nam.
- Tác phẩm: “Đường về quê mẹ” là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông, thể hiện tình cảm sâu sắc với quê hương và gia đình.
- Nội dung chính
- Khổ 1: Miêu tả cảnh sắc thiên nhiên trên đường về quê mẹ, với những hình ảnh như dặm liễu, mây bay, và sắc trắng ngần.
- Khổ 2: Kỷ niệm về những lần trở về quê ngoại cùng mẹ, đi qua những rặng đề, dòng sông trắng, và cồn xanh, bãi tía.
- Khổ 3: Cảm xúc khi nhìn thấy người dân quê làm việc, xới cà, ngô rộn ràng bốn bề.
- Phân tích
- Hình ảnh thiên nhiên: Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, gợi lên cảm giác yên bình và thân thuộc.
- Tình cảm gia đình: Tình cảm với mẹ và quê hương được thể hiện rõ nét qua từng câu thơ, tạo nên sự gắn kết sâu sắc.
- Ngôn ngữ và nhịp điệu: Ngôn ngữ trong bài thơ giản dị, mộc mạc nhưng giàu hình ảnh và cảm xúc. Nhịp điệu nhẹ nhàng, êm ái, phù hợp với nội dung miêu tả.
- Kết luận
- Giá trị nghệ thuật: Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một bức tranh sống động về quê hương, mang lại cho người đọc những cảm xúc sâu lắng.
- Ý nghĩa: “Đường về quê mẹ” nhắc nhở chúng ta về giá trị của gia đình và quê hương, nơi luôn đong đầy tình yêu thương và kỷ niệm.
Giáo Án Đường Về Quê Mẹ Lớp 8
Dưới đây là một bản tóm tắt giáo án cho bài thơ “Đường về quê mẹ” của Đoàn Văn Cừ, phù hợp cho học sinh lớp 8:
Giáo Án Bài Thơ “Đường Về Quê Mẹ”
I. Mục tiêu bài học
- Kiến thức:
- Hiểu được nội dung và ý nghĩa của bài thơ.
- Nắm được những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả và các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ.
- Kỹ năng:
- Rèn luyện kỹ năng đọc hiểu và phân tích thơ.
- Phát triển khả năng cảm thụ văn học và diễn đạt cảm xúc.
- Thái độ:
- Yêu quý và trân trọng những giá trị văn hóa, tình cảm gia đình và quê hương.
II. Chuẩn bị
- Giáo viên:
- Giáo án, tài liệu tham khảo, tranh ảnh minh họa về quê hương.
- Bảng phụ ghi các câu hỏi thảo luận.
- Học sinh:
- Đọc trước bài thơ, chuẩn bị trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa.
III. Tiến trình dạy học
- Ổn định lớp:
- Kiểm tra sĩ số, ổn định trật tự lớp học.
- Kiểm tra bài cũ:
- Hỏi một số câu hỏi liên quan đến bài học trước.
- Bài mới:
- Giới thiệu bài: Giới thiệu sơ lược về tác giả Đoàn Văn Cừ và bài thơ “Đường về quê mẹ”.
- Đọc bài thơ: Giáo viên đọc mẫu, sau đó yêu cầu học sinh đọc lại.
- Phân tích bài thơ:
- Khổ 1: Miêu tả cảnh sắc thiên nhiên trên đường về quê mẹ.
- Khổ 2: Kỷ niệm về những lần trở về quê ngoại cùng mẹ.
- Khổ 3: Cảm xúc khi nhìn thấy người dân quê làm việc.
- Thảo luận nhóm: Chia lớp thành các nhóm nhỏ, thảo luận về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- Trình bày kết quả thảo luận: Các nhóm trình bày kết quả thảo luận, giáo viên nhận xét và bổ sung.
- Củng cố và dặn dò:
- Tóm tắt lại nội dung chính của bài học.
- Dặn dò học sinh chuẩn bị bài tiếp theo.
IV. Đánh giá
- Đánh giá qua các câu hỏi thảo luận và phần trình bày của học sinh.
- Kiểm tra sự hiểu biết và cảm nhận của học sinh về bài thơ.
Cách Phân Tích Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ
Phân tích bài thơ “Đường về quê mẹ” của Đoàn Văn Cừ có thể giúp bạn hiểu sâu hơn về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Dưới đây là một hướng dẫn chi tiết:
- Mở bài
- Giới thiệu tác giả: Đoàn Văn Cừ là một nhà thơ nổi tiếng với những tác phẩm miêu tả cảnh sắc và cuộc sống nông thôn Việt Nam.
- Giới thiệu tác phẩm: “Đường về quê mẹ” là một bài thơ tiêu biểu, thể hiện tình cảm sâu sắc với quê hương và gia đình.
- Thân bài:
- Khổ 1: Miêu tả cảnh sắc thiên nhiên
- Hình ảnh thiên nhiên: Bài thơ mở đầu với hình ảnh dặm liễu, mây bay, sắc trắng ngần, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và yên bình.
- Cảm xúc: Tác giả thể hiện sự nhớ nhung và tình cảm sâu sắc với quê hương qua những hình ảnh này.
- Khổ 2: Kỷ niệm về những lần trở về quê ngoại cùng mẹ
- Hình ảnh gia đình: Những kỷ niệm về việc cùng mẹ trở về quê ngoại được miêu tả sống động, với hình ảnh rặng đề, dòng sông trắng, cồn xanh, bãi tía.
- Tình cảm gia đình: Tình cảm với mẹ và quê hương được thể hiện rõ nét, tạo nên sự gắn kết sâu sắc.
- Khổ 3: Cảm xúc khi nhìn thấy người dân quê làm việc
- Hình ảnh lao động: Tác giả miêu tả cảnh người dân quê làm việc, xới cà, ngô rộn ràng bốn bề, tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống nông thôn.
- Cảm xúc: Cảm xúc tự hào và yêu thương đối với quê hương và con người nơi đây.
- Khổ 1: Miêu tả cảnh sắc thiên nhiên
- Kết bài
- Giá trị nghệ thuật: Bài thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng giàu hình ảnh và cảm xúc. Nhịp điệu nhẹ nhàng, êm ái, phù hợp với nội dung miêu tả.
- Ý nghĩa: “Đường về quê mẹ” nhắc nhở chúng ta về giá trị của gia đình và quê hương, nơi luôn đong đầy tình yêu thương và kỷ niệm.
- Thảo luận và cảm nhận
- Thảo luận nhóm: Học sinh có thể thảo luận về những hình ảnh và cảm xúc trong bài thơ, chia sẻ cảm nhận cá nhân.
- Cảm nhận cá nhân: Mỗi học sinh có thể viết một đoạn văn ngắn về cảm nhận của mình sau khi đọc bài thơ.
2+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ Hay
Chia sẽ những bài văn cảm nhận, phân tích về bài thơ đường về quê mẹ hay cho các bạn tham khảo.
Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ Ngắn Gọn
Mở bài: “Đường về quê mẹ” của Đoàn Văn Cừ là một bài thơ đầy cảm xúc, gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp đẽ khi trở về quê hương. Tác phẩm không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên mà còn thể hiện tình cảm sâu sắc với gia đình và quê hương.
Thân bài
Khổ 1: Miêu tả cảnh sắc thiên nhiên
- Bài thơ mở đầu với hình ảnh dặm liễu, mây bay, sắc trắng ngần, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và yên bình. Những hình ảnh này không chỉ gợi lên vẻ đẹp của quê hương mà còn thể hiện sự nhớ nhung và tình cảm sâu sắc của tác giả đối với nơi chôn rau cắt rốn.
Khổ 2: Kỷ niệm về những lần trở về quê ngoại cùng mẹ
- Những kỷ niệm về việc cùng mẹ trở về quê ngoại được miêu tả sống động, với hình ảnh rặng đề, dòng sông trắng, cồn xanh, bãi tía. Tình cảm với mẹ và quê hương được thể hiện rõ nét qua từng câu thơ, tạo nên sự gắn kết sâu sắc. Những hình ảnh này không chỉ là những kỷ niệm đẹp mà còn là biểu tượng của tình yêu thương và sự gắn bó với gia đình.
Khổ 3: Cảm xúc khi nhìn thấy người dân quê làm việc:
- Tác giả miêu tả cảnh người dân quê làm việc, xới cà, ngô rộn ràng bốn bề, tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống nông thôn. Cảm xúc tự hào và yêu thương đối với quê hương và con người nơi đây được thể hiện rõ ràng qua những hình ảnh này. Tác giả không chỉ miêu tả cảnh sắc mà còn thể hiện tình cảm sâu sắc với những người lao động cần cù, chăm chỉ.
Kết bài: “Đường về quê mẹ” là một bài thơ giàu cảm xúc và hình ảnh, nhắc nhở chúng ta về giá trị của gia đình và quê hương. Tác phẩm không chỉ là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp mà còn là một lời nhắc nhở về tình yêu thương và sự gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn.
Phân Tích Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ Hay
Đường về quê mẹ của Đoàn Văn Cừ viết theo thể thât ngôn tứ tuyệt, 6 khổ, 24 câu, vẽ lại hình ảnh người phụ nữ nông thôn VN khi xưa, muốn cho con cái không quên cội nguồn, người mẹ trẻ dắt các con về thăm quê ngoại.
Bài thơ chỉ miêu tả khung cảnh đồng quê trên đường đi mà không bình luận. Tác giả ’’chộp’’ lấy khoảng thời gian, không gian, khung cảnh cánh đồng, làng quê… đẩy cảm xúc nghệ thuật lên cao rồi ghi lại. Chỉ tới 4 câu kết, nhàq thơ mới gían tiếp bày tỏ tâm tư thông qua nhận xét của dân làng: Dẫn là thân phận ’’nữ nhi ngoại tộc’’, người phụ nữ thảo hiền vẫn không quên quê cha đất tổ…
Theo nguyên tắc của thể thơ Đường, tác giả vào đề bằng hồi ức của đứa con vẫn giữ lại trong trí tưởng hình ảnh lúc bé theo mẹ về thăm quê ngoại:
U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.
U – là cách gọi mẹ của dân mấy huyện xung quanh thành Nam. (gọi cha, bố là Thầy). Nguyễn Bính người huyện Vụ Bản cũng xưng hô với mẹ như thế. Ông đưa vào bài thơ Chân quê: Thầy U mình với chúng mình chân quê (1). Thế nhưng dân ở hai huyện Giao Thủy, Hải Hậu – cũng là đất Nam Định – thì vẫn xưng hô: Bố – Mẹ.
Hai thân (hay song thân) – là cách gọi bố mẹ của những người có học thể hiện sự kính trọng, văn hoa. Nhà thơ dùng cụm từ:: ’’dặm liễu – mây bay – (sắc) trắng ngần’’ – vừa như tả cảnh trí (mây trắng bay…) nhưng cũng thể hiện cách điệu sắc đẹp ngoại hình của mẹ: Tinh tế, thướt tha, uyển chuyển…
Tôi nhớ đi qua những rặng (cây) Đề
Những giòng sông trắng lượn ven đê
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp
Người xới cà, ngô – rộn bốn bề.
Quê cụ Đoàn làng Đô Quan, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực – nằm cách chân đê sông Hồng không xa.
Tại sao lại có Những giòng sông trắng lượn ven đê ?
Dọc con đê, phía ngoài là sông Hồng – sông lớn nhất ở miền Bắc, ven đê phía trong lại có những sông con lượn quanh. Nguyên do: Để chống lại những cơn lũ gây vỡ đê khi nước sộng dâng cao mỗi mùa lũ tới, dân cư hai bên bờ tả ngạn (Nam Định) – hữu ngạn (Thái Bình), đào đất trên cánh đồng, đem bồi đắp đê ngăn nước. Đê sông Hồng là con đê to nhất miền Bắc, bởi vậy đất đào nhiều, tạo thành những con sông chạy dọc theo đê. Khoảng cách giữa đê chính và sông đào tuy không xa nhưng khoảnh đất này khá lớn lại khó có thể trồng lúa vì khi xưa không có bơm điện nên ở đây úng lụt.
Không để lãng phí đất, dân quê phải tôn lên cao (vượt), tạo thành những cồn đất. Còn bãi – thường nằm dưới chân đê cạnh mép nước sông. Trên bãi, dân cư trồng hoa mằu như ngô, khoai, rau cải, cà pháo, cà tím, đâu… các cây trồng đã tạo cảnh sắc ’’Cồn xanh (mầu lá rau cải…) bãi tía (tím nhạt) – cà tím, khoai tía…) kề liên tiếp’’…
Dọc bờ sông đào được trồng những hàng cây đề, tạo thành rặng cây. Cây đề cùng họ rễ buông với cây đa. Trên bờ, đề buông rễ xuống mặt nước… đây đó từng đoạn vài trăm mét lại có một lều cất vó hoặc những con thuyền nan có những cụ gìa buông cần câu cá, làm phong cảnh sông nước, đồng quê thật bình yên, tĩnh lặng, nên thơ…
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông U chẳng khác thời con gái
Mắt sáng môi hồng má đỏ au.
Người phụ nữ thời xưa thường dùng (cái) thúng – đan bằng tre, vành cạp mây – đựng đồ vật để buôn bán hay di chuyển, mang đi. Thi sĩ Nguyễn Vĩ đã viết trong Gửi Trương Tửu: Còn tôi bưng thúng theo đàn bà/ ra chợ bán văn ngày tháng qua . Lần về này, mẹ mang thúng đựng qùa tặng thầy, u và người thân. Vì trọng lượng thúng nhẹ – dăm ba cân, đi gần – mẹ cắp bên hông chứ không đội.
Người mẹ mà nhà thơ miêu tả – dắt theo mấy đứa con (…dẫn chúng tôi…), chắc thời con gái mẹ đẹp lắm. Bây giờ dù đã có đàn con, nhưng nhìn trang phục: Yếm thắm, khuyên vàng, áo the nâu và ’’má (vẫn) đỏ ău’’, cậu bé có cảm nhận mẹ mình vẫn như thời con gái! Dưới cái nhìn của câu, người mẹ thân yêu thật đẹp. Đó cũng là hình ảnh của những người mẹ trẻ đương thời, vì khi nhà thơ viết Đường về quê mẹ đã ở tuổi 29 (1913 – 1942). Kí ức về mẹ của tác gỉa chỉ còn rất ít, vì khi theo mẹ về quê ngoại, nhà thơ mới 5 tuổi…
Tà áo nâu in giữa cánh đồng
Gío chiều cuốn bốc bụi sau lưng
Bóng U như bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng
Về làng, mẹ con phải vượt qua cánh đồng. Tấm áo the nâu của mẹ mỏng tang. Gió chiều thổi mạnh, cuốn bốc bụi sau lưng. Mẹ khép mình, như tránh những làn bụi hắt vào thân thể. Cúi đầu, kéo nón che cả khuôn mặt để tránh bụi bay vào mắt. ’’Cúi nón’’ – khiến che cả má hồng của mẹ. Trông mẹ như e ấp… cậu bé cảm thấy mẹ mình như bao cô gái quê ở tuồi cập kê – khép nép, dịu dàng…
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn người về ấp gánh khoai lang
Trời xanh , cò trắng bay từng lớp
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Làng Đô Quan, phía nam là vùng đất trũng chỉ trồng được lúa. Phía bắc giáp với các làng Thôn Nội, Liên Tỉnh… là vùng đất cao, pha cát, thích hợp trồng hoa mầu nên dân cư không trồng lúa…
Khoai lang của vùng đất pha cát – rât đặc biệt: Củ to bằng bắp chân người lớn, nặng từ 300 đến 1 kilô. Có nhiều củ nặng đến vài ba kí lô. Khi luộc, bột khoai bở, nuốt phát nghẹn. Có loại khoai nghệ, luộc chín, bóc vỏ, ruột khoai vàng như nghệ, đường tứa ra ngọt như chấm mật nên dân Nam Định gọi là khoai nghê – khoai mật.
Thời gian mẹ về quê vào buổi chiều nên gặp nhiều nông dân bới khoai gánh về thôn ấp. Chiều quê hương thật đẹp: Bầu trời xanh cao thăm thẳm, từng đàn cò trắng bay về tổ, in trên nền xanh làm nổi hẳn những cánh cò trắng phau. Qua chiếc chợ ở đầu làng (người mua kẻ bán đã về hết), nhựng chiếc lêu qúan xiêu vẹo ngập xác lá (cây) bàng, thứ cây thường được trồng ở những nơi dân cư tụ tập (chợ, trường học, đình làng…) để lấy bóng râm, che cho người đứng dưới mát mẻ, giảm oi nồng trong mùa hè nóng nực.
Qua khỏi chợ, mẹ con tiến vào làng:
Tới đầu làng gặp những người quen
Ai cũng khen U nết thảo hiền
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
Người mẹ trẻ gặp bà con chòm xóm. Ai cũng vui mừng hồ hởi vì biết nàng dù đã đi lấy chồng nơi xa nhưng vấn nhớ quê hương, tổ tiên, ông bà, cha mẹ – về thăm. Dân làng coi Mẹ là người con gái thảo hiền. Thơi xa xưa, dân ta đã tổng kết: ’’Con gái là con ngưòi ta’’. Con gái gả chồng coi như ’’bát nước đổ đi’’. Trên thực tế: Người con gái lấy chồng phải đổi họ, phải gánh vác ’’giang sơn’’ nhà chồng. Gánh nặng cuộc đời đè nặng trên vai gầy vì nghèo…đã bắt người phụ nữ không còn khả năng giúp đỡ bố mẹ đẻ.
Bố mẹ đẻ cũng cưới con dâu cho em (anh) trai cô gái đã đi ở riêng. Người con dâu kia cũng lặp lại theo chu kì mà con gái ông bà đã đi…. Đây chính là quy luật cuộc đời, là cái ’’nợ đồng lần’’ mà tất cả mọi gia đình trong cộng đồng tộc Việt đều chia sẻ.
Theo nhiều tư liệu: Đoàn Văn Cừ sinh năm 1913, mồ côi mẹ từ lúc 5 tuổi. Cũng giống Nguyễn Bính, dù mất mẹ lúc còn nằm trong nôi, cũng viết về mẹ rất hay (bài Lòng Mẹ). Người Mẹ trong thi ca của cả hai nhà thơ đất Nam Định đều được người đọc Việt Nam tán thưởng đến xúc động.
Tuy nhiên, tôi góp ý về nhận định của Trần Ngọc Thụ Trong một bài viết, có đoạn:
’’… Nói nhiều đến từ “thật” là vì gần đây một nhà thơ khi bình thơ Đoàn Văn Cừ có nói: Đường về quê mẹ là bài thơ nhiều màu sắc, đủ 12 màu như bài Chợ tết, và Đoàn Văn Cừ lấy hình ảnh của những thiếu nữ nông thôn đương thời để viết về mẹ mình ngày xưa, tạo nên hình ảnh người phụ nữ nông thôn tiêu biểu thời xưa.
Nói như thế thật không thấu lý đạt tình’’
(Mẹ trong thơ Nguyễn Bính và Mẹ trong thơ Đoàn Văn Cừ – Trần Ngọc Thụ )
Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến nhận xét của nhà thơ mà tác giả Trần Ngọc Thụ không tán thành. Cụ Đoàn Văn Cừ viết Đường về quê mẹ trên nền sự thật, cảnh thật mà tác gỉa nhìn thấy trên đường về quê ngoại (làng Cổ Gỉa). Tuy cảnh phải nói là rất ’’THẬT’’, nhưng đã được điển hình hóa của nhiều cảnh thật xung quanh, chứ không phải cái thật cụ thể trên đường từ Đô Quan (quê nội) đến Cổ Gỉa (quê ngoại). Đoạn đường này nằm ở phía tây , không có ’’Những giòng sông trắng lượn ven đê’’, càng không có ’’cồn xanh bãi tía kề liên tiếp’’ – để nhà thơ dựng lên khung cảnh bài thơ Đường về quê mẹ
Bởi vì, khi tác giả mới 5 tuổi, cụ bà – mẹ nhà thơ – đã mất. Một đứa trẻ 5 tuổi không có nhận xét về mẹ… như các câu thơ của bài thơ. Sự thực, bài thơ được tái tạo vào năm 1942 – lúc Đoàn Văn Cừ 29 tuổi. Tác giả kết hợp từ quan sát ’’thì’’ hiện tại, với hồi ức của quá khứ mới viết ra Đường về quê mẹ.
Bài thơ là sự khái quát được kết tinh hoàn toàn do trí sáng tạo. Nói cụ thể hơn: Cái ’’thật’’ trong thơ chỉ là ’’Bột’’ đề ngòi bút tài năng gột nên ’’Hồ’’ – Đường về quê Mẹ!
Cũng giống như Nguyễn Bính viết bài Lòng Mẹ. Hình ảnh người mẹ trong bài thơ hoàn toàn do tác gỉa tưởng tượng ra trên nền của các hình ảnh diễn ra xung quanh, do người thân, do dân cư trong vùng kể lại hoặc do chính Nguyễn Bính chứng kiến sau này. Bà mẹ trong bài thơ Lòng mẹ có cô con gái đi lấy chồng… trong khi Nguyễn Bính mất mẹ từ khi hãy còn ẵm ngửa.
Có rất nhiều thí dụ về sự sáng tạo của nhà Thơ. Nhân vật – Thật – Gỉa gắn quyền – tạo ra nhân vật sống động, trường hợp này là ’’GIẢ’’, nhưng trường hợp khác lại hoàn toàn ’’THẬT’’… Dù giả đấy, nhưng là hình ảnh của nhiều người được tác giả chắt lọc xây dựng lên. Người nữ du kích trong Núi Đôi của Vũ Cao, được sáng tạo từ những anh hùng liệt sĩ khác… Ngược lại, nhân vật ’’nàng’’ trong Mầu Tím Hoa Sim của Hữu Loan – lại là bản sao thật của người vợ trẻ của nhà thơ…
Một chi tiết khác: Tôi là người làng Xối Tây (Xã Nam Long), làng tôi và làng Đô Quan của cụ Đoàn (Xã Nam Lợi) – chỉ cách nhau 1 cánh đồng (4). Quê ngoại của cụ là làng Cổ Gỉa (xã Nam Tiến) – nằm ở phía tậy – phía trong 2 xã kia, gần đưòng tỉnh lộ số 55. Cổ Gỉa nằm cách xa đê sông Hồng nên không có ’’những giòng sông… lượn ven đê’’, không có ’’cồn xanh, bãi tía’’. Nhưng từ làng Đô Quan đi ra phía đê sông Hồng, nghĩa là ngược hướng với Cổ Giả (quê ngoại) , thì cảnh trí này toàn là… thật – như câu thơ đã viết.
Cũng như vậy – Bài Chợ Tết nổi tiếng cũng của Đoàn Văn Cừ – không phải cảnh chợ tết ở quê hương nhà tho. Vì huyện Nam Trực không có núi đồi đề miêu tả ’’Trên con đường viền trắng mép đồi xanh’’. Điều này cũng đã đưọc cụ Đoàn nói rõ trong một bài phỏng vấn của phóng viên Văn Nghệ – ND.(khi đó cụ Đoàn đã yếu lắm, phải trò truyện bằng bút đàm):
’’…
Hỏi: Ông đã lấy những hình ảnh phiên chợ tết quê mình để viết bài thơ Chợ Tết phải không?
Trả lời: Phải vậy cũng không phải vậy… Từ năm tám tuổi tôi đã thích theo mẹ đi chợ. Có những chợ ở cạnh sông, lại có những chợ ở bên núi. Chợ ở giữa trời đất. Những cái chợ đấy có cả ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Việt Trì… chứ đâu chỉ có ở quê mình. Cái chợ này là hồn vía của người Việt Minh ở miền bắc. Mấy năm trước bên làng Lao có một đoàn người sang gặp tôi bảo rằng đó chính là phiên chợ của làng họ. Họ xin phép tôi cho khắc đá bài thơ…’’ (*)
Nói tóm lại: Các bài thơ hay nhất của Đoàn Văn Cừ đều là thơ miêu tả khung cảnh đồng quê Việt Nam. Trước hết được tác gỉa sáng tạo trên nền của cái ’’Thật’’. Có điều vốn sống của nhà thơ qúa dồi dào, tài năng, công với sự quan sát kỹ càng, tỷ mỉ, sâu sắc, nắm bắt được cái thần – bản chất của người và vật, xử dụng ngôn từ tinh tế, dân dã… đã tạo ra tác phẩm thành công mĩ mãn.
Hầu như toàn bộ sáng tác thơ của Cụ Đoàn trong 2 tập thơ Thôn Ca (I, II) – đều được thể hiện theo phong cách tả cảnh. Dù là tả cảnh ’’sao chép… chụp ảnh’’, nhưng… người đọc nhìn cảnh – sinh tình, cảm thụ đưọc hết vẻ đẹp của thôn quê Việt Nam. Vả lại, dưới ngoài bút tài hoa, hiểu biết đồng quê, ’’Người thư kí thời đại’’ Đoàn Văn Cừ đã mang đến cho người đọc cảm xúc rạt rào, nhận thức sâu sắc, đẩy khoái cảm thẩm mĩ lên cao…
Điều quan trọng hơn: Từ chủ đề rõ ràng, cấu trúc chặt chẽ, câu, ý thơ trong sáng khiến hiệu qủa truyền cảm của tác phẩm thêm mãnh liệt. Hai câu kết của Đường Về Quê Mẹ có thể đã vượt ra ngoài dụng ý của tác gỉa. Người đọc phải suy tư, đi đến đồng cảm… Tận trong cõi sâu tâm hồn nhận ra – bài thơ đã chuyển ý, vượt ra khỏi khuôn mẫu, bay bổng, kích thích trí tưởng: Đó là lời nhắn nhủ, là thông điệp của tác gỉa chuyển đến mọi người đọc:
Dù đã đi theo người…
Dù đã về làm dâu nhà người…
– Đừng bao giờ quên Đường về quê mẹ! Trong trí tưởng người đọc: Mẹ ở đây đã trở thành Mẹ tổ quốc – Mẹ Việt Nam mến yêu!
Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Bài Thơ Trở Về Quê Nội ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Cảm Nhận Về Bài Thơ Đường Về Quê Mẹ Hay Nhất
Hoài Thanh đã viết: “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ”. Câu nói đã như một lời khẳng định Đoàn Văn Cừ luôn hướng ngòi bút của mình tới quê hương, và “Đường về quê mẹ” là một trong số tác phẩm như thế.
Chỉ với sáu khổ thơ, tuy không dài nhưng cũng không ngắn nhưng cũng đã đủ thể hiện tình cảm yêu thương về quê hương, đặc biệt về mẹ của tác giả. Trong sáu khổ thơ, hai khổ thơ đầu của bài đã thể hiện rõ nỗi nhớ về quê hương và kỉ niệm về con đường về quê cùng mẹ.
U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bảy sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.
Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.
“U tôi”, một tiếng gọi thân thương cũng như một lời khẳng định. Vào mỗi mùa xuân, u sẽ đưa tôi về quê ngoại, nhận lại họ hàng và thăm mọi người ở quê. Có con đường nào đẹp bằng con đường về quê, nơi có người luôn yêu thương và chờ đợi ta. Con đường về quê luôn đẹp với những rặng liễu, rặng đề ven đường, trời trong xanh với những áng mây trắng bay. Đường về quê luôn có dòng sông trắng uốn lượn chào đón, luôn có những cồn xanh bãi tía cùng người nông dân bộn bề việc nông. Quang cảnh tả thực chứ không hề tô vẽ, phóng đại. Tuy nhiên, cái đẹp của quang cảnh cũng không thể nào sánh được với vẻ đẹp của u.
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.
U chính là đại diện cho những nét đẹp của người con gái Việt Nam thời xưa. Dù đã lớn tuổi nhưng u vẫn không khác gì thời con gái với thúng cắp bên hông, đầu đội nón lá, đeo khuyên vàng, mặc yếm thắm, áo the nâu. Tuổi tác cũng không che được những nét hồng hào ở u. Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au, tất cả đã làm bừng sáng cả bài thơ. Đối với tác giả, với cương vị là người con và dưới con mắt đa tình của nhà thơ, u luôn đẹp, luôn trẻ, luôn hiện hữu bên cạnh mình, để chỉ cần nhấc bút là có thể vẽ lên mẹ trên những vần thơ.
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Tuy nhiên, sự thật vẫn luôn là sự thật. Ở khổ thơ bốn, tác giả đã mượn cảnh đông vui của làng quê để che giấu đi nỗi buồn, nỗi cô đơn trong lòng mình. Dù con đường về quê vẫn vậy, dù cảnh sắc thiên nhiên vẫn thế, nhưng mùa xuân này, tác giả lại về quê một mình. Thời gian cứ trôi, con người vẫn luôn miệt mài trong cuộc sống của họ, những hình ảnh bình dị về quê hương như những buổi chiều mát, con đường đón nhận những tia nắng vàng cùng đoàn người gánh khoai lang ra về. Tất cả vẫn còn hiện hữu, chỉ có người cùng mình về quê mỗi mùa xuân là không còn. Mùa xuân đến cũng là lúc lá bàng lìa khỏi cây. “Xác lá bàng” ở đây chỉ là cái lá rụng rơi trên mặt đất còn hồn lá bàng đã đi theo sự tan biên của mùa đông. Qua hình đó, tác giả đã thể hiện sự biết ơn và nỗi nhớ về mẹ.
Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.
Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
Hai khổ thơ cuối đã cho ta thấy những hoài niệm của tác giả về u. Không chỉ mang nét đẹp ngọt ngào, dịu dàng mà còn mang nét đẹp lao động cần mẫn, chăm chỉ. Tà áo nâu cùng chiếc nón lá, u “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Dưới gió chiều bụi mịt mù, bóng lưng chăm chỉ làm tác giả phân vân không biết là của mẹ hay của thiếu nữ nào.
Còn gì vui hay tự hào khi về quê, nghe được những lời khen ngợi về gia đình. Cũng chính vì nết na, thảo hiền, lại chăm chỉ, biết lẽ đúng, u luôn được người làng khen ngời hết lời. U không chỉ là đại diện cho nét đẹp thời xưa của con gái Việt Nam mà còn là biểu tượng đẹp nhất trong lòng con.
Với ngôn từ giản dị, với những nét bút tả thực, hình ảnh làng quê cùng người mẹ đã hiện lên thật đẹp và ý nghĩa. Có thể nói, với mỗi nhà thơ, nhà văn, việc viết lên trang giấy những dòng chữ cùng chính là cách mà họ lưu giữ lại những kỉ niệm, những điều mà họ muốn giữ lại đến muôn đời, và mẹ cùng đường về quê mẹ chính là thứ mà Đoàn Văn Cừ muốn lưu giữ cho bản thân mình.