Bài Thơ Mời Trầu Của Hồ Xuân Hương [Nội Dung + Phân Tích]

Bài Thơ Mời Trầu Của Hồ Xuân Hương ❤️️ Nội Dung, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Chi Tiết Về Nội Dung, Ý Nghĩa, Nghệ Thuật Tác Phẩm Mời Trầu.

Nội Dung Bài Thơ Mời Trầu Của Hồ Xuân Hương

Bài thơ mời trầu là một thi phẩm xuất sắc được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích của Hồ Xuân Hương. Bài thơ Mời Trầu mang đậm phong cách thơ của bà, là tiếng nói bênh vực số phận bi thảm của người phụ nữ trong thời kì xưa. Chỉ với 4 câu thơ nhưng cũng đủ bộc lộ những tâm tư của bà về tình duyên và cuộc đời.

Mời trầu
Tác giả:
Hồ Xuân Hương

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

Đọc hiểu 🍃Bánh Trôi Nước [Hồ Xuân Hương]🍃 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Mời Trầu Của Hồ Xuân Hương

Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Mời trầu thì hiện tại chưa có mốc thời gian hay hoàn cảnh cụ thể, tuy nhiên theo một số ghi chép thì bài thơ ra đời vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Bài thơ này được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

Ý Nghĩa Bài Thơ Mời Trầu

Về ý nghĩa bài thơ Mời trầu, cả bài thơ chính là một thông điệp gói trọn tâm tình, khát khao nồng thắm về  hạnh phúc lứa đôi của một phụ nữ đa tài, tấm lòng rộng mở, muốn được vẹn tình được thể hiện một cách chân tình.

Bài thơ nói lên được ý thức cá nhân, tinh thần đấu tranh đòi hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa mặc cho những hủ tục, những định kiến u ám của thời đại. Qua đó là một tiếng nói trân trọng người phụ nữ, trân trọng những giá trị và ước mơ của họ trước cuộc đời.

Đón đọc thêm 🔰Vịnh Cái Quạt 1,2 Hồ Xuân Hương🔰 Nội Dung, Ý Nghĩa

Đọc Hiểu Bài Thơ Mời Trầu

Tham khảo ngay phần gợi ý đọc hiểu bài thơ Mời trầu dưới đây bạn nhé!

👉 Câu 1. Bài thơ được làm theo thể thơ nào? 

Đáp án: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.

👉 Câu 2. Chỉ ra 1 từ láy, 1 từ ghép trong bài thơ trên?

Đáp án:

  • Từ láy: Nho nhỏ
  • Từ ghép: Quả cau

👉 Câu 3. Trong bài thơ, tác giả sử dụng thành ngữ nào? 

Đáp án: Trong bài thơ, tác giả sử dụng thành ngữ: “xanh như lá bạc như vôi”

👉 Câu 4. Hình ảnh ” quả cau và miếng trầu ” trong câu thơ thứ nhất gợi cho em suy nghĩ gì? 

Đáp án: Hình ảnh: “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi” là hình ảnh ẩn dụ chỉ ra thân phận nhỏ bé, số phận hẩm hiu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

👉 Câu 5. Cách nói này của Xuân Hương trong câu thơ thứ hai giúp em hiểu gì về tính cách của người mời trầu?

Đáp án: Cách nói này của Xuân Hương trong câu thơ thứ hai giúp em hiểu gì về tính cách của người mời trầu:

  • Hồ Xuân Hương có ý thức khẳng định giá trị bản thân
  • Nhà thơ có cá tính mạnh mẽ
  • Thể hiện sự khát vọng về quyền bình đẳng trong xã hội cũ

👉 Câu 6. Nhận xét về lời nhắn nhủ của tác giả trong câu thơ cuối. 

Đáp án: Câu thơ: ”Đừng xanh như lá bạc như vôi ‘‘ nhà thơ muốn nhắn nhủ:

  •  Hồ Xuân Hương bày tỏ thái độ không đồng tình trước sự bội bạc, bạc bẽo.
  •  Nhà thơ khuyên mọi người sống phải coi trọng tình nghĩa, thủy chung

Tìm hiểu chi tiết🔰Cảnh Thu Hồ Xuân Hương🔰Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Nghệ Thuật Bài Thơ Mời Trầu

Tổng kết các giá trị nghệ thuật có trong bài thơ Mời trầu của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

  • Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt với phương thức biểu đạt chính là biểu cảm.
  • Sử dụng thành ngữ dân gian “Đừng xanh như lá, bạc như vôi” gợi ra một khát vọng đầy ưu tư, khắc khoải của một tâm hồn đã ít nhiều nếm trải dư vị chua chát, đắng cay của sự lạnh lùng, giả dối.
  • Tác giả tự xưng tên mình trong câu thơ: “Này của Xuân Hương mới quệt rồi” nhằm thể hiện một cá tính mạnh mẽ, dõng dạt, là sự khẳng định về quyền bình đẳng.

8+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mời Trầu Hay Nhất

Tiếp theo là các mẫu phân tích bài thơ Mời trầu hay nhất mà Thohay.vn vừa sưu tầm được. Đọc thêm để hiểu rõ tâm tình, cảm xúc và thông điệp mà Hồ Xuân Hương muốn truyền tải nhé!

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mời Trầu Hay

Thơ Xuân Hương cho đến nay vẫn hấp dẫn người đọc, cái thanh cái tục trong thơ bà đầy ẩn ý thế nhưng người ta không thể nào không thấy được những ý nghĩa nội dung mà bà muốn truyền tải qua những câu thơ của mình. Có thể nói rằng tài năng thơ ca của bà thật xứng danh với cái tên gọi mà người đời gọi bà đó chính là bà chúa thơ Nôm.

Trong số những bài thơ Nôm ấy nổi bật lên bài thơ Mời trầu mà qua đó ta thấy được những tâm sự những điều mà Xuân Hương trăn trở về cuộc đời của mình. Chuyện tình duyên và nỗi lòng người phụ nữ tài ba ấy được khắc hoạ rất rõ.

Bài thơ Mời trầu chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu là tâm sự tâm tình của người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Hồ Xuân Hương. Có thể nói rằng cả cuộc đời bà luôn bênh vực người phụ nữ cũng chính là bênh vực chính bản thân mình trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy. Qua đấy ta có thể thấy được Xuân Hương quả thật là một người mạnh mẽ, bà có tiếng nói riêng đại diện cho những người phụ nữ. bai thơ Mời trầu đã thể hiện rõ những nỗi lòng của bà chúa thơ Nôm.

Nhan đề bài thơ là Mời trầu cũng mang những ý nghĩa truyền tải nhất định. Nhan đề là sự bộc lộ chủ đề của tác phẩm chính vì thế mà mỗi nhà thơ nhà văn đều đặt cho con tinh thần của mình những cái tên mang cả nội dung lẫn nghệ thuật.

Hình ảnh miếng trầu kia đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao?. Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.

Trước hết hai câu thơ dầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Miếng trầu ấy có quả cau, có lá trầu, hai thứ ấy luôn đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu nó không chỉ đẹp mắt đẹp tâm tình mà còn đẹp cả tấm lòng người trao đi nữa. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp.

Sự nhỏ bé ấy cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm.

Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quẹt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm. Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì những miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng về ý nghĩa thì lại chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự, là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.

Sang đến hai câu thơ sau thì thi sĩ muốn gửi đến những lời nhắn nhủ cho những bậc quân tử trên cõi đời này rằng:

Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi

Chính nỗi khao khát tình yêu khiến cho nhà thơ mong muốn rằng người quân tử nếu có duyên với Xuân Hương thì bén lại chứ đừng bạc như vôi xanh như lá. Cái duyên trên cõi đời này được người xưa vô cùng tin vào nó. Không có duyên thì có gần gũi đến mấy cũng không thể nào có tình cảm yêu thương được nhưng có duyên thì lại thắm lại ngay. Không gần cũng yêu thương da diết vô bờ.

Thi sĩ nói đừng xanh như lá bạc như vôi là có ý gì? Lá cây bao giờ chẳng xanh, không xanh thì đâu còn là lá cây nữa, vôi thì màu trắng bạc rồi. Có thể nói ở đây nhà thơ đã sử dụng biện pháp so sánh kết hợp với lối nói cái tự nhiên vốn có để chỉ cái mong muốn trong tình yêu của con người.

Lá xanh thì tốt, vôi trắng bạc là đương nhiên nhưng con người mang những trạng thái đó thì không tốt. Bởi vì cái xanh cái bạc kia là để chỉ sự xanh rờn, sự bạc bẽo của con người với nhau. Chính vì thế Xuân Hương mượn ngay hình ảnh của lá trầu, vôi trắng mà gửi thầm cái nguyện ước nhắn nhủ của bản thân mình.

Bài thơ như một dòng nhật kí của thi sĩ, Xuân Hương đã viết vào đó những tâm tư tình cảm của mình. bà là luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mời Trầu Ngắn Hay

Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Ở giai đoạn lịch sử này, chế độ phong kiến suy tàn đã bộc lộ những hạn chế, bất công. Hồ Xuân Hương đã gửi gắm vào thơ những suy tư, trăn trở trước hiện thực của xã hội, trước thân phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ. Những tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của bà thời kì này không thể không kể đến bài thơ “Mời trầu”.

Mời trầu cũng như nhiều bài thơ khác của Hồ Xuân Hương thuộc thể tuyệt cú cổ điển. Đấy là một thể Đường luật thi, một thứ văn chương bác học. Nhưng đọc “Mời trầu” không ai có ý nghĩ đây là bài thơ Đường du nhập từ Trung Quốc vào qua những nhà trí thức Hán học. Có một cái gì thật là nôm na dân dã ở lời thơ hết sức bình dị và giọng điệu mộc mạc.

Hình ảnh miếng trầu đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao?. Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.

Trước hết hai câu thơ đầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Miếng trầu ấy có quả cau, có lá trầu. Hai thứ ấy đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu têm xanh ngắt cánh phượng mới đẹp làm sao. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp. Sự nhỏ bé ấy hay cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.

Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu có ngàn năm tuổi như thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm. Người sở hữu miếng trầu ấy chính là nhà thơ.

Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quệt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm. Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng miếng trầu ấy chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.

Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.

“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.

Hồ Xuân Hương đưa ra một câu hỏi vừa đưa ra một yêu cầu. “Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Từ “thắm” sử dụng rất đắt. “Duyên” theo quan niệm dân gian là sự ràng buộc lẫn nhau từ kiếp trước đến kiếp này, Hồ Xuân Hương muốn nói đến cái duyên ấy.

Hai câu thơ đầu nói về chuyện ăn trầu, hai câu cuối chuyển sang chuyện duyên số, chuyện con người vậy mà ý thơ vẫn liền mạch, không gò bó chứng tỏ tài dùng ẩn dụ của nhà thơ đến mức tuyệt vời. Nhà thơ còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong câu kết làm cho ý thơ thật đặc sắc.

Bài thơ không chỉ đơn giản nói về duyên trầu mà Hồ Xuân Hương đã nói đến duyên phận của con người, của người phụ nữ thời phong kiến. Cái duyên ấy bấp bênh bạc bẽo như vôi. Như trong một số bài khác bà có nhắc nhiều đến duyên phận của người phụ nữ ‘thân em vừa trắng lại vừa tròn – bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước). Qua đó gợi lòng thương cảm tới những con người có niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi, một tình yêu son sắt thủy chung.

Với ngôn từ giản dị, giàu ý nghĩa, bài thơ “Mời trầu” như bao quát chuyện tình duyên lận đận của tác giả. Bà luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mời Trầu Chọn Lọc

Xuân Diệu, nhà thơ, nhà bình thơ tinh tế đã viết về bài thơ “Mời trầu” của Hồ Xuân Hương, song chủ yếu nghiêng vể bình diện xã hội học: “Bọn cậu viên, cậu ấm không thực bụng yêu thương, chỉ định quẩn quanh chim chuột, bọn bạc tình, bọn nhạt nhẽo” được Xuân Hương lấy cau, lấy trầu ra mời mà thực là mắng khéo hoặc mỉa mai… Cậu công tử kia lần sau còn đến, và lần này Xuân Hương lại dùng đến trầu cau một cách rõ ràng hơn, để tống khách đi ngay từ cái phút “miếng trầu làm đầu câu chuyện”.

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi

Nhưng vấn để không chỉ có thế. Đi sâu khảo sát câu chữ, tín hiệu ngữ nghĩa của từng dòng thơ, dường như bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn ấy lại mở ra khá nhiều phương diện nghệ thuật sâu lắng phù hợp với phong cách tư duy thơ ca của Hồ Xuân Hương.

Ngay ở câu thơ mở đầu, đối tượng vận dụng không được nữ sĩ mô tả ở vẻ đẹp toàn diện, cũng không phải cái đẹp thông thường, mà căn bản cảm nhận ở khía cạnh bất thường, dị thường. Ở đây, quả cau phải là “nho nhở còn miếng trầu thì “hôi”. Điều này có sự chiếu ứng tương hap với quan niệm cái đẹp và hình thức tư duy nghệ thuật trong phần lớn các sáng tác của Hồ Xuân Hương.

Trong dự cảm sáng tạo của mình, dễ thấy nữ sĩ thường đổng cảm với những đối tượng tầm thường nhỏ mọn như loại con ốc, cái quạt, quả mít “xù xì”, cái trống “thủng”, bánh trôi nước “bảy nổi ba chìm”, đồng tiền “hoẻn”; cho đến những hình ảnh thiên nhiên cũng thô kệch, méo mó, kì dị, dị thường đến hết mức, với những đá “ông chồng, bà chồng”, trăng “chín mõm mòm”, “dỏ lòm lom”… Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.

Đến câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, “đỏ lòm lom”… Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.

Câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, chỉ từ “này” đi với đại từ sở hữu “của” vừa có nghĩa để chỉ quả cau, miếng trầu trên kia, vừa có nghĩa chỉ về một cái gì đó, một cái nào đó “của” Xuân Hương.

Hơn nữa, cái “này của Xuân Hương” cũng hàm nghĩa chuyển tiếp, phiếm chỉ những trầu, cau ở câu trên và nối với động từ “quệt”. Ý thơ ở đây khá là lấp lửng: “trầu cau – cái này” và “cái này – quệt” (quệt vôi hoặc có thể quệt cái gì đó!). Cách nói ỡm ờ, thanh – tục, tục – thanh kiểu này vốn rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương.

Còn lại hai câu thơ sau vừa mở ra những tuyến cảm xúc trữ tình như khác biệt mà kì thực lại nương tựa, liên hệ hoàn chỉnh lẫn cho nhau. Câu thơ “Có phải duyên nhau thì thắm lại” chính là một lời “mời mọc, khao khát nguyện cầu” cho duyên tình tròn đầy; còn câu kết “Đừng xanh như lá, bạc như vôi” lại là tiếng nói răn đe, cảnh tỉnh, hàm thêm một nghĩa phê phán khinh bạc: loại người “xanh như lá, bạc như vôi’’ ấy mà.

Câu thành ngữ được sử dụng ở đây quả là đắc dụng. Điều sâu lắng và tế nhị hơn, khi nói về sự “phải duyên”, nhà thơ đã nói hết lẽ, nói đến điều cái kết quả viên mãn “thắm lại”; nhưng ở câu thơ sau, thi nhân chỉ nêu hiện tượng, chỉ đưa ra lời khuyên: “Đừng…”, chứ không đành lòng, không nỡ nói tới tận cùng cái nhân, cái quả như kiểu câu thơ trên. Một lời khuyên nhủ, cảnh tỉnh xa xôi, kể cũng thật tình tứ và giàu lòng trắc ẩn.

Có một điều khác nữa – và đây mới là điểm nút để hiểu cả bài thơ – là mối liên hệ lôgic sâu xa giữa hai câu thơ sau này với ý tưởng chủ đạo qua câu thơ mở đầu. Dường như ờ đáy sâu tâm thức sáng tạo, dự cảm xót xa về thân phận con người nhỏ bé đổng hành với tiếng nói nguyện cầu khát khao hạnh phúc.

Trên cái nền của lối thơ, biểu tượng ỡm ờ hai mặt truyền thống, bài thơ “Mời trầu” chắc hẳn không chỉ gắn với ỷ nghĩa phê phán cụ thể nào đó (nếu có), mà căn bản hơn là tiếng lòng thâm trầm sâu lắng, khát khao hạnh phúc, khát khao giao cảm với đời, khát khao mong chờ tiếng đồng vọng, hay là chiếc xương sườn thứ bảy còn vô tăm tích nơi xa.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mời Trầu Tiêu Biểu

Nhiều người làm thơ về tình yêu. Nhiều nhà thơ được mệnh danh là “ thi sĩ của tình yêu”. Trong thơ của mình, họ thể hiện những cảm xúc, suy tư, những yêu thương, trăn trở…Những bài thơ tình là những cung bậc, những nỗi niềm riêng, khao khát hạnh phúc, yêu thương giận hờn…

Những nhà thơ nữ lại có một cách thể hiện nội tâm hết sức nhạy cảm, tinh tế. Bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của một trái tim nồng nàn, đằm thắm, giàu cá tính – được thể hiện một cách chân tình.

Đi qua cuộc đời của Hồ Xuân Hương có khá nhiều người bạn tình nhưng cuối cùng vẫn không được bền lâu. Tình cảm xao xuyến của thời tuổi trẻ cùng những lời giỡn cợt của Chiêu Hổ, thoắt lại là cái kiếp làm lẽ tủi nhục trăm bề trong sự lạnh lẽo của Tổng Cóc. Bạn văn chương như ông phủ Vĩnh Tường cũng chỉ là mộng ảo ngắn ngủi.

Trái tim yêu thương của Xuân Hương tưởng chừng tan nát vì sự trớ trêu đến thế. Bao đêm trường ôm hận một mình, xót xa tự an ủi thân này đâu đã chịu già tom, Xuân Hương đã cảm thấy chua chat, cay đắng cho mình cho những cuộc tình.

Bài thơ Mời trầu có lẽ ra đời trong giai đoạn nữ sĩ dựng quán nước kén bạn trăm năm. Thực ra, Xuân Hương đã ý thức được mình, đến độ chín chắn, cần một bạn tri kỷ hơn là những yêu đương nồng cháy thời tuổi trẻ. Bởi lẽ, nữ sĩ đã cảm nhận được sự lạnh giá cô đơn, rất cần một sự động viên an ủi, những lời nói tâm tình.

Rất trung thực, khiêm tốn và chân thành, Hồ Xuân Hương đã nói về mình hết sức thẳng thắn.

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi.

Chỉ bình thường thế thôi, như bao điều đơn giản khác. Nhưng trong cái đơn giản ấy ẩn chứa một điều gì sâu xa. Đừng vội lầm tưởng ý xuân của Xuân Hương. Vâng, cái nho nhỏ, cái hôi ấy chỉ là cái vẻ bề ngoài thôi. Xuân Hương đã lấy cái hồn dân tộc Việt Nam thanh cao cau trầu keo sơn gắn bó mà nói về tình yêu của mình, độc đáo và thi vị. Nhưng, độc đáo tất có phong cách riêng – phong cách Hồ Xuân Hương.

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Một cách thể hiện cái tôi của mình rất chuẩn nhị, độc đáo mà lại duyên dáng. Nhà thơ tự trải lòng mình, bày tâm tư, tình cảm một cách chân thật. Không! Tôi không hề giải dối hình thức. Một cách khách thể hóa cũng lạ kỳ, cảm động làm sao. Cái chân thành của Xuân Hương, như thế là đã hết mức rồi.

Trong câu thơ còn mang một cách nói mới lạ, rất Xuân Hương: quệt. Một động từ độc đáo, chỉ ở con người cũng độc đáo, đầy cá tính một cách chặt chẽ, người đọc cảm thấy thú vị và yêu hơn cái quệt dễ thương, thấm đẫm tình ý ấy. Những động từ khác, giả sử được đưa vào thay thế, có lẽ và chắc chắn rằng không thể lột tả được cái ý, cái tình mà câu thơ gửi gắm.

Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.

Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

Có phải duyên nhau – người ấy cùng tâm sự sẽ hiểu được Hồ Xuân Hương cần gì ở chữ duyên ấy.

Một người đồng cảm để cùng xướng họa, ngâm thơ, chia sẻ những buồn vui cuộc sống, một người bạn tri kỷ tri âm để có thể gắn bó, tin tưởng và yêu thương hết lòng. Trái tim người phụ nữ này chỉ cần như vậy mà cảm thấy sao quá đỗi khó khăn, xa vời. Nhiều lần cũng muốn dứt cho xong nhưng trái tim vẫn không ngừng khao khát, không ngừng ước muốn.

Xuân Hương trong tình yêu, càng đắm say càng lo sợ một sự cách chia, phai bạc, dường như những người yêu tha thiết thường hay sợ một ngày mai không còn được nguyên vẹn tươi thắm như buổi ban đầu. Đọc kỹ hai câu thơ mới biết chủ ý của nhà thơ sợ người tình đến với nhau không bằng tất cả tình yêu và tấm lòng xanh thắm bền chặt. Như thế, còn gì đau đớn bằng!

Người như “ con thỏ giỡn với bong trăng” ấy phụ cả một niềm tin chân thành thì còn biết gì để nói nữa. Ca dao ngày xưa viết “ tưởng giếng nước sâu em nối sợi gầu dài – Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây”. Sự hòa hợp không gìn giữ một tình yêu chân thật thủy chung. Bài thơ gợi cho người đọc mối thương cảm đến xót xa. Ta bỗng trăn trở tự hỏi, lẽ nào một người như Hồ Xuân Hương mà ước nguyện chính đáng, thường tình lại không thành?

Bởi thế, trước những ngang trái trong đường tình duyên, trái tim khắc khoải, yêu nồng nàn của Xuân Hương lên tiếng đòi hỏi chính đáng. Đòi hỏi như vậy cũng chưa phải là nhiều lắm đâu. Ai yêu tâm hồn, tình cảm Hồ Xuân Hương bằng tất cả tâm hồn và tình cảm chân thành của mình, chắc chắn sẽ được nữ sĩ đón nhận.

Hồ Xuân Hương tối kỵ sự giả dối, trong tình yêu không có sự giả dối, hãy đến với nhau bằng tình yêu nồng thắm, chân thành, như thế cuộc đời, con người và tình yêu mới thực sự có ý nghĩa. Bài thơ Mời trầu, tình yêu của Hồ Xuân Hương đang chào mời. Người yêu thơ, yêu Hồ Xuân Hương , hãy đón nhận.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mời Trầu Hay Đặc Sắc

Thông thường, những tác phẩm có tư tưởng lớn đều có hình thức mang tầm vóc lớn, đề tài cũng lớn. Những tác phẩm lấy đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn chỉ đủ sức chứa đựng một tư tưởng quẩn quanh với cuộc sống sinh hoạt đời thường.

Tuy nhiên, văn học cũng không hiếm những nghịch lý, làm nên sự kỳ diệu của nó. Đó là trường hợp những bài thơ đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn nhưng chứa đựng những tư tưởng lớn, phá vỡ cái chật hẹp, ràng rịt của tư tưởng cũ kỹ, hà khắc; nâng niu một khát vọng mãnh liệt, chân thành. Bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là một điển hình như vậy:

“ Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”

Bài thơ ra đời vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Cảm thức thẩm mỹ bấy giờ thường trọng vọng những bài Đường luật đạo mạo, cổ kính, với thứ chữ Hán được điểm tô lộng lẫy bằng vô số điển tích ngoại lai. Vậy mà Mời trầu, vẫn khuôn khổ một thất ngôn tứ tuyệt, nhưng vóc dáng đường hoàng là chữ Nôm, hồn dân tộc. Thứ chữ “nôm na mách qué” đó đã tạo một tầm vóc trẻ, sừng sững trên văn đàn, mang theo sinh khí của văn hóa dân gian Việt nam: ca dao, tục ngữ, thành ngữ,…

Thời đại này, các nho sĩ hầu hết là nam giới. Tài tử, văn nhân hầu hết là đấng “tu mi” ngâm hoa vịnh nguyệt, cố teo tóp cái bản ngã, để hòa tan, trộn lẫn vào “cái ta” nhợt nhạt, vô hồn. Vậy mà, trong lúc đó, tác giả của Mời trầu lại là nữ giới – một phụ nữ dám tung hê, bóc trần cái “hoa nguyệt” giả dối, phù phiếm. Nữ sĩ còn dám đường hoàng xưng “tôi”, “cái tôi” làm kinh ngạc, ngã ngửa bao đấng tu mi, những bậc “hiền nhân quân tử ”.

Bài thơ thật xinh xắn, chỉ hai mươi tám chữ. Đề tài lại nhỏ bé, chuyện mời trầu. Tưởng gì, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Từ thuở xa xưa, người Việt đã có tục ăn trầu. Người Việt vốn hiếu khách, lại hay giao tiếp, chuyện mời trầu nhau có gì đáng nói? Nhưng ngờ đâu, một tứ thơ lớn đã ẩn sau đề tài nhỏ bé ấy. Miếng trầu là vật để giao tiếp, đãi bôi . Nhưng miếng trầu còn là sự thắm đỏ của nghĩa tình, là sứ giả của tình yêu, là chứng nhân của tình chồng vợ:

“ Trầu này trầu nghĩa, trầu tình
Cho loan lấy phượng, cho mình lấy ta”

Hay là:

“ Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm”

Vậy, mời trầu ở đây đâu chỉ là hình thức giao tiếp. Mời trầu kỳ thực là mời tình. Nói đến tình là nói đến cõi tế vi, kỳ diệu của tâm hồn, của trái tim rồi! Mà chuyện tình, trong xã hội phong kiến, đâu phải là đề tài nhàn đàm lúc trà dư tửu hậu. Ở một góc nào đó, nó còn là điều cấm kỵ đối với các bậc mũ cao, áo dài. Đàn bà lại càng không được nói đến. Quyền mời trầu chỉ có ở đàn ông:

“ Ra đường bác mẹ dặn rằng
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”

Thế mà, kinh khủng chưa, trong bài thơ này, người mời trầu lại là nữ giới, chẳng thèm che mạng cúi đầu. Cái lớn của bài thơ đã nằm ngay ở tư thế của chủ thể trữ tình rồi! Tinh thần phá vỡ định kiến “thâm căn cố đế ” đã nằm ngay ở cách đặt tựa đề và đề tài rồi!

Tuy nhiên, tiếng nói có sức mạnh phá vỡ ấy lại không hề “đao to búa lớn ”. Nó nhỏ nhẹ, ân cần, nồng nhiệt mà da diết, lắng sâu. Nó là một âm sắc trầm ấm của tiếng thơ táo bạo Hồ Xuân Hương.

Chúng ta thử xem nhà thơ mời trầu như thế nào:

“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi ”

Chẳng cần một buồng cau trả ơn, chẳng màng trầu têm cánh phượng dâng mời hoàng tử, người phụ nữ chỉ có “quả cau nho nhỏ ”. Hẳn là ở đây, Xuân Hương đã hái một quả từ buồng cau dân gian rồi: “Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân”,… Từ láy “nho nhỏ “ còn gợi một ảnh hình xinh xắn, dễ thương.

Quả cau nhỏ, chắc hẳn bổ ra thành những miếng cau thanh. Đâu cần nhiều, bởi Xuân Hương đâu phải mời bọn phàm phu, tục tử. Lại kèm với quả cau là “miếng trầu hôi ”. Đâu rồi trầu quế, trầu thơm? Cớ sao lại chọn miếng trầu tầm thường, chẳng thơm, chẳng ngon mấy để mời? Có lẽ cũng chẳng phải là chọn, vì người phụ nữ có chi mời nấy, cốt yếu là mời bằng tấm lòng thành thực, với những cái vốn có của mình. Vả lại, người sâu sắc đâu dại gì đem cái sang trọng, đắt tiền để mời tình.

Kẻ vụ lợi sẽ bị cái hào nhoáng, sang cả làm mờ mắt đi, cứ thế mà nhảy bổ vào cuộc tình. Tác giả của miếng trầu hôi, cũng như chủ thể trữ tình trong bài thơ, là phụ nữ từng trải, sâu sắc, nên thành ý ấy, dụng ý ấy, không chắc là không có.

Miếng trầu mời thật dân dã, tự nhiên, gợi cảm, chân thành, nhưng cách mời mới thật nồng nhiệt làm sao:

“Này của Xuân Hương mới quệt rồi ”

Xã hội phong kiến đâu chấp nhận “cái tôi ” với lời xưng trực tiếp như vậy. Thế mà, người phụ nữ ở đây lại dám tin vào chính mình, tự thừa nhận tấm tình của riêng cá nhân mình. Đã vậy, trầu vừa quệt là mời ngay. Hành động “mới quệt ” hết sức khiêm tốn và chân thành.

Miếng trầu có thể không khéo léo cách têm nhưng là cả sự nồng hậu, chào mời. Người phụ nữ mang tên hương – mùa – xuân quả thật hết sức khát khao nghĩa tình giữa con người với nhau trong cuộc sống. Tấm lòng ấy đã chủ động trao tặng cho người sự chân thành, thắm thiết.

Nếu như hai câu trên, giọng thơ thật chân thành, nồng nhiệt, vồn vã, đầy khát khao thì ở hai câu sau, giọng thơ lại chuyển sang trầm lắng, đầy trăn trở, ưu tư:

“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi ”

Hai câu thơ đầy màu sắc, đó là “xanh” của lá, “bạc” của vôi, pha trộn lại thì bạc và xanh đã hóa thành “thắm” rồi. “Thắm” là màu đỏ tươi của miếng trầu, mà cũng là thắm thiết, thắm tình – sắc màu của sự gắn bó, hòa hợp, chung tình. Nhà thơ đã khai thác tài tình ý nghĩa tượng trưng của màu sắc. Cái lá trầu và ít vôi, ăn chung với nhau thì ra sắc thắm, “thắm lại ”. Nhưng tách riêng thì chỉ còn rời rã một màu xanh non nớt, lạnh lùng, chỉ còn màu bạc của sự bạc bẽo, bội bạc, hai lòng.

Buồn thay cho sự chia lìa, bội bạc! Niềm khao khát ở đây sao mà ưu tư và buồn thấm thía. Đã vậy, những từ ngữ “có phải… thì… đừng … như…” chẳng khác con dao bổ cau, cứa vào lòng, cứa vào trái tim vốn quen đập với nhịp chân thật, chung tình.

Nghệ thuật so sánh cuối bài thơ được hái từ giàn trầu thành ngữ Việt Nam: “xanh như lá, bạc như vôi ”. Ý thơ gợi ra một khát vọng đầy ưu tư, khắc khoải của một tâm hồn đã ít nhiều nếm trải dư vị chua chát, đắng cay của sự lạnh lùng, giả dối. Ngẫm lại cuộc đời, tâm sự của Hồ Xuân Hương, sao thấy bài thơ như là thân phận, số phận – đầy éo le, dở dang, trăn trở. Biết bao giờ, biết ai người sẽ “phải duyên nhau ”.

Cả bài thơ chính là một thông điệp gói trọn tâm tình, khát khao nồng thắm của một phụ nữ đa tài, tấm lòng rộng mở và muốn được vẹn tình. Tâm tình ấy, khát vọng ấy đã vang lên, trong trẻo và mạnh mẽ, mạnh dạn phá bỏ những định kiến tàn nhẫn, u ám của thời đại. Đó là tín hiệu đẹp cho sự đâm chồi, nảy tược của một ý thức cá nhân, của tinh thần đấu tranh đòi hạnh phúc cho người phụ nữ.

Chắc rằng, tiếng vọng mời trầu của Hồ Xuân Hương đã băng qua thời gian, lay chuyển biết bao tâm hồn xanh xao, bạc bẽo tìm đến với nhau trong một tình yêu chân thật, hòa hợp, chung tình.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mời Trầu Sâu Sắc

Thi sĩ Hồ Xuân Hương không chỉ được nhắc đến với vẻ ngoài xinh đẹp, tính cách trẻ trung, phóng khoáng mà còn gọi bà với cái tên “bà chúa thơ Nôm”. Bà là nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ 18, đầu thế kỉ 19 với những lời thơ thấm đẫm suy tư, trăn trở trước những bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa suy tàn, độc đoán. Bài thơ “Mời trầu” là một trong những bài thơ nổi bật cho phong cách sáng tác của bà.

Bài thơ thuộc thể thơ tuyệt cú cổ điển. Nhắc đến hình ảnh miếng trầu chắc hẳn đã không còn xa lạ với chúng ta. Ông cha ta có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, bởi miếng trầu là hình thái giao tiếp thường thấy trong văn hóa của người Việt Nam xưa.

Khi có khách đến nhà, chủ nhà muốn tỏ lòng hiếu khách sẽ mời khách ăn miếng trầu sau đó mới bắt đầu câu chuyện. Không những thế, miếng trầu còn gắn liền với truyền thống cưới hỏi, là hình tượng của sự thủy chung, son sắt giữa vợ và chồng. Nó còn thể hiện những giá trị đạo đức đẹp đẽ của ông cha qua sự tích trầu cau. Riêng trong thơ của Hồ Xuân Hương, miếng trầu nói lên nỗi lòng của bà ước mong về một mái ấm gia đình, khao khát tình yêu đôi lứa thắm nồng, tình cảm.

Hai cầu thơ đầu tiên trực tiếp miêu tả hình ảnh quả cau, miếng trầu:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Quả cau nhỏ nhỏ tạo thành miếng trầu hôi. Quả cau nhỏ chính là số phận của người phụ nữ nhỏ bé, bị đè nén, chà đạp dưới xã hội phong kiến đầy oan trái, bất công. Thay vì nói rằng miếng trầu xanh ngắt thì Hồ Xuân Hương lại là “miếng trầu hôi”, phải chăng đó là lòng xót thương của bà với số phận của người phụ nữ, cũng chính là xót thương cho số phận bèo trôi của mình.

Từ “này” cho ta thấy miếng trầu chua xót đó là của bà, bà dịu dàng nhưng cũng quả quyết, thẳng thừng khẳng định chủ quyền riêng của mình. Miếng trầu “mới quệt” chứng tỏ nó còn xanh lắm, bùi lắm. Thế nhưng nó không phải miếng trầu bình thường là miếng trầu này chất chứa bao nỗi niềm thầm kín của người con gái phải gồng lên mạnh mẽ trước số phận hẩm hiu.

Thế nhưng, mạnh mẽ đến đâu thì không thể không có những lúc yếu mềm. Hai câu thơ còn lại bộc lỗ nỗi niềm xúc động, dạt dào cảm xúc của bà:

“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.

Theo câu chuyện dân gian xưa, khi đôi lứa mời nhau miếng trầu, đôi môi sẽ đỏ thắm lên đồng nghĩa với việc tơ duyên ấy đã thành. Hồ Xuân Hương không ngần ngại hỏi rằng: “Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Đường đường là phận nữ nhi nhưng với tâm hồn phóng khoáng, bà chủ động đi tìm tình yêu của cuộc đời, bà tự se duyên cho chính mình.

Thấu hiểu tình người, thi sĩ biết rằng nếu đã gặp “duyên” thì nên “thắm lại”, nhưng cũng đừng vì một phút đắm say mà khiến cả hai lâm vào đau khổ. Màu xanh của lá trầu với màu trắng nõn nà của vôi vốn là sự kết hợp đẹp đẽ, hoàn hảo nhưng trong mắt “bà chúa thơ Nôm”, màu sắc đó ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc.

Ý của bà rằng nếu đã nguyện cùng nhau se mối duyên này thì hãy biết trân trọng, vun đắp. Đừng để tình yêu nhạt nhòa dần theo năm tháng giống như màu xanh non nớt của lá trầu, đừng phụ tình, bạc bẽo với nhau như màu của vôi. 

Chắc hẳn Hồ Xuân Hương phải trải đời lắm nên mới có được cái nhìn đa chiều với vạn vật, sự việc được như vậy. Cũng chính nhờ bà mà hình ảnh bánh trôi nước cũng được nhân hóa lên với thân phận bi thương của người phụ nữ “Ba chìm bảy nổi với nước non” – Bánh trôi nước. Đó không chỉ thể hiện khát vọng về tình yêu đôi lứa mà còn chứa đựng kinh nghiệm, bài học thâm thúy về tình yêu. 

Với lời thơ dịu dàng,  giản dị, bài thơ “Mời trầu” khiến ta thêm khâm phục tài làm thơ, đối chữ của bà. Ngoài ra ta còn cảm nhận được thi vị của tình yêu qua khát khao sống với hạnh phúc đôi lứa. Bởi Hồ Xuân Hương với đường tình duyên trắc trở và sự cảm thông sâu sắc với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Bà thấy bất công, luyến tiếc khi phận nữ nhi yếu thế không thể xoay chuyển thời thế, vì vậy bà gửi gắm vào trong những lời thơ để tự khẳng định bản thân, cổ vũ chính mình cũng như cổ vũ cho phái đẹp tiến tới tình yêu hạnh phúc, phê phán thứ tình yêu rẻ tiền, bạc bẽo ở đời. Điều đó làm cho chúng ta càng thêm yêu mến người phụ nữ tài ba, “hồng nhan bạc phận”.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mời Trầu Ấn Tượng

Trong nền văn học việt Nam có biết bao nhiêu nữ thi sĩ gây được nhiều sự quan tâm và tiếng vang cho người đọc. Những bài thơ của họ không những nói số phận và những khát khao cháy bỏng của người phụ nữ mà còn thể hiện được tình cảm cá nhân của mình. Có lẽ nói đến những thì sĩ như thế ngoài Bà huyện Thanh Quan chúng ta nhớ ngay đến Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm của văn học trung đại Việt Nam.

Thơ Xuân Hương có cái thanh nhưng cũng có cái tục cốt là để nói lên những tâm tư tình cảm của mình. ngoài những tác phẩm như chùm thơ tự tình, bánh trôi nước thì chúng ta còn biết đến bài thơ Mời Trầu của bà. có thể nói bài thơ đã thể hiện được tấm lòng khao khát tình yêu của Xuân Hương.

Bài thơ chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng qua đó ta thấy được tất cả những cảm xúc khát khao của cá nhân nhà thơ Xuân Hương hay một phần nào đó cũng là khát khao của những người phụ nữ.

Trước hết là hai câu thơ đầu, nhà thơ của chúng ta đã mang đến những nét văn hóa của dân tộc từ ngàn đời nay:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Miếng trầu quả cau không chỉ xuất hiện trong thơ Xuân Hương mà còn xuất hiện từ trước đó và sau này. Tại sao thi sĩ lại chọn hình ảnh miếng trầu để nói lên những cảm xúc tình cảm trong mình. Miếng trầu ấy là miếng trầu trong ca dao xưa vẫn văng vẳng qua những lời ru của bà của mẹ, và đến sau này miếng trầu ấy là miếng trầu có bốn nghìn năm tuổi trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, là miếng trầu hàng hóa của người mẹ già trong thơ Hoàng Cầm nữa.

Không những thế hình ảnh miếng trầu gắn với người quan họ Bắc Ninh. Đó chính là truyền thống văn hóa dân tộc ta và đã được thi sĩ mang vào thơ để nói cho mình. Miếng trầu ấy không thể thiếu trong những đám cưới của miền bắc nước ta.

Xuân Hương nói rằng đó chính là miếng trầu hôi, quả cau nho nhỏ với miếng trầu hôi. Nói như vậy không phải là trầu cau có vị hôi mà là vị của trầu không thường rất hăng và cay cho nên thi sĩ đã khéo sử dụng tính từ “hôi” cho nó.

Từ “này của Xuân Hương” như khẳng đinh hay mời mọc người quân tử đến ăn miếng trầu ấy, đó là miếng trầu của Xuân Hương chứ không phải của ai hết. Miếng trầu ấy vẫn tươi xanh, hãy còn ngon ngọt vì mới quẹt vôi. Qua đó nhà thơ muốn thể hiện tấm lòng mình thắm đượm như miếng trầu kia và sự tươi tắn giống như sự tươi tắn của miếng trầu ấy. Đó là một sự tự khẳng định phẩm chất của chính bản thân Hồ Xuân Hương.

Tiếp đến hai câu thơ cuối thì Xuân Hương lại muốn nói lên những tâm tình thật sự đồng thời nhắc nhở những bậc quân tử về chuyện tình yêu nam nữ và duyên phận trên chốn hồng trần này:

“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi”

Sự tươi tắn và đẹp đẽ trong tâm hồn Xuân Hương giống như những miếng trầu cau kia vậy. Một vật tuy nhỏ cũng giống như số phận nhỏ của Hồ Xuân Hương khiến cho bà quyết định nói đến những tâm sự và ý nghĩ của cá nhân mình đối với những người quân tử có ý định tìm đến tình duyên với bà hay cũng như với những người phụ nữ khác. Nếu là duyên kiếp thì bén lại với nhau chứ đừng nên bạc bẽo như vôi, xanh như lá.

Nhà thơ sử dụng từ “bén “ thật tinh tế và hay. Thi sĩ nói tình yêu kia phát triển đến với nhau như những cây cau sợi trầu kia bén rễ quấn quýt lấy nhau vậy. Người quân tử kia hãy biết trân trọng những tâm hồn của người phụ nữ như Xuân Hương vả chăng nếu đã thành duyên thành kiếp thì đừng bạc bẽo như màu của vôi và đừng xanh như màu của lá.

Qua đây ta thấy bài thơ chỉ vẻn vẹn có bốn câu thơ nhưng thật sự thì ta đã cảm nhận được hết những tâm trạng và nỗi lòng mà Xuân Hương muốn gửi gắm. Tất cả những dòng thơ những hình ảnh kia đều nhằm thay Xuân Hương nói những cảm xúc ấy. Và ta bỗng thấy trân trọng người phụ nữ này.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mời Trầu Điểm Cao

Dân tộc Việt Nam có tục ăn trầu Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Trong đời sống hằng ngày, nhất là trong ngày lễ Tết, cưới sinh,…đều có sự hiện diện của trầu cau. Ca dao cũng có câu:

Gặp đây trao một miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu”.

Trầu cau là biểu tượng của nghĩa tình chung thủy, son sắt. Miếng trầu nhỏ bé đã trởthành một đề tài trữ tình trong văn chương của Hồ Xuân Hương. Mời trầu” chính là một lời nhắn gửi tế nhị của Bà chúa thơ Nôm đến người đời, hãy sống có nghĩa tình, đúng với đạo lí”. Qua đó thể hiện nỗi khát khao cuộc sống hạnh phúc lứa đôi của một trái tim nồng nàn, đằm thắm, giàu cá tính – được thể hiện một cách chân tình.

Đi qua cuộc đời của Hồ Xuân Hương có khá nhiều người đàn ông nhưng cuối cùng vẫn không được bền lâu. Tình cảm xao xuyến của thời tuổi trẻ cùng những lời giỡn cợt của Chiêu Hổ, thoắt lại là cái kiếp làm lẽ tủi nhục trăm bề trong sự lạnh lẽo của Tổng Cóc. Bạn văn chương như ông phủ Vĩnh Tường cũng chỉ là một đoạn đường ngắn ngủi.

Trái tim của nữ sĩ Xuân Hương tưởng chừng tan nát vì sự trớ trêu đến thế. Bao đêm trường ôm hận một mình, xót xa tự an ủi bản thân mình. Xuân Hương đã cảm thấy chua chát, cay đắng cho mình, cho những cuộc tình đã trải qua.

Bài thơ Mời trầu có lẽ ra đời trong giai đoạn nữ sĩ dựng quán nước kén bạn trăm năm. Thực ra, Xuân Hương đã ý thức được mình, đến độ chín chắn, cần một bạn chi kỷ hơn là những yêu đương nồng cháy thời tuổi trẻ. Bởi lẽ, nữ sĩ đã cảm nhận được sự lạnh giá cô đơn, rất cần một sự động viên an ủi, những lời nói tâm tình.

Hai câu đầu: Rất trung thực, khiêm tốn và chân thành. Hồ Xuân Hương đã nói về mình hết sức thẳng thắn. Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi”.Từ láy giảm nghĩa nho nhỏ” gợi hình dáng một quả cau xinh xắn, nhỏ nhắn, đáng yêu. Ở đây, Hồ Xuân Hương dùng từ trái nghĩa miếng trầu hôi” trái nghĩa miếng trầu thơm, trầu quế” thể hiện cách nói nhú nhường, nhí nhỏm, thân mật.

Câu thơ tách ra hai vế: Quả cau nho nhỏ / miếng trầu hôi” Nói về hai đối tượng khác nhau nhưng đều tạo ra một món quà khiêm nhường để mời khách. Từ này” giúp ta hình dung ra cử chỉ nữ sĩ đang mời khách dùng trầu. Xuân Hương đã lấy cái hồn dân tộc Việt Nam thanh cao cau trầu keo sơn gắn bó để nói về tình yêu của mình, độc đáo và thi vị.

Người ta thường nói têm trầu”, ở đây nữ sĩ dùng quệt ” Này của Xuân Hương mới quệt rồi”, cách nói rất giản dị nhưng rất đặc sắc khiến người đọc hình dung ra cử động nhẹ nhàng, dân dã, tạo được không khí cởi mở, chân thành, dí dỏm.

Một động từ độc đáo, mới lạ, chỉ ở con người cũng độc đáo, đầy cá tính một cách chặt chẽ, người đọc cảm thấy thú vị và yêu hơn cái quệt dễ thương, thấm đẫm tình ý ấy. Những động từ khác, giả sử được đưa vào thay thế, có lẽ rằng không thể lột tả được cái ý, cái tình mà câu thơ gửi gắm.

Tản Đà đầu những năm 20 của thế kỉ XX đã nhận xét rằng: Thơ Hồ Xuân Hương thật tinh quái, những câuthơ hay đọc lên đến ghê người”. Cólẽ vì cái độc đáo vì những động từ lạ Tản Đà mới nhận xét về bà như vậy.. Một cách thể hiện cái tôi của mình rất chuẩn nhị, khác thường mà lại duyên dáng. Nhà thơ tự trải lòng mình, bày tâm tư, tình cảm một cách chân thật, một cách khách thể hóa thật lạ kỳ, cảm động.

Hai câu cuối: Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.

Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”

Hồ Xuân Hương đưa ra một câu hỏi vừa đưa ra một yêu cầu Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Từ thắm”sử dụng rất đắt. Duyên” theo quan niệm dân gian là sự ràng buộc lẫn nhau từ kiếp trước đến kiếp này, Hồ Xuân Hương muốn nói đến cái duyên ấy.

Hai câu thơ đầu nói về chuyện ăn trầu, hai câu cuối chuyển sang chuyện duyên số, chuyện con người vậy mà ý thơ vẫn liền mạch, không gò bó chứng tỏ tài dùng ẩn dụ của nhà thơ đến mức tuyệt vời. Nhà thơ còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong câu kết làm cho ý thơ thật đặc sắc.

Xuân Hương trong tình yêu, càng đắm say càng lo sợ một sự cách chia, phai bạc, dường như những người yêu tha thiết thường hay sợ một ngày mai không còn được nguyên vẹn tươi thắm như buổi ban đầu. Đọc kỹ hai câu thơ mới biết chủ ý của nhà thơ sợ người tình đến với nhau không bằng tất cả tình yêu và tấm lòng xanh thắm bền chặt. Như thế, còn gì đau đớn bằng !

Bài thơ gợi cho người đọc mối thương cảm đến xót xa. Ta bỗng trăn trở tự hỏi, lẽ nào một người như Hồ Xuân Hương mà ước nguyện chính đáng, thường tình lại không thành?

Tóm lại bài thơ không chỉ đơn giản nói về duyên trầu mà Hồ Xuân Hương đã nói đến duyên phận của con người của người phụ nữ thời phong kiến. Cái duyên ấy bấp bênh bạc bẽo như vôi. Như trong một số bài khác bà có nhắc nhiều đến duyên phận của người phụ nữ thân em vừa trắng lại vừa tròn/bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước). Qua đó gợi lòng thương cảm tới những con người có niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi, một tình yêu son sắt thủy chung.

Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Mời trầu” với những ngôn từ giản dị mà giàu ý nghĩa của Bà chúa thơ Nôm đã không bó hẹp trong chuyện xã giao thường ngày mà còn đi sâu xa hơn vào tâm trạng, nỗi lòng của nữ sĩ. Chỉ bốn câu thơ mà như bao quát chuyện tình duyên lận đận của Hồ Xuân Hương. Do vậy mà Xuân Diệu đã đánh giá thơ Hồ Xuân Hương là “tót vời của nguồn thơ nôm na bình dân”.

Sống trong xã hội phong kiến suy tàn, bà luôn hiểu nỗi thống khổ của người phụ nữ bị chà đạp. Điều đáng quý là nữ sĩ luôn phát hiện và biểu dương cái đẹp vô giá-tấm lòng son sắt, thủy chung mà người phụ nữ luôn trân trọng, giữ gìn.

Gợi ý phân tích bài thơ 🔰Quả Mít Hồ Xuân Hương🔰Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Viết một bình luận