Cung Oán Ngâm Khúc [Nội Dung Bài Thơ + Bình Giảng]

Cung Oán Ngâm Khúc ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Bình Giảng ✅ Gợi Ý Đọc Hiểu, Chia Sẻ Ý Nghĩa, Nghệ Thuật, Bố Cục Bài Thơ.

Nội Dung Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc

Cung oán ngâm khúc hay gọi tắt là Cung oán là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ làm theo thể song thất lục bát. Dưới đây là nội dung bài thơ:

Cung oan ngâm khúc
Tác giả: Nguyễn Gia Thiều

1. Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng;
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào!
5. Duyên đã may cớ sao lại rủi?
Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang?
Vì đâu nên nỗi dở dang,
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình!

Trộm nhớ thuở gây hình tạo hoá,
10. Vẻ phù dung một đoá khoe tươi;
Nhuỵ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung.
Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khoé thu ba dợn sóng khuynh thành.
15. Bóng gương lấp ló trong mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa!
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa!
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
20. Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.
25. Cầm điếm nguyệt, phỏng tầm Tư Mã,
Địch lầu thu, đọ gã Tiêu lang.
Dẫu mà tay múa miệng xang,
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng.

Tài sắc đã vang lừng trong nước,
30. Bướm ong càng xao xác ngoài hiên.
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.
Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang.
35. Hồng lâu còn khoá then sương,
Thâm khuê còn giấm mùi hương khuynh thành.
Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,
Khách công hầu gấm ghé mong sao.
Vườn xuân bướm hãy còn rào,
40. Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương.
Gan chẳng đá khôn đường há chuyển,
Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai?
Hương trời sá động trần ai,
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.
45. Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế?
Sợi xích thằng đâu để vướng chân.
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên.
Kìa thế cục như in giấc mộng,
50. Máy huyền vi mở đóng khôn lường!
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định khá thương lọ là.
Đòi những kẻ thiên ma bách chiết,
Hình thì còn bụng chết đòi nau!
55. Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra!
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu?
Trắng răng đến thuở bạc đầu,
60. Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần?
Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng thông như đúc buồng gan.
Bệnh trần đòi đoạn tâm can,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da!

65. Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ,
70. Đường thế đồ gót rỗ khi khu.
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.
Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi!
75. Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc,
Thú ca lâu dế khóc canh dài,
Đất bằng bỗng rấp chông gai,
80. Ai đem nhân ảnh nhuốm màu tà dương?
Mồi phú quý nhử làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh,
Giấc Nam Kha khéo bất tình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!
85. Sân đào lý mây lồng man mác,
Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.
Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.
Quyền hoạ phúc trời tranh mất cả,
90. Chút tiện nghi chẳng trả phần ai!
Cái quay búng sẵn lên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.
Hình mộc thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong.
95. Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.
Cầu thệ thuỷ ngồi trơ cổ độ,
Quán thu phong đứng rũ tà huy.
Phong trần đến cả sơn khê,
100. Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau!
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì.
105. Mùi tục luỵ dường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên?
Cái gương nhân sự chiền chiền,
Liệu thân này với cơ thiền phải nao.
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
110. Mối thất tình quyết dứt cho xong.
Đa mang chi nữa đèo bòng?
Vui gì thế sự mà mong nhân tình!
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên.
115. Thoắt trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
Quyết lộn vòng phu phụ cho cam!
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
120. Quyết đem dây thắm mà giam bông đào!

Hẳn túc trái làm sao đây tá?
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia?
Hay thiên cũng có điều gì?
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.
125. Kìa điểu thú là loài vạn vật,
Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng,
Có âm dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.
Đường tác hợp trời kia run rủi,
130. Trốn làm sao cho khỏi nhân tình.
Thôi thôi ngảnh mặt làm thinh,
Thử xem con tạo gieo mình nơi nao?
Tay nguyệt lão khờ sao có một,
Bỗng tơ tình vương gót cung phi.
135. Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ my trập trùng?
Chồi thược dược mơ mòng thuỵ vũ,
Đoá hải đường thức ngủ xuân tiêu.
Cành xuân hoa chúm chím chào,
140. Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.
Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió,
Áo vũ kia lấp ló trong trăng,
Sênh ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô.
145. Đệm hồng thuý thơm tho mùi xạ,
Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh.
Mây mưa mấy giọt chung tình,
Đình trầm hương khoá một cành mẫu đơn.
Tiếng thánh thót cung đàn thuý dịch,
150. Giọng nỉ non ngón địch đan trì.
Càng đàn, càng địch, càng mê,
Càng gay gắt điệu, càng tê tái lòng!
Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân duyên.
155. Hoa thơm muôn đội trời trên,
Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời.
Trên chín bệ mặt trời gang tấc,
Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu.
Phải duyên hương lửa cùng nhau,
160. Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt,
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.
Đoá lê ngon mắt cửu trùng,
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.
165. Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt,
Lòng quân vương chi chút trên tay.
Má hồng không thuốc mà say,
Nước kia muốn đổ, thành này muốn long!
Vườn Tây Uyển khúc trùng “Thanh dạ”,
170. Gác Lâm Xuân điệu ngã “Đình hoa”.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lập loà vẻ son.
Trên trướng gấm chí tôn vòi vọi,
Những khi nào gần gũi quân vương.
175. Dẫu mà tay có nghìn vàng,
Đố ai mua được một tràng mộng xuân.
Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu,
Ghẹo hoa kia lại diễu gót sen.
Thân này uốn éo vì duyên,
180. Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời.
Lan mấy đoá lạc loài sơn dã,
Uổng mùi hương vương giả lắm thay!
Gẫm như cân trất duyên này,
Cam công đặt cái khăn này tắc ơ.
185. Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ,
Đồ liên chi lần trỏ hoa kia.
Chữ đồng lấy đấy làm ghi,
Mượn điều thất tịch mà thề bách niên.
Hạt mưa đã lọt miền đài các,
190. Những mừng thầm cá nước duyên may.
Càng lâu, càng lắm điều hay,
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm.
Ai ngờ bỗng mỗi năm một nhạt,
Nguồn ân kia chẳng tát mà vơi!
195. Suy di đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hoá ra người vị vong.
Đuốc vương giả chí công là thế,
Chẳng soi cho đến khoé âm nhai!
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
200. Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần.

Vốn đã biết cái thân câu chõ,
Cá no mồi cũng khó nhử lên,
Ngán thay cái én ba nghìn,
Một cây cù mộc biết chen cành nào?
205. Song đã cậy má đào chon chót,
Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người.
Nào hay con tạo trêu ngươi,
Hang sâu chút hé mặt trời lại râm.
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
210. Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân,
Chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi.
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương giấc ngủ thu phong,
215. Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xẻ đôi.
Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
220. Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.
Ngấn phượng liễn chòm rêu lô chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
225. Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn âm u.
Tranh biếng ngắm trong đồ tố nữ,
230. Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứng tủi, ngồi sầu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa!
Buồn một nỗi hồn đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ.
235. Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhuỵ vàng.
Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai để giết nhau,
Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu,
240. Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!

245. Nào lối dạo vườn hoa năm ngoái,
Đoá hồng đào hái buổi còn xanh.
Trên gác phượng, dưới lầu oanh,
Gối du tiên hãy rành rành song song.
Bây giờ đã ra lòng rẻ rúng,
250. Để thân này cỏ úng tơ mành.
Đông quân sao khéo bất tình,
Cành hoa tàn nguyệt, bực mình hoài xuân.
Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ,
Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ.
255. Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà,
Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu phong.
Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy,
Để thân này nước chảy hoa trôi.
Hoá công sao khéo trêu ngươi?
260. Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.
Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy,
Lửa hoàng hôn như cháy tấm son.
Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa!
265. Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng,
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn!
Tình buồn cảnh lại vô duyên,
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này.
Khi trận gió lung lay cành bích,
270. Nghe rì rầm tiếng mách ngoài xa.
Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra,
Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn.
Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ,
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng.
275. Vắng tanh nào thấy vân mòng,
Hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh.
Khi bóng nguyệt chênh vênh trước ốc,
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai:
Dè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi,
280. Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo.
Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả,
Điệu “Thương xuân” khóc ả sương khuê.
Lạnh lùng nào thấy ỏ ê,
Khí bi thương sực nức hè lạc hoa.

285. Tiếng thuý điện cười già ra gắt,
Mùi quyền môn thắm rất nên phai.
Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi,
Thì thong thả vậy, cũng thôi một đời.
Vì sớm biết lòng trời đeo đẳng,
290. Dẫu thuê tiền cũng chẳng mang tình.
Nghĩ mình lại ngán cho mình,
Cái hoa đã trót gieo cành biết sao!
Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm,
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.
295. Cùng nhau một giấc hoành môn,
Lau nhau ríu rít cò con cũng tình.
Ví sớm biết phận mình ra thế,
Dải kết điều oẻ oẹ làm chi.
Thà rằng cục mịch nhà quê,
300. Dẫu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này.
Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ,
Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn.
Muốn đem ca tiếu giải phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu.
305. Ngọn tâm hoả đốt dàu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
Lại buồn đến cảnh con con,
Trà chuyên nước nhất, hương dồn khói đôi.
Trong gang tấc mặt trời xa bấy,
310. Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu?
Sinh ly đòi rất thời Ngâu,
Một năm còn thấy mặt nhau một lần.
Huống chi cũng lạm phần son phấn,
Luống năm năm chực phận buồng không.
315. Khéo vô duyên với cửu trùng,
Son nào nhuộm được má hồng cho tươi?
Vườn thượng uyển hoa cười với nắng,
Lối đi về ai chẳng chiều ong.
Doành Nhâm một dải nông nông,
320. Bóng dương bên ấy, đứng trông bên này.

Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục,
Chốn phòng không như giục mây mưa.
Giấc chiêm bao những đêm xưa,
Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày.
325. Trên chín bệ có hay chăng nhẽ?
Khách quần thoa mà để lạnh lùng!
Thù nhau ru hỡi đông phong?
Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào.
Tay tạo hoá cớ sao mà độc,
330. Buộc người vào kim ốc mà chơi.
Chống tay ngồi nghĩ sự đời,
Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm!
Nơi lạnh lẽo, nơi xem gần gặn,
Há phai son lạt phấn ru mà!
335. Trêu ngươi chi bấy trăng già?
Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành!
Lòng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi,
Khúc sầu tràng bối rối dường tơ.
Ngọn đèn phòng động đêm xưa,
340. Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn.
Mà lượng thánh đa đoan kíp bấy,
Bỗng ra lòng ruồng rẫy vì đâu?
Bõ già tỏ nỗi xưa sau,
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng?
345. Đêm phong vũ lạnh lùng có một,
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh.
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh,
Vách sương nghi ngút, đèn xanh lờ mờ.
Mắt chưa nhắp, đồng hồ đã cạn,
350. Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao.
Buồn này mới gọi buồn sao?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình.
Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi bao xong!
355. Phòng khi động đến cửu trùng,
Giữ sao cho được má hồng như xưa.

Đọc hiểu tác phẩm 🔰Chinh Phụ Ngâm [Đặng Trần Côn]🔰 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc

Chia sẻ một số thông tin về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Cung oán ngâm khúc sau đây.

Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798), viết Cung oán ngâm khúc theo thể thơ song thất lục bát gồm 366 dòng vào cuối thế kỉ XIX, khi xã hội Việt Nam đang đi vào suy thoái với lối sống hưởng thụ, ăn chơi xa đọa của vua chúa và sự lầm than của sinh linh trong nhân gian. Những số phận bất hạnh không chỉ có người nông dân mà còn có những cung nữ.

Chế độ cung nữ là sản phẩm tội ác của vua chúa hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến. Vua chúa tự đặt ra quyền tuyển hàng trăm, hàng ngàn thiếu nữ vào cung. Tuổi xuân của người con gái, hạnh phúc của cả một đời người khi vào cung bỗng hóa phù du, mong manh, khó nắm bắt. Cất lên từ thể thơ song thất lục bát, Nguyễn Gia Thiều đã nói hộ nỗi niềm của bao người phụ nữ bất hạnh ấy.

Ý Nghĩa Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc

Bài thơ Cung oan ngâm khúc mang ý nghĩa gì? Xem ngay giải mã sau đây để hiểu chi tiết.

Cung oán ngâm khúc là tiếng thét oán hờn của một trang nữ lưu tố cáo và phản kháng chế độ phong kiến đã đối xử phũ phàng tàn ác đối với phẩm giá và những tình cảm trong sáng, cao quý của người phụ nữ. Cung nữ chính là nạn nhân bi thảm của những đặc quyền phong kiến ích kỷ và vô nhân đạo, bị vua chúa biến thành đồ chơi để thoả mãn thú tính hoang dâm của mình, rồi bị ném đi không thương tiếc vào lãng quên.

Qua khúc ngâm, tác giả còn gửi gắm quan niệm của mình về cuộc đời bạc bẽo, phù du. Bài ngâm còn chứng minh cho thấy “bọn đại quý tộc đã không còn tin tưởng vào đạo trị quốc của nhà nho nữa”(trích nhận xét trong Lịch sử Việt Nam- Đào Duy Anh)

Chia sẻ tác phẩm 🌿 Quả Mít Hồ Xuân Hương🌿Nội dung, ý nghĩa

Bố Cục Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc

Bố cục bài thơ Cung oan ngâm khúc có thể chia thành 8 phần:

  • Phần 1: Từ câu 1 đến câu 12
  • Phần 2: Từ câu 13 đến câu 32
  • Phần 3: Từ câu 33 đến câu 132
  • Phần 4: Từ câu 133 đến câu 196
  • Phần 5: Từ câu 197 đến câu 244
  • Phần 6: Từ câu 245 đến câu 284
  • Phần 7: Từ câu 285 đến câu 323
  • Phần 8: Phần còn lại của bài thơ

Đọc Hiểu Cung Oán Ngâm Khúc

Gợi ý trả lời các câu hỏi đọc hiểu bài thơ Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều.

Đọc đoạn trích sau, trả lời câu hỏi bên dưới:

Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ
Gác tựa lương thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu lạnh ngắt như đông
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xẻ đôi.

(Nỗi oán sầu của người cung nữ, Trích Cung oán ngâm, Nguyễn Gia Thiều)

👉Câu 1 . Xác định thể thơ, phong cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

Đáp án:

  • Thể thơ: Song thất lục bát;
  • Phong cách ngôn ngữ: Nghệ thuật;
  • Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm.

👉Câu 2 . Nhân vật trữ tình trong đoạn trích là ai?

Đáp án: Nhân vật trữ tình: Người cung nữ

👉Câu 3 . Chỉ ra những từ ngữ diễn tả cuộc sống buồn bã của người cung nữ.

Đáp án: Những từ ngữ diễn tả cuộc sống buồn bã: âm thầm chiếc bóng, trông ngóng

👉Câu 4. Nêu hiệu quả phép đối được sử dụng trong câu thơ sau:

Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu lạnh ngắt như đông,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.

Đáp án:

– Biện pháp tu từ: Phép đối:

Lầu đãi nguyệt >< gác thừa lương

Đứng ngồi >< thức ngủ

Dạ vũ >< thu phong

Gương loan bẻ nửa >< dải đồng xé đôi

– Tác dụng:

  • Nghệ thuật: Làm thơ cho lời thơ sinh động, hấp dẫn, tang hiệu quả diễn đạt. Tạo ra sự cân đối, hài hòa.
  • Nội dung: Nhấn mạnh cuộc cống buồn tẻ, cô đơn của người cung nữ.

Bộc lộ sự thương cảm của nhà thơ trước số phận bất hạnh của người cung nữ cũng như người phụ nữ trong xã hội cũ. Đây là lời tố cáo xã hội. Đây là biểu hiện của giá trị nhân đạo.

👉Câu 5 . Em hiểu như thế nào về nội dung của 2 câu thơ sau:

Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.

Đáp án: Nội dung của hai câu thơ: Người cung nữ bị nhà vua bỏ rơi trong cung quế, suốt năm canh đứng tủi ngồi sầu, khắc khoải chờ mong và tuyệt vọng.

=> Bộc lộ sự cảm thông của nhà thơ đối với nỗi buồn tủi của người cung nữ. Đó là biểu hiện của giá trị nhân đạo.

👉Câu 6. Nhận xét về tâm trạng nhân vật trữ tình trong đoạn trích.

Đáp án:

  • Tâm trạng cô đơn, buồn tủi
  • Khao khát hạnh phúc lứa đôi.

=> qua đó bộ niềm thương cảm của nhà thơ, tố cáo xã hội. Biểu hiện của giá trị nhân đạo, nhân văn.

👉Câu 7. Trong đoạn thơ trên, nỗi oán sầu của người cung nữ được thể hiện bằng một giọng điệu như thế nào?

Đáp án: Trong đoạn thơ trên, nỗi oán sầu của người cung nữ được thể hiện bằng giọng điệu buồn thương, da diết, khắc khoải, pha chút hờn trách sự vô tình của lang quân.

👉Câu 8. Qua đoạn trích trên và đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (đã học), em hãy nêu nét riêng về nghệ thuật của Cung oán ngâm so với Chinh phụ ngâm ?

Đáp án: Nét riêng về nghệ thuật của Cung oán ngâm so với Chinh phụ ngâm: Ngôn ngữ trong “Cung oán ngâm” là ngôn ngữ tài hoa, đài các, sang trọng, rất nhiều chữ Hán, điển cố.

👉Câu 9. Điểm chung trong tâm trạng của người chinh phụ trong câu thơ: “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước – Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” (Chinh phụ ngâm – Dịch giả Đoàn Thị Điểm) và tâm trạng của người cung nữ trong câu thơ: “Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ – Gác thừa lương thức ngủ thu phong” (Cung oán ngâm – Nguyễn Gia Thiều) là gì?

Đáp án: Điểm chung: “Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ – Gác thừa lương thức ngủ thu phong” (Cung oán ngâm – Nguyễn Gia Thiều) là tâm trạng bồn chồn, mong nhớ, chờ đợi của nhân vật người phụ nữ về người chồng, về đức lang quân.

👉Câu 10. Cung oán ngâm cũng như nhiều tác phẩm văn học cùng thời đã thể hiện khuynh hướng khẳng định mạnh mẽ quyền sống con người cũng như sự tự ý thức của con người cá nhân trong văn học. Nội dung chủ yếu của khuynh hướng đó được thể hiện như thế nào qua đoạn trích Nỗi oán sầu của người cung nữ?

Đáp án: Nội dung chủ yếu của khuynh hướng đó được thể hiện qua niềm ai oán, hờn trách trước số phận bất công, bất hạnh và cảm hứng thương thân, xót thân rất thấm thía, cảm động.

👉Câu 11. Một đặc điểm nổi bật của đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ là việc tác giả sử dụng rất nhiều từ ngữ Hán Việt, các điển cố nhưng bên cạnh đó cũng sử dụng rất thành công các từ ngữ thuần Việt. Việc phối hợp sử dụng các từ thuần Việt và Hán Việt trong đoạn thơ đã góp phần thể hiện điều gì trong nội dung tác phẩm?

Đáp án: Việc phối hợp sử dụng các từ thuần Việt và Hán Việt trong đoạn thơ đã góp phần thể hiện sự đối lập xót xa giữa cảnh sống tồi tàn lạnh lẽo với cuộc sống xa hoa tráng lệ, giữa quá khứ, mơ ước với hiện tại nghiệt ngã.

👉Câu 12. Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về đoạn thơ trên?

Đáp án:

Hình ảnh cô đơn của người cung nữ hiện lên ngay trong những câu thơ đầu: Trong cung quế âm thầm chiếc bóng – Đêm năm canh trông ngóng lần lần . Thời gian ban đêm khiến nỗi cô đơn, sự ngóng trông của người cung nữ càng trở nên khắc khoải.

Bị nhà vua bỏ rơi trong tòa nhà lộng lẫy, mênh mông, người cung nữ suốt năm canh đứng tủi ngồi sầu, khắc khoải trông ngóng lần lần và chờ mong vô vọng. Trong tình cảnh ấy, nàng ý thức sâu sắc về thân phận éo le và nhận biết rất rõ kẻ đã gây ra nỗi bất hạnh cho đời minh.

Nàng bị giết chết không phải bằng gươm sắc mà bằng cuộc sống giam hãm, tù túng và tuyệt vọng trong cảnh chăn gối lẻ loi, lạnh lẽo. Lời của người cung nữ có gì đó ai oán, trách hờn sự vô tình của nhà vua: Khoảnh làm chi bấy chúa xuân – Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi . Sự vô tình ấy khiến người cung nữ sống giữa gác tía, lầu son mà cô đơn, sầu muộn.

Nơi nàng sống thật đẹp đẽ và đầy đủ tiện nghi, nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa, trớ trêu, chỉ gợi thêm nỗi sầu, nỗi thảm trong lòng nàng mà thôi:

Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác tựa lương thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu lạnh ngắt như đông,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xẻ đôi.

Đừng bỏ lỡ bài thơ🌿Vịnh Cái Quạt 1,2 Hồ Xuân Hương🌿 Nội Dung, Phân Tích

5 Mẫu Bình Giảng, Phân Tích Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc Hay Nhất

Gửi đến bạn đọc 5 mẫu bình giảng, phân tích bài thơ Cung oan ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều hay nhất. Tham khảo ngay nhé!

Mẫu Bình Giảng, Phân Tích Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc Hay – Mẫu 1

Quê hương nhà thơ Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) ở làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc (nay thuộc xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), thuộc một trung tâm Phật giáo cổ, từ ngàn năm xưa vốn nổi danh với cái tên Luy Lâu, về sau trở thành đình tổ của thiền phái Ti Ni Đa Lun Chi.

Một điều cần chú ý là không khí thời đại đã tác động mạnh mẽ tới đời sống tâm linh của Nguyễn Gia Thiều. Bản thân ông sinh ra và lớn lên vào giai đoạn tàn suy của cuộc hôn phối chính trị vua Lê – chúa Trịnh, ngay sau đó là Lê – Tây Sơn và cuối cùng là sự khẳng định vương triều Tây Sơn – Nguyễn Huệ.

Rõ ràng trong hoàn cảnh xã hội tao loạn, trăn trở tìm đường thì mọi nguồn sáng tư tưởng đều có thể được vận dụng, hoặc để tổng hợp, chuyên hoá tới một hình thức cao hơn, hoặc dung hoà mong tìm đến sự an bài về mặt tư tưởng,… Sống trong giai đoạn các tư trào tư tưởng có biểu hiện tìm đường “đua tiếng”, nhà nghệ sĩ ưu thời mẫn thế Nguyễn Gia Thiều không thể không lựa chọn một lời hoà giải đời sống tâm linh theo cung cách của mình.

Trong sự va động nhiều chiều, một nguồn tư tường cốt lõi đã hấp dẫn, tạo được sự đồng cảm sâu sắc nơi ông chính là Phật giáo. Xem xét toàn bộ tác phẩm Cung oán ngâm khúc sẽ thấy cảm quan Phật giáo bộc lộ trước hết ở tần số xuất hiện đậm đặc các từ ngữ, thuật ngữ phản ánh quan niệm đời sống nhà Phật như nước dương, hữu duyên, bể khổ, bến mê, bào ảnh, môi thất tình, tuồng ảo hoá, kiếp phủ sinh, cơ thiền, cửa Phật, hoa đùm đuốc tuệ, túc trái, tiền nhân hậu quả,…

Qua bài thơ, Nguyễn Gia Thiều thể hiện sâu sắc tâm trạng người cung nữ đang cô đơn, thất vọng, chán chường đến tận cùng.

Tâm trạng sầu oán đi từ cảm giác đơn độc trước thời gian tàn tạ, mênh mang “thức ngủ thu phong”, “chiều ủ dột”, “chiều nhạt vẻ thu”, “giá đông”, trống trải trước không gian “Trong cung quế âm thầm chiếc bóng”, “Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng”, “Thâm khuê vắng ngắt như tờ”, “tin mong nhạn vắng”, “tiếng lắng chuông rền”, không còn tìm thấy đâu niềm vui trong cuộc sống đời thường và dẫn đến nỗi niềm thương thân, trách giận số phận, trách giận thực tại : “Hoa này bướm nỡ thờ ơ… – Đang tay muốn dứt tơ hồng – Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”,…

Bên cạnh sự nhạy cảm với biểu tượng mùa thu thì bóng đêm cũng đã trở thành nỗi ám ảnh nặng nề, thê lương, ảm đạm trong tâm tư người cung nữ:

Đêm năm canh trông ngóng lần lần
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ
Đêm năm canh, tiếng lắng chuông rền
– Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa !
Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau.

Rõ ràng thời gian ở đây tự thân đã bao hàm nỗi cô đơn, trống vắng, thời gian chìm trong giấc ngủ cô đơn (hay giấc ngủ cô đơn chìm trong dòng thời gian lạnh lùng vô vọng), thời gian kết tụ không hề có hoạt động của con người mà chỉ là khung cảnh một bức tranh tĩnh vật “Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thảm u”.

Đặc điểm đó tạo nên tính đối lập sâu sắc giữa thòi gian hiện tại và thời gian quá khứ, giữa hiện thực hôm nay và mơ tưởng về một thời xa xôi tạo nên những nghịch lí khi thấy thời gian qua nhanh – thời gian “vô cảm”, khi khác lại thấy thời gian trôi quá chậm – thời gian “chết mòn”.

Toàn bộ những trạng thái cảm xúc về thời gian đó vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau bởi chúng là sản phẩm của cùng một hoàn cảnh, khác chăng là ở sự phân hoá các trạng thái tâm lí, tình cảm. Đến một mức độ nhất định, nội dung trữ tình đó đã thông qua sự cảm nhận về thời gian mà lên tiếng kết án kẻ đã dổn con người vào tình thế cô đơn, bế tắc, mất hết mọi nguồn vui:

Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dề giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cúi u sầu, độc chưa!

Trên phương diện nghệ thuật, cách thức cảm nhận và biểu hiện thời gian tâm trạng đặc biệt có ý nghĩa trong việc mô tả nỗi lòng người cung nữ và những nhận thức về xã hội, nhân sinh. Toàn bộ những khối mâu thuẫn đó đã được chuyển đổi thành nghịch lí trong sự biểu hiện thời gian tâm trạng, thời gian nghệ thuật : con người luôn mơ tưởng về quá khứ chứ không phải về tương lai; hi vọng vê tương lai chỉ là vònq khép trở về với quá khứ, mong được như thời quá khứ.

Trên tất cả là sự hiện hình tâm trạng con người cá nhân, chỉ còn biết cô đơn sống với “chiếc bóng”, “một mình”, “hoa này”, “cái buồn này”, “Xe thế này có dở dang không ?”, một cá nhân tự ý thức về “con người thừa”, sự vô vọng, đánh mất bản ngã và nỗi buồn hàm chứa những nuối tiếc, bực dọc, day dứt, bất bình:

Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lụi rầu với hoa.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để qầỵ bông thắm, để xơ nhị vùng.

Có thể nói thêm rằng, thấp thoáng đằng sau tiếng nói bi kịch của người cung nữ là ý thức phản kháng, tố cáo chế độ cung nữ, mơ hồ nghĩ về quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc và ước vọng một cuộc đổi thay:

Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!

Xét trên phương diện ngôn từ nghệ thuật, bài thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt và điển tích khiến từng câu thơ trở nên hàm súc, uyên bác, trang trọng.

Tác giả khai thác lối thơ song thất lục bát uyển chuyển, sinh động, tạo nên nhịp điệu gợi cảm, bâng khuâng man mác. Từng đôi câu thơ thất ngôn (bảy chữ) tạo nên thế đăng đối kết hợp với thể thơ lục bát truyền thống thường kết thúc ở câu thứ tám với những thanh bằng ngân vang, bâng khuâng, day dứt.

Mặt khác, số lượng những tính từ thể hiện sắc thái tình cảm xuất hiện đậm đặc : âm thầm, lạnh ngắt, ủ dột, bâng khuâng, vẩn vơ, vắng ngắt, chiêu nhạt, lạnh lùng, tịch mịch, thâm u, khắc khoải, ngẩn ngơ, thờ ơ,…

Tất cả nhũng điều đó làm nên hình thức nghệ thuật mang âm hưởng buồn thương, phản ánh sâu sắc nỗi sầu oán của người cung nữ trước cuộc đời và sự ý thức về thân phận con người cá nhân, qua đó là khát vọng đòi quyền sống và sự khẳng định những giá trị nhân văn cao cả.

Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều không chỉ là tác phẩm tiêu biểu bậc nhất cho thể loại ngâm khúc mà đồng thời cũng là tác phẩm xuất sắc trong nền văn học dân tộc giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, có vị trí quan trọng trong chương trình giảng dạy từ bậc phổ thông tới ngành Văn các trường cao đẳng và đại học.

Viết Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều không chỉ viết riêng về cuộc đời bất hạnh của người cung nữ mà thông qua đó bộc lộ những phẫn uất, bất bình của mình trước xã hội đương thời. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều lớn lao bởi chính tác giả đã cảm nhận được nỗi đau của thời đại, gián tiếp phát hiện và khẳng định quyền được sống, được hưởng mọi hạnh phúc của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này.

Có thể nói, ý nghĩa thanh lọc, ý nghĩa nhân bản của thi phẩm Cung oán ngâm khúc cũng ở chính sự hiện diện con người nhà thơ như một nhân cách lịch sử, một tâm trạng bi kịch, trở thành biểu tượng cho những giá trị nhân đạo, những nỗi khắc khoải của xã hội đang đòi hỏi cần được đổi thay, phát triển.

Cho đến nay, mặc dù cách thức quan niệm của con người hiện đại về cuộc sống đã đổi khác nhiều, nhưng tư tưởng nhân văn và nghệ thuật viết văn bậc thầy của Nguyễn Gia Thiều vẫn còn là bức thông điệp giàu tính khái quát triết lí, một giá trị tinh thần nhân bản còn truyền mãi tới mai sau.

Mẫu Bình Giảng, Phân Tích Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc Chọn Lọc – Mẫu 2

Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798) là nhà văn lớn của thế kỉ XVIII. Xuất thân từ một gia đình quý tộc thuộc dòng dõi chúa Trịnh, Nguyễn Gia Thiều tận mắt chứng kiến sự suy tàn, sụp đổ của chế độ phong kiến, cuộc sống xa hoa trụy lạc của vua chúa đương thời. Từ thực tế bi thương của những người cung nữ, Nguyễn Gia Thiều đã viết Cung oán ngâm khúc. Khúc ngâm 356 câu song thất lục bát là nỗi oán sầu ngút trời của người cung nữ, là tiếng lòng của thi nhân phản kháng lại chế độ cung tần tàn nhẫn trong chế độ phong kiến đương thời.

Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ gồm 5 khổ thơ với 20 câu biểu hiện nỗi mong chờ vò võ, nỗi sầu thương oán hận của người cung phi bị ruồng bỏ.

Vua chúa có hàng ngàn cung nữ. Có cung phi cả đời may mắn được một vài lần “chúa dấu vua yêu”, còn phần đông không được biết đến “ơn mưa móc” của vua chúa mà còn bị ruồng bỏ. Nguyễn Gia Thiều là một nghệ sĩ quý tộc, gần gũi và hiểu biết những người cung nữ. Ông thông cảm sâu sắc với nỗi bất hạnh của họ:

Ngày sáu khắc, tin mong nhạn vắng,
…….
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa!

Nỗi mong đợi một đôi chút “ơn mưa móc” của vua chúa với người cung nữ thật là cảm động:

Ngày sáu khắc, tin mong nhạn vắng
Đêm năm canh, tiếng lắng chuông rền.

Không thể nói một cách đại lược là “ngày”, “đêm” người cung nữ mong đợi vua đến, mà phải nói “ngày sáu khắc”, “đêm năm canh”, vế đối này mới được trọn vẹn sự mong đợi vô vọng của người cung nữ. Nhà thơ sẽ phải nhập thân với cung nữ mới hiểu được tâm trạng “Đêm năm canh, tiếng lắng chuông rền”. Từng canh, người cung nữ lắng nghe bước chân “rồng” thì lại chỉ “lắng tiếng chuông rền” thật là buồn tê tái.

Thi nhân phải thốt lên lời thương cảm cho kiếp cô đơn của một cung nữ:

Lạnh lùng thay giấc cô miên!
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.

Đảo ngữ “lạnh lùng thay” càng làm nổi bật cảm giác của “giấc cô miên”, giấc ngủ cô đơn. Mà sao Nguyễn Gia Thiều có nỗi đồng cảm sâu xa với kiếp người bất hạnh như vậy? Nỗi thương cảm thật là nghệ sĩ, cảm được cái “tịch mịch” của mùi hương, cái “thâm u” của bóng đèn thì thế giới tâm linh của thi nhân thật đáng kính nể!

Nỗi buồn trong lòng người cung nữ hiện ra cử chỉ, hiện ra nét mặt: 

Tranh biếng ngắm trông đồ tố nữ 
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.

Trông chờ mòn mỏi nhà vua không đến, người cung nữ hướng về “cửa nghiêm lâu”, nơi vua ở mà buồn ra mặt. Cô đơn vẫn hoàn cô đơn:

Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa

Nỗi buồn cứ tăng lên mãi, từ mong ngóng đến buồn tủi, sầu muộn. Biết cùng ai chia sẻ? “Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa”, “nguyệt”, “hoa” là biểu tượng của phụ nữ, cho nên “than với nguyệt” là than với chính mình, “rầu với hoa” cũng là rầu với chính mình. Nỗi cô đơn càng nhân lên. Phải thương kiếp hồng nhan lắm mới có những biểu hiện tài hoa như vậy!

Thật là “sầu đong càng lắc càng đầy” {Truyện Kiều), nỗi buồn trông, sầu muộn đã thành “khắc khoải”, thành “ngẩn ngơ”, thành oán hận:

Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ, 
Hoa này bướm nỡ thờ ơ, 
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng

Cặp từ “hoa”, “bướm” ẩn dụ cho tình nhân thì thường, nhưng ẩn dụ cho cung nữ và vua thì lạ. “Hoa này.” là người cung nữ tự thấy mình có hương có sắc vậy mà vua “nỡ thờ ơ” không đoái hoài “để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng”! Hình ảnh “gầy”, “xơ” thật là tội cho một kiếp hoa. Hình ảnh có tính chất miêu tả sự tàn phai của hoa mà cũng là của kiếp hồng nhan. Nhịp điệu thơ đay nghiến, trách móc, oán giận:

Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau?
Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa?

Đến đây, người cung nữ đã sụp đổ hoàn toàn cả tinh thần lẫn thể xác. Người cung nữ không còn “đứng tủi ngồi sầu” nữa mà “lần nương vách quế*’ thật là tội nghiệp.

Nhà thơ đã nổi giận bằng một loạt câu hỏi tu từ: “Cái buồn này ai dễ giết nhau?”, “Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa?”. Nhà thơ không còn giữ khoảng cách để miêu tả tình cảm tâm trạng của cung nữ mà nhập cuộc, trực tiếp lên tiếng đầy căm giận chế độ cung tần tàn nhẫn.

Ba câu thơ điệp lại ba từ “giết nhau” đay nghiến những kẻ đã tạo ra cái chết cả thể xác lẫn tinh thần của những người cung phi, những người đẹp bất hạnh. Nguyễn Gia Thiều hiển hiện là một trí thức uyên bác, giàu lòng nhân ái, mà lại duy lý trong những câu thơ lạnh, sắc:

Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa?

Rồi nhà thơ lại trở lại với tâm trạng oán trách phẫn nộ của cung nữ: 

Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ 
Xe thế này có dở dang không?
Đang tay muốn dứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!

“Nguyệt lão” thật là đáng trách: “Xe thế này có dở dang không?” Từ “dở dang” đã gói gọn trọn cuộc đời bi thảm của cung nữ. Vua yêu vì thì là may, mà được mấy cung nữ “chúa dấu vua yêu?” Rồi bị ruồng bỏ thật là thê thảm, quãng đời còn lại sống như một con vật đã “tế thần”, mà đâu phải là con vật, đây là những con người, người đẹp vào hàng quốc sắc vậy mà khi vua ruồng bỏ rồi thì bị cấm kị hạnh phúc lứa đôi cho đến già, đến chết, “dở dang” chưa, “độc” chưa?

Từ trách móc oán hận người cung nữ phẫn uất:

Đang tay muốn dứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.

Theo điển cố xưa, “Nguyệt lão” có dây tơ hồng xe duyên cho những cặp vợ chồng, đó là sợi dây tơ hồng của tình ái, của hạnh phúc lứa đôi. Còn dây tơ hồng mà “Nguyệt lão” xe người đẹp với vua chúa đã thành sợi dây oan nghiệt. Trong nỗi đau khổ tuyệt vọng, người cung nữ muốn “dứt tơ hồng”, sợi dây vô hình mà oan trái, độc địa! Nàng muốn phá tung sự giam hăm bi thảm này:

Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.

Những động từ “dứt”, “đạp” thật là mạnh mẽ, nhưng là những hành động của tâm trạng, chứ chưa phải là hành động của thực tế. Những hành động của ước muốn ấy càng cho thấy sự tàn nhẫn của chế độ cung tần và sự bi thảm của kiếp người cung phi.

Nguyễn Gia Thiều là một trí thức quý tộc, ông được hưởng nhiều ân sủng của nhà chúa, nhưng ông lại có trái tim nghệ sĩ, có lòng nhân đạo cao cả. Ông sống gần gũi với các bậc đế vương và gần gũi với nạn nhân của các bậc đế vương. Ông thương yêu, đồng cảm với những người cung nữ bất hạnh và phản kháng chế độ cung tần thôi nát, tàn nhẫn.

Qua Cung oán ngâm khúc, ta cũng nhận ra tài hoa và tâm hồn lớn của Nguyễn Gia Thiều. Thể thơ song thất lục bát hợp với hình thức “ngâm”, nhưng không quá du dương như Chinh phụ ngâm, mà sắc sảo, nặng lý trí, uyên bác. Nhà thơ đã thể hiện quá trình phát triển tâm trạng của người cung nữ, từ mong chờ sầu muộn đến ngán ngẩm ê chề đến đay nghiên, căm hận, phẫn uất.

Khúc ngâm có sự hài hòa tuyệt vời giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, giữa hình ảnh và nhạc điệu, giữa trữ tình và triết lý. Cung oán ngâm khúc là tác phẩm thiên tài của Nguyễn Gia Thiều vì đấy chính là đỉnh cao của ngôn ngữ, của trí tuệ và của tinh thần nhân văn.

Mẫu Bình Giảng, Phân Tích Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc Sâu Sắc – Mẫu 3

Thời xưa đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Các bậc vua chúa thì còn nhiều gấp vạn lần như vậy bởi năm nào họ cũng tuyển hàng trăm cung nữ vào cung. Đó toàn là những thiếu nữ trẻ đẹp với tuổi đời còn rất trẻ. Một khi đã bước vào cung là coi như đoạn tuyệt với gia đình, không còn cơ hội gặp gỡ người thân, thậm chí là cả cha mẹ. Cuộc sống lúc này loanh quanh trong cung cấm, không biết ở bên ngoài bức tường thành kia có những chuyện gì đang diễn ra.

Số phận đáng thương ấy đã làm lay động nhiều nhà văn, nhà thơ trong số đó có Nguyễn Gia Thiều. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc được đánh giá là có tiếng nói tố cáo sâu sắc nhất tập tuyển cung nữ của vua chúa thời bấy giờ.

Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc lúc đầu được vua yêu chuộng nhưng không lâu sau lại bị vua bỏ rơi. Tuổi thanh xuân chôn vùi nơi cung cấm. Cùng với đó là nỗi cô đơn, hờn tủi mỗi ngày một lớn dần lên. Nó dày vò nàng khiến cho nàng héo mòn. Nàng oán trách nhà vua phụ bạc rồi xót thương cho thân phận của mình.

Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ đã diễn tả một cách rõ nét nhất tâm trạng của nàng. Bị thất sủng, sống cô đơn nên nàng sầu oán. Hình ảnh cô đơn của người cung nữ hiện lên ngay từ những câu thơ mở đầu:

Trong cung quế ảm thầm chiếc bóng

Đêm năm canh trông ngóng lần lần

Ở giữa chốn xa hoa lẽ ra người ta phải vui vẻ, hạnh phúc ấy vậy mà người cung nữ lại sống trong cảnh tối tăm, u uất. Nàng như một cái bóng vật vờ chẳng ai thèm để ý đến. Lời tâm sự diễn ra trong đêm tối càng làm nổi bật hơn bóng dáng bé nhỏ và sự cô đơn của người cung nữ.

Đêm xuống là lúc các cung nữ ngóng trông nhà vua, nhưng với nàng lúc này càng ngóng trông lại càng vô vọng. Nàng biết mình đang ở trong hoàn cảnh nào, biết ai là kẻ gây ra cho mình nỗi bất hạnh này. Cuộc sống của nàng lúc này chẳng khác nào đã chết bởi nàng bị giam hãm trong 4 bức tường thành, sống trong cảnh chăn gối lẻ loi. Hình ảnh nhà vua hiện lên qua lời oán trách của cung nữ chẳng khác nào một kẻ bạc tình:

Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi

Cách dùng từ của tác giả thật sâu sắc. Nhà vua mà lại chơi khăm, chơi ác. Lại ác với chính cung nữ từng kề cận với mình thì tàn nhẫn quá. Người phụ nữ vốn mỏng manh, yếu đuối đang được hạnh phúc bỗng bị đẩy đi như tội đồ. Nàng như một món đồ chơi hỏng bị vứt đi rồi bị lãng quên. Để khắc họa rõ nét hơn nỗi cô đơn của người cung nữ, tác giả còn thêm vào khung cảnh tráng lệ của cung cấm:

Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ
Gác tựa lương thức ngủ thu phong
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng
Gương loan bẻ nửa dải đổng xẻ đôi

Mặc dù sống trong tự tiện nghi nhưng đối với nàng những điều ấy chẳng có ý nghĩa gì. Nhìn nó, nàng chỉ khổ tâm hơn mà thôi. Thất vọng vì cuộc đời, nàng không còn cách nào khác là thở than, oán trách. Nàng oán trách một cách gay gắt:

Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm
…..
Gối oan tuyết đóng chăn cù giá đông

Qua câu thơ, người đọc thấy được nỗi mong ngóng đến héo mòn của người cung nữ. Nó khiến cho nàng ngày ngày u uất, bức bối đến nghẹt thở:

Lạnh lùng thay giấc cô miên
Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u

Nếu cuộc đời chưa từng có lấy một ngày vui thì có lẽ con người ta cũng quen với hoàn cảnh. Nhưng nếu như cuộc đời đã từng hưởng hạnh phúc mà sau đó lại bị vùi dập thì con người ta rất dễ chán chường.

Người cung nữ trong bài thơ này đang rơi vào hoàn cảnh như vậy. Đêm xuống là lúc mà nàng càng cô đơn hơn, đáng thương hơn. Trong phòng ấm áp, thơm tho nhưng tịch mịch, vắng lặng. Thứ ánh sáng leo lét từ ngọn nến chẳng đủ xua tan bóng đêm và tăm tối trong tâm hồn của nàng. Đêm nào nàng cũng mong chờ như vậy nhưng đáp lại nàng chỉ là cái bóng của chính mình:

Tranh biếng ngắm trong đó tố nữ
Mặt buồn trông trên cửa nghiễm lâu
Một mình đứng tủi ngồi sầu
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa

Hình ảnh bóng dáng cô độc của người thiếu nữ cứ lặp đi lặp lại càng làm tăng thêm vẻ đáng thương của nàng. Nàng kiệt quệ cả về thể xác lẫn tâm hồn. Nàng không chỉ buồn mà nàng còn oán hận:

Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải
Ngán trâm chiểu, bước lại ngẩn ngơ
Hoa này bướm nỡ thờ ơ
Để gầy bông thắm, đổ xơ nhụy vàng

Trong cung cấm, người ta giết nhau bằng nỗi u sầu. Người cung nữ đay nghiến cuộc đời:

Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa

Trong câu thơ chứa đựng sự căm phẫn mà qua đó người đọc cũng thấy được sự tàn ác của chế độ đa thê. Chính cái quyền tự cho mình được có nhiều cung nữ của vua chúa đã cướp đi quyền tự do của biết bao cô gái. Cái hạnh phúc mà họ có thể có được cũng quá ngắn ngủi để rồi họ phải căm hận suốt quãng đời về sau.

Họ vẫn sống ở trong cung cấm nhưng không có niềm vui. Tâm hồn của họ bị hủy hoại mỗi ngày. Họ không chết nhưng sống không ra sống.

Như người cung nữ trong bài thơ, nàng cũng muốn bứt mình ra khỏi cuộc sống đọa đày này. Tuổi xuân mỗi ngày cứ thế trôi qua trong tuyệt vọng thì hỏi không oán trách sao được. Tác giả Nguyễn Gia Thiều đã đồng cảm với số phân của người cung nữ. Ông vừa thể hiện được cái khát khao của người cung nữ lại vừa thể hiện được nỗi uất hận của nàng:

Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ
Xe thế này có dở dang không
Dang tay muốn dứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra

Đoạn trích đã làm nổi bật lên 2 cảm xúc trái ngược nhau: một bên là buồn chán, một bên là khát khao hạnh phúc. Tất cả đã tạo nên một làn sóng trữ tình dào dạt. Nàng như đang cố gắng vùng vẫy để thoát ra khỏi nỗi cô đơn của mình nhưng càng cố gắng thì chỉ càng thất vọng.

Cung cấm đâu vào là nơi dễ dàng ra vào như mong muốn. Tác giả không chỉ nói lên được nỗi khổ của người cung nữ mà còn tố cáo tội ác của vua chúa thời phong kiến. Qua đây, người đọc thấy được tấm lòng nhân đạo của ông. Nội dung đoạn trích là tiếng nói thiết tha đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ.

Mẫu Bình Giảng, Phân Tích Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc Hay Đặc Sắc – Mẫu 4

Thời phong kiến có tục tuyển cung nữ cho vua chúa trong cung. Tục lệ này được kéo dài hàng trăm năm trong chế độ phong kiến của nước ta thật sự là một tội ác với người phụ nữ trong xã hội cũ, bởi số phận của họ khi sinh ra chỉ là một người mua vui cho những vua chúa.

Nếu may mắn được vua để ý sủng hạnh thì được người khác hầu hạ nếu không thì họ sẽ phải chịu cảnh ghẻ lạnh sống trong cung vua cho tới khi già thì đưa về quê để chờ chết. Số phận bất hạnh của những người con gái đó đã làm động lòng nhiều tác giả có cái nhìn nhân văn, nhân đạo với những số phận con người bị cuộc đời ghẻ lạnh như tác giả Nguyễn Gia Thiều.

Tác phẩm “Cung oán ngâm” của tác giả Nguyễn Gia Thiều chính là để tố cáo tội ác của những vua chúa thời Lê, Trịnh, một xã hội tàn nhẫn chà đạp lên số phận của những người phụ nữ khốn khổ, để họ phải chôn vùi tuổi xuân của mình trong bốn bức tường cung cấm lạnh lẽo, hết ngày này tới ngày khác.

Trong đó trích đoạn “Nỗi sầu oán của người cung nữ” chính là đoạn trích nói lên sự ai oán, nghẹn ngào uất hận của người cung nữ tài sắc nhưng chẳng được hưởng hạnh phúc bao lâu đã bị cuộc đời, bị nhà vua bỏ rơi giữa cung vua lạnh lẽo trong khi tuổi xuân vẫn đang phơi phới. Tâm trạng buồn chán, xót xa cho số phận của mình và oán than cho cuộc đời nhiều phụ bạc, nhiều cay đắng được tác giả thể hiện qua những câu thơ nhiều cay đắng.

Qua tác phẩm tác giả phản ánh tâm buồn tủi, người con gái sống trong những ngày tháng chờ đợi mòn mỏi, càng chờ càng cảm thấy tuyệt vọng bế tắc trong cuộc sống. Nàng sống cô đơn, u ám quanh bốn bức tường lạnh tựa băng tuyết, tuyệt vọng cho số phận mình hẩm hiu, tuyệt vọng cho thói đời bạc bẽo.

Khoảnh làm chi bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.

“Khoảnh” có nghĩa chỉ sự chơi ác, thể hiện sự trớ trêu của số phận khi nỗi cô đơn dày vò người thiếu nữ. Người con gái nhớ lại những ngày tháng còn được nhà vua sủng hạnh, còn giờ đây nàng như bông hoa đã bị hút hết hương thơm bị bỏ lại một mình cho thân tàn, nhụy héo. Nơi nàng sống là một lầu son có nhiều tiện nghi nhưng lại thiếu hơi người, tất cả đều nhìn quanh một mình nàng khiến cho nỗi sầu trong lòng nàng càng thêm xót xa, ai oán.

Trong những câu thơ tiếp theo tác giả Nguyễn Gia Thiều đã nói lên sự thất vọng, bất lực của người con gái, những lời than thở một mình như đứt từng khúc ruột, nỗi buồn bủa vây không gian hiu quanh thể hiện sự tàn úa trong tâm trạng người con gái bị vua thất sủng.

“Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
……
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.

”Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” trong tâm trạng chán chường cực độ người con gái nhìn đâu cũng thấy hình bóng mình cô liêu một mình nên tâm trạng càng thêm u uất, mệt mỏi. Cô gái nhìn xung quanh quạnh quẽ gối chăn đóng băng giá lạnh thiếu hơi ấm của người đàn ông đầu ấp má kề.

Nàng cảm thấy sự bạc bẽo của con người thật đáng khinh bỉ, mới hôm qua còn thề non hẹn biển còn đầu ấp má kề, nhưng hôm nay người ta đã vui vẻ với người mới bỏ lại nàng một mình cô đơn một bóng, vò võ sống kiếp lạnh lùng hết ngày này qua tháng khác.

Cuộc chiến chốn hậu cung là một cuộc chiến vô cùng tàn nhẫn và khốc liệt “Chém cha cái kiếp chồng chung. Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Tình yêu khi phải chung chạ, thì nó thật sự là một tấm chăn hẹp nếu người này kéo thì người kia sẽ bị lạnh. Không thể cùng hạnh phúc cho tất cả mọi người được.

Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
mà đay nghiến, uất ức, hằn học:
Giết nhau chẳng cái Lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!

Trong sự cay đắng tủi hờn người con gái đã buông lời oán trách, chì chiết kẻ đàn ông bạc tình kia rằng giết nhau bằng cái u sầu. Một cái giết không gươm đao, không thuốc độc nhưng lại khiến con người ta buồn mà chết, chết tàn chết héo trong chốn lạnh lẽo u uất này. Đó chính là tội ác của chế độ phong kiến khi chỉ phục vụ vua chúa mà cướp đi hạnh phúc của rất nhiều cô gái trẻ.

Những câu thơ cũng tố cáo tội ác ăn chơi sa đọa của những vua chúa thời xưa, chỉ biết hưởng thụ vinh hoa phú quý, nhục dục xác thịt mà không biết rằng những người dân khốn khổ nghèo đói, biết bao người phụ nữ, lầm than, héo hắt hoa tàn nhị héo trong cung cấm.

Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ!
Xe thế này có dở dang không?
Dang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!

Trong khổ thơ này thể hiện những trái ngược trong cảm xúc. Một là cảm xúc nặng nề chán nản cuộc sống bị ghẻ lạnh, bị lãng quên của người con gái nơi hậu cung lạnh lẽo. Hai là cảm xúc khát khao muốn có hạnh phúc đời thường của người con gái đang tuổi xuân sắc.

“Nguyệt lão” chính là người làm mai mối trong nhân gian với những đôi uyên ương đã xe duyên cho người con gái nhưng lại khiến nàng dở dang một đời. Nàng oán hận số phận oán hận người xe duyên, oán hận kẻ bạc tình, đã quất ngựa truy phong vui bên duyên mới quên nàng nơi đây lạnh lẽo.

Hình ảnh muốn dứt tơ hồng thể hiện sự vùng vẫy của người con gái muốn chấm dứt cuộc sống bi ai, uất hận này nhưng chế độ xã hội quyền lực của xã hội phong kiến không cho nàng được làm thế. Nàng mãi mãi bị kìm kẹt cho tới chết ở chốn cung vua này.

Tác giả Nguyễn Gia Thiều bằng ngòi bút tinh tế, sâu sắc của mình đã lột tả được bộ mặt thật của xã hội phong kiến, tố cáo tội ác của vua chúa ngày xưa ăn chơi xa đọa, khiến nhiều người phụ nữ chịu cảnh ghẻ lạnh, bạc bẽo nơi hậu cung.

Bài thơ này còn tố cáo kiếp đa thê của xã hội phong kiến, khiến nhiều người phụ nữ xưa phải chia sẻ chồng mình với người khác. Đoạn trích cũng thể hiện giá trị nhân văn cao cả của tác giả dành cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ.

Mẫu Bình Giảng, Phân Tích Bài Thơ Cung Oán Ngâm Khúc Ngắn Hay – Mẫu 5

Nguyễn Gia Thiều sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộ, được cậu là chúa Trịnh cho vào cung ăn học. Khi lớn lên làm quan ở phủ chúa,ông có cơ hội chứng kiến những thói ăn chơi hưởng lạc, hoang dâm vô độ của vua chúa, đặc biệt là những bất công đối với thân phận của những người cung nữ. Hoàn cảnh và lòng nhân đạo đã khiến ông viết nên “ Cung oán ngâm” – một trong những tiếng vang lớn của tư tưởng nhân đạo, của tiếng nói đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc cho con người thời bấy giờ.

“Cung oán ngâm” là bài ca ai oán của người cung nữ có tài sắc, trước được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu bị ruồng bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc. Qua khúc ngâm, tác giả còn gửi gắm quan niệm của ông về cuộc đời bạc bẽo phù du. Cả khúc ngâm dài 356 câu với ngôn ngữ tài hoa, đài các, có nhiều chữ Hán và điển cố thể hiện nghệ thuật biểu đạt rất phong phú, già dặn, ảnh hưởng tới các nhà thơ đời sau. Đoạn trích gồm 36 câu ( từ câu 209 đến câu 244) đã thể hiện rõ nhất tinh thàn của cả tác phẩm.

4 khổ đầu là tâm trạng người cung nữ được khắc họa trong hoàn cảnh bị nhà vua ruồng bỏ. Không gian là cung quế- nơi người cung nữ ở, đoạn tuyệt hoàn toàn với cuộc sống bên ngoài. Không gian cô lẻ cùng thời gian đêm khuya càng khiến không khí trở nên vắng vẻ, lạnh lẽo hơn.

Hơn nữa, thời gian đêm năm canh phù hợp cho nhân vật bộc lộ tâm trạng của mình. Đó còn là thời điểm của niềm hi vọng hạnh phúc hòa cùng nỗi tuyệt vọng nơi cô phòng mà ngày nào đêm nào cũng phải đối mặt. Trong tối tăm, ngườ cung nữ ấy vẫn “ trông ngóng lần lần”, khôn nguôi chờ đợi nhưng thực chất là đang chờ đợi một cái gì đó xa vời, nhưng biết là xa vời mà vẫn khôn nguôi hi vọng. Hi vọng nhiều thì tuyệt vọng càng nhiều, nghĩ lại tình cảnh của mình, nỗi xót xa trào lên, bật ra thành lời oán trách:

“Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.”

Lời trách, lời than ấy đã vạch trần bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn của vua. Giọng điệu câu thơ như đay nghiến, trách cứ, nó thấm thía nỗi xót xa của nhân vật trữ tình: khi còn xuân sắc thì được yêu chiều nhưng khi nhan sắc tàn phai thì lại bị bỏ rơi, thê thảm.

Các câu thơ càng nhấn mạnh vào sự xa hoa vẻ bề ngoài của cuộc sống nơi cung cấm đối lập với không khí lạnh lẽo, sự tồi tàn, héo úa về tih thần của cuộc sống nơi đây. Tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt: “ đãi nguyệt, thừa lương, phòng tiêu,…” vẽ ra trước mắt chúng ta nào lầu son nào gác tía, một cuộc sống xa hoa quyền quý nơi cung cấm. Bên cạnh lớp từ Hán Việt là hệ thống ngôn ngữ nôm na, giàu giá trị biểu cảm , khắc họa chân thực tình cảnh người cung nữ đang phải trải qua: xa hoa quyền quý đã không còn là niềm vui sống mà cô mong đợi.

Cuộc sống xa hoa hoàn toàn đối lập với cuộc sống lạnh lẽo trong tình cảnh vô vọng về hạnh phúc lứa đôi: mới thấy giàu sang để làm gì nếu như không có tình yêu và hạnh phúc. Lúc đó, nàng chỉ còn biết làm bạn với giọt mưa đêm, với trăng với gió, sống trong sự mỏi mòn chờ đợi một ngày nào đó nhà vua sẽ ghé thăm.

Nàng nhớ về , tiếc nuối cho một quá khứ tươi đẹp sum vầy đầm ấm mà ở đó, cung nữ được yêu chiều sủng ái. Khoảnh khắc ngắn ngủi của quá khứ tươi đẹp lóe lên rồi tắt dần đi lập tức bị đẩy lùi bởi bóng tối ở hiện tại, thực tế: cuộc sống cô quạnh, hoàn toàn bị bỏ quên, không còn người lai vãn.

Những hình ảnh ước lệ đan cài hình ảnh thực: “ gối loan tuyết đóng”, “ chăn cù giá đông”: gối hạnh phúc chờ đón mà tuyết đóng, chăn để đắp cho ấm mà lại giá đông. Đây có lẽ còn là cái lạnh trong lòng người: cô đơn như một thứ cực hình, tra tấn về tâm hồn khiến cô gái buồn bã, ủ ê đến băng giá.

Đến những câu thơ tiếp theo cảm xúc tâm trạng càng diễn biến theo chiều hướng bi kịch hơn, càng lúc càng não nề, bi đát. Lạnh lẽo, cô đơn ngay cả trong giấc ngủ, nàng vẫn cảm nhận được sự “tịch mịch, thâm u”, càng thêm thất vọng vì tuổi xuân đã bị khóa chặt vào với sự tẻ nhạt, tù túng, u ẩm, nặng nề, đen tối.

Nỗi đau, nỗi khát khao khó được đền đáp khiến con người ta mòn mỏi chờ đợi, sự mỏi mòn thậm chí còn rơi vào cõi vô thức: “ Mặt buồn trông cửa nghiêm lâu”, “đứng tủi ngồi sầu”, gieo từng bước ngẩn ngơ vô định mà trong lòng khắc khoải, trăm mối tơ vò. Khi buồn thương càng trở nên quằn quại, tiếc nuối, khi hy vọng càng lúc càng mong manh, câu thơ lại chuyển thành giọng điệu trách móc:

“Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng!”
“Giết nhau chẳng cái mưu cầu
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái sầu độc chưa!”

Và cuối cùng, mọi uất hận u sầu đã dồn tụ lại bật lên thành mong muốn bứt phá, khát khao vượt qua chốn tối tăm, lạnh lẽo, ảm đạm:

“Đang tay muốn dứt tơ Hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.”

Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã thể hiện rõ số phận của người phụ nữa đương thời, đặc biệt dưới chệ độ cung nữ. Đó là những số phận bị bỏ quên , bị khóa kín tuổi xuân trong cung cấm ngột ngạt, tù túng. Họ luôn khao khát tình yêu, hạnh phúc nhưng càng khao khát càng rơi vào bế tắc, tuyệt vọng. Tiếng nói than thân, trách móc của người cung nữ đã trở thành tiếng nói tố cáo mạnh mẽ xã hội với sự xuống cấp trầm trọng của những giá trị đạo đức , với chế độ cung nữ hà khắc…

Gợi ý soạn bài 🌿Lưu Biệt Khi Xuất Dương🌿Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích 

Viết một bình luận