Thơ Đoàn Văn Cừ: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Thơ Đoàn Văn Cừ ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ ✅ Đọc Các Thông Tin Thú Vị Về Cuộc Đời, Sự Nghiệp Tác Giả Đoàn Văn Cừ.

Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Đoàn Văn Cừ

Đoàn Văn Cừ là nhà thơ nổi tiếng từ Phong trào thơ mới, được Hoài Thanh – Hoài Chân đưa vào cuốn Thi nhân Việt Nam

  • Đoàn Văn Cừ sinh ngày 25/11/1913 ở Thôn Đô Đò xã Nam Lợi, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định trong một gia đình nông dân.
  • Bên cạnh tên thật, ông còn có các bút danh khác là Kẻ Sỹ, Cư sỹ Nam Hà, Cư Sỹ Sông Ngọc.
  • Trước Cách mạng tháng Tám, Đoàn Văn Cừ dạy học, ông đã tham gia phong trào công nhân Nhà máy sợi Nam Định năm 1936.
  • Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Hội đồng Nhân dân tỉnh Nam Định (1946).
  • Năm 1948 ông tham gia Việt Minh trong Kháng chiến chống Pháp làm công tác văn nghệ, phiên dịch, công tác địch vận Liên khu III.
  • Từ 1959, ông là cán bộ biên tập Nhà xuất bản Phổ Thông (Bộ Văn hóa).
  • Năm 1974 công tác tại Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Nam Ninh, tỉnh Hà Nam Ninh (hiện nay huyện Nam Trực thuộc tỉnh Nam Định).
  • Từ 1971, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Hà Nam Ninh (gồm ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình), hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
  • Ông gần như sống ẩn dật ở quê trong những năm cuối đời và mất tại đây ngày 27 tháng 6 năm 2004.

Đọc thêm về 🌿Thơ Trịnh Nam Trân 🌿 Tuyển Tập Chùm Thơ Hay Nhất

Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Đoàn Văn Cừ

Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Đoàn Văn Cừ có thể khái quát như sau:

  • Đoàn Văn Cừ xuất hiện trong Phong trào Thơ mới và viết về thôn quê với bút pháp rất riêng: tả chân.
  • Ông được bạn đọc biết đến từ những bài thơ viết về hội hè, đình đám, chợ tết nông thôn đăng trên báo Ngày nay của nhóm Tự lực văn đoàn.
  • Sau tập Thôn ca I (1939) ông có tập Thôn ca II (1960), NXB Văn học ấn hành. Năm 1979, Hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà Nam Ninh cho in tập Dọc đường xuân tập hợp một số bài thơ của ông.
  • Hơn 60 năm cầm bút, nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã để lại cho chúng ta 9 tập thơ, văn. Nhiều bài thơ của ông được dịch ra tiếng nước ngoài, có mặt trong các bộ tuyển tập lớn, trong sách giáo khoa. 
  • Như vậy, gia tài thơ ca của Đoàn Văn Cừ không quá nhiều nhưng thật sự ông đã đi vào ký ức người đọc Việt Nam khá đậm nhờ bài thơ Chợ tết đặc sắc in trên báo Ngày nay từ trước năm 1939.

Các giải thưởng:

  • Huân chương Chiến công hạng Ba
  • Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì
  • Huân chương Lao động hạng Nhì
  • Huy chương Vì sự nghiệp đoàn kết dân tộc
  • Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng
  • Huy chương Vì sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam
  • Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (đợt I năm 2001) cho “Tuyển tập Đoàn Văn Cừ”

Phong Cách Sáng Tác Thơ Của Đoàn Văn Cừ

Nhà thơ Đoàn Văn Cừ có phong cách sáng tác như thế nào? Cùng xem ngay thông tin sau đây để biết nhé!

  • Nhắc tới nhà thơ Đoàn Văn Cừ, người ta thường nhớ ngay đến những bài thơ thấm đẫm hồn quê, tình quê. Từ tập thơ “Thôn ca” xuất bản năm 1944 đến những tập thơ sau này, ông đều viết về nông thôn với tình yêu đất nước, con người hồn hậu, chân thành.
  • Làng quê trong thơ ông là những hình ảnh đời thường quen thuộc, những người dân quê thuần phác, lam lũ, những thuần phong mỹ tục, những giá trị văn hóa được lưu giữ qua bao thế hệ, tất cả đều hiện lên sống động và đầy đủ. 

Đừng bỏ lỡ tuyển tập 🌹Thơ Nguyễn Bính🌹Thơ Quê Hay

Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Thi Sĩ Đoàn Văn Cừ

Tuyển tập các tác phẩm của thi sĩ Đoàn Văn Cừ hay, ý nghĩa để lại cho người đọc nhiều cảm xúc.

*Thôn ca (1944)

+Sau luỹ tre

  • Làng
  • Người làng
  • Nhà tranh
  • Bữa cơm quê
  • Đồng làng
  • Ngày mùa
  • Lúa về
  • Xóm nhỏ
  • Sáng
  • Trưa
  • Chiều
  • Tối
  • Tục làng
  • Điềm ứng: Lành dữ, thời tiết
  • Tế thánh
  • Ngôi đình
  • Những nỗi lo sợ phấp phỏng
  • Cháy nhà
  • Cướp đêm
  • Đám chết nghèo
  • Đưa ma

+ Cảnh quê

  • Lá thắm
  • Đêm trăng xanh
  • Bình minh
  • Nắng xuân
  • Trăng hè
  • Thu
  • Cuối thu
  • Đêm đông
  • Cơn mưa
  • Ban mai
  • Trưa
  • Cánh đồng ngày mùa
  • Dưới bóng đa
  • Mùa xuân
  • Khu Văn Chỉ
  • Đàn trâu
  • Đàn gà vịt

+Mùa xuân

  • Năm mới
  • Tết
  • Tết quê bà
  • Chơi xuân
  • Chợ làng vào xuân
  • Chợ Tết
  • Đám hội
  • Đám cưới mùa xuân
  • Đường về quê mẹ

+Chuyện làng

  • Anh tôi

*Đường về quê mẹ (1987)

  • Chống hạn
  • Được mùa
  • Lớp mẫu giáo
  • Nhà văn hoá
  • Quê mẹ vào xuân
  • Thư viện mùa xuân
  • Tiếng hát Hồ Tây
  • Trên cánh đồng cơ giới hoá
  • Về quê mẹ

*Các tác phẩm tiêu biểu

  • Thôn ca I (1944)
  • Thơ lửa (1947)
  • Việt Nam huy hoàng (1948)
  • Quân dân Nam Định anh dũng chiến đấu (phóng sự, 1953)
  • Trần Hưng Đạo, anh hùng dân tộc (1958)
  • Thôn ca II (1960)
  • Dọc đường xuân (1979)
  • Tuyển tập Đoàn Văn Cừ (1992)

*Các tác phẩm khác

  • Bản đồ nước Việt
  • Chơi xuân
  • Chú khách bán thuốc rê
  • Chữ tâm
  • Hỏi?
  • Mùa hoa đào trên Hồ Tây
  • Ngày xuân chơi đồng quê
  • Ông đội

15 Bài Thơ Hay Nhất Của Nhà Thơ Đoàn Văn Cừ

Nhà thơ Đoàn Văn Cừ theo Tây học nhưng tâm hồn thi nhân của ông vẫn quẩn quanh với chốn quê, với làng quê nhỏ, với những người nông dân lam lũ, chịu khó. Nếu bạn là một người yêu mến vẻ đẹp chân chất trong thơ ông thì đừng bỏ qua 15 bài thơ hay nhất của nhà thơ Đoàn Văn Cừ sau đây.

Chợ Tết

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.

Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán.
Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo,
Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha.
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
Con gà trống mào thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.

Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm,
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh,
Trên con đường đi các làng hẻo lánh,
Những người quê lũ lượt trở ra về.
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.

Bản Đồ Nước Việt

Tôi sẽ giữ suốt đời trong trí nhớ
Quãng ngày xanh học tập tại quê hương
Trong căn nhà nho nhỏ dưới cây bàng
Có tấm biển đề “An thôn học hiệu”

Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê
Chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ quốc sử
Thầy tôi bảo: “Các em nên nhớ rõ
Nước chúng ta là một nước vinh quang
Bao anh hùng thủa trước của giang san
Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.
Các em phải đêm ngày chăm chỉ học
Để đêm ngày nối được chí tiền nhân
Ta chắc rằng sau một cuộc xoay vần
Dân nước Việt lại là dân hùng liệt
Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam
Bên những trang lịch sử bốn nghìn năm
Đầy chiến thắng vinh quang, đầy máu thắm
Ta sẽ phải suốt đời đau uất hận
Nếu Việt Nam địa giới phải chia rời,
Dân Việt Nam huyết mạch rẽ đôi nơi
Người Nam, Bắc không cùng chung cội rễ
Ta nhất định không bao giờ chịu thế
Núi sông nào cũng của nước Việt Nam!”

Tiếng thầy tôi suốt buổi học vang vang
Trên án sách, bên những hàng cửa kính
Giờ tôi tưởng như đương ngồi dự thính
Thầy tôi đương hùng biện giữa thanh niên
Đương quyết vì quyền lợi giống Rồng Tiên
Đòi giữ vững bản đồ non nước Việt.

Làng

Làng tôi: mươi chục nóc nhà tranh
Một ngọn chùa cao, một nóc đình
Một rặng tre già vươn chót vót
Một dòng sông trắng chảy vòng quanh

Thôn tôi: cạnh một chiếc cầu tre
Chiếc miếu con con quạt gió hè
Những buổi trưa nào cao tiếng sáo
Trâu bò nằm nghỉ lắng tai nghe

Vào dạo đầu xuân lá dệt cành
Quanh làng lúa biếc phủ mông mênh
Dừng chân người khách đằng xa ngỡ
Hòn đảo con nào giữa biển xanh

Trăng chìm, tiếng trống đánh vang ngân
Trời đỏ như son đã hiện dần
Tiếng chó sủa luồn qua giậu trúc
Tiếng gà báo sáng gáy trong sân

Cổng xóm sau đêm mở gió đồng
Tiếng xa chim gáy vẳng bên sông
Người làng nhộn nhịp ra đồng sớm
Tiếng nói cười trong ánh nắng hồng

Những tối trăng vàng đỗ ngọn tre
Đèn thôn xa ngọn ánh xanh lè
Tiếng gầu tát nước bên đường cái
Lẫn tiếng ai cười nhí nhảnh đi

Đêm hè giã gạo tiếng chày chân
Trời biếc trăng sao gội xuống trần
Đường ngõ ra vào chen những bóng
Chiếc diều lơ lửng dưới sông Ngân

Ngày mùa kéo lúa dưới trăng khuya
Công việc vừa yên ngủ bốn bề
Sao Nhác lên dần soi lấp lánh
Tiếng gà thức giấc gáy te te

Đông về xếp ải chạy mưa rơi
Người chúi vào nhau nắc nẻ cười
Trẻ nghịch bên chùa vơ lá úa
Vun vào thành đống đốt, reo chơi

Tết: bánh chưng xanh xếp chật nồi
Con Vàng sợ pháo chạy cong đuôi
Cô nào đi lễ khăn vuông mới
Chiếc yếm đào trông đến đẹp tươi

Ngày hội đầu xuân, một ít bà
Bu gà, quả gạo trẩy chùa xa
Đường về về xe sắt nghiêng đôi bánh
Người chất lên nhau ngủ gật gà

Cứ thế, làng tôi tháng lại năm
Sống bên ruộng lúa, cạnh ao đầm
Đời như mặt nước ao tù lắng
Gió lạ không hề thổi gợn tăm

Cuối Thu

Cuối thu, trời biếc, lúa vàng bông
Cỏ nhạt màu xanh, lá úa hồng
Hôm tối chân trời sương tím phủ
Gió đưa hương lúa bốc thơm lừng

Xóm Nhỏ

Mấy chiếc cuốc treo cằm trên gác bếp
Vài chiếc xẻng dựa mình bên cửa liếp
Cối gạo nằm cắm mỏ dưới nhà ngang
Thang gác chân trên ngọn đống rơm vàng
Bức tường đất sau nhà nghiêng sắp đổ
Đàn chim sẻ cãi nhau quanh cửa tổ
Gà trên sân mất trứng rủa lao xao
Vài chú bò nghĩ ngợi cạnh bờ ao

Người trong xóm hiền lành và chất phác
Họ không biết lọc lừa và đơn bạc
Gió thông lùa khung ngực những mùi thơm
Nước giếng soi trong vắt mảnh tâm hồn

Đường Về Quê Mẹ

U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.

Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.

Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.

Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.

Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.

Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.

Đám Hội

Mùa xuân ấy, ông tôi lên tận tỉnh
Đón tôi về xem hội ở làng bên.
Suốt ngày đêm chuông trống đánh vang rền
Người lớn bé, mê man về hát bội.
Những thằng cu tha hồ khoe áo mới
Và tha hồ nô nức kéo đi xem.
Các cụ già uống rượu mãi gần đêm,
Tổ tôm điếm chơi đều không biết chán.
Những con bé áo xanh đòi chị ẵm
Để đi theo đám rước lượt quanh làng.
Các bà đồng khăn đỏ chạy loăng quăng.
Đón các khách thập phương về dự hội,
Một chiếc kiệu đương đi dừng bước lại,
Rồi thình lình quay tít mãi như bay.
Một bà già kính cẩn chắp hai tay,
Đứng vái mãi theo đám người bí mật.
Trên bãi cỏ dưới trời xuân bát ngát,
Một chị đương đu ngửa tít trên không.
Cụ lý già đứng lại ngửng đầu trông,
Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh.
Mấy cô gái nép gần hai chú lính.
Má đỏ nhừ bẽn lẽn đứng ôm nhau.
Chiếc ô đen lẳng lặng tiến ra cầu
Tìm đến chiếc san màu bay trước gió,
Bác nhà quê kiễng chân nhìn ngấp ngó,
Rồi leo lên cho ai nấy cùng trông
Đoàn trải dài vùn vụt giữa dòng sông
Người lố nhố chèo trên làn nước lạnh.
Bọn đô vật trước đình thi sức mạnh
Mình cởi trần gân cốt nổi như lươn;
Tiếng reo hò khuyến khích dậy từng cơn
Lẫn tiếng trông bên đường khua rộn rã.
Bên mấy chiếc khăn vuông hình mỏ quạ,
Đứng chen vào chiếc mũ trắng nghênh ngang.
Bọn trai quê bá cổ cạnh cô hàng
Vờ mua bán để tìm câu chuyện gẫu.
Một chú xẩm dạo đàn bên chiếc chậu,
Mắt lờ mờ nghe ngóng tiếng gieo tiền.
Thằng bé em đòi mẹ bế lên đền
Xem các cụ trong làng ra cử tế;
Tiếng chiêng trống chen từng hồi lặng lẽ,
Những bóng người trịnh trọng khẽ đi lên;
Những cánh tay áo thụng vái mơ huyền,
Đang diễn lại cả một thời quá khứ
Mà đất nước non sông cùng cây cỏ
Còn thuộc quyền sở hữu của Linh thiêng.
Khi tế xong một cụ đứng trên thềm,
Giơ bánh pháo cho người kia lại đốt.
Bọn trai gái đứng xem đều chạy rạt,
Một thằng cu sợ hãi khóc bi be.

Người đi xem nhiều bọn đã ra về
Trên đường vắng lá đề rơi lác đác,
Ốc xa rúc từng hồi trong xóm mạc,
Trời đỏ hồng sau những trái đồi xanh,
Đàn chim hôm nhớn nhác gọi trên cành
Vệt tháp trắng in dài trên đồng vắng,
Tiếng chuông tối nhạt khoang trong yên lặng.
Lẫn trống chèo văng vẳng phía làng xa.
Của đám dân nô nức dưới trăng tà…

Anh Tôi

Anh tôi búi tóc dắt trên đầu
Áo ngắn năm mình nhuộm củ nâu
Một áo thâm chùng buông quá gối
Một đôi guốc gộc để đi đâu

Bốn cây thóc cót đứng cao vời
Nồi lớn, mâm đồng mấy chục đôi
Dăm ấm tiền chinh chôn kỹ lưỡng
Vài đôi phản gỗ để ăn ngồi

Gạo đỏ hàng ngày lấy thổi cơm
Cá ao có giỗ mới sùa cơm
Trong chuồng đôi lợn nuôi làm lệ
Gà đẻ nằm trên ngọn đống rơm.

Đàn Gà Vịt

Một buổi sáng khi vừng hồng mới ló
Tôi tình cờ được ngắm lúc giờ ăn
Cả một đàn gà vịt tới đầy sân
Như một cuộc thi lông màu sắc lạ

Con gà trống mào hồng về vội vã
Bên đôi gà lông trắng mượt như tơ
Đôi ngỗng tròn vươn cổ đứng trông ngơ
Như muốn với khoảng trời lam biếc rộng
Đàn bồ câu từ trên cao hạ xuống
Như những hình bóng mộng vụt bay tan
Đàn ngan chờ sốt ruột đứng kêu ran
Hai cánh rỡn như mái chèo khuấy nước
Những chiếc mỏ bắt đầu khua lóc cóc
Những bàn chân trên thóc giẫm huyên thiên
Đôi vịt ngân lũn chũn mổ gần bên
Cặp gà thiến đuôi dài, lông chấm đỏ
Đàn gà mái đương ăn ngừng nhịp mổ
Tránh con Vàng vội vã chạy cong đuôi
Bên bầy chim từ nãy vẫn chưa thôi
Đôi gà lạ đá nhau từng miếng hiểm…

Chân trời đỏ tan dần sương khói quyện
Lúa ngô chen đồng bãi dệt xanh vàng
Bên dòng sông nước bạc chảy mơn man
Đàn gà vịt đứng giăng hàng rỉa cánh

Ngày Xuân Chơi Đồng Quê

Ngày xưa rạng, vàng son lồng mặt nước
Trời thêu mây, núi tím nắng phun hường.
Cây xanh rờn sương nạm ngọc kim cương,
Dòng nước biếc lượn như dòng ngọc chảy.
Ðàn chim sẻ nấp mình qua kẽ sậy
Tia nắng hồng đốt cháy hạt sương trong.
Ðám mây vàng lơ lửng lướt trên không
Bóng trôi xuống dòng nước trong sâu thẳm.

Vài tia khói trên nóc nhà nâu xám
Như những đường phấn trắng toả liu điu
Trên đồng xanh vài ngọn tháp chuông cao
Bóng nổi rõ trên nền trời hồng nhạt

Ngôi miếu nhỏ bên đường hương khói lạt,
Như bức tường văn hoá bị tàn vong.
Con trâu đen chúi mũi đứng bên đồng,
Cứ liếm mãi nắng vàng trên cỏ biếc.

Bên đường cái, dưới giàn đa xanh mướt,
Một bà hàng đặt chõng bán chè xôi.
Người các làng đi chợ gánh trên vai
Những thúng nặng khoai lang màu tía đỏ.

Từng quãng hiện sau bức tường đất lở
Một túp nhà trong một mẩu vườn xanh.
Ðây, cây dề táp rợp bóng rung rinh,
Nắng len lỏi tìm chim trong kẻ lá.
Kia, rải rác bên chùa dăm tấm đá
Dấu thời gian còn lại vết rêu mờ.
Dưới chân đồi, trong những ruộng trồng dưa,
Qua khe lá hoa vàng chen lấm tấm.
Những cồn mía lá non, mình tía sẫm,
Vạch lên trời một nét uốn thanh thanh.
Vài ba cô yếm đậu, thắt lưng xanh,
Giơ gáo dội trong những vườn cải biếc.
Mấy cô khác vai mang đôi nồi nước,
Từ cổng làng lững thững gánh đi ra.
Bên vệ thờ tịch mịch dưới cây đa,
Nằm lăn lóc những bình vôi sứt mẻ.
Trên luống cỏ, dưới cây bàng lặng lẽ,
Con cò nằm theo đuổi giấc mơ trưa.
Từ đàng xa văng vẳng tiếng chim cu
Làm sóng sánh cả bầu không khí biếc
Vài chiếc quán bên đường che cánh liếp,
Khói đầu nhà theo gió uốn mình bay…

Ngày chiều về, vàng tía rộn chân mây,
Trăng sao bạc thêu màn trời gấm đỏ,
Hơi lam tím phủ mờ trên lá cỏ,
Một đàn bò thấp thoáng bước trong sương.
Ngày tắt dần theo nhịp tiếng chuông vang…

Đồng Làng

Tháng sáu đêm chiều nước cạn khô
Tiếng gà xao xác gáy canh tư
Vẫn còn người tát trên đồng vắng
Sao lặn tầng không, nguyệt xế mờ

Tháng bảy trời mưa ngập bốn bề
Sóng đồng khuya đập các bờ tre
Sáng ra người đứng trên đường cái
Chỉ thấy trời xanh nước phẳng lỳ

Tháng tám trăng thu toả ánh vàng
Chuột đồng cắn lúa chạy lang thang
Bờ tre người đứng reo hò đuổi
Trống mõ canh khuya đánh rộn ràng

Gió mưa tháng một lạnh tê người
Đất ruộng cày lên xếp luống phơi
Những sớm nắng đông vờn lấp loáng
Tiếng người xếp ải rộn nô cười

Tháng chạp đương kỳ đổ ải khô
Chỗ gieo xỏ cuốc chỗ phang vồ
Ruộng hôm nước chảy vào như suối
Bọt trắng phơi quanh các mặt bờ.

Lúa Về

Lúa gánh về trưa xếp chật hè
Sáng trăng sân trải lúa vàng hoe
Lúa câu hột muối đè lăn đá
Lúa nếp dày bông tuốt đũa tre

Bọn người đập lúa dưới trăng thanh
Tay đập đều như máy rất nhanh
Thóc rụng vun đầy bên cối đá
Sao ngà tàn rớt dưới trời xanh

Rạ nỏ chiều hôm đánh đống dần
Thóc săn quạt sẩy bụi đầy sân
Trăng vàng giã gạo, vồ lên, xuống
“Trăm một! Trăm hai!” – tiếng đếm lần

Gạo ních vào chum, trấu đổ bồ
Cám lồng đầy ró lợn ăn no
Xong mùa, mỏ hái treo từng chuỗi
Phản tối người chen, tiếng ngáy khò

Đêm Trăng Xanh

Con đường dưới trăng lên như trải nhẹ
Một lượt tơ cát bạc trắng phau phau
Xe vượt đêm từng topps nối đuôi nhau
Đường lộng gió, trăng sao đầy trời biếc
Ngôi trường trắng lập loè như tráng thiếc
Bên dòng sông nước trổ bóng cây đề
Vừng trăng ngà như chiếc đĩa pha lê
Treo lơ lửng giữa bầu trời xanh ngắt
Đàn chim nhỏ được giờ không khí mát
Chúi nhau vào bóng lá ngủ say sưa
Sông Ngân Hà như một dải băng tơ
Vắt lơ đãng bên vành trăng rực rỡ
Hàng sao sáng quanh trời trông giống tựa
Muôn ngàn con mắt biếc đắm say cười
Đêm trăng xanh, dòng nước dát vàng trôi
Cây nạm ngọc, mây giăng màn trắng tuyết
Hạt sao cháy sáng loè trong khoảng biếc
Vỡ thành chùm hoa lửa cuối trời khuya
Trăng tà dần, làng xóm lặng như mê
Bóng tre sậy thêu mờ trên bãi cỏ
Tiếng gà gáy tàn canh trong xóm nhỏ
Báo bình minh cháy đỏ rực bên trời

Chợ Làng Vào Xuân

Đầu năm chợ họp giữa đồng khoai
Nô nức về chơi đủ hạng người
Trai tỉnh ô đen, quần lụa đũi
Gái quê khuyên bạc, váy tơ sồi
Bên hàng tranh, pháo người chen chúc
Cạnh chiếu “cò, cua…” khách đứng ngồi
Chợ vãn đường về cô yếm đỏ
Tay bồng quả bưởi chín vàng tươi

Người Làng

Đàn ông đầu đội nón nồi rang
Đứng đón bừa thuê ở cổng làng
Mùa rét khăn nâu trùm kín cổ
Áo buồm che đón trận mưa sương

Đàn bà dệt vải ánh trăng hè
Tiếng “kẽo kẹt” đưa mãi tới khuya
Xuân ấm trời xanh làng mở đám
Khuyên vàng, yếm thắm nhởn nhơ khoe

Con trẻ chăn trâu khắp cánh đồng
Chiều về gánh cỏ hát vang sông
Mỗi mùa chúng được dăm thùng thóc
Cặp áo quần nâu chủ trả công

Đừng vội bỏ qua 🌸Thơ Nguyễn Quang Thiều 🌸Chùm Thơ Hay

Những Đánh Giá, Nhận Định Về Nhà Thơ Đoàn Văn Cừ

Những nhà văn, nhà phê bình văn học đánh giá, nhận định về nhà thơ Đoàn Văn Cừ như thế nào? Xem ngay phần chia sẻ sau đây để biết nhé!

Ông được bạn đọc, đồng nghiệp cũng như các nhà phê bình văn học tôn vinh là “người lưu giữ hồn quê”, “người vẽ bức tranh quê”.

  • Hoài Thanh và Hoài Chân đã nhận xét: “Những bức tranh trong thơ Đoàn Văn Cừ không phải chỉ đơn sơ vài nét như những bức tranh xưa của Á Đông. Bức tranh nào cũng đầy dẫy sự sống và rộn rịp những hình sắc tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới linh hoạt”.
  • Nhà phê bình Hoài Thanh còn ca ngợi “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào và rực rỡ như Đoàn Văn Cừ”.
  • Nhà nghiên cứu văn học Tâm Dương (tức Văn Tâm) từng nhận xét: “Cùng tái hiện cảnh trí nông thôn, thơ Đoàn Văn Cừ là những nhạc họa – phẩm hoàn chỉnh rung động giai điệu sắc màu cảm xúc, còn thơ Anh Thơ thường mới là những mảng ký họa – tuy già đặn và cũng đáng quý. Có lẽ đó là điểm khác nhau chủ yếu giữa thơ của người ghi những “bức tranh quê” với người soạn những khúc “thôn ca”.
  • Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng “Thơ Đoàn Văn Cừ có thể góp vào việc nghiên cứu nông thôn với tư cách là những tư liệu tin cậy”. 

Giới thiệu tuyển tập 🍀Thơ Yến Lan🍀 Tác Giả, Tác Phẩm

Viết một bình luận