Chiếu Dời Đô [Thiên Đô Chiếu] ❤️️ Nội Dung, Giá Trị, Phân Tích ✅ Tìm Hiểu Chi Tiết Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Ý Nghĩa Nhan Đề, Giá Trị Tác Phẩm.
NỘI DUNG CHÍNH
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Chiếu Dời Đô
Chiếu Dời Đô, còn được gọi là Thiên Đô Chiếu, là một tác phẩm lịch sử quan trọng của Việt Nam, được sáng tác vào năm 1010 bởi Lý Công Uẩn, vị vua sáng lập nhà Lý. Tác phẩm này được viết nhân dịp ông quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La (nay là Hà Nội), đổi tên Đại Việt thành Đại Cồ Việt.
Hoàn cảnh sáng tác của Chiếu Dời Đô phản ánh quyết định chiến lược của Lý Công Uẩn trong việc chọn Đại La làm kinh đô mới, với mong muốn xây dựng một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa mạnh mẽ cho đất nước. Tác phẩm này không chỉ có giá trị lịch sử mà còn thể hiện tầm nhìn xa trông rộng và tinh thần yêu nước của vị vua này
Xem thêm tác phẩm🌿 Bạch Đằng Hải Khẩu 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Thiên Đô Chiếu Chữ Hán
Thiên đô chiếu (chữ Hán: 遷都詔) tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La.
遷都詔 (Thiên Đô chiếu)
Tác giả: Lý Công Uẩn
昔商家至盤庚五遷,周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私,妄自遷徙。以其圖大宅中,為億萬世子孫之計,上謹天命,下因民志,苟有便輒改。故國祚延長,風俗富阜。而丁黎二家,乃徇己私,忽天命,罔蹈商周之跡,常安厥邑于茲,致世代弗長,算數短促,百姓耗損,萬物失宜。朕甚痛之,不得不徙。
況高王故都大羅城,宅天地區域之中,得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位,便江山向背之宜。其地廣而坦平,厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困,萬物極繁阜之丰。遍覽越邦,斯為勝地。誠四方輻輳之要會,為萬世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居,卿等如何?
Chia sẻ tác phẩm📌Nước Đại Việt Ta [Nguyễn Trãi] 📌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Nội Dung Chiếu Dời Đô Phiên Âm
Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của quốc gia. Sau đây là nội dung Chiếu dời đô bản phiên âm.
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỷ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
Bản Dịch Chiếu Dời Đô
Dưới đây là bản dịch Chiếu dời đô do Nguyễn Đức Vân dịch, mời bạn đọc tham khảo.
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.
Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chỗ tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?
Đón đọc tác phẩm 🌿Thư Lại Dụ Vương Thông 🌿Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Tóm Tắt Chiếu Dời Đô
Để có thể nắm bắt nội dung của Chiếu dời đô nhanh hơn thì bạn có thể đọc bản tóm tắt mà Thohay.vn chia sẻ sau đây.
Chiếu dời đô là bài chiếu lịch sử nói về sự kiện Lí Công Uẩn hỏi quân thần, nhân dân về việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La.
Xưa kia nhà Thương, nhà Chu của Trung Quốc đã có nhiều lần dời đô và điều đó làm cho các triều đại đều hưng thịnh. Ở nước ta, hai nhà Đinh- Lê theo ý mình, khinh thường mệnh trời, không chịu dời đổi nên vận nước ngắn ngủi, nhân dân lầm than. Vì vậy, Lí Công Uẩn rất đau xót về việc đó, muốn dời đô ra Đại La để đất nước hùng mạnh hơn. Xét về địa lí, lịch sử, Đại La là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Về Lý Thái Tổ
Tổng hợp các thông tin quan trọng về Lý Thái Tổ hay còn được gọi là Lý Công Uẩn.
- Lý Công Uẩn (974 – 1028) tức Lý Thái Tổ, người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay thuộc xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
- Ông là một người thông minh, nhân ái, có chí lớn và lập được nhiều chiến công.
- Dưới thời Tiền Lê, ông làm Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần tôn lên làm vua, lấy niên hiệu là Thuận Thiên.
- Phong cách sáng tác: Sáng tác của ông chủ yếu là để ban bố mệnh lệnh, thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao có ảnh hưởng đến vận nước
Đọc hiểu tác phẩm🍃Nam Quốc Sơn Hà 🍃 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Về Tác Phẩm Chiếu Dời Đô
Về tác phẩm Chiếu dời đô, đây là văn bản thuộc thể loại Chiếu – là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh.
Chiếu dời đô đã thể hiện những ý nghĩa sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ Việt 1000 năm về trước, khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau.
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Chiếu Dời Đô
Giải mã ý nghĩa nhan đề Tác phẩm Chiếu đời đô cho những bạn đang thắc mắc.
– Nguyên văn chữ Hán của văn bản có tên:Thiên đô chiếu
=> Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh cho quần thần hoặc toàn dân. Chiếu dời đô thể hiện ý chí tự cường của dân tộc, khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, mở ra một thời kì hưng thịnh của đất nước.
Bố Cục Văn Bản Chiếu Dời Đô
Bố cục văn bản Chiếu dời đô được phân thành 3 phần như sau:
- Phần 1. Từ đầu đến “Trẫm rất đau đớn, không thể không dời”: Nguyên nhân cần phải dời đô.
- Phần 2. Tiếp theo đến “… đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”: Nguyên nhân chọn thành Đại La làm kinh đô.
- Phần 3. Còn lại: Lời thông báo quyết định dời đô.
Sưu tầm văn mẫu phân tích 🌿Bài Thơ Đi Đường [Tẩu Lộ] 🌿Hay nhất
Đọc Hiểu Tác Phẩm Chiếu Dời Đô
Hướng dẫn đọc hiểu tác phẩm Chiếu dời đô một cách đơn giản nhất.
1. Lí do dời đô.
– Cơ sở lịch sử :
- Nhà Thương: 5 lần dời đô
- Nhà Chu: 3 lần dời đô
– Mục đích:
- Đóng đô ở nơi trung tâm
- Mưu toan nghiệp lớn
- Tính kế muôn đời cho con cháu
– Kết quả: vận nước lâu bền, phong tục phồn thịnh.
– Nhà Định – Lê đóng đô một chỗ là hạn chế
– Hậu quả: triều đại không bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ hao tốn, cuộc sống, vạn vật không được thích nghi.
=> Số liệu cụ thể, suy luận chặt chẽ
⇒ Dời đô là việc làm chính nghĩa, vì nước, vì dân, nghe theo mệnh trời, thể hiện thực lực và ý chí tự cường dân tộc.
2. Lí do chọn Đại La làm kinh đô.
Dựa vào lợi thế của thành Đại La:
- Về lịch sử: là kinh đô cũ của Cao Vương.
- Về địa lí: trung tâm đất trời, thế rồng cuộn hổ ngồi, địa thế rộng mà bằng, đất cao mà thoáng.
- Dân cư: khỏi chịu cảnh ngập lụt, mọi vật phong phú, tốt tươi.
⇒ Luận cứ xác đáng, khẳng định Đại La là nơi đóng đô bền vững, đưa đất nước phát triển phồn thịnh.
3. Quyết định dời đô.
- Kết thúc bài chiếu, tác giả không nêu mệnh lệnh mà đặt câu hỏi mang tính chất đối thoại, trao đổi.
- Thuyết phục người nghe bằng lí lẽ, tình cảm chân thành,
- Nguyện vọng dời đô của vua phù hợp với nguyện vọng của dân.
Giá Trị Tác Phẩm Chiếu Dời Đô
Gửi đến bạn phần đúc kết giá trị tác phẩm Chiếu dời đô sau đây, hãy lưu lại nhé!
Giá trị nội dung
- Chiếu dời đô phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
Giá trị nghệ thuật
- Chiếu dời đô là áng văn chính luận đặc sắc viết theo lối biền ngẫu, các vế đối nhau cân xứng nhịp nhàng
- Cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo rõ ràng.
- Dẫn chứng tiêu biểu giàu sức thuyết phục.
- Có sự kết hợp hài hòa giữa tình và lí.
Tham khảo các bản phân tích ❤️️Lai Tân [Hồ Chí Minh] ❤️️ Ý nghĩa nhất
Soạn Bài Chiếu Dời Đô
Gợi ý cách soạn bài Chiếu dời đo chi tiết, các em học sinh có thể tham khảo để chuẩn bị cho tiết học của mình.
👉Câu 1 (trang 51 SGK Ngữ văn 8, tập 2): Mở đầu “ Chiếu dời đô” , Lí Công Uẩn viện dẫn sử sách Trung Quốc nói về việc các vua đời xưa bên Trung Quốc cũng từng có những cuộc dời đô. Sự viện dẫn đó nhằm mục đích gì?
Đáp án: Lí Công Uẩn viện dẫn sử sách Trung Quốc nói về việc các vua đời xưa bên Trung Quốc cũng từng có những cuộc dời đô nhằm khẳng định việc dời đô là tất yếu, hợp tình.
👉Câu 2 (trang 51 SGK Ngữ văn 8, tập 2): Theo Lí Công Uẩn, kinh đô cũ ở cùng Hoa Lư (Ninh Bình) của hai triều Đinh, Lê là không còn thích hợp, vì sao?
Đáp án: Theo Lí Công Uẩn, kinh đô cũ ở cùng Hoa Lư (Ninh Bình) của hai triều Đinh, Lê là không còn thích hợp vì:
- Hai nhà Đinh, Lê tự làm theo ý mình, khinh thường mệnh trời, không theo dấu cũ nhà Thương Chu.
- Triều đại không hưng thịnh, vận nước ngắn ngủi, nhân dân khổ cực, vạn vật không thích nghi.
- Việc đóng đô của hai triều Đinh, Lê vẫn cứ đóng đô ở Hoa Lư chứng tỏ thế và lực của cả hai triều chưa đủ mạnh (vẫn còn dựa vào thế núi sông).
👉Câu 3 (trang 51 SGK Ngữ văn 8, tập 2): Theo tác giả, địa thế thành Đại La có những thuận lợi gì để có thể chọn làm nơi đóng đô?
Đáp án:
- Thành Đại La có vị thế thuận lợi về nhiều mặt. Về mặt địa lí.
- Thuận lợi về mặt địa lí như vậy sẽ kéo theo những thuận lợi về thông thương, giao lưu.Nơi định đô mới này sẽ đáp ứng được vai trò là đầu mối trung tâm của kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước
👉Câu 4 (trang 51 SGK Ngữ văn 8, tập 2): Chứng minh “ Chiếu dời đô” có sức thuyết phục lớn bởi có sự kết hợp giữa lí và tình.
Đáp án:
- “Chiếu dời đô” là một bài văn nghị luận giàu sức thuyết phục bởi có sự kết hợp giữa lý và tình.Kết cấu 3 đoạn nói trên là rất tiêu biểu cho kết cấu của văn nghị luận, trình tự lập luận nói trên là rất chặt chẽ.
- Đây là lời ban bố mệnh lệnh nhưng lại có những đoạn bày tỏ nỗi lòng, có những lời như đối thoại, trao đổi.Đặc biệt là hai câu cuối bài chiếu tại tính chất đối thoại và trao đổi chứ không phải là tính chất đơn thoại, một chiều của người trên ban bố cho kẻ dưới. Và vì thế, lời văn tạo nên sự đồng cảm sâu sắc giữa mệnh lệnh của vua với thần dân, ai ai cũng xúc động
👉Câu 5 (trang 51 SGK Ngữ văn 8, tập 2): Vì sao nói việc Chiếu dời đô ra đời phản ánh ý chí độc lập, tự cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt?
Đáp án: Việc dời đô phản ánh ý chí độc lập, tự cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt vì:
- Khi rời đô từ Hoa Lư (vùng đồi núi) ra thành Đại La (vùng đồng bằng), nơi giao lưu trọng yếu có nghĩa là nhà Lý đủ sức mạnh phòng thủ đất nước, chống lại sự xâm lược phương Bắc.
- Thành Đại La là nơi trung tâm, có địa thế thuận lợi, để đất nước phát triển về kinh tế, dân có cơ hội phát triển.
- Thể hiện tầm nhìn chiến lược, sự hiểu biết sâu rộng của người đứng đầu đất nước.
=> Việc dời đô khẳng định ý chí độc lập, tự cường, sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt trước các cường quốc khác.
Giáo Án Chiếu Dời Đô
Chia sẻ cách soạn giáo án bài Chiếu dời đô cho các thầy cô tham khảo.
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
- HS Hiểu được chiếu là thể văn chính luận trung đại , cú chức năng ban bố mệnh lệnh của nhà vua.
- Sự phát triển của quốc gia Đại Việt đang trên đà lớn mạnh .
- Ý nghĩa trong đại của sự kiện dời đụ từ Hoa Lư ra thành Thăng Long và sức thuyết phục mạnh mẽ của lời tuyên bố quyết dịnh dời đô.
2. Kĩ năng
- Rốn cho học sinh kĩ năng đọc – hiểu một văn bản viết theo thể chiếu.
- Nhận ra và thấy được đặc điểm của kiểu nghị luận trung đại ở một văn bản cụ thể.
3. Thái độ: Giáo dục cho học sinh trân trọng lịch sử, tình yêu nước, tìm hiểu lịch sử ngàn năm văn hiến của dân tộc.Nhận ra ý nghĩa trọng đại của chiếu dời đô.
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên: Soạn bài, nghiên cứu bài, nghiên cứu bài, đọc tài liệu tham khảo, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng.
2. Học sinh: Chuẩn bị bài, học bài cũ, sgk,nháp, vở ghi…
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức: Sĩ số
2. Kiểm tra
H: Đọc thuộc bài thơ ” Đi đường” của HCM? Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ? Phân tích 2 câu khai- thừa, chỉ ra mối quan hệ ở câu 2- 4.
3. Bài mới
– Chúng ta đó chứng kiến sự kiện lịch sử trọng đại 1000 năm Thăng Long – Hà Nội Năm 2010. Thủ đô văn hiến của chúng ta có từ bao giờ ai là người lựa chọn nơi thắng địa ấy để định đô? ý nghĩa của việc dời đô như thế nào?Chúng ta cũng tìm hiểu bài học “Chiếu dời đô”.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1.HDHS đọc và tìm hiểu chú thích : – GV đọc mẫu, yêu cầu HS đọc giọng mạch lạc, rõ ràng, chú ý câu hỏi, câu cảm. – Gọi 1-2 HS đọc – Nhận xét, GV bổ xung – HS đọc thầm phần chú thích H: Qua phần chú thích nêu những hiểu biết của em về tác giả, tác phẩm ? → Ông sáng lập ra vương triều nhà Lí | I. Đọc tìm hiểu chú thích : 1. Đọc : 2. Chú thích: a. Tác giả: Lí Công Uẩn (947 –1028) tức Lí Thái Tổ – Quê: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang Nay là Từ sơn – Bắc Ninh) – Ông là vị vua khai sáng triều Lí , là vị vua anh minh, có chí lớn và lập nhiều chiến công. |
H: Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh nào ? – Lí Công Uẩn cho rằng kinh đô cũ của nhà Đinh Lê ở Hoa Lư (Ninh bình)là nơi ẩm thấp chật hẹp, tự ông viết bài chiếu bày tỏ ý định rời đô ra thành Đại La (Hà Nội) H: Với sự chuẩn bị bài ở nhà, em hãy nêu hiểu biết của mình về thể chiếu? – GV hướng dẫn HS giải từ khó – Mệnh : ý trời, lòng trời, vận : thời cơ, vận hội – Khanh :Từ vua gọi bầy tôi, quan tướng | b. Tác phẩm: – Năm 1010, Lí Công Uẩn viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư- Ninh Bình ra thành Đại La(Hà Nội ngày nay) c. Thể chiếu: – Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh, chiếu có thể viết bằng văn vần, văn xuôi hoặc văn biền ngẫu, chiếu được công bố và đón nhận một cách trang trọng. d. Từ khó :(SGK/ 50) |
HĐ2.HDHS đọc – hiểu văn bản H: Bài chiếu thuộc kiểu văn bản nào mà em đã học? | II. Đọc – hiểu văn bản: 1. Thể loại: + VB: Kiểu văn nghị luận trung đại (thể chiếu) |
H: Vấn đề nghị luận của bài chiếu là gì ?Có mấy vấn đề mà tác giả nêu ra lập luận? | 2. Bố cục: – Bài chiếu gồm 2 ý: – Luận điểm 1: Lí do dời đô (Từ đầu → không dời đổi) – Luận điểm 2: Những cở sở chứng minh thành Đại La là nơi để định đô (Huống gì → hết) |
– Gọi HS đọc đoạn 1 H: Theo suy luận của tác giả thì việc dời đô của các vua nhà Thương, nhà Chu nhằm mục đích gì? | 3. Phân tích: a. Luận điểm 1 (Lí do dời đô): – Việc dời đô của các triều đại trong lịch sử TQ đã trở thành những sự kiện lớn, nhằm mưu toan việc lớn, xây dựng vương triều phồn thịnh, tính kế lâu dài cho thế hệ sau. việc dời đô vừa thuận theo ý trời vừa thuận lòng dân. |
H: ý định dời đô bắt nguồn từ kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy ý trí mãnh liệt nào của Lí Công Uẩn? – Noi gương sáng không chịu thua ,đưa đất nước đến hùng mạnh H: Theo Lí Công Uẩn kinh đô cũ ở Hoa Lư không còn phù hợp vì sao? H: Vì sao 2 nhà Đinh – Lê chưa thể đóng đô ở chỗ khác ? H: Từ chuyện xưa ,tác giả phê phán hai triều đại Đinh – Lê không chịu dời đô như thế nào ,kết quả ra sao ? | – Hoa Lư có địa thế núi non hiểm trở chật hẹp chỉ thích hợp với vị trí phòng ngự lợi hại về quân sự. – Hai triều đại Đinh- Lê thế và lực chưa đủ mạnh nên chưa dám nghĩ đến việc dời đô. – Hai triều Đinh – Lê theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời không dời đô cho nên triều đại không bền, ngắn ngủi nhân dân thì khổ sở , vạn vật không được thích nghi , không thể phát triển thịnh vượng. |
H: Vậy lí do dời đô của Lí Công Uẩn là gì? | → Thời Lí trong đà phát triển đi lên của đất nước kinh đô cũ không còn phù hợp, cần thiết phải dời đô để thuận lợi cho khát vọng xây dựng đất nước lâu bền và hùng mạnh. |
– Gọi HS đọc đoạn 2 H: Theo Lí Công Uẩn thành Đại La có những lợi thế gì để chọn làm kinh đô của đất nước? | b. Luận điểm 2: (Vì sao thành Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất: – Về vị trí địa lí: Đó là nơi trung tâm trời đất , mở ra bốn hướng Nam- Bắc- Đông -Tây ; có núi, có sông; đất rộng mà bằng, cao mà thoáng , tránh được nạn lụt lội, trật trội. – Về vị thế chính trị – văn hoá :là đầu mối giao lưu” chốn tụ hội của bốn phương”; là mảnh đất hưng thịnh ” muôn vật phong phú tốt tươi”. – Về tất cả các mặt , thành Đại La có đủ mọi điều kiện để trở thành kinh đô của đất nước muôn đời. |
H: Em nhận xét như thế nào về trình tự lập luận của bài chiếu? | – Nêu sử sách làm tiền đề làm chỗ dựa cho lí lẽ. – Nêu thực tế hoàn cảnh của hai triều đại Đinh – Lê → k/định sự cần thiết phải dời đô. – Đi tới kết luận thành đại la là nơi thắng địa để chọn làm kinh đô. – Kết cấu phù hợp với kiểu bài nghị luận (3 đoạn) |
H: Em nhận xét như thế nào về câu hỏi ở cuối bài chiếu??(Tại sao kết thúc bài chiếu, Lí Thái Tổ không ra mệnh lệnh mà lại đạt câu hỏi các khanh nghĩ thế nào? Cách kết thúc có tác dụng gì ?) H: Em hiểu gì về tình cảm và tư tưởng của Lí Công Uẩn qua lời tuyên bố này? H: Đọc “Chiếu dời đô” em hiểu khát vọng nào của nhà vua & của dân tộc được phản ánh ? H: Từ bài chiếu em trân trọng những phẩm chất nào của Lí Công Uẩn? +) Khát vọng về đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường +) Lòng yêu nước cao cả tầm nhìn, sáng suốt. H: Em cảm nhận như thế nào về lịch sử phong kến triều Lí sau khi học Chiếu dời đô? → Tự hào về quá khứ hào hùng của dân tộc. | – Cách ban bố mệnh lệnh vừa tình cảm, gần gũi, vừa thể hiện tính khách quan. → Mang tính đối thoại, tạo sự đồng cảm giữa vua với thần dân. |
H: Vì sao nói chiếu dời đô ra đời phản ánh ý chí độc lập , tự cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt? | → Chiếu dời đô khẳng định dân tộc Đại Việt đủ sức ngang hàng phương Bắc , thể hiện nguyện vọng của nd thu giang sơn về một mối, xd đất nước độc lập tự cường. |
HĐ3.HDHS tổng kết: H: Em cảm nhận được gì về nội dung và hình thức bài tấu? – GV gọi 1-2 hs đọc ghi nhớ sgk – GV kết luận nội dung bài học, nhắc hs về học thuộc nd ghi nhớ. – GV hướng dẫn hs luyện tập ở nhà. | III. Tổng kết: * Ghi nhớ : SGK –T 51 |
4. Củng cố, luyện tập
H: Nêu bố cục và sự thuyết phục của bài chiếu?Lí do dời đô? Lí do thành Đại La là noi định đô?
5. Hướng dẫn học ở nhà
Học bài cũ ,chuẩn bị : Câu trần thuật
Đừng nên bỏ qua bài thơ🌷Chiều Tối [Hồ Chí Minh] 🌷 đầy đủ nhất
Sơ Đồ Tư Duy Chiếu Dời Đô
Thohay.vn vừa sưu tầm được các mẫu sơ đồ tư duy Chiếu dời đô sau đây, mời bạn cùng tham khảo.
5 Mẫu Phân Tích Chiếu Dời Đô Hay Nhất
Tổng hợp 5 mẫu phân tích văn bản Chiếu dời đô hay nhất không nên bỏ lỡ.
Mẫu Phân Tích Chiếu Dời Đô Hay – Mẫu 1
Năm 1010, vua Lí Thái Tổ đã rời từ kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Thăng Long – Hà Nội ngày nay). Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thời kì phát triển mạnh mẽ của triều đại phong kiến Việt Nam thời đó. Và nhà vua đã viết lên “Chiếu dời đô” để thông báo cho quần chúng được biết về sự việc dời đô đó. Bản chiếu vượt ra khỏi chức năng hành chính nhà nước thông thường, trở thành một tác phẩm vừa có giá trị lịch sử lại vừa có giá trị văn học độc đáo.
Tác phẩm được viết theo thể “Chiếu”, một thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh, được viết bằng văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi; thể hiện những tư tưởng lớn lao, có ảnh hưởng lớn đến vận mệnh, triều đại, đất nước. “Chiếu dời đô” phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
Trước hết, đoạn văn đầu nêu lên tiền đề, cơ sở lịch sử và thực tiễn của việc dời đô. Nhà vua không trực tiếp “áp đặt” mệnh lệnh của mình xuống quần thần mà ngược lại đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng rất tiêu biểu về các triều đại cũ trong lịch sử trước đó của cả Trung Quốc và Đại Cồ Việt. Nhà Thương năm lần dời đô, nhà Chu ba lần dời đô chỉ nhằm mục đích để “vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”.
Điều đó là một việc làm hợp lí “trên vâng mệnh trời, dưới theo lòng dân” và cuối cùng thì việc dời đô của hai triều đại Thương – Chu đều tốt đẹp, mang lại kết quả viên mãn. Ngược lại, hai triều Đinh – Lê ở nước ta lại cứ đóng đô tại Hoa Lư, không chịu di dời, vậy là trái ngược mệnh trời, không chịu noi gương “tiền nhân” dẫn tới hậu quả: triều đại suy vong, không được cường thịnh…
Cách lập luận so sánh giữa một bên những điều tốt đẹp khi dời đô với một bên là hậu quả không tốt của việc không chịu di dời, nhà vua đã khéo léo chỉ ra quan điểm ý kiến của mình: dời đô là việc nên làm và bắt buộc phải làm. Đó là việc dời đô không chỉ có ý nghĩa noi theo tấm gương của người đi trước mà còn là việc “tính kế muôn đời cho con cháu” mai sau. Như vậy, ngay ở phần đầu bài chiếu, chúng ta đã thấy hiện lên khát vọng mãnh liệt về một đất nước độc lập, thống nhất, phát triển giàu đẹp trong tương lai của nhà vua Lí Thái Tổ.
Đoạn văn tiếp theo, nhà vua đưa ra những lý do để chọn thành Đại La là kinh đô mới. Dưới con mắt của nhà vua, thành Đại La hiện lên thực sự là một vùng đất hội tụ, chung đúc khí thiêng của muôn đời. Xét về vị trí địa lí, đây là nơi trung tâm của cả nước, có thế đất đẹp (rồng cuộn hổ ngồi) nhìn ra bốn phương nam , bắc, đông, tây, có núi có sông, đất đai rộng mà bằng, cao mà thoáng, không lo lụt lội. Về chính trị, là đầu mối giao lưu của bốn phương, dân cư đông đúc, đất đai màu mỡ, muôn vật phong phú tốt tươi.
Từ đó, nhà vua đi tới kết luận: khắp cả nước thì đây chính là nơi “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Đến đây, chúng ta thấy, vua Lí Thái Tổ thực sự là một vị vua anh minh, có tầm nhìn xa trông rộng, biết nắm giữ vận mệnh thịnh suy của triều đại mình và biết chủ động đáp ứng một nhu cầu cấp thiết của lịch sử, xã hội.
Bởi dời đô từ nơi có núi non hiểm trở (thích hợp cho việc phòng thủ và chiến đấu) xuống vùng đồng bằng rộng lớn (khả năng phòng thủ thấp) chứng tỏ dân tộc đã có nội lực phát triển vững vàng, triều đại mạnh mẽ. Cho nên đây là biểu hiện của một khát vọng tự lực, tự cường, quyết tâm dựng nước đi liền với việc giữ nước hết sức cháy bỏng, mãnh liệt của dân tộc Đại Việt.
“Chiếu dời đô” của Lí Thái Tổ được viết cách đây hơn một nghìn năm nhưng cách lập luận vẫn có sức thuyết phục mạnh mẽ nhờ sự kết hợp hài hòa giữa lí lẽ và tình cảm. Sau những cơ sở và lí lẽ ở hai phần trước đó, nhà vua đã kết thúc bài chiếu với câu hỏi: “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” vừa có tính chất ban bố, lại vừa có tính chất đối thoại, thăm dò ý kiến của quần thần.
Chính câu hỏi đó đã xóa nhòa đi khoảng cách giữa bậc quân vương với bách gia trăm họ, dễ tạo nên sự đồng cảm giữa nhà vua với thần dân. Từ đó mà vua – tôi dễ đồng lòng quyết tâm xây dựng đất nước cường thịnh, vững mạnh, huy hoàng.
Có một câu chuyện mà người xưa vẫn truyền tai nhau, khi dời đô về Đại La, vua Lí Thái Tổ đã nằm mộng thấy rồng vàng hiển hóa bay lên trời nên nhà vua đã đổi tên Đại La thành Thăng Long. Điều đó càng cho thấy rằng, việc dời đô của nhà vua càng trở nên đúng đắn, thuyết phục hơn.
Bởi đây là một sự kiện không chỉ có sự hội tụ của địa lợi, nhân hòa mà còn có cả thiên thời. Và cho tới ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy Đại La – Thăng Long – Hà Nội thực sự là một mảnh đất địa linh nhân kiệt với nghìn năm văn hiến và mãi trường tồn bất diệt với thời gian năm tháng trong trái tim của mỗi người dân Việt.
Tóm lại, với nghệ thuật lập luận mạch lạc, chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, tình cảm chân thành, bài chiếu đã có sức lay động tới trái tim đồng cảm của hàng triệu triệu người dân thời bấy giờ.
Nguyện vọng dời đô của nhà vua đã được quân thần ủng hộ, cho thấy Lí Thái Tổ là vị vua thực sự là một bậc minh vương sáng suốt. Đồng thời qua bài chiếu, chúng ta cũng thấy được khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh, phát triển, sáng tươi huy hoàng.
Mẫu Phân Tích Chiếu Dời Đô Chọn Lọc – Mẫu 2
Lí Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cuộc đời ông đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, Trong những năm trị vì của mình, ông dành nhiều thời gian để đánh dẹp các nơi phản loạn,triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp.
Năm Canh Tuất (1010), Lí Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay).. Thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu dài của nhà Lý tồn tại hơn 200 năm. Nội dung của Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long, là tác phẩm khai sáng văn học triều Lý, có đầy tính thuyết phục, phản ánh được phần nào khát khao làm chủ giang sơn. Có ý nghĩa to lớn với nền văn học của Việt Nam.
Chiếu dời đô hay Thiên đô chiếu là một đoạn văn được nhà sử học Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ XV trong sách Đại Việt sử ký toàn thư. Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long – một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Xuất hiện và phát triển trong chế độ phong kiến, chiếu là một loại hình văn bản hành chính có vai trò rất lớn. Ở mọi triều đại, trong mọi thời kì, chiếu luôn được coi là một trong những loại hình văn bản hành chính quan phương nhất, bởi nó trực tiếp thể hiện những mệnh lệnh, những ý kiến, những suy nghĩ của nhà vua và được ban bố rộng rãi cho quần thần và dân chúng. Nhưng nó cũng mang trong mình ngôn ngữ hành chính vừa mang ngôn ngữ như đối thoại với nhân dân.
Quan sát bài chiếu, bài chiếu được hiểu có thể chia làm 3 đoạn rõ:Đoạn 1(2 câu đầu): Nêu bật được ý nghĩa của Việc chọn lựa kinh đô địa thế thích hợp đóng vai trò quan trọng giúp cho sự phồn vinh của các triều đại trong quá khứ. Đoạn 2(câu tiếp theo); Phản ánh sự sai lầm trong cách vị trí lập kinh đô của nhà Đinh, thực tế là kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang phát triển của đất nước cho nên cần thiết phải dời đô. Đoạn 3(4 câu ): nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá mang tầm vóc quốc gia.
Xứng đáng việc chọn kinh đô củng cố cho sự phát triển thịnh vượng của muôn đời.Mỗi văn bản, tác giả để tăng độ thuyết phục,chính xác, áp dụng phương pháp lập luận sắc bén chính là cách mà Lý Công Uẩn sử dụng để thể hiện ý tứ sâu xắc, tầm nhìn thời đại của mình trong việc muốn dời kinh đô của mình, còn nêu một số dẫn chứng trong lịch sử cổ kim để củng cố lí lẽ ấy nội dung ấy được nêu rõ ràng ở đoạn Việc dời đô là việc không hề dễ dàng, trước tâm trạng rối bời của nhiều người với quyết định của ông.
Ông đã nhấn mạnh được đó là việc làm thường xuyên của các triều đại cổ Trung quốc tạo nên được những sự thành công to lớn trong cách trị vị của họ, cho nhân dân, đất nước họ. “nhà Thương đến đời Bàn Canh”, ”nhà Chu đến đời Thành Vương”được tác giả gọi với sự tôn kính “vua thời Tam Đại” lần lượt họ đều phải dời đô rất nhiều lần, tác giả đặt câu hỏi mở cho nhân dân của mình về cách suy nghĩ trong việc dời đô đấy có phải là sự ngông nghênh tự tiện, không suy nghĩ trước những quyết định của mình.
Đó mở ra nhiều điều chúng ta nên suy ngầm, họ là những bậc anh minh, luôn mong mỏi đất nước phồn thịnh, ổn định nên việc chọn vùng đất đặt kinh đô để tiện cho việc trị vì dân tộc, hỏi thăm ý dân. Được lòng dân, thuận ý trời mới đưa ra quyết định khó khăn, và nó lại mang đến được nhiều sự thay đổi tích cực cho đất nước, vậy không việc gì họ không làm việc ấy.
Việc dời đô, có thể thấy nó không có gì là bất thường, mang tính tất yếu thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại mong mỏi của cả vua và dân, đất trời, mong cho đất nước thay đổi phồn thịnh như đất nước của các vị vua kia.
Sự suy nghĩ, óc phán đoán, phán xét tài ba của mình, ông đã đề cập những nhận xét có tính phê phán đến thời nhà Đinh rất sai lầm, khiến nhà vua rất buồn, đất nước, nhân dân cũng héo hon, triều đại phát triển không được hưng thịnh, thời thế nhanh suy.
Nếu như ông nhận định, việc dời đô không thể coi thường ý trời, tự quyết định theo ý người, không noi theo gương các triều đại cổ kim mà sửa đổi, thì mãi mãi đất nước không thể phát triển trên vùng đất hẹp, địa thế vạn vật không nhân hòa, anh linh đã được chứng minh bằng những căn cứ trong lịch sử mãi mãi hai nhà Đinh vẫn chỉ ở trong vòng củng cố mà không có sự phản kháng, lực lượng tàn dần. Nên khi nhà Lý lên ngôi, thấy được điều quý giá đó, thực tế kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang phát triển của đất nước cho nên cần thiết phải dời đô.
Còn việc chọn kinh đô là quyết định càng khó khăn hơn nữa cho vị vua anh minh, nhưng thật may mắn vị vua ấy đã hiểu được, có suy nghĩ về địa lý sâu rộng, nên quyết định sau đây của ông đã coi như là một sự thay đổi ngoạn mục cho bộ mặt hưng thịnh của nước nhà, niềm tự hào của cả dân tộc.
Đoạn 3 gợi nhắc đến chúng ta điều đó, vẫn lối chứng minh sắc sảo, việc chọn kinh thành Đại La của ông đã thực sự thu phục được lòng người nghe theo, làm theo, dựa vào thuyết phong thủy cổ xưa mà suy đoán được thế đất tốt cho việc phát triển và chứng minh lợi thế và vẻ đẹp muôn mặt của thành Đại La về địa lí, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện sống của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật.
Ông đã nhận ra nơi đây là đất tốt, đất lành, đây sẽ là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời,bằng chứng theo lịch sử là thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, Lê Trung Hưng và đang là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nó nằm ở vị trí trung tâm của đất nước.,thế rồng cuộn hổ ngồi rõ ràng núi có sông có, địa thế cao, bốn hướng nam, bắc, đông, tây.
Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả nước nơi đây đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Và sự phân tích đúng đắn ấy cũng là tâm sự sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên sau này nghiên cứu về kinh thành thăng long đã viết như sau: “Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền toàn bộ hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này”.
Câu hỏi tu từ tiếp sau đó thể hiện thái độ tôn trọng của người đứng đầu đất nước đối với triều đình phong kiến đương thời “ Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” trước khi ra bất kì quyết định nào ông cũng chú tâm đến ý kiến của công chúng để thống nhất và ra quyết đinh, thấy được ở đây sự đoàn kết đồng lòng quân dân, và một lần nữa củng cố chắc chắn quyết định này của mình.
“Chiếu dời đô” là một bài văn nghị luận giàu sức thuyết phục bởi có sự kết hợp giữa lý và tình. lời văn tạo nên sự đồng cảm sâu sắc giữa mệnh lệnh của vua với thần dân. Dời đô từ vùng núi Hoa Lư ra vùng đồng bằng đất rộng để chứng tỏ triều đình nhà Lý đủ sức chấm dứt nạn phong kiến cát cứ, thế và lực của dân tộc Đại Việt đủ sức sánh ngang hàng phương Bắc.
Qua đó, có thể thấy được khát vọng mãnh liệt của tổ tiên về một nước Đại Việt độc lập, thống nhất, hùng cường và tư thế hiên ngang của một quốc gia tự chủ đang trên đà phát triển lớn mạnh. Để rồi khi nhắc đến tác phẩm này sau hàng ngàn thế hệ, vẫn là sự quyết định đúng đắn của bậc anh nhân đầy thấm thía.
Mẫu Phân Tích Chiếu Dời Đô Hay Đặc Sắc – Mẫu 3
“Chiếu dời đô” là áng văn chính luận, lí lẽ sắc bén dưới cái nhìn vượt thời đại của vua Lý Thái Tổ. Tác phẩm ra đời không chỉ để thông báo quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Hà Nội) mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một minh quân dân chủ, thấu ý trời tỏ lòng dân.
Vua Lý Công Uẩn được biết đến là vị vua ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, có giá trị to lớn trong xây dựng và phát triển đất nước.
Đương thời, ông nhận thấy kinh thành Hoa Lư không còn phù hợp cho việc giao thương buôn bán, vì thế nhà vua đã đưa ra quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư tới Đại La, nay là Thăng Long, Hà Nội. Và “Chiếu dời đô” khi được ban hành xuống đã trở thành một tác phẩm trong nền văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn mang ý nghĩa nhân văn, văn học sâu sắc.
Chiếu là loại văn thể hiện tư tưởng lớn lao có sự ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước; mang nội dung thông báo một mệnh lệnh, một quyết định của vua chúa cho dân chúng được biết. Với “Chiếu dời đô”, ta thấy nó mang đặc trưng chung của thể chiếu, tuy nhiên có những nét rất riêng với sự kết hợp giữa tâm tình và chất mệnh lệnh.
Tác phẩm được chia thành 2 phần, phần đầu tiên phân tích những lý do cần thiết phải dời kinh thành và phần 2 là lý do tại sao chọn Đại La làm kinh đô mới của đất nước. Thông qua những bài học lịch sử, dẫn chứng những ví dụ chuyển kinh đô của nước bạn Trung Quốc. Chuyện rời đô từ xưa không còn là chuyện hiếm, mục đích cuối cùng cũng vì sự hưng thịnh của quốc gia.
Kinh thành Hoa Lư với núi non hiểm trở không còn phù hợp trong thời bình, với lợi thế và địa hình núi rừng như vậy chỉ phù hợp trong thời chiến còn khi hòa bình lại trở thành khó khăn. Nhân dân lúc này cần một nơi có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi để thúc đẩy giao lưu và buôn bán. Bộ máy hành chính cần được đặt ở trung tâm của đất nước. Và dời đô lúc này chính là hợp ý trời và thuận lòng dân.
Lý Công Uẩn đã chứng minh rằng Đại La xứng đáng là kinh đô của nước Việt muôn đời “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”.
Thành Đại La dưới góc nhìn và phân tích của nhà vua hiện lên là vị trí trung tâm của đất nước, là đầu mối giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước. Có thể rồng cuộn hổ ngồi, địa hình đa dạng, khoáng đạt, mở ra bốn hướng tiện cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Thành Đại la sở hữu mọi điều kiện để trở thành kinh đô mới của Đại Việt ta.
“Chiếu dời đô” là áng văn chính luận có giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng, tầm nhìn xa trông rộng bắt nguồn từ thực tế lịch sử vì một Đại Việt hùng mạnh trong tương lai.
Mẫu Phân Tích Chiếu Dời Đô Tiêu Biểu – Mẫu 4
Lí Công Uẩn quê ở Kinh Bắc, là võ tướng có tài của Lê Đại Hành, từng giữ chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Ông là người tài trí, đức độ, kín đáo, nhiều hi vọng. Năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, Lí Công uẩn được giới tăng lữ và triều thần tôn lên làm vua, lấy hiệu là Lí Thái Tổ và gây dựng nên nhà Lí tồn tại hơn 200 năm.
Năm 1010, Lí Thái Tổ viết “Chiếu dời đô” để dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La. Sau khi dời về Đại La, ông đổi tên địa điểm này thành Thăng Long, kinh đô của nước Đại Việt, chính là Hà Nội ngày nay.
Chiếu dời đô của Lí Công uẩn là văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn. Chính văn bản này đã góp phần khai sinh ra kinh đô của nước ta trong quá khứ và hiện nay.
Phần đầu của Chiếu dời đô nói lên mục đích sâu xa, tầm quan trọng của việc dời đô. Đó là để đóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân. Nói một cách khác, việc dời đô là một việc lớn, vừa hợp mệnh trời, vừa hợp lòng dân, là để xây dựng đất nước cường thịnh, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.
Việc dời đô không còn là chuyện xưa nay hiếm, nó đã được thực hiện bởi các vị vua trước đó ở Trung Hoa. Tác giả đã nêu lên những dẫn chứng cụ thể để thuyết phục mọi người. Chuyện các vị vua Trung Hoa dời đô để xây dựng đất nước phồn thịnh, chuyện các vị vua Việt Nam thời Đinh – Lê đóng đô ở Hoa Lư làm cho triều đại không vững bền, nhân dân đói kém… Lí Công Uẩn đau xót khi chứng kiến vận số ngắn ngủi của nhà Đinh, nhà Lê và cảm thấy việc dời đô là một việc làm cấp thiết.
Phần mở đầu của Chiếu dời đô có lí lệ sắc bén, dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục. Tác giả đã lồng cảm xúc vào bài chiếu, tạo nên những ấn tượng đẹp: Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.
Tác giả đã chỉ ra được những điểm thuận lợi của kinh đô mới so với kinh đô cũ. Đại La không có gì xa lạ đối với mỗi người dân Việt lúc đó, nó được Cao Biền đời nhà Đường xây dựng vào thế kỉ thứ IX. Những điểm mạnh của kinh đô đã được Lí Công Uẩn chỉ rõ trong bài chiếu.
Vị trí của nó ở vào nơi trung tâm của trời đất … đã đúng ngôi nam bắc đông tây. Địa thế của Đại La rất đẹp, rất hùng vĩ, là thế rồng cuộn hổ ngồi, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, địa thế rộng mà bằng phẳng; đất đai cao mà thoáng.
Rõ ràng đây là một vùng đất lí tưởng thích hợp cho việc đóng đô và quần tụ cư dân. Nó không bị ngập lụt mà muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi.
Tóm lại, Đại La là thắng địa, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Phần thứ hai của Chiếu dời đô cho thấy tầm nhìn chiến lược của vị vua mở đầu triều Lí, một cái nhìn toàn diện, sâu sắc và chính xác về tất cả các mặt. Điều này hoàn toàn không phải là một ý kiến chủ quan mà chính là khả năng nhìn nhận và tính toán một cách chính xác, quyết đoán.
Sau một nghìn năm, Thăng Long xưa nay là Hà Nội đã trở thành kinh đô của hầu hết các triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đây chính là cống hiến vĩ đại của Lí Công Uẩn cho lịch sử Việt Nam như câu nói của ông lúc dời đô: mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu.
Về mặt văn chương, phần thứ hai của Chiếu dời đô rất đặc sắc. Cách viết hàm súc, giàu hình ảnh và biểu cảm. Vế đối trong các câu rất chuẩn và đạt hiệu quả cao về mặt nghệ thuật.
Phần cuối của bài Chiếu là lời bày tỏ của nhà vua trước quần thần về ý định dời đô, điều này cho thấy nhà vua rất công minh, đức độ trong việc trị nước:
“Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”
Việc dời đô của Lí Công uẩn là một kì tích, kì công đối với đất nước. Sau một ngàn năm, Thăng Long – Hà Nội đã trở thành kinh đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; là trung tâm kinh tế, quốc phòng, văn hóa lớn của cả nước.
Chiếu dời đô là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc của tổ tiên để lại. Ngôn từ trang trọng đúng như khẩu khí của bậc đế vương. Nó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ.
Mẫu Phân Tích Chiếu Dời Đô Ngắn Hay – Mẫu 5
Trước khi dời đô về kinh thành Thăng Long, hai nhà Đinh, Tiền Lê đều đóng đô ở vùng núi hiểm trở, số vận ngắn ngủi, ra đời không bao lâu thì tiêu vong. Là một người đứng đầu đất nước Lý Công Uẩn có trọng trách to lớn phải tìm được nơi địa linh nhân kiệt làm nơi đóng đô cho đất nước.
Bằng sự am hiểu thiên văn địa lí, Lý Công Uẩn đã quyết định dời về kinh thành Thăng Long, và đó cũng là hoàn cảnh ra đời của văn bản Chiếu dời đô. Chiếu dời đô ra đời thể hiện khát vọng to lớn về một đất nước độc lập, hùng cường và không ngừng lớn mạnh của dân tộc
Để đi đến quyết định dời đô đến một nơi khác, Lý Công Uẩn đã có sự tính toán vô cùng kĩ lưỡng từ lịch sử cho đến thực tiễn. Việc dời đô không phải chuyện hiếm thấy, ngay bên cạnh ta, Trung Quốc cũng đã có vài lần dời đô:“Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời dô, nhà Chu đến Thành Vương cũng ba lần dời đô” . Việc dời đô không phải là tùy tiện mà thuận theo ý trời, vừa với lòng dân bởi vậy vận nước lâu dài, vững bền, nhân dân được sống trong cảnh ấm no, hạnh phúc.
Không dừng lại ở những tấm gương xưa, để lập luận thêm phần chặt chẽ, sắc sảo, Lý Công Uẩn còn soi ngắm lịch sử gần đây đó là hai nhà Đinh, Tiền Lê. Do ở nơi địa thế hiểm trở, không thuận lợi cho việc giao thương phát triển kinh tế nên không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ chịu hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Quả là cái hại lớn cho nước nhà, cho muôn dân.
Đau đáu một lòng, Lý Công Uẩn không ngừng suy nghĩ, và điều đó đã thôi thúc ông biến nó thành hành động cụ thể đó là không thể không chuyển dời kinh đô về nơi có linh khí tốt hơn cho vận mệnh đất nước.
Sau khi có quyết định chuyển dời, Lý Công Uẩn đưa ra những lập luận, dẫn chứng hết sức chặt chẽ để khẳng định kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời chính là kinh thành Thăng Long.
Thứ nhất, thành Thăng Long ở vị trí trung tâm của trời đất, thế rồng cuộn hổ ngồi, nhìn sông dựa núi, địa thế đẹp đẽ, đắc địa. Đất đai nơi đây rất rộng rãi, bằng phẳng, cao mà thoáng, cư dân sẽ không phải chịu cảnh lụt lội, muôn vật sẽ phát triển phong phú tốt tươi. Không chỉ đẹp về địa thế, mà thành Thăng Long còn thuận lợi về mặt chính trị, văn hóa, đây là nơi “hội tụ trọng yếu của bốn phương; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời” .
Kinh thành Thăng Long hội tụ đầy đủ mọi yếu tố để trở thành kinh đô muôn đời của Đại Việt. Thử hỏi ở nơi hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước như vậy làm sao vận nước có thể ngắn ngủi, làm sao cuộc sống người dân không yên ấm hạnh phúc cho được. Đây chính là mong mỏi, khát vọng lớn nhất của Lý Công Uẩn: đất nước hưng thịnh, vững bền, dân cư đời đời ấm no hạnh phúc. Đó quả là một khát vọng lớn, nhân văn, cao đẹp của một con người yêu nước, thương dân.
Chiếu dời đô không chỉ là khát vọng cao đẹp, lớn lao của dân tộc mà còn là một minh chứng tiêu biểu cho sự phát triển hùng cường của dân tộc. Hai triều đại trước vốn không dời đô vì thế và tiềm lực còn yếu, nên phải dựa vào rừng núi hiểm trở để tồn tại. Còn nay, khi Lý Công Uẩn quyết dời đồ ra nơi đồng bằng, rộng rãi, bằng phẳng là kinh thế và lực của ta đã lớn mạnh, sẵn sàng đương đầu với những ý định lăm le của kẻ thù.
Đồng thời dời đô đến nơi mới cũng tạo điều kiện cho ta không ngừng phát triển kinh tế, quân sự, củng cố và làm vững mạnh hơn nữa tiềm lực quốc gia, dân tộc.
Chiếu dời đô vẫn luôn giữ vững giá trị của mình cho đến thời điểm hiện tại. Tác phẩm không chỉ cho thấy sự anh minh, sáng suốt trong nhìn nhận, phân tích vấn đề của Lý Công Uẩn mà còn cho thấy tài năng lập luận phong phú, sắc sảo của vị vua anh minh, sáng suốt này.
Gửi tặng bạn mẫu phân tích 🔰Bài Thơ Ngắm Trăng [Vọng Nguyệt] 🔰 Hay sâu sắc