Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4 [Nội Dung Tập Đọc + Soạn Bài]

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4 ❤️️ Nội Dung Tập Đọc, Soạn Bài ✅ Mời Bạn Đọc Xem Thêm Về Bố Cục, Giáo Án, Đọc Hiểu.

Nội Dung Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Bài thơ về tiểu đội xe không kính ca ngợi tinh thần dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Cùng đọc nội dung Bài thơ về tiểu độ xe không kính lớp 4 bên dưới nhé.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính
(trích)

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.

PHẠM TIẾN DUẬT

Chú thích:

Tiểu đội: đơn vị nhỏ nhất trong quân đội, thường gồm từ 6 đến 12 người.

Tham khảo chi tiết 🍃Mùa Đông Trên Rẻo Cao🍃 Nội Dung Chính Tả, Soạn Bài

Giới Thiệu Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Bên dưới là thông tin giới thiệu Bài thơ về tiểu độ xe không kính lớp 4.

  • Bài thơ về tiểu độ xe không kính lớp 4 do Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt.
  • Bài thơ nói về một tiểu đội lái xe trong kháng chiến. Dù mưa đạn và gió bụi khiến xe bị vỡ kính, tóc các anh nhuốm bụi đường, các anh phải ăn tạm, ngủ tạm trong rừng, nhưng các anh vẫn luôn yêu đời, can đảm và hết lòng vì miền Nam, vì cách mạng.

Bố Cục Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Bố cục Bài thơ về tiểu độ xe không kính lớp 4 bao gồm 4 phần chính như sau:

  • Phần 1: Khổ thơ 1
  • Phần 2: Khổ thơ 2
  • Phần 3: Khổ thơ 3
  • Phần 4: Khổ thơ 4

Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 🍀 Rất Nhiều Mặt Trăng 🍀 Nội Dung Tập Đọc, Soạn Bài

Hướng Dẫn Tập Đọc Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Đừng vội bỏ lỡ hướng dẫn tập đọc Bài thơ về tiểu độ xe không kính lớp 4.

  • Đọc lưu loát toàn bài.
  • Đọc đúng nhịp thơ.
  • Biết đọc diễn cảm bài thơ với giọng đọc vui, hóm hỉnh, thể hiện tinh thần dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe.

Ý Nghĩa Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” khắc họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.

Lưu lại thông tin về bài 🌟 Trong Quán Ăn “Ba Cá Bống” 🌟 Nội Dung Tập Đọc, Soạn Bài

Đọc Hiểu Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Chia sẻ bạn đọc phần đọc hiểu Bài thơ về tiểu độ xe không kính lớp 4.

👉Câu 1. Ai là tác giả của bài thơ?

a. Phạm Tiến Duật.

b. Phạm Hổ.

c. Phạm Đình Ân.

👉Câu 2. Vì sao xe không có kính?

a. Vì lái xe chưa kịp lắp kính cho xe thì phải lên đường.

b. Vì bom giật, bom rung, kính vỡ mất rồi.

c. Vì lái xe tháo kính cất đi cho khỏi vỡ.

👉Câu 3. Tinh thần lạc quan của các chiến sĩ lái xe tiểu đội xe không kính được thể hiện qua những câu thơ nào?

a. Ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.

b. Những chiếc xe từ trong bom rơi. Đã về đây họp thành tiểu đội.

c. Thấy sao trời và đột ngột cánh chim. Như sa, như ùa vào buồng lái.

👉Câu 4. Tinh thần đồng đội của các chiến sĩ lái xe tiểu đội xe không kính được thể hiện qua những câu thơ nào?

a. Ung dung buồng lái ta ngồi. nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.

b. Những chiếc xe từ trong bom rơi. Đã về đây họp thành tiểu đội.

c. Thấy sao trời và đột ngột cánh chim. Như sa, như ùa vào buồng lái.

👉Câu 5. Tư thế hiên ngang của các chiến sĩ lái xe tiểu đội xe không kính được thể hiện qua những câu thơ nào?

a. Ung dung buồng lái ta ngồi. nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.

b. Những chiếc xe từ trong bom rơi. Đã về đây họp thành tiểu đội.

c. Thấy sao trời và đột ngột cánh chim. Như sa, như ùa vào buồng lái.

👉Câu 6. Bài thơ trên thuộc chủ đề nào?

a. Vẻ đẹp muôn màu.

b. Những người quả cảm.

c. Khám phá thế giới.

👉Câu 7. Có mấy câu kể “Ai là gì?” trong đoạn văn sau?

Anh Kim Đồng là một người liên lạc rất can đảm. Tuy không chiến đấu ở mặt trận, nhưng nhiều khi đi liên lạc, anh cũng gặp những giây phút hết sức hiểm nghèo.

a. 1.

b. 2.

c. 3.

👉Câu 8. Dòng nào dưới đây chỉ gồm những từ cùng nghĩa với từ dũng cảm?

a. Can đảm, gan dạ, gan lì, táo bạo, bạc nhược, nhu nhược.

b. Can đảm, gan dạ, anh dũng, anh hùng, hèn hạ, hèn mạt.

c. Can đảm, gan dạ, gan lì, táo bạo, anh dũng, anh hùng.

👉Câu 9. Bài thơ có giọng điệu như thế nào?

a. Da diết, não nề

b. Thống thiết, bi thương

c. Tươi vui, hóm hỉnh

d. Hào hùng, sục sôi

👉Câu 10. Nội dung của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là gì?

a. Kể về nỗi khổ của người lính trong kháng chiến

b. Kể về sự giúp đỡ của nhân dân với những người lính

c. Kể về cuộc sống nơi chiến trường

d. Ca ngợi tinh thần dũng cảm, lạc quan của người chiến sĩ trong những năm kháng chiến chỗng Mỹ cứu nước.

Đáp án:

Câu12345678910
ý đúngabcbabacdd

Có thể bạn sẽ cần đến bài 🌷 Kéo Co 🌷 Nội Dung Tập Đọc, Soạn Bài, Giáo Án

Soạn Bài Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Tham khảo gợi ý soạn bài Bài thơ về tiểu độ xe không kính lớp 4.

👉Câu 1 (trang 72 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2) : Những hình ảnh nào trong bài thơ nói lên tinh thần dũng cảm và lòng hăng hái của các chiến sĩ lái xe?

Trả lời:

Đó là những hình ảnh:

– Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi; ung dung buồng lái, ta ngồi; nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng; không có kính, ừ thì ướt áo; mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời; chưa cần thay, lái trăm cây số nữa, bắt tay nhau qua kính vỡ rồi.

👉Câu 2 (trang 72 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2) : Tình đồng chí, đồng đội của những người chiến sĩ được thể hiện trong những câu thơ nào?

Trả lời:

Đó là những câu: – Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới. Bắt tay nhau qua kính vỡ đi rồi

👉Câu 3 (trang 72 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2) : Hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra trận giữa bom đạn của kẻ thù, gợi cho em những cảm nghĩ gì?

Trả lời:

Gợi cho em những cảm nghĩ về những người lính cụ Hồ gan dạ, dũng cảm quyết “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” như nhà thơ Tô’ Hữu đã từng nói, để đưa cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn.

👉Câu 4 (trang 72 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2) : Nêu ý nghĩa của bài thơ

Trả lời:

Bài thơ ca ngợi tinh thần gan dạ dũg cảm của những người lính lái xe trong những năm kháng chiến chông Mĩ cứu nước. Họ đã vượt qua muôn ngàn khó khăn gian khố dưới làn bom đạn của giặc Mĩ để tiếp tế súng đạn, lương thực cho bộ đội ta ở chiến trường đánh thắng giặc Mĩ xâm lược.

Tìm hiểu thêm tác phẩm 💚 Tuổi Ngựa 💚 Nội Dung Bài Thơ, Soạn Bài, Cảm Nhận, Giáo Án

Giáo Án Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Sau đây là nội dung giáo án Bài thơ về tiểu độ xe không kính lớp 4.

I. MỤC TIÊU:

1. Kiến thức

– Hiểu ND, ý nghĩa của bài: Ca ngợi tinh thần dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (trả lời được các câu hỏi)

2. Kĩ năng

– Đọc trôi trảy, rành mạch bài thơ, giọng đọc tươi vui. lạc quan. Học thuộc lòng 1- 2 khổ thơ thơ.

3. Thái độ

– GD tinh thần yêu nước, dũng cảm, lạc quan trong chiến đấu.

4. Góp phần phát triển các năng lực

– NL giao tiếp và hợp tác, NL giải quyết vấn đề và sáng tạo, NL ngôn ngữ, NL thẩm mĩ.

GD QP-AN: Nêu những khó khăn vất vả và sáng tạo của bộ đội, công an và thanh niên xung phong trong chiến tranh

II. CHUẨN BỊ:

1. Đồ dùng

– GV: Tranh minh hoạ bài tập đọc (phóng to)

           Bảng phụ viết sẵn đoạn luyện đọc

– HS: SGK

2. Phương pháp, kĩ thuật

– Phương pháp: Quan sát, hỏi – đáp, luyện tập – thực hành

– Kĩ thuật: Làm việc nhóm, chia sẻ, động não, tia chớp

III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC:

Hoạt động của giáo viênHoạt động của học sinh
1. Khởi động: (3p)
+ Đọc bài Khuất phục tên cướp biển

+ Cặp câu nào trong bài khắc hoạ hai hình ảnh đối nghịch nhau?

+ Nêu ý nghĩa bài học.

– GV dẫn vào bài mới – Ghi tên bài
– TBHT điều khiển lớp trả lời, nhận xét:

+ 1 HS đọc

+ Một đằng thì đức độ, hiền từ mà nghiêm nghị. Một đằng thì nanh ác, hung hăng như … chuồng

+ Ca ngợi bác sĩ Ly đã dũng cảm và kiên quyết bảo vệ lẽ phải
2. Luyện đọc: (8-10p)

* Mục tiêu: Đọc trôi chảy, rành mạch bài thơ, giọng đọc vui, lạc quan

Cách tiến hành:
– Gọi 1 HS đọc bài (M3)

– GV lưu ý giọng đọc: Toàn bài đọc vui thể hiện tinh thần lạc quan của các chiến sĩ, nhấn giọng các từ ngữ: không phải vì xe không có kính, chạy thẳng vào tìm, ừ thì ướt áo, mưa tuôn, chưa cần thay, mau khô áo,…

– GV chốt vị trí các đoạn






– Lưu ý sửa lỗi đọc và ngắt nghỉ cho các HS (M1) 
– 1 HS đọc bài, cả lớp đọc thầm

– Lắng nghe

– Nhóm trưởng điều hành cách chia đoạn

–  Bài chia làm 4 đoạn.(Mỗi khổ thơ là một đoạn)

– Nhóm trưởng điều hành nhóm đọc nối tiếp trong nhóm lần 1 và phát hiện các từ ngữ khó: xoa, đột ngột, như sa như ùa, xối, tiểu đội, ….) 

– Luyện đọc từ khó: Đọc mẫu (M4)-> Cá nhân (M1)-> Lớp- Giải nghĩa các từ: đọc chú giải

– HS đọc nối tiếp lần 2 theo điều khiển

– Các nhóm báo cáo kết quả đọc

–  1 HS đọc cả bài (M4)
3.Tìm hiểu bài: (8-10p)

* Mục tiêu: Hiểu nội dung bài: Ca ngợi tinh thần dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (trả lời được các câu hỏi)

* Cách tiến hành: Làm việc nhóm 4 – Chia sẻ trước lớp
– Gọi HS đọc các câu hỏi cuối bài.


+ Những hình ảnh nào trong bài thơ nói lên tinh thần dũng cảm và lòng hăng hái của các chiến sĩ lái xe?



+ Tình đồng chí, đồng đội của các chiến sĩ được thể hiện qua những câu thơ nào?

 Các câu thơ đó đã thể hiện tình đồng chí, đồng đội thắm thiết giữa những người chiến sĩ lái xe ở chiến trường nay khói lửa bom đạn.

+ Hình ảnh những chiếc xe không kính vẫn băng băng ra trận giữa bom đạn kẻ thù gợi cho em cảm nghĩ gì?à Đó là khí thế quyết chiến, quyết thắng Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước của hậu phương lớn miền Bắc trong thời kì chiến tranh chống đế quốc Mĩ.

* GDQP-AN: Trong chiến tranh, các chiến sĩ công an, bộ đội và thanh niên xung phong phải chịu rất nhiều khó khăn, gian khổ nhưng họ cũng rất sáng tạo và lạc quan, yêu đời, thích nghi với cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

+ Hãy nêu nội dung của bài.

* HS M3+M4 đọc trả lời câu hỏi hoàn chỉnh và nêu nội dung đoạn, bài. 
– 1 HS đọc- HS tự làm việc nhóm 4 trả lời các câu hỏi

– TBHT điều hành các nhóm trả lời, nhận xét

– Đó là những hình ảnh:

* Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
* Ung dung, buồng lái ta ngồi.
* Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
* Không có kính, ừ thì ướt áo.
* Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời.
* Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa…

– Thể hiện qua các câu: 
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới.
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi … 

+ Các chú lái xe rất vất vả, rất dũng cảm.
+ Các chú lái xe thật dũng cảm, lạc quan, yêu đời … 
+ Các khó khăn, gian khổ: thiếu thức ăn, nước uống, thuốc men; ngủ dưới những căn hầm ẩm ướt; bị bệnh sốt rét, luôn luôn bị đe doạ tính mạng bởi bom đạn,…
+ Sáng tạo: xe không kính, bếp Hoàng Cầm, lá nguỵ trang, …

Nội dung: Bài thơ ca ngợi tinh thần dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước.

– HS ghi nội dung bài vào vở
3. Luyện đọc diễn cảm – Học thuộc lòng (8-10p)

* Mục tiêu: HS biết đọc diễn cả bài. Học thuộc lòng 1-2 khổ thơ

* Cách tiến hành: Hoạt động cá nhân – nhóm – cả lớp
– Yêu cầu HS nêu giọng đọc toàn bài.
– Yêu cầu các nhóm thảo luận và tự chọn 2 đoạn thơ đọc diễn cảm

– Yêu cầu học thuộc lòng  1- 2 khổ thơ tại lớp
– GV nhận xét chung

4. Hoạt động ứng dụng (1 phút)

5. Hoạt động sáng tạo (1 phút)
– 1 HS nêu lại

– 1 HS đọc toàn bài

– Nhóm trưởng điều khiển:

+ Đọc diễn cảm  trong nhóm
+ Thi đọc diễn cảm trước lớp

– Lớp nhận xét, bình chọn.

– HS học thuộc lòng và thi học thuộc lòng tại lớp

– Ghi nhớ nội dung bài thơ

– Hãy chọn hình ảnh mình thích nhất và bình về hình ảnh đó

Cập nhật thêm về 🌺Cánh Diều Tuổi Thơ 🌺 Nội Dung, Bài Học, Tóm Tắt

5 Mẫu Cảm Nhận Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Hay Nhất

Có thể các bạn sẽ cần đến 5 mẫu cảm nhận Bài thơ về tiểu độ xe không kính hay nhất.

Cảm Nhận Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4 Nổi Bật – Mẫu 1

Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và những dấu ấn khó phai mờ. Hình ảnh những những cô gái thanh niên xung phong, anh bộ đội cụ Hồ là một trong những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng như tinh thần bất khuất, hiên ngang hào hùng của người chiến sĩ.

Với phong cách thơ tự do phóng khoáng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Đây cũng là bài thơ nằm trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970. Mở đầu bài thơ là một hình ảnh hết sức cụ thể, chân thực và độc đáo:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì “bom giật bom rung” cho nên “kính vỡ đi rồi”.

Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Kì dị và độc đáo chính là những tính từ miêu tả chính xác cho những chiếc xe như vậy. Và có thể thấy rằng, lời giải thích rất thật thà, đơn giản nhưng lại chứa đựng một hiện thực sâu sắc.

Không có kính, tưởng chừng như thiếu thốn, tưởng chừng như vất vả nhưng ở đây những chiến sĩ lái xe lại không hề bi quan. Họ biến hình ảnh chiếc xe không kính không bình thường thành cái bình thường và biến cái thiếu thốn, khó khăn thành điều thú vị. Chính vì thế mà người đọc bắt gặp ở đây những nét tinh nghịch và lạc quan của người lính:

Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng

Hai từ “ung dung” đảo lên đầu câu cho thấy tư thế hiên ngang, có thể làm chủ được tay lái, làm chủ được con đường phía trước của người lính lái xe. Không những thế, đại từ “ta” vừa là chỉ người lái xe, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình.

Với tâm thế này, thì phía trước là trời đất bao la, rộng lớn hay phía trước là những khó khăn vất vả thì người chiến sĩ vẫn tự tin tiến về phía trước, quân dân ta vẫn hùng mạnh bước tới.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã xây dựng thành công hình tượng tiểu đội xe không kính chân thực, độc đáo, qua đó khắc họa được chân dung của người lính lái xe Trường Sơn với những vẻ đẹp phẩm chất cao quý, tiêu biểu cho thế hệ trẻ thời kỳ kháng chiến chống mỹ cứu nước.

Làm nên thành công cho bài thơ còn nằm ở việc tác giả vận dụng tinh tế thể thơ tự do đậm chất văn xuôi, sử dụng hình ảnh thơ mang chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường, cùng với ngôn ngữ thơ mang tính khẩu ngữ tự nhiên, giọng điệu ngang tàng khỏe khoắn, hài hước dí dỏm.

Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Và cái kết tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.

Cảm Nhận Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4 Chọn Lọc – Mẫu 2

Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây

Những câu hát rộn ràng, mà vẫn đầy tha thiết được phổ từ bài thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Nhưng đến với thơ ca ông ta cũng không thể không nhắc đến tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với chất ngang tàng, khí thế, vô cùng dũng cảm kiên cường của những người lính, họ là đại diện tiêu biểu cho người lính Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính ra đời vào những năm cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra gay go và quyết liệt nhất. Ở khắp nơi các thanh niên gác lại chuyện học tập lên đường đánh giặc, xung phong vào chiến trường. Lúc này con đường Trường Sơn là con đường huyết mạch, nối liền hậu phương và tiền tuyến nên bị bom Mỹ bắn phá ác liệt.

Nhưng bằng sự dũng cảm, lòng quyết tâm những chiếc xe đã vượt qua mưa bom bão đạn lên đường ra trận. Bằng ngòi bút chân thật, âm điệu khỏe khoắn, hào hùng Phạm Tiến Duật đã đem đến cho người đọc cái nhìn đầy đủ nhất về cuộc sống, chiến đấu của người lính lái xe.

Ngay từ câu thơ mở đầu, người lính đã giới thiệu về người bạn đồng hạnh của mình – những chiếc xe không kính:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Câu thơ vừa có gì đó ngàng tang, nhưng đồng thời cũng hết sức dí dỏm. Lời thơ tự nhiên, chân thật như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Ba chữ không đi cùng với các động từ mạnh: giật, rung giúp diễn tả cái dữ dội, ác liệt của chiến tranh , đồng thời cũng thể hiện cái nhìn lạc quan của người lính. Câu thơ như một lời phân trần, về vẻ ngoài sứt mẻ, thiếu thốn của chiếc xe.

Và đằng sau những chiếc xe thiếu thốn, vỡ kính ấy hiện lên chân dung của người lính:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Trước hiện thực gian khổ, khốc liệt của chiến tranh, người lính vẫn hết sức ung dung, đường hoàng. Họ luôn chủ động trước mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Cái nhìn thẳng ấy cho thấy tư thế hiên ngang, nhìn thẳng vào hiện thực cuộc chiến đấu mà không hề né tránh.

Những chiếc xe không kính đó còn tạo điều kiện cho người lính hòa mình vào thiên nhiên. Là những luồng gió mạnh táp thẳng vào buồng lái, khiến cho ai nấy phải cay mắt, nhưng đã được Phạm Tiến Duật hình dung hết sức dí dỏm “xoa mắt đắng” – xoa dịu cái rát bỏng của luồng gió Trường Sơn.

Nào đâu chỉ có vậy, còn chim chóc và sao trời cùng hòa chung với người lính một nhịp thở. Lúc này âm thanh của tiếng chim đã đẩy lùi mọi khó khăn, nguy hiểm, nhường chỗ để họ cảm nhận từng vẻ đẹp của thiên nhiên. Có thể nói bằng cái nhìn bình thản, lạc quan, tư thế ung dung người lính đã chiến thắng mọi bom đạn của kẻ thù.

Ở hai khổ thơ tiếp theo, vẻ đẹp của người lính tiếp tục được khắc họa khi đối mặt với khó khăn, gian khổ ấy chính là khói bụi Trường Sơn:

Không có kính, ừ thì có bụi

Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”

Khổ thơ đã sử dụng thủ pháp lặp cấu trúc kết hợp với điệp từ “ừ thì” “chưa cần” khiến cho cả khổ thơ như một lời thách thức trước những thử thách của thiên nhiên. Đây là những câu thơ miêu tả hết sức chân thực về những khó khăn mà người lính lái xe phải trải qua: đối mặt với mưa rào, đối mặt với khói bụi khi trời nắng nóng.

Nhưng đối với họ những thử thách đó chỉ làm cho họ thêm phần kiên cường, họ “chưa cần thay” “chưa cần rửa” để lái trăm cây số, lái nhanh ra tiền tuyến. Kết hợp với giọng thơ đầy ngàng tang đã cho thấy thái độ bất chấp khó khăn, coi người hiểm nguy của người lính Trường Sơn.

Ngoài vẻ đẹp về sự kiên cường, dũng cảm, ở họ còn toát lên tình đồng chí đồng đội gắn bó. Sau những quãng đường đầy mệt nhọc và nguy hiểm, qua cửa kính vỡ rồi họ bắt tay nhau, trao cho nhau sức mạnh, niềm tin vào tương lai đất nước.

Đối với họ, không dừng lại ở tình đồng chí đơn thuần mà đó còn là tình cảm gia đình: “Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy” . Để rồi sau bữa cơm quây quần, đầm ấm đó họ chia tay nhau, tiếp tục lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc.

Khổ thơ cuối cùng hình ảnh những chiếc xe không kính xuất hiện lại một lần nữa, xe không kính, không đèn, không mui, vô cùng thiếu thốn, đã bị biến dạng vì bom đạn kẻ thù. Nhưng đó không phải là điều mà Phạm Tiến Duật muốn hướng đến, đối lập với cái không ấy là một cái có vô cùng cao cả, thiêng liêng:

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Trái tim là hình ảnh hoán dụ đặc sắc, biểu tượng cho những người lính lái xe. Chỉ cần trong những chiếc xe đó có trái tim nhiệt huyết, tinh thần quả cảm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thì những chiếc xe đó vẫn ngày đêm băng đèo vượt suối, vượt qua mọi hiểm nguy, tiến về phía trước. Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy những chiếc xe chứ không thể phá hủy lòng nhiệt thành yêu nước của những chiến sĩ cách mạng.

Với ngôn từ giản dị, đậm chất khẩu ngữ cùng giọng thơ ngang tàng, hóm hỉnh, Phạm Tiến Duật đã đem đến cho người đọc chân dung đẹp đẽ của người lính. Họ vừa có cái hóm hỉnh của tuổi trẻ vừa có sự kiên cường, anh dũng, quả cảm. Vẻ đẹp của những người lính cũng như một bài học nhắc nhở cho chúng ta về ý thức trách nhiệm đối với đất nước.

Cảm Nhận Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4 Ấn Tượng – Mẫu 3

Chiến tranh đã lùi xa theo sự biến động không ngừng của thời gian nhưng dư âm của nó vẫn còn lưu lại trong những trang sử hào hùng của dân tộc qua những bài ca, vần thơ, câu chuyện trong văn học. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong số những tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ điều này.

Qua bài thơ, tác giả đã làm nổi bật hai hình tượng cùng sóng đôi và song hành trong mỗi một khổ thơ: đó là những tiểu đoàn xe không kính và người lính lái xe với những vẻ đẹp ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Ở hai khổ thơ đầu tiên, tác giả đã làm nổi bật hình tượng những chiếc xe không kính và tư thế kiên cường, ung dung của người lính. Bằng giọng thơ mang đậm chất văn xuôi và lối nói mang tính khẩu ngữ, những chiếc xe không kính xuất hiện một cách chân thực và trần trụi:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Điệp ngữ “Bom giật bom rung” đã diễn tả thành công sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh – không gian của những “mưa bom bão đạn” và hàng loạt những hiểm nguy đang rình rập người chiến sĩ. Nhưng với tinh thần bất khuất, họ đã đối diện với những điều đó với tư thế kiên cường, ung dung:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Tác giả đã đưa từ “ung dung” lên đứng đầu câu để nhấn mạnh vẻ đẹp hiên ngang của người lính. Đi qua những “lửa đạn bom rơi”, qua buồng lái không kính, họ trực diện nhìn thẳng vào hiện thực cuộc chiến:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Nhìn thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

Không gian rộng lớn của con đường ra trận được gợi mở theo bút pháp hiện thực. Qua những buồng lái, người lính chứng kiến tất cả những gì khắc nghiệt nhất của thiên nhiên và chiến trường. Nhịp thơ dồn dập qua điệp từ “nhìn” và giọng thơ mạnh mẽ đã nhấn mạnh tư thế chủ động đối diện với mọi khó khăn, gian khổ của người lính.

Dẫu có bao nhiêu trở ngại “gió xoa mắt đắng”, “đột ngột cánh chim” thì họ vẫn cầm chắc tay lái để nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù để điều khiển những chiếc xe thẳng tiến vững vàng ra mặt trận.

Ở hai khổ thơ tiếp theo, tác giả đã miêu tả sự khắc nghiệt của cuộc sống nơi chiến trường cùng tinh thần bất chấp hiểm nguy và sự lạc quan của người lính.

Con đường ra trận không chỉ có bom đạn của kẻ thù mà còn có những yếu tố khắc nghiệt khác như bụi bặm, “mưa tuôn”, “mưa xối” khiến người chiến sĩ lái xe gặp vô vàn trở ngại như “bụi phun tóc trắng như người già”, “ừ thì ướt áo” nhưng họ vẫn bản lĩnh , vững vàng vượt qua với tinh thần lạc quan cùng sự hài hước, dí dỏm:

Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Hay như:

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”

Với giọng thơ hóm hỉnh cùng ngôn ngữ bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày, tinh thần lạc quan cùng những tiếng cười của người lính vang lên giữa chiến trường khốc liệt đã được tác giả Phạm Tiến Duật miêu tả thành công. Đó cũng là vẻ đẹp chung của thế hệ thanh niên xung phong thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Không chỉ dừng lại ở đó, hình tượng những chiếc xe không kính còn được nhà thơ miêu tả trong mối quan hệ với vẻ đẹp của tình đồng đội giữa những người lính lái xe. Qua những khung cửa không kính, họ “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” và “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới”.

Đó là những cái “bắt tay” thấu hiểu, đồng cảm, sẻ chia những khó khăn mà họ đi qua, gợi nhắc hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” mà tác giả Chính Hữu từng miêu tả ở tác phẩm “Đồng chí”. Tình đồng đội gắn bó keo sơn giữa người chiến sĩ còn được thể hiện thông qua định nghĩa về gia đình mang đậm chất lính:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Những hiểm nguy mà người lính đã đi qua càng làm cho họ thêm gắn bó sâu nặng. Dù cho những bữa cơm thời chiến diễn ra đơn sơ, giản dị và chóng vánh nhưng vẫn đủ sức xóa đi mọi khoảng cách để họ xích lại gần nhau, xem nhau như anh em ruột thịt trong một gia đình.

Ở khổ thơ cuối cùng, tác giả tiếp tục miêu tả hình tượng những chiếc xe không kính với bút pháp hiện thực. Tiểu đội xe không kính hiện lên với sự thiếu thốn và không vẹn toàn: “Không có kính, rồi xe không có đèn / Không có mui xe, thùng xe có xước”. Những yếu tố cần thiết để đảm bảo chiếc xe hoạt động bình thường và an toàn dần biến mất, nhưng rồi chúng vẫn “bon bon” chạy thẳng ra chiến trường một cách hiên ngang, bởi:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Sức mạnh của lòng yêu nước cùng lý tưởng một lòng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã được nêu bật thông qua cách biểu đạt cụ thể về chặng đường “vì miền Nam”. Tác giả đã sử dụng biện pháp hoán dụ qua hình ảnh “trái tim” để gợi lên ý chí chiến đấu cùng sự ngoan cường dũng cảm và lý tưởng cách mạng cao đẹp của người lính. Chính “trái tim” đầy nhiệt huyết đó đã giúp họ chiến thắng mọi gian khổ và đi qua mọi bom đạn của kẻ thù.

Như vậy, thông qua thể thơ tự do, giọng thơ tự nhiên pha chút hài hước, dí dỏm cùng ngôn ngữ thơ giản dị, tác giả Phạm Tiến Duật đã đóng góp một cách nhìn mới mẻ về hiện thực chiến tranh.

Xuyên suốt tác phẩm, hình tượng tiểu đội xe không kính cùng những người lính lái xe luôn được miêu tả trong sự song hành để làm nổi bật vẻ đẹp, sức mạnh của tinh thần yêu nước và tinh thần bất khuất, kiên cường chống ngoại xâm trong những tháng năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Cảm Nhận Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4 Đặc Sắc – Mẫu 4

Phạm Tiến Duật (1941) là nhà thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông thường hay viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến với giọng điệu trẻ trung, sôi nổi nhưng vô cùng sâu sắc. Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm thuộc chùm thơ của Phạm Tiến Duật viết về anh bộ đội cụ Hồ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung và nhiệt huyết.

Ở khổ thơ thứ nhất và thứ hai, nhà thơ đã phác họa tư thế ung dung, hiên ngang của người lính trên đoạn đường Trường Sơn:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

Những chiếc xe được nhà thơ miêu tả thật đặc biệt vì nó không giống như những con tàu trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên hay con thuyền chở đầy cá trong “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận mà nó là những chiếc xe “không có kính”. Người lính lái xe đã lý giải cho chúng ta biết vì sao chiếc xe của họ vốn nguyên vẹn nhưng nay lại không có kính là bởi vì bom đạn của quân thù đã phá vỡ chúng.

Thế nhưng họ vẫn giữ thái độ lạc quan, hóm hỉnh đùa nhau rằng: “Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Dù hiện thực bom đạn có khốc liệt đến mức nào nhưng những người lính vẫn “ung dung” nhìn thẳng vào hiện thực để tiếp tục chiến đấu.

Phải chăng kẻ thù dùng bom đạn phá hủy những chiếc xe nhằm ngăn cản hoạt động chi viện của những người lính, thế nhưng với những chiếc xe méo mó, biến dạng, không có kính che chắn thì những người lính vẫn ung dung làm nhiệm vụ: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, nhìn thấy gió, “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Người lính không hề tỏ ra lo lắng mà cứ thế hiên ngang vững chắc tay lái nhìn về phía trước và tràn đầy lòng quyết tâm.

Họ còn nhìn thấy những ngôi sao trên trời hay những cánh chim bay lượn của sự tự do khi ngồi trên chiếc xe không kính. Có lẽ, chiếc xe không kính chính là người bạn đồng hành vững chắc giúp người lính được hòa quyện và rộng mở tâm hồn để đón nhận thiên nhiên “Như sa, như ùa vào buồng lái”.

Đồng hành cùng những chiếc xe không có kính là những người lính lái xe có tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi gian khổ để tiến về phía trước:

“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

Phải chăng thời tiết khốc liệt với hai mùa mưa, nắng của Trường Sơn đã khiến cuộc sống, chiến đấu của những người lính trở nên khó khăn, gian khổ hơn. Bụi Trường Sơn trắng xóa khiến cho tóc của họ “trắng như người già”.

Xe không có kính khiến cho những người lính phải chịu bụi, chịu mưa rét nhưng vẫn cùng nhau “phì phèo châm điếu thuốc” để rồi nhìn nhau với khuôn mặt lấm lem của bụi đường cười “ha ha”. Đây là tiếng cười của sự sảng khoái, tinh nghịch của người lính lái xe có tâm hồn trẻ trung và tràn đầy sự lạc quan.

Với họ niềm vui lớn nhất chính là được chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cho nên dù Trường Sơn có là “Một dãy núi mà hai màu mây/ Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác” cũng không thể làm chùn bước họ. Mùa mưa ở Trường Sơn thường kéo dài dai dẳng khiến họ “ướt áo” vì “mưa tuôn, mưa xối” chứ không phải chỉ là mưa phùn nhưng họ luôn đón nhận mọi khó khăn với tâm thế sẵn sàng “ừ thì” và coi đó như là một yếu tố khách quan mà họ phải vượt qua.

Nếu như ở đoạn đầu của tác phẩm chúng ta đã bắt gặp hình ảnh chiếc xe không kính thì đến đoạn năm của tác phẩm đã cho ta thấy những chiếc xe không kính đó nay đã họp thành tiểu đội. Đó chính là sự gắn kết của tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính đến từ mọi miền đất nước:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”

Bom đạn chiến tranh đã làm nên một tiểu đội xe không kính cho nên niềm vui lớn nhất của những người lính là được gặp lại đồng đội của mình và chỉ cần một cái “bắt tay” để thể hiện tình cảm. Cái bắt tay qua ô cửa kính đã vỡ thể hiện sự đoàn kết, keo sơn giữa những người lính. Chỉ cần một cái bắt tay thôi cũng giúp họ tiếp thêm sức mạnh để cùng nhau chiến đấu vì miền Nam phía trước.

Sự gắn kết tự nhiên giữa những chiếc xe không kính đã làm nên một tiểu đội đặc biệt, không cố định nhưng lại vô cùng bền chặt và gắn bó chặt chẽ với nhau trên mọi nẻo đường. Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm” xuất hiện chính là hiện thân của những bữa cơm họp mặt hiếm hoi trên chặng đường chiến đấu. Với người lính, quan niệm về gia đình của họ hết sức sâu sắc vì không cần chung một mái nhà mà chỉ cần chung bát, chung đũa thôi cũng là một gia đình rồi.

Nhờ có tình đồng chí, đồng đội mà những con người xa lạ đến từ mọi miền tổ quốc nay đã trở thành một gia đình cùng nhau lái những chiếc xe không kính vượt mọi nẻo đường Trường Sơn. Không chỉ là những bữa ăn tạm bợ mà những giấc ngủ của họ cũng rất “chông chênh”. Thế nhưng những người lính của chúng ta đã tự động viên nhau vì một màu xanh hy vọng để đi tiếp: “Lại đi lại đi trời xanh thêm”.

Tinh thần yêu nước mãnh liệt của người lính đã giúp họ vượt qua mọi cái “không có” của hoàn cảnh:

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Những chiếc xe không có kính khiến cho “bụi phun tóc trắng như người già” mà còn không có đèn, không có mui xe. Khó khăn ngày càng được nhân lên gấp bội nhưng những người lính vẫn bất chấp mọi khó khăn để băng băng “xe chạy vì miền Nam phía trước”. Có lẽ, trái tim nhiệt huyết, trái tim yêu nước nồng nàn, sục sôi chiến đấu vì miền Nam thân yêu của người lính chính là sức mạnh phi thường giúp họ vượt lên trên tất cả.

“Trái tim” của người lính lái xe với sự kiên cường, can đảm còn là trái tim của niềm hi vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào một tương lai không xa. Hình ảnh “trái tim” giàu sức gợi đã cho ta thấy được dù hoàn cảnh có bị tàn phá đến đâu, có tác động đến họ nhiều thế nào đi chăng nữa thì những người lính ấy vẫn giữ trong mình một trái tim nhiệt huyết.

Hình tượng người lính lái xe được Phạm Tiến Duật khắc họa bằng những ngôn từ hóm hỉnh, lạc quan, nhiều màu sắc. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp hoán dụ và nhiều hình ảnh giàu ý nghĩa để miêu tả những phẩm chất cao đẹp của người lính. Người lính lái xe được hiện lên với vẻ đẹp oai hùng, yêu nước, dũng cảm đáng ngợi ca. Đây cũng là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm.

Bằng ngòi bút tài hoa của mình, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã phác họa thành công bức tranh của những chủ nhân chiếc xe không kính trên dọc tuyến đường Trường Sơn. Qua hình tượng người lính, nhà thơ muốn gửi gắm một thái độ trân trọng, đồng cảm với những khó khăn mà họ phải trải qua vì miền Nam ruột thịt phía trước.

Cảm Nhận Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4 Tiêu Biểu – Mẫu 5

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

(Theo chân Bác – Tố Hữu)

Câu thơ quen thuộc gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Hình ảnh những người trẻ tuổi từ biệt quê hương lên đường chiến đấu mãi mãi là biểu tượng đẹp của một dân tộc kiên cường, bất khuất. Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính.

Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ – những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Với Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật cũng đóng góp “một tiếng hát sôi nổi trẻ trung” trong bản trường ca hào hùng ấy.

Với quan niệm “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của cuộc sống chiến trường vào trong thơ một cách tự nhiên và chân thực. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.

Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Ở họ là phẩm chất anh hùng, gan dạ và hết sức trẻ trung. Tinh thần của họ hoàn toàn đối lập với hoàn cảnh và vượt lên trên hiện thực cuộc chiến ác liệt. Phẩm chất ấy được thể hiện ngay đầu bài thơ:

Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.

Xưa nay làm thơ, người ta kỵ đưa những hình ảnh thô vụn vào trong thơ. Để “mĩ lệ hóa” phương tiện đi lại và vận chuyển người ta thường lấy hình ảnh của “cỗ xe tam mã” (Puskin), “con tàu” (Chế Lan Viên) hay “con thuyền” (Huy Cận), “cánh buồm” (Hoàng trung Thông),… chứ không ai lại vụng về như Phạm Tiến Duật, đưa cả chiếc xe tải hết sức trần trụi vào trong thơ.

Ấy lại là chiếc “xe không có kính”, bị thương ở nhiều chỗ hết sức tàn tạ. Thế mà, hình ảnh chiếc xe lập tức trở thành linh hồn của câu thơ, gây được sự chú ý của người đọc.

Câu thơ như một lời giải thích hóm hỉnh, đầy tinh nghịch. Xe vốn có kính nhưng giờ nó không còn kính nữa là bởi do bom đạn kẻ thù tàn phá. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm: “Bom giật bom rung kính vỡ mất rồi”.

Chất thơ của câu thơ hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Bằng việc giải thích ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh. Song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.

Tiếp sau khung kính vỡ, hình ảnh người lính hiện lên ung dung, tự tại sau tay lái:

“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai nhằm nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe. Những người chiến sĩ ấy đang ngạo nghễ ngồi trên xe, tự tin, bình tĩnh, làm chủ tình hình. Khẩu khí của họ thật mạnh mẽ: “ta”, càng làm cho những người lính ấy thêm oai phong, lẫm liệt.

Điệp ngữ “nhìn” nhấn lại đến ba lần, rõ ràng những người chiến sĩ lái xe rất cảnh giác, đôi mắt lúc nào cũng hướng thẳng đến mục tiêu, đó chính là tư thế sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Họ “nhìn thẳng” vào hiện thực cuộc chiến khốc liệt, nhìn thẳng vào những mất mát, hi sinh và sẵn sàng tiến tới. Họ không hề run sợ khi phải chiến đấu trong điều kiện thiếu bảo đảm, không an toàn.

Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Cả một thế giới rộng lớn tràn ngập trong buồng lái:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.

Nhờ chiếc kính vỡ ấy mà họ đã cảm nhận được những cái mà trước đây dù ở rất gần họ không thể cảm nhận được. Họ thấy gió thổi cay đôi mắt, thấy con đường hiển hiện như chạy thẳng vào trong tim, thấy sao đêm sáng rực trên bầu trời và những cánh chim đột ngột lướt qua trước mặt. Tất cả cứ chực “như sa như ùa” vào buồng lái.

Tất cả được nhìn nhận một cách trìu mến thân thương chứ không phải là cản vật, là trở ngại có thể gây nguy hiểm cho người lính hay cản trở nhiệm vụ của họ. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.

Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:

Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Đường trường Sơn đâu chỉ có bụi mà ẩn chứa biết bao hiểm nguy, thách thức. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đó cũng là khí thế bao trùm của Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Cuộc sống có thể ngắn ngủi nhưng tình yêu tổ quốc là trường cửu. Bước vào trận chiến là họ đã sẵn sàng hi sinh thế nên những khó khăn, vất vả đối với họ chỉ là như cơn gió bụi thoảng qua, không hề khiến họ bận tâm.

Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời.

Họ chẳng những thân thiện chấp nhận những thiếu thốn về vật chất mà còn biết biến những khó khăn đó thành trò đùa vui thú. Cuộc đời quân ngũ gian khổ của họ tuy vật chất thiếu thốn nhưng tinh thần lúc nào cũng dâng đầy niềm lạc quan phơi phới, đó chính là lòng hăng hái và nhiệt tình của tuổi trẻ Việt Nam.

Những khó khăn cứ trùng trùng tiếp diễn. Nhưng càng khó khăn, người lính lại càng tỏa sáng:

“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”.

Ngồi trong xe mà “mưa tuôn mưa xối” chẳng khác gì ngoài trời, cơn mưa Trường Sơn có khác gì ngàn lưỡi dao nhọn cứa vào da thịt người chiến sĩ. Vậy mà vẫn cái giọng điệu ngang tàn, bất chấp, những người lính xem thử thách của thiên nhiên là con số không, họ cứ tiếp tục công việc của mình và chẳng một chút bận tâm tới:

“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.

Sâu sắc hơn, bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính. Họ thuộc những tiểu đội vận tải khác nhau nhưng giờ gặp nhau trên tuyến đường này, cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, cùng không có kính, họp lại là làm thành một tiểu đội mới:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.

Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Cái “bắt tay” thật đặc biệt: “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau nghị lực, làm tăng cường sức mạnh tinh thần, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng.

Câu thơ có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ Đồng chí: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.

Thật hết sức đơn giản và hồn nhiên rất lính. Chỉ cần cùng “chung bát đũa”, cùng ăn với nhau một bữa cơm thân tình giữa chiến trường là chung một gia đình. Họ đã vượt qua cái cá nhân hướng về tổ quốc. Họ xem nhau như người thân và đề cao trách nhiệm của mình.

Một tình cảm gắn kết nảy nở hết sức tự nhiên và sâu đậm giữa những con người hoàn toàn xa lạ. Tình cảm thiêng liêng ấy chỉ có thể có ở những người lính kháng chiến Việt Nam thời kì kháng chiến. Toàn dân tộc lúc này là một gia đình lớn, cùng chung công góp của, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc.

Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời. Những chiếc xe không kính ấy “lại đi”, không bao giờ ngừng nghỉ.

Ở khổ thơ cuối, hình ảnh chiếc xe mới thực sự hiện lên đầy đủ. Nó không khỏi làm cho người đọc bất ngờ, sửng sốt:

“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”.

Không những chiếc xe không có kính mà cũng không có đèn, không có mui xe, thùng xe không còn nguyên vẹn. Kết hợp sự miêu ta, ta hình dung dường như chiếc xe chỉ còn có khung xe và động cơ mà thôi. Thế nhưng, dù chỉ còn có thế thì xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước. Vì đồng bào và chiến sĩ miền Nam, vì công cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà, chiếc xe kiên trung vẫn cứ tiến lên phía trước:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Có lẽ đây là dòng thơ xúc động nhất, đáng quý nhất. Thật kì lạ, trái tim sôi nổi người chiến sĩ cũng chính là trái tim của xe. Với biện pháp hoán dụ, hình ảnh “trái tim” càng thêm rực rỡ.

Đó là trái tim trung thành với Tổ Quốc, với cuộc sống cách mạng của dân tộc; đó là trái tim yêu thương đồng bào, yêu thương những người anh em miền Nam còn đang trong nước sôi lửa bỏng; đó là trái tim quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, đem lại hòa bình cho nhân dân; cũng chính là trái tim đang rạo rực, sôi sục trong lòng mỗi người chiến sĩ lái xe không kính.

Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó cũng là nguyện vọng của toàn dân tộc ta. Để ước mơ này trở thành hiện thực, chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng.

Vì miền nam ruột thịt, vì tổ quốc dù có hi sinh nào đi nữa các anh vẫn không hề run sợ. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.

“Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình”.

Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ đã chọn Trường Sơn là trường đại học để rèn luyện và trưởng thành. Cuộc đời quân ngũ gian lao, nhọc nhằn đã được lấp đầy bằng tiếng cười đùa vui nhộn, bởi họ lúc nào cũng lạc quan phơi phới, hừng hực nhiệt huyết tuổi trẻ, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đồng đội keo sơn gắn bó, tinh thần chiến đấu tự tin, lòng dũng cảm…

Với những phẩm chất cao đẹp đó, họ đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc, những thiện cảm đến tuyệt vời! Họ mãi là những pho tượng đồng bất khuất làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thời đại: Dám đánh Mỹ, không sợ Mỹ, quyết thắng Mỹ. Họ chính là những con người ưu tú của dân tộc đã chiến đấu và sẵn sàng hi sinh để Tổ Quốc mãi mãi “bay lên ngát xanh mùa xuân”.

Viết một bình luận