Bàn Luận Về Phép Học [Nội Dung Tác Phẩm + Giá Trị + Phân Tích]

Bàn Luận Về Phép Học ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Những Mẫu Sơ Đồ Tư Duy, Dàn Ý, Hoàn Cảnh Sáng Tác.

Nội Dung Bản Tấu Bàn Luận Về Phép Học

Trong cuộc sống tất cả mọi người đều mong muốn thành đạt, có vị trí trong xã hội, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Để vươn tới được mục đích ấy, ai cũng phải học tập để có kiến thức sau đó vận dụng vào cuộc sống.

Bàn luận về phép học
Tác giả: Nguyễn Thiếp

“Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường. Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.

Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tuỳ đâu tiện đấy mà đi học.

Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Hoạ may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.

Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị.

Đó là mấy điều, thành thật xin dâng. Chẳng quản lời nói vu vơ, cúi mong Hoàng thượng soi xét.

Kẻ hèn thần cung kính tấu trình.

Chia sẻ thêm tác phẩm❤️️Chiếu Dời Đô [Thiên Đô Chiếu] ❤️️ Nội Dung, Giá Trị, Phân Tích

Tóm Tắt Bàn Luận Về Phép Học

Bạn có thể đọc bản tóm tắt Bàn luận về phép học mà Thohay.vn chia sẻ sau đây để nắm bắt nội dung nhanh hơn.

Bàn về phép học là một bài tấu Nguyễn Thiếp gửi lên vua nhằm nói lên mục đích chân chính của việc học: học để làm người. Tác giả đưa ra quan điểm và phương pháp học đúng đắn: việc học phải bắt đầu từ những kiến thức cơ bản, có tính chất nền tảng, tuần tự tiến từ thấp lên cao, học rộng hiểu sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Bên cạnh đó học phải kết hợp với hành. Học không chỉ để biết mà còn để làm. Điều đó sẽ thúc đẩy đất nước có nhiều nhân tài, chế độ vững mạnh, quốc gia hưng thịnh.

Về Tác Giả Nguyễn Thiếp

Tổng hợp các thông tin chính thức về tác giả Nguyễn Thiếp:

  • Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
  • Quê quán: làng Mật Thôn, xã Ao Nguyệt, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh
  • Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
    • Ông từng làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học
    • Ông từng được vua Quang Trung viết thư mời giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị
    • Những tác phẩm tiêu biểu: La Sơn tiên sinh thi tập, Hạnh Am di văn…

Tìm hiểu tác phẩm 📌Nước Đại Việt Ta [Nguyễn Trãi] 📌 Các mẫu phân tích hay nhất

Về Tác Phẩm Bàn Luận Về Phép Học

Về tác phẩm bàn luận về phép học, đây là văn bản thuộc thể loại Tấu. Tấu là thể văn của bề tôi, thần dân gửi lên vua chúa để trình sự việc, ý kiến, đề nghị.  

“Bàn luận về phép học” là một văn bản chính luận sắc bén, ngắn gọn của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp gửi lên vua Quang Trung. Bản tấu đã khẳng định về tác dụng của việc học, phần nào củng cố, kiến thiết xây dựng nước nhà phát triển theo hướng chú trọng giáo dục.

Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Bàn Luận Về Phép Học

Cùng tìm hiểu thêm về xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác bài tấu Bàn luận về phép học nhé!

  • Tác phẩm “Bàn luận về phép học” trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào năm 1791.
  • Nguyễn Thiếp làm quan một thời gian dưới triều Lê rồi về dạy học. Khi Quang Trung xây dựng đất nước đã viết thư mời ông giúp dân giúp nước về mặt văn hóa giáo dục, vì vậy tháng 8 năm 1971, Nguyễn Thiếp đã đang lên vua bản tấu này.

Tìm hiểu văn bản 🌿Thư Lại Dụ Vương Thông 🌿Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Bàn Luận Về Phép Học

Nhan đề tác phẩm Bàn luận về phép học đã nói rõ lên nội dung chính của văn bản. Thông qua nhan đề, ta có thể thấy rõ mục đích của Nguyễn Thiếp là muốn phân tích về việc học, thế nào là đúng, thế nào là sai. Với cách lập luận chặt chẽ, Nguyễn Thiếp đã đưa ra được mục đích và phương pháp của việc học chân chính.

Bố Cục Văn Bản Bàn Luận Về Phép Học

Bố cục văn bản Bàn luận về phép học được chia làm 3 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “điều tệ hại ấy”: Mục đích của việc học
  • Phần 2: Tiếp đến “xin chớ bỏ qua”: Bàn luận về cách học
  • Phần 3: Còn lại: Tác dụng của việc học

Chia sẻ bài thơ🍃Nam Quốc Sơn Hà 🍃Các mẫu phân tích hay nhất

Đọc Hiểu Tác Phẩm Bàn Luận Về Phép Học

Hướng dẫn các em học sinh đọc hiểu tác phẩm Bàn luận về phép học, tham khảo ngay nhé!

1. Mục đích chân chính của việc học.

  • Mục đích chân chính của việc học là: học để làm người
  • Khái niệm học được giải thích bằng hình ảnh so sánh, học để biết rõ đạo
  • Đạo dạy người ta về mối quan hệ trong gia đình, xã hội .

2. Phê phán lối học lệch lạc, sai trái.

– Tác giả phê phán lối học sai trái:

  • Học hình thức: chỉ học thuộc câu chữ không hiểu nội dung
  • Học cầu danh lợi: học để có danh tiếng, lợi lộc

– Tác hại: vua chúa tầm thường, thần nịnh nọt → nước mất, nhà tan

3. Quan điểm và phương pháp học:

– Quan điểm học:

  • Việc học phải được phổ biến rộng khắp
  • Mở thêm nhiều trường, mở rộng thành phần người học
  • Tạo điểu kiện thuận lợi cho người học

– Phương pháp học:

  • Học tuần tự tiến lên
  • Học rộng, nghĩ sâu, biết tóm lược những điều cơ bản.
  • Học đi đôi với hành. Đây là mục đích cuối cùng của việc học

=> Quan điểm, phương pháp học tập đúng đắn → bồi dưỡng được nhân tài, lập công giúp nước.

=> Thể hiện thái độ đề cao tác dụng của việc học chân chính, tin tưởng và kì vọng về tương lai của đất nước.

Giá Trị Tác Phẩm Bàn Luận Về Phép Học

Sau khi đọc hiểu văn bản Bàn luận về phép học thì chúng ta có thể rút ra giá trị tác phẩm như sau:

Giá trị nội dung

  • Bài tấu giúp ta hiểu được mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần xây dựng đất nước chứ không phải học để cầu danh lợi. Học tốt phải có phương pháp học, học rộng nắm gọn, học phải đi đôi với hành.

Giá trị nghệ thuật

  • Lời bàn luận chân thật, thẳng thắn, lập luận chặt chẽ, lí lẽ rõ ràng
  • Ngôn ngữ giản dị, rõ ràng, ý tứ bộc lộ trực tiếp giàu sức thuyết phục

Soạn Bài Bàn Luận Về Phép Học

Gợi ý cách trả lời các câu hỏi soạn bài Bàn luận về phép học trong sách giáo khoá như sau:

👉Câu 1 (trang 78 sgk Ngữ văn 8 tập 2): Phần đầu tác giả nêu khái quát mục đích chân chính của việc học. Mục đích đó là gì?

Đáp án: Ở đoạn đầu “Ngọc không mài… những điều tệ hại ấy” tác giả nêu rõ mục đích chân chính của việc học:

  •  Học để “biết rõ đạo”
  • Học cách làm người, để sống tốt, cư xử đúng mực.

    => Việc học mang ý nghĩa to lớn, cao quý: học để biết cách sống chuẩn mực.

👉Câu 2 (trang 78 sgk Ngữ văn 8 tập 2):  Tác giả đã phê phán những lối học lệch lạc, sai trái nào? Tác hại của lối học ấy là gì?

Đáp án:

  • Phê phán lối học hình thức: “Người ta đua nhau lối học hình thức nhằm cầu danh lợi, không còn biết tam cương ngũ thường”
  • Tác hại của lối học lệch lạc, sai trái đó là làm cho “chúa trọng nịnh thần” người trên, kẻ dưới đều thích sự chạy chọt, luồn cúi, không có thực chất, dẫn đến cảnh “nước mất, nhà tan”.

👉Câu 3 (trang 75 sgk Ngữ văn 8 tập 2): Để khuyến khích việc học, Nguyễn Thiếp khuyên vua Quang Trung thực hiện những chính sách gì?

Đáp án: Để khuyến khích việc học, Nguyễn Thiếp bàn tới hình thức học và cách học:

  • Mở rộng thêm trường, mở rộng thành phần người học, tạo điều kiện thuận lợi cho người học.
  • Việc học phải được tiến hành tuần tự: bồi lấy gốc → tứ thư ngũ kinh → chư sử.
  • Học rộng rồi tóm lược.
  • Học đi đôi với thực hành.

    => Tầm nhìn chiến lược của bậc trung thần trong vấn đề giáo dục thực học, tạo ra hiền tài cho quốc gia.

👉Câu 4 ( trang 75 sgk Ngữ Văn 8 tập 2):  Bài tấu có đoạn bàn về “phép học”, đó là những “phép học” nào? Tác dụng và ý nghĩa của những phép học ấy? Từ thực tế việc học của bản thân, em thấy phương pháp học tập nào là tốt nhất? Vì sao?

Đáp án: “Những phép học” đó là:

  • Từ đơn giản đến phức tạp: học bồi lấy gốc.
  • Từ thấp đến cao: tuần tự tiến lên Tứ thư Ngũ kinh, Chư sử.
  • Từ lý thuyết đến thực hành: học kết hợp với thực hành.

– Tác dụng và ý nghĩa: khi thực hiện theo phép học này người học mới có thể “lập công trạng”, lấy những điều học được mang lại cho đất nước sự “vững yên”, “thịnh trị” cho đất nước.

– Từ việc học của bản thân, em thấy phương pháp học tốt nhất là học từ những thứ cơ bản, rồi tới những điều phức tạp. Học phải kết hợp với thực hành để việc học trở nên nhuần nhuyễn, có ích.

👉Câu 5 ( trang 75 sgk Ngữ Văn 8 tập 2): Xác định trình tự lập luận của đoạn văn bằng một sơ đồ.

Đáp án:

 Sơ đồ lập luận của đoạn văn
Sơ đồ lập luận của đoạn văn

Giáo Án Bàn Luận Về Phép Học

Chia sẻ cho thầy cô giáo cách soạn giáo án giảng dạy tác phẩm Bàn luận về phép học chi tiết nhất.

I. Mục tiêu bài học

1. Kiến thức

  • HS có những hiểu biết bước đầu về thể tấu. Từ đó thấy được quan điểm tư tưởng tiến bộ của tác giả về mục đichá và phương pháp học và mối quan hệ của việc học với sự phát triển của đất nước .
  • Đặc điểm hình thức lập luận của văn bản.

2. Kĩ năng

  • Rèn cho hs kĩ năng đọc- hiểu văn bản viết theo thể tấu.
  • Nhận biết phân tích cách trình bày luận điểm trong đoạn văn diễn dịch và quy nạp , cách sắp xếp và trình bày luận điểm trong văn bản.

3. Thái độ: GD cho hs ý thức học tập, biết áp dụng những phép học vào trong thực tế việc học của bản thân.

II. Chuẩn bị tài liệu

1. Giáo viên: Soạn bài, nghiên cứu bài, nghiên cứu bài, đọc tài liệu tham khảo, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng.

2. Học sinh: Chuẩn bị bài, học bài cũ, sgk,nháp, vở ghi…

III. Tiến trình tổ chức dạy học

1. Ổn định tổ chức: Sĩ số

2. Kiểm tra

H: Tư tưởng nhân nghĩa trong bài “Nước Đại Việt” ta được thể hiện như thế nào? Khái quát lại nọi dung đoạn trích bằng một sơ đồ.

3. Bài mới

Học để làm gì, học những gì…Nói chung vấn đề học tập đã được ông cha ta bàn đến từ lâu. Một trong những ý kiến tuy ngắn gọn nhưng sâu sắc và thấu tình đạt lý luận về phép học trong bản tấu dâng vua Quang Trung của La Sơn Phu Tử Nguyễn thiếp có ý nghĩa như thế nào? chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài học hôm nay.

Hoạt động của GV và HSKiến thức cần đạt
HOẠT ĐỘNG 1: HDHS ĐỌC VÀ TÌM HIỂU CHÚ THÍCH:
– GV hướng dẫn HS đọc giọng điệu chân tình, bày tỏ, vừa tự tin, vừa khiêm tốn.
– GV đọc mẫu
– Gọi HS đọc
H: Qua phần chú thích, em hãy nêu những hiểu biết của mình về tác giả?Ông đã giúp Triều Tây Sơn XD đất nước về mặt chính trị
I. Đọc và tìm hiểu chú thích
1. Đọc:
2. Chú thích:
a) Tác giả: Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên. Hiệu là Lạp Phong Cưư Sĩ , ngưười đời kính trọng thưường gọi là La Sơn Phu Tử.
– Quê: Đức Thọ – Hà Tĩnh.
– Là người ” Thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”. Từng giúp triều Tây Sơn xây dựng đất nưước về mặt chính trị. Khi vua QT mất ông về ở ẩn đến cuối đời.
H:Bài tấu ra đời trong hoàn cảnh nào?b) Tác phẩm: Bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung T8/ 1791 khi ông vào Phú Xuân hội kiến với nhà vua. Đoạn trích là phần đầu của bài tấu.
H: Em hiểu tấu là thể văn như thế nào?
→Lời của thần dân dâng lên vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị. Cùng loại có Nghị, Biểu, Khảo, Sớ
H: So sánh Tấu với hịch, cáo có gì khác nhau?
→ Chiếu, hịch, cáo do vua chúa ban xuống thần dân
– Dùng tấu, nghị, biểu, sớ → do thần dân gửi lên vua chúa
– Yêu cầu hs giải nghĩa một số từ khó.
c) Thể tấu:
– Tấu là thể loại văn thư của bề tôi (được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần hoặc biền ngẫu) trình lên vua chúa kiến nghị , đề nghị của mình
d) Từ khó : chú thích *
HOẠT ĐỘNG 2: HDHS ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN
H:Đoạn trích chia làm mấy phần? mấy ý? Nội dung chính của từng phần:
II. Đọc- hiểu văn bản:
1. Thể loại( tấu)→ văn nghị luận trung đại
2. Bố cục:
– Văn bản gồm 3 ý:
+) Phần 1) Ngọc không mài→ điều tệ hại ấy→ mục đích của việc học.
+) Phần 2) từ Nước Việt ta…những điều tệ hại ấy”→ phê phán lối học lệch sai trái.
+) Phần 3) từ “Cúi xin từ nay… đến hết” →Phương pháp học đúng và tác dụng.
– Gọi HS đọc đoạn1
H: Để nói về mục đích của việc học tác giả đã lập luận bằng phương pháp nào?Em hiểu thất truyền là gì?
H: Từ đó tác giả nêu mục đích chân chính của việc học là gì?
GV : Chỉ có học tập mới thành người tốt, có tri thức không thể không học mà thành người tốt. Do đó học là quy luật trong cuộc sống của con người.
3. Phân tích:
a. Mục đích chân chính của việc học:
– Tác giả dùng phép so sánh để lập luận “ Ngọc không mài , không thành đồ vật”; người không học không biết rõ đạo”;
→Cách giả thích bằng hình ảnh so sánh cụ thể nên dễ hiểu.
⇒ Mục đích chân chính của việc học là để làm người.
H: Sau khi chỉ ra mục đích chân chính của việc học, tác giả phê phán những lối học nào?
H: Em hiểu như thế nào là lối học chuộng hình thức? cầu danh lợi?
H: Theo tác giả lối học đó dẫn đến tác hại gì?
H: Qua đó em hiểu Tác giả muốn bày tỏ suy nghĩ gì về việc học trong thực tế xã hội lúc bấy giờ ?
– GV yêu cầu học sinh liên hệ thực tế việc học của bản thân và các bạn .
b. Phê phán lối học lệch:
– Tg phê phán lối học hình thức cầu danh lợi, không biết đến “Tam Cương, ngũ thường”.(Có nghĩa là học thuộc câu chữ mà không hiểu nội dung, chỉ có cái danh mà không thực chất, học để có danh tiếng, được trọng vọng, được nhàn hạ, nhiều lợi lộc ).
– Tác hại: “Chúa tầm thường thần nịnh hót”, người trên kẻ dưới đều thích chạy chọt, nịnh hót, luồn cúi dẫn đến “ nước mất, nhà tan”
⇒ Phê phán lối học không đúng. Coi trọng lối học lấy mục đích làm người tốt đẹp, làm cho đất nước bền vững.
– Gọi HS đọc đoạn 2
H: Để khuyến khích việc học, Nguyễn Thiếp khuyên vua QT thực hiện những chính sách gì ?( Gv liên hệ với tinh thần hiếu học của nhân dân ta , chính sách khuyến học của nhà nước ta)
H: Sau khi khuyên việc mở rộng hệ thống trường học, Khi bàn về cách học, để khuyến khích việc học, Nguyễn Thiếp khuyên vua Quang Trung những cách gì?
H: Bài tấu bàn về “phép học” đó là những “phép học” nào?
H: Tác dụng của những “phép học” ấy?
– Những điều trên gần gũi với phương pháp giáo dục hiện đai ngày nay→ cách nhìn của Nguyễn thiếp mới mẻ và tiến bộ vượt qua cách nhìn nếp nghĩ của nền gd phong kiến mấy trăm năm.
H: Từ thực tế việc học của bản thân , em thấy em thấy phương pháp học tập nào là tốt nhất vì sao?
H: Tại sao tác giả lại tin rằng phép học do mình đề xuất có thể tạo được nhân tài, vững yên được nước nhà?→Tạo được người giỏi, giữ vững đạo đức, biết gắn học với hành, tránh được nối học hình thức.
H: Theo em tại sao đạo học thành sinh ra nhiều người tốt? Triều đình ngay ngắn, khiến thiên hạ thịnh trị?( Mục đích của DG chính là đào tạo ra những con người chân chính giúp đất nước hưng thịnh.
H: Em có nhận xét gì về cách lập luận của tác giả? Qua bài em mục đích của việc học là gì?
c. Quan điểm và phưương pháp đúng đắn trong học tập:
– Việc học phải được phổ biến rộng khắp: mở trường , mở rộng thành phần người học, tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học.(Mở trường ở phủ, huyện, mở trường tư, con cháu các nhà… ở đâu thì tiện học đấy).
– Dạy học phải bắt đầu từ kiến thức cơ bản, có tính nền tảng: học từ thấp lên cao; học rộng, nghĩ sâu biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất; học phải biết kết hợp với hành.
( Phép dạy : Theo Chu Tử…Tiểu học – bồi lấy gốc…Tứ thủ…ngũ kinh..chư sử…theo điều học mà làm…yên)⇒ Phép học gồm 2 vấn đề:
+) Trình tự học : từ thấp lên cao.
+) Quy trình học: Học rộng rồi tóm lược cho gọn,học đi đôi với hành.
+) Tác dụng: học để đi đến cái đích của đạo học chân chính, người tài được trọng dụng, nhà nước vững bền, thịnh trị.
→ Do vậy cần có phương pháp đúng đắn→ Đất nước nhiều nhân tài chế độ vững mạnh, quốc gia hưng thịnh
⇒ Phép học chân chính, ích nước lợi dân.
HOẠT ĐỘNG 3: HDHS TỔNG KẾT:
H:Nêu nội dung và BPNTcủa bài tấu ?
– Gọi HS đọc ghi nhớ
III. Tổng kết:
a. Nội dung: Mục đích và tác dụng của học chân chính là học để làm người, để biết và làm góp phần hưng thịnh đất nước.
– Cách học gắn với hành động, tăng cường ứng dụng thực hành môn học.
b. Nghệ thuật: Lập luận chặt chẽ.
* Ghi nhớ: SGK- T79

4. Củng cố, luyện tập

– Phân tích sự cần thiết và tác dụng của p/pháp “Học đi đôi với hành “

H: Nêu những nội dung cần ghi nhớ trong bài? Bài gồm mấy luận điểm nội dung từng luận điểm?

5. Hướng dẫn học ở nhà

  • Học bài cũ,HS nắm được mục đích, phương pháp học tập
  • Chuẩn bị: Luyện tập xây dựng và trình bày luận điểm.

Tìm hiểu tác phẩm🌿 Bạch Đằng Hải Khẩu 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật 

Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học

Thay vì học vẹt thì các em học sinh có thể dựa vào các mẫu sơ đồ tư duy tác phẩm Bàn luận về phép học sau đây để học bài nhanh hơn nhé!

Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Tóm Tắt Bàn Luận Về Phép Học
Sơ Đồ Tư Duy Tóm Tắt Bàn Luận Về Phép Học
Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học
Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học
Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học Đơn Giản
Sơ Đồ Tư Duy Bàn Luận Về Phép Học Đơn Giản

5 Mẫu Phân Tích Bàn Luận Về Phép Học Hay Nhất

Đừng nên bỏ qua 5 mẫu phân tích văn bản Bàn luận về phép học hay nhất dưới đây nhé!

Mẫu Phân Tích Bàn Luận Về Phép Học Hay – Mẫu 1

“Bàn luận về phép học” là đoạn văn trích từ hài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Lúc bấy giờ Nguyễn Thiếp đang làm Viện trưởng viện Sùng chính, phụ trách việc biên soạn sách và xây dựng Trung đô Phượng Hoàng (Nghệ An), một công việc vô cùng to lớn và hết sức nặng nề.

Bài tấu này thể hiện cái tâm của Nguyễn Thiếp đối việc chấn hưng nền quốc học, nền giáo dục nước nhà, nhằm mở mang dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước.

Các vấn đề như mục đích việc học, nội dung học tập và phương pháp học tập đã được Nguyễn Thiếp trình bày một cách ngắn gọn và tường tận.

Mở đầu, ông nhắc lại câu cổ ngữ: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Vậy mục đích học là biết “lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người”. Nói cách khác, học để mở mang trí tuệ và bồi bổ đạo đức.

Đạo mà Nguyễn Thiếp nói đến là đạo làm người. Ông than phiền “nền chính học đã bị thất truyền”, Có biết bao tệ lậu đáng chê trách như “đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi”, coi thường đạo lí “không còn biết đến tam cương, ngũ thường”. Nhà dột từ nóc: “Chúa trọng nịnh thần”. Ví dụ, cuối thời Lê – Trịnh, tệ nạn buôn quan bán tước hoành hành.

Sử sách cho biết vào năm 750, đời vua Lê Hiển Tông, vì Nhà nước thiếu tiền, đã đặt ra lệ thu tiền thông kinh: hễ ai nộp ba quan thì được đi thi hương, không phải khảo hạch. Thành ra những người làm ruộng, đi buôn, ai cũng nộp quyển vào thi; rồi người thì dùng sách, kẻ thì thuê người làm bài; kẻ thuê học mười người khống được một (theo Dương Quảng Hàm).

Sống trong thời kì đen tối, loạn lạc ấy, Nguyễn Thiếp vô cùng đau buồn, thở than: “Nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Nguyễn Thiếp đã có một cách nói trầm tĩnh, ôn hòa mà sâu sắc.

Phần thứ hai, Tiên sinh nói đến nội dung và phương pháp học tập. Học ở đâu? – Trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại “đều tùy đãi tiện đấy mà đi học”. Học cái gì?

Tác giả bài tấu cho hay: “Nhất định theo Chu Từ” (1130 – 1200). Một học giả đời Nam Tống. Nội dung học tập: “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử”. Điều đó cho thấy, nội dung học tập mà Nguyễn Thiếp nêu lên không có gì mới, ông chưa vượt qua được những hạn chế của lịch sử và của thời đại. Sách Tàu đi mấy nghìn năm vẫn được tôn thờ! vẫn coi trọng thơ văn, chưa hướng tới khoa học.

Về phương pháp học, ý kiến của Nguyễn Thiếp rất xác đáng và tiến bộ. Coi trọng vấn đề thiết yếu cơ bản: “Học rộng rồi tóm lược cho gọn”. Học phải đi đôi với hành “theo điều học mà làm”. Niềm mong ước của ông rất đẹp và chân thành: “Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, Nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”.

Đạo học, ý nghĩa to lớn của đạo học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều, người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Đúng là việc học góp phần đào tạo nhân tài, mở mang dân trí, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Chiến lược “trồng người” được Tiên sinh nói lên thật sáng tỏ.

Phần cuối, Nguyền Thiếp giãi bày lòng mình. Bài tấu nói về phép học là những lời “thành thật”, chứ không phải “lời nói vu vơ”, ông khiêm tốn và cung kính “cúi mong Hoàng thượng soi xét”.

Nguyễn Thiếp đức trọng tài cao, được người đương thời kính ái gọi là La Sơn phu tử. Tài năng của ông chưa kịp thi thố, thì vua Quang Trung băng hà. Ông đã từ chức và lui về núi cũ rừng xưa, ở ẩn. Ông đã qua đời năm 81 tuổi, thanh bạch và thanh cao.

Bài tấu “Bàn luận về phép học” với những ý kiến của Tiên sinh về mục đích học tập, phương pháp học tập rất đúng đắn tiến hộ. về nội dung học tập, ý kiến của Tiên sinh chưa vượt qua được hạn chế của lịch sử và thời đại. Có điều, nhiệt tâm của La Sơn phu tử đối với nước với dân, đối với sự nghiệp trồng người đã để lại biết bao sự tôn kính, ngưỡng mộ cho hậu thế.

Mẫu Phân Tích Bàn Luận Về Phép Học Chọn Lọc – Mẫu 2

Nguyễn Thiếp là người “thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”, từng đỗ đạt làm quan dưới triều Lê, nhưng sau đó từ quan về dạy học, chính vì gắn bó với công việc dạy học cho nên Nguyễn Thiếp hiểu ra mục đích thật sự của việc học. Bàn luận về phép học là một phần trong bản tấu của Nguyễn Thiếp gửi cho vua Quang Trung, trong bài này tác giả nêu rõ quan điểm của mình về mục đích thật sự của việc học đó là đạo đức, là tri thức, góp phần hưng thịnh cho đất nước.

Trong phần nêu vấn đề về sự học, tác giả không bàn đến việc vì sao phải học (nguyên tắc) mà nhấn vào một khía cạnh: học để làm gì ? (mục đích). Là bởi vì: “Ngọc không mài không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo”. Nhưng đạo ấy là gì? Ấy là cái đích của sự học vậy.

Theo tác giả thì “Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”. Đạo dạy người ta về những mối quan hệ: hẹp thì với bản thân, trong gia đình, rộng ra là ngoài xã hội. Mối quan hệ ấy trong khuôn khổ của xã hội phong kiến không nằm ngoài khái niệm “tam cương”, “ngũ thường” quen thuộc. Tóm lại, học trước hết là học đạo làm người, học để “lập đức” cho mình, để “lập công” nghĩa là phải cống hiến tài năng cho xã hội. Đó là nền tảng của “chính học”, là cơ sở của một quốc gia nước mạnh dân giàu, xã hội thái bình, thịnh trị.

Cách nhìn của tác giả có tầm chiến lược dài lâu vì nó đụng đến sự an nguy của xã tắc. Trong phần giải quyết vấn đề, tác giả nêu lên hai luận điểm lớn để một mặt phê phán lối học sai mục đích hiện thời và một mặt khôi phục lại lối học chân chính mà nguyên tắc và mục tiêu xã hội đã xác định từ xưa.

Ở luận điểm thứ nhất, tác giả nêu lên ba ý: nền chính học đã bị thất truyền, biểu hiện của nó ở sự lệch lạc, tác hại của việc học ấy thật nghiêm trọng đến “nước mất nhà tan”. Trong hệ thống lập luận chặt chẽ theo kết cấu: nguyên nhân – kết quả, đoạn văn nhấn mạnh vào những biểu hiện thật đáng buồn về việc học ngày nay trên hai khía cạnh: người đi học và việc xã hội đánh giá người đỗ đạt (do học tập) ở cả đạo đức và tài năng.

Vì mục đích của việc học của người đi học đã sai, cách đánh giá lại không đúng thì hậu quả sẽ dẫn đến thảm họa khôn lường. Cái sai ở người đi học là không chuộng thực đức, thực tài, học không để “lập đức”, “lập công” mà chỉ để “cầu danh lợi”. Cái sai ở đây thật cơ bản: sai về mục đích, nó biến sự học vốn là chân chính, vốn có ý nghĩa xã hội thiêng liêng thành một nấc thang danh vọng tầm thường, học chỉ là cho cá nhân mình, cho gia đình nhỏ bé của mình – vinh thân, phì gia.

Mục đích học sai nên cách học cũng sai : không gia công dùi mài kinh sử để nắm lấy tri thức của khoa học, đạo lí của thánh hiền, thay vào đó chỉ là một cách học “hình thức”. Cách học hình thức là cách học máy móc, giáo điều. Học văn có thể thuộc văn mà không hiểu nghĩa của văn, chỉ cốt chép sao cho đúng, thi sao cho đỗ mà thôi.

Những người đỗ đạt bằng cách học kiểu ấy lại trở thành trụ cột trong bộ máy điều hành nhà nước thì nguy cơ của nó sẽ dẫn tới đâu? Uy tín của họ, sự tồn tại của họ, do không có thực đức, thực tài đối với bề trên – như vua, chúa – chỉ còn biết luồn lọt, nịnh bợ. Họ là những nịnh thần.

Còn về cách đánh giá, người có quyền uy, cầm cân nảy mực trên phạm vi cả nước là vua chúa, mà “chúa trọng nịnh thần”, thì cái thói “hư danh”, “hư vinh” mới mặc sức mà ngang nhiên tồn tại, thậm chí còn hống hách, lộng hành, kéo bè kéo cánh hãm hại lẫn nhau. Cái lô-gíc diễn ra tất yếu không tránh được là nhà tan, nước mất : “Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Sức hấp dẫn không cưỡng được từ cách lập luận ở chính trong lập luận bởi tính khoa học khách quan của nó.

Ở luận điểm thứ hai: phải khôi phục lại mục đích của nền “chính học”, tác giả không nhắc lại mục đích của việc học nữa, vì nó đã được xác định từ đầu. Đây là hiện tượng chìm đi của quan điểm trong lập luận. Vì vậy, nếu người đọc vô tình sẽ có cảm giác như là hẫng hụt, thấy thiếu đi một cái gì lẽ ra phải có. Thay cho việc nhắc lại mục đích chân chính của việc học, tác giả cần đến việc chấn hưng trên cơ sở ấy. Sự việc chấn hưng to lớn và cấp thiết được nhìn từ hai cấp độ: chiều rộng và chiều sâu.

Về chiều rộng: cần mở mang thêm nhiều trường lớp, bằng nhiều hình thức, ở khắp mọi nơi, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người đi học. Quan điểm mà nay gọi là xã hội hoá giáo dục có hai cái lợi mà tác giả không nói rõ ra: một là nâng cao được dân trí và hai là lựa chọn được nhân tài. Đó là cái nên của “chính học”.

Điều quan trọng nhất trong luận điểm thứ hai này là chấn chỉnh, sửa sang phép học – phương pháp học tập. Nguyên tắc đầu tiên trong phép học là nguyên tắc vừa sức, học thích hợp với đối tượng, học từ thấp đến cao. Như thế cũng là theo hệ thống: “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử”.

Trong quan điểm học theo hệ thống trên đây, tác giả chú ý đến cấp đầu tiên khi người học cắp sách đến trường. Phải chăng là tác giả với tầm nhìn xa rộng đã thấy ý nghĩa lớn lao, gốc rễ từ mảnh đất gieo hạt đầu tiên để từ đó cái cây đức, cây tài tươi tốt về sau? Nguyên tắc thứ hai của phép học nói một cách gọn gàng, hàm súc: “Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm”, thực ra có hai ý nhỏ mỗi ý nhỏ này có thể phát biểu thành những luận điểm lớn trong những trường hợp khác.

Trước hết là học rộng, học nhiều nhưng phải biết chủ động: học cái gì nắm chắc được cái ấy. Muốn nắm chắc được tri thức, không có một cách nào khác hơn là tóm tắt được nó, nghĩa là tinh lọc được nó, chọn lấy cái chính và biến nó thành nhận thức, thành trí tuệ của riêng mình.

Ở đây, tóm tắt không có nghĩa chỉ là rút ngắn, mà chính là lựa chọn. Muốn lựa chọn phải có một quan điểm riêng. Ấy là thực học. Nhưng đó mới là một nửa ý nghĩa của thao tác “tóm lược cho gọn”. Nửa ý nghĩa thứ hai của quy trình nhận thức, ở sự thu hoạch tri thức cho bản thân còn quan trọng hơn: “học” để mà “hành”: đây mới là cái đích cuối cùng của việc học.

Học nhiều mà chỉ thuộc lòng sách vở, bị động vào sách vở thì dù học đến đâu cũng chỉ là những “con mọt sách” làm sao có thể ứng dụng vào đời sống, phỏng có ích lợi cho ai? Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đã thấm thía rút ra từ sự học một bài học để dạy dỗ con mình: “Bể học tràn lan là đáng ngại” (Ngày xuân dạy con), phải chăng cũng là sự đồng quan niệm với tác giả Bàn luận về phép học mà chúng ta đang phân tích ở đây?

Học như phép học mà Nguyễn Thiếp đề ra mới là có ích. Điều khẳng định này ở dạng vừa hy vọng vừa phân vân: “Hoạ may kẻ nhân tài mới lập được công”. Chính là xuất phát từ một ước mơ tha thiết và dù tha thiết mà sự nghiệp không chắc đã thành, bởi sự học, phép học tuy nói vậy nhưng cũng khó lắm thay! Sự chân thành là phía chủ quan, còn kết quả là thuộc phía khách quan ngoài ý muốn, mà ý muốn ấy cũng là vừa mới bắt đầu.

Mặc dầu vậy, dù tâm trạng không ít băn khoăn, mà vẫn rất nhiều tin tưởng. Và kết quả mà tác giả đợi chờ là cái hạt gieo xuống sẽ thành cây, sự học sẽ gặt hái một mùa quả ngọt: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Kết quả này hoàn toàn đối lập với mục đích học và phép học theo lối “cầu danh lợi” ở trên.

Kế sách mà La Sơn Phu Tử hiến cho vua Quang Trung thật là những lời tâm huyết xuất phát từ quyền lợi của quốc gia, trong sự nghiệp an dân trị quốc. Tầm nhìn ấy có chiều rộng, chiều sâu về một chiến lược lâu dài không phải ngày một ngày hai mà làm được.

Vua Quang Trung xem tác giả như một người tri âm mới triều kiến vào Phú Xuân bàn quốc sự. Rất tiếc là thời đại mà Quang Trung mở ra chẳng được bao lâu, do đó chương trình chấn hưng hãy còn dang dở. Dù sao, quan điểm của Nguyễn Thiếp cũng vẫn là những viên gạch vững chắc đầu tiên trong nền tảng lí luận của sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà.

Mẫu Phân Tích Bàn Luận Về Phép Học Hay Đặc Sắc – Mẫu 3

Đối với mỗi con người chúng ta việc học vô cùng quan trọng. Học giúp chúng ta tiếp thu thêm kiến thức và tương lai trở nên rộng mở hơn. Bàn về vấn về ta không thể không nhắc đến bài luận về phép học của Nguyễn Thép. Trong bài này ông nêu rõ quan niệm của mình về mục đích học thực sự là đạo đức là tri thức, để góp phần hưng thịnh cho đất nước.

Đây là một phần trong bản tấu của Nguyễn Thiếp gửi lên vua Quang Trung để nói lên quan điểm của mình. Đầu tiên chúng ta cần hiểu tấu là gì? Tấu là một loại văn bản của quan lại hoặc thần dân để trình bày một ý kiến về chính sách cai trị hoặc vấn đề quan trọng của quốc gia.

Mở đầu đoạn trích tác giả dùng câu châm ngôn để thấy mục đích chân chính của việc học “ Ngọc không mài không thành đồ vật, người không học không biết rõ đạo” Thông qua câu nói này tác giả muốn nói lên mục đích học tập.

Một viên ngọc không được mài giũa, không được trải qua quá trình tạo lắn thì mãi vẫn chỉ là một viên ngọc không có công dụng, chỉ làm đồ trang trí và giá trị của nó không được cao. Cũng giống như con người không được trải qua quá trình rèn luyện học tập để trở thành người có đạo đức có tri thức giúp ích cho xã hội được. Học ở đây không chỉ tiếp thu kiến thức mà còn học cách làm người, học cách đối nhân xử thế, học để sống tốt.

Bởi con người quan trọng nhất là phải có đạo đức, người có tài mà không có đức thì sẽ không dùng được. Dưới thời phong kiến xưa theo Nho giáo, học hành thi cử chính là con đường dẫn đến chốn quan trường, là cơ hội để đấng nam nhi góp sức mình cho đất nước, học tập là quy luật trong cuộc sống. Đạo học ngày xưa lấy đạo đức làm chính, đó là những cư xử trong tam cương ngũ thường ngày xưa.

Tác giả dùng mục đích cao cả của việc học để soi vào thực tế, từ đó phê phán những biểu hiện lệch lạc sai trái trong xã hội đương thời gây tác hại to lớn cho quốc gia dân tộc. Ông nêu lên nền học chính truyền của ta đã bị mất thay vào đó và lối học, hòng mau danh lợi. Như vậy chúa tầm thường mà thần nịnh hót thì việc nước mất nhà tan là đương nhiên.

Học mà không hiểu nội dung là gì chỉ chăm chăm chú ý đến việc nhận được bổng lộc sau khi làm quan. Không tiếp thu được kiến thức lại còn đạo đức cũng không được. Vậy những con người như vậy làm quan thì đất nước ngày càng đi xuống chúng trở thành những con sâu mọt đi đục khoét của cải để hưởng vinh hoa phú quý.

Ngày nay chúng ta gọi đó là học vẹt, học chỉ để đi thi chứ không nhớ gì. Thật lãng phí thời gian và tiền bạc. Một đất nước mà mà toàn những con người học như vậy thì sẽ ngày càng đi xuống và trì trệ, không có bước phát triển. Chúng ta cần phải thay đổi cách học.

Tiếp theo Nguyễn Thiếp bàn về phương pháp và nội dung học tập. Ông xin vua Quang Trung mở rộng việc học trở nên rộng rãi, mở thêm trường lớp dạy học. Làm thế nào mà mọi việc đều có ý thức học và học ở bất cứ đâu “Thầy trò của các phủ huyện, trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà học”.

Nguyễn Thiếp quả là người có tầm nhìn xa trông rộng, quan điểm của ông được nêu ra sau hai thế kỉ nhưng nó rất gắn liền chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Chúng ta đang áp dụng ý tưởng của ông vào thực tế.

Về trình tự học thì theo ông ta phải học từ thấp đến cao từ nhỏ đến lớn, phải biết được những chữ cái trong bảng thì mới mong ghép lại được với nhau “ lúc đầu học tiểu học để bồi làm gốc. Tuần tự rồi học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.” Có thể nói muốn học rộng biết sâu trước tiên chúng ta cần phải học cái căn bản làm gốc rễ thì sau này mới có thể ở mang tầm kiến thức của mình một cách tốt nhất, giúp ích được cho đất nước. Còn nếu như không cái căn bản làm nền tảng mà muốn mở rộng kiến thức thì rất khó và nó sẽ sai lệch đi rất nhiều bởi nó không có gốc thì làm sao mà có ngọn.

Qua đây ta có thể thấy được tầm hiểu biết của ông vô cùng rộng lớn, bởi ông có những cái nhìn và quan niệm vô cùng đúng đắn về việc học.. Bác Hồ cũng đã dạy: học để hành, học với hành phải phải đi đôi: học mà không hành thì vô ích, hành mà không học thì hành không trôi. Vậy học là gì, hành là gì.

Học là quá trình tiếp thu kiến thức được đúc kết từ hàng ngàn năm trước. Chúng ta ở trường được học qua thầy cô, bạn bè. học qua sách vở, đài, báo internet. Học còn làm giàu kiến thức mở mang tầm hiểu biết giúp chúng ta biết nhiều hơn về mọi mặt của cuộc sống giúp công việc trở nên thuận lợi và tốt đẹp hơn.

Hành là quá trình trình vận dụng kiến thức vào thực tế. Giống như người bác sỹ trải qua quá trình học tập tiếp thu kiến thức 6, 7 năm để sau khi ra trường dùng kiến thức của mình chữa bệnh cho bệnh nhân, hay như người công nhân vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình để tạo ra sản phẩm tốt hơn,….

Rất nhiều những con người đang ngày ngày vận dụng kiến thức của mình vào thực tế. Nguyễn Thiếp khẳng định “ học để hành, nghĩa là học để hành tốt hơn.

Trên thực tế thì học rất quan trọng tuy nhiên thì nếu ta học những kiến thức quá cao siêu mà không biết đem ra vận dụng thì việc học ấy trở nên tốn thời gian, tốn tiền của mà không có kết quả thì. Ngược lại hành mà không học thì cũng rất khó. Nếu ta chỉ làm theo thói quen và dựa vào kinh nghiệm của mình thì sẽ không đem lại hiệu quả cao và chậm. Và nó chỉ phù hợp với những công việc đơn giản nhẹ nhàng không cần dùng đến đầu óc trí tuệ, còn những công việc khoa học kỹ thuật cần những kiến thức chuyên môn thì kinh nghiệm không thì không đủ cần phải được học kiến thức.

Nguyễn Thiếp khi bày tỏ kiến của mình với vua luôn chân thành, khiêm tốn dùng những từ như: cầu xin, xin chớ bỏ qua,…” đồng thời thể hiện ông cũng thể hiện niềm tin của mình vào những điều được tấu. Cuối cùng tác giả khẳng định vai trò to lớn và lâu dài của việc học. Họa may kể nhân tài mới lập được công, nhờ thế nhà nước mới vững yên. Đó là mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.

Đạo học thành thì người tốt nhiều, mà người tốt nhiều thì đạo học chân chính sẽ có sức mạnh. Nếu nói theo cách hiểu hôm nay của chúng ta thì đạo học chân chính sẽ có thể thay đổi được con người, xã hội và giúp ích được đất nước.

Thông qua bài tấu của tác giả chúng ta đã học được nhiều điều về phương pháp học đúng đắn, học sao cho đúng cho phù hợp đừng lãng phí thời gian và tiền bạc của mình. Đừng học theo kiểu học vẹt, học đối phó, học là để cho mình chứ đừng lười biếng xem nhẹ việc học.

Mẫu Phân Tích Bàn Luận Về Phép Học Tiêu Biểu – Mẫu 4

“Bàn luận về phép học” là đoạn văn trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Lúc bấy giờ Nguyễn Thiếp đang làm Viện trưởng ,viện Sùng Chính, phụ trách việc biên soạn sách và xây dựng Trung đô Phượng Hoàng (Nghệ An), một công việc vô cùng to lớn và hết sức nặng nề.

Bài tấu này thể hiện cái tâm của Nguyễn Thiếp đối với việc chấn hưng nền quốc học, nền giáo dục nước nhà, nhằm mở mang dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước.

Các vấn đề như mục đích việc học, nội dung học tập và phương pháp học tập đã được Nguyễn Thiếp trình bày một cách ngắn gọn và tường tận.

Mở đầu, ông nhắc lại câu cổ ngữ: ”Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Vậy mục đích học là biết “lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người”. Nói cách khác, học để mở mang trí tuệ và bồi bổ đạo đức. Đạo mà Nguyễn Thiếp nói đến là đạo làm người.

Ông than phiền “nền chính học đã bị thất truyền”. Có biết bao tệ lậu đáng chê trách như “đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi”, coi thường đạo lý “không cồn biết đến tam cương, ngũ thường”. Nhà dột từ nóc: “Chúa trọng nịnh thần”. Ví dụ, cuối thời Lê – Trịnh, tệ nạn buôn quan bán tước hoành hành, sử sách cho biết: năm 1750, đời vua Lê Hiển Tông, vì Nhà nước thiếu tiền, đã đặt ra lệ thu tiền thông kinh: hễ ai nộp ba quan thì được đi thi hương, không phải khảo hạch. Thành ra những người làm ruộng, đi buôn, ai cũng nộp quyển vào thi, rồi người thì dùng sách, kẻ thì thuê người làm bài; kẻ thuê học mười người không được một (theo Dương Quảng Hàm).

Sống trong thời kỳ đen tối, loạn lạc ấy, Nguyễn Thiếp vô cùng đau buồn, thở than: “Nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Nguyễn Thiếp đã có một cách nói trầm tĩnh, ôn hòa mà sâu sắc.

Phần thứ hai, tiên sinh nói đến nội dung và phương pháp học tập. Học ở đâu?

– Trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại “đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”. Học cái gì? Tác giả bài tấu cho hay: “Nhất định theo Chu Tử’ (1130-1200) – một học giả đời Nam Tống. Nội dung học tập: “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử”.

Điều đó cho thấy, nội dung học tập mà Nguyễn Thiếp nêu lên không có gì mới, ông chưa vượt qua được những hạn chế của lịch sử và của thời đại. Sách Tàu đã mấy nghìn năm vẫn được tôn thờ! Vẫn coi trọng thơ văn, chưa hướng tới khoa học.

Về phương pháp học, ý kiến của Nguyễn Thiếp rất xác đáng và tiến bộ. Coi trọng vấn đề thiết yếu cơ bản: “Học rộng rồi tóm lược cho gọn”. Học phải đi đôi với hành “theo chiếu học mà làm”. Niềm mong ước của ông rất đẹp và chân thành: “Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, Nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”.

Tiên sinh đã khẳng định tầm quan trọng của đạo học, ý nghĩa to lớn của đạo học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Đúng là việc học góp phần đào tạo nhân tài, mở mang dân trí, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Chiến lược “trồng người” được tiên sinh nói lên thật sáng tỏ.

Phần cuối, Nguyễn Thiếp giãi bày lòng mình. Bài tấu nói về phép học là những lời “thành thật”, chứ không phải “lời nói vu vơ”, ông khiêm tốn và cung kính “cúi mong Hoàng thượng soi xét”.

Đằng sau các lí lẽ bàn về tác dụng của phép học, Nguyễn Thiếp đã đề cao tác dụng của phương pháp học tập đúng đắn, tin tưởng ở sự phục hưng của sự nghiệp giáo dục chân chính, kỳ vọng về tương lai tươi sáng của đất nước.

Nguyễn Thiếp nêu rõ mục đích, tác dụng của việc học là để làm người, học để nâng cao hiểu biết và làm việc ngày một tốt hơn; đóng góp được nhiều hơn cho đất nước. Nếu mọi người hiểu được điều đó thì sẽ nhận ra tác hại ghê gớm của lối học hình thức hòng cầu danh lợi.

Mẫu Phân Tích Bàn Luận Về Phép Học Ngắn Hay – Mẫu 5

La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là một trong những danh nho học rộng tài cao của lịch sử nước ta. Sự nghiệp và sự uyên thâm của ông đã được người đời tôn lại bậc thầy. Dưới sự mời gọi chân thành, tha thiết của vua Quang Trung, La Sơn Phu Tử mới nhận lời ra phò giúp triều đình. Trong quá trình đó ông đã dâng lên nhiều bản tấu đáng chú ý, đặc biệt là bài tấu dâng vào tháng 8/1971 nói về ba việc của một quân vương, trong đó đáng chú ý hơn cả là Bàn về phép học đã đem đến những nhận định đúng đắn, sáng suốt..

Dâng bản tấu này Nguyễn Thiếp nung nấu trong mình mong muốn trấn hưng sự nghiệp học tập của nước nhà, để mở mang dân trí, tăng cường học thuật. Bởi vậy trong phần triển khai vấn đề ông đã viết hết sức logic mạch lạc, về mục đích, nội dung cũng như phương pháp học tập, để từ đó người đọc mà noi theo.

Mở đầu bản tấu, ông dẫn ngay một câu cổ ngữ kinh điển: “Ngọc không mài không thành đồ vật, người không học không biết rõ đạo” . Đạo ở đây chính là con đường học tập đạo đức, cách ứng xử với nhau trong đời sống hàng ngày, nhỏ là phạm vi gia đình, lớn là phạm vi xã hội. Đây cũng chính là cái đích của sự học.

Như vậy, đối với La Sơn Phu Tử học trước hết là để làm người, làm một con người sống có đạo đức, sự học ấy không nằm ngoài như “tam cương ngũ thường” vốn có bấy lâu nay. Nhân đó, ông cũng nói lên thực trạng lúc bấy giờ khi “nền chính học đã bị thất truyền” , con người ta đua nhau lối học hình thức cầu danh lợi, chẳng biết đến đạo tam cương ngũ thường.

Và ông đã đưa ra những dẫn chứng hết sức tiêu biểu “chúa tầm thường thần nịnh hót” nói lên thực tế đất nước ta dưới đời vua Lê, nạn mua quán bán chức tràn lan, đất nước mục duỗm từ trên xuống dưới,…Và cảnh “Nước mất, nhà tan cũng đều do những điều tệ hại ấy”.

Trước thực trạng đó của nước nhà, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã đề xuất đến những giải pháp hết sức thuyết phục. Đối với một đất nước hưng thịnh hay không chính là ở hiền tài của nước đó, bởi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp” Cách để tạo ra hiền tài không gì khác chính là trấn hưng sự nghiệp học tập của đất nước. Ông đã đưa ra những nội dung và phương pháp học tập thiết thực, chính xác nhất.

Trước hết trường học ở các phủ huyện sẽ được mở rộng, để con cháu có thể “tùy đâu tiện đấy mà học”. Quan điểm của ông tuy đã cách chúng ta hàng thế kỉ nhưng đọc kĩ vẫn thấy còn giá trị cho đến thời điểm hiện tại. Vậy cách học như thế nào cho chính xác nhất? Theo ông học đầu tiề phải “lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc”, quả đúng như vậy, chưa có cái căn bản, cái gốc mà chộp giật học ngay lên cao, tất yếu sẽ bị chết yếu. Bởi vậy cần học từ thấp cho đến cao, ban đầu học tứ thứ, ngũ kinh, chư sử.

Phương pháp thứ hai là học rồi tóm lược lại cho gọn. Với vế thứ nhất, để làm được chúng ta cần đọc sâu, đọc kĩ để hiểu bản chất vẫn đề. Chỉ khi hiểu được bản chất thì mới có thể tóm lược lại cho dễ nhớ.

Nói đến vấn đề này ta lại thấy một thực trạng đáng buồn hiện nay, học và đọc tràn lan, quá nhiều, khiến việc học không được hiệu quả. Người ta chú trọng số lượng hơn chất lượng, nhưng thực tình lại rất có hại. Đọc ít mà nhớ kĩ, ngấm sâu ấy mới là cách học tốt. Phải biết biến kiến thức của người thành kiến thức của mình, khi ấy sự học mới được coi là thành công.

Phương pháp cuối cùng chính là học phải đi đôi với hành. Tư tưởng giáo dục của ông hết sức hiện đại, tiến bộ. Học chỉ để đó thì chưa phải sự học, học phải biết ứng dụng, vận dụng nó vào thực tiễn cuộc sống. Đấy là lối học tốt nhất, hoàn thiện nhất giúp người ta vừa ghi nhớ, năm sâu kiến thức, vừa đồng thời gợi mở những tri thức mới. Lối học đó khác hoàn toàn với việc học chay, học vẹt cốt chỉ được trong thoáng chốc, không phục vụ lâu dài.

Cuối của văn bản, La Sơn Phu Tử một lần nữa khẳng định: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị” . Quá cũng chính là kết quả của việc học tập đúng đắn, nghiêm túc. Bài tấu ngắn gọn, kiệm lời mà tràn đầy ý nghĩa. Với lập luận rõ ràng, sắc bén La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã đưa ra mục đích, phương pháp của việc học chân chính. Ý nghĩa của tác phẩm cho đến thời điểm của văn bản cho đến thời điểm hiện tại vẫn còn được giữ nguyên giá trị.

Tham khảo văn mẫu 🌿Bài Thơ Đi Đường [Tẩu Lộ] 🌿Hay nhất

Viết một bình luận