Chinh Phụ Ngâm Của Đặng Trần Côn [Nội Dung Bài Thơ + Phân Tích]

Chinh Phụ Ngâm [Đặng Trần Côn] ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích ✅ Tìm Hiểu Chi Tiết Về Ý Nghĩa, Bố Cục, Nghệ Thuật Bài Thơ.

Nội Dung Bài Thơ Chinh Phụ Ngâm Của Đặng Trần Côn

Chinh phụ ngâm hay còn gọi là Chinh phụ ngâm khúc ủa Đặng Trần Côn, là tác phẩm chủ yếu viết theo lối tập cổ, dài 476 câu thơ. Các câu thơ trong bài dài ngắn khác nhau, theo thể trường đoản cú, câu dài nhất khoảng 12, 13 chữ, câu ngắn chỉ 3, 4 chữ.

Chinh phụ ngâm khúc
Tác giả: Đặng Trần Côn

👉Loạn thời – 亂時

天地風塵
紅顏多屯
悠悠彼蒼兮誰造因
鼓鼙聲動長城月
烽火影照甘泉雲
九重按劍起當席
半夜飛檄傳將軍
清平三百年天下
從此戎衣屬武臣
使星天門催曉發
行人重法輕離別
弓箭兮在腰
妻孥兮別袂
獵獵旌旗兮出塞愁
喧喧簫鼓兮辭家怨
有怨兮分攜
有愁兮契闊
良人二十吳門豪
投筆硯兮事弓刀
直把連城獻明聖
願將尺劍斬天驕
丈夫千里志馬革
泰山一擲輕鴻毛
便辭閨閫從征戰
西風鳴鞭出渭橋

Phiên âm:

1. Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
5. Phong hoả ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
10. Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Cung tiễn hề tại yêu
Thê noa hề biệt khuyết
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
15. Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán
Hữu oán hề phân huề
Hữu sầu hề khế khoát
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
Đầu bút nghiên hề sự cung đao
20. Trực bả liên thành hiến minh thánh
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu
Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến
25. Tây phong minh tiên xuất Vị kiều

👉Xuất chinh – 出征

渭橋頭清水溝
清水邊青草途
送君處兮心悠悠
君登途兮妾恨不如駒
君臨流兮妾恨不如舟
清清有流水
不洗妾心愁
青青有芳草
不忘妾心憂
語復語兮執君手
步一步兮牽君襦
妾心隨君似明月
君心萬里千山箭
擲離杯兮舞龍泉
橫征槊兮指虎穴
云隨介子獵樓蘭
笑向蠻溪談馬援
君穿壯服紅如霞
君騎驍馬白如雪
驍馬兮鸞鈴
征鼓兮人行
須臾中兮對面
頃刻裡兮分程
分程兮河梁
徘徊兮路旁
路旁一望兮旆央央
前車兮北細柳
後騎兮西長楊
騎車相擁君臨塞
楊柳那知妾斷腸
去去落梅聲漸遠
行行征旆色何忙
望雲去兮郎別妾
望山歸兮妾思郎
郎去程兮濛雨外
妾歸處兮昨夜房
歸去兩回顧
雲青兮山蒼
郎顧妾兮咸陽
妾顧郎兮瀟湘
瀟湘煙阻咸陽樹
咸陽樹隔瀟湘江
相顧不相見
青青陌上桑
陌上桑陌上桑
妾意君心誰短長

Phiên âm:

Vị kiều đầu thanh thuỷ câu
Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ
Tống quân xứ hề tâm du du
Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu
30. Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu
Thanh thanh hữu lưu thuỷ
Bất tẩy thiếp tâm sầu
Thanh thanh hữu phương thảo
bất vong thiếp tâm ưu
35. Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ
Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
40. Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
Quân xuyên trang phục hồng như hà
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
45. Kiêu mã hề loan linh
Chinh cổ hề nhân hành
Tu du trung hề đối diện
Khoảnh khắc lý hề phân trình
Phân trình hề hà lương
50. Bồi hồi hề lộ bàng
Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương
Tiền xa hề Bắc Tế Liễu,
Hậu kỵ hề Tây Trường Dương
Kỵ xa tương ủng quân lâm tái
55. Dương liễu na tri thiếp đoạn trường
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
Hành hành chinh bái sắc hà mang
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
Vọng sơn quy hề thiếp tư lang.
60. Lang khứ trình hề mông vũ ngoại
Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng
Quy khứ lưỡng hồi cố
Vân thanh hề sơn thương
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
65. Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
Tương cố bất tương kiến
Thanh thanh mạch thượng tang
70. Mạch thượng tang mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường

👉Sầu tủi – 悲懼

自從別後風沙隴
明月知君何處宿
古來征戰場
萬里無人屋
風熬熬兮打得人顏憔
水深深兮怯得馬蹄縮
戍夫枕鼓臥龍沙
戰士抱鞍眠虎陸
今朝漢下白登城
明日胡窺青海曲
青海曲青山高復低
青山前青溪斷復續
青山上雪蒙頭
青溪下水沒腹
可憐多少鐵衣人
思歸當此愁顏蹙
錦帳君王知也無
艱難誰為畫征夫
料想良人經歷處
蕭關角瀚海隅
霜村雨店
虎落蛇區
風餐露宿
雪脛冰鬚
登高望雲色
安復不生愁
自從別後東南徼
東南知君戰何道
古來征戰人
性命輕如草
鋒刃下溫溫挾纊主恩深
時刻中歷歷橫戈壯士夭
祈山舊塚月茫茫
淝水新墳風裊裊
風裊裊空吹死士魂
月茫茫曾照征夫貌
征夫貌兮誰丹青
死士魂兮誰哀弔
可憐爭鬪舊江山
行人過此情多少
古來征戰幾人還
班超歸時鬢已斑
料想良人馳騁外
三尺劍一戎鞍
秋風沙草
明月關山
馬頭鳴鏑
城上緣竿
功名百忙裏
勞苦未應閒

Phiên âm:

Tự tòng biệt hậu phong sa lũng
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
Cổ lai chinh chiến trường
75. Vạn lý vô nhân ốc
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
80. Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
85. Thanh khê hạ thuỷ một phúc
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
Gian nan thuỳ vị họa chinh phu
90. Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác hãn hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
95. Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu
Tự tòng biệt hậu đông nam kiếu
Đông nam tri quân chiến hà đạo
100. Cổ lai chinh chiến nhân
Tính mệnh khinh như thảo
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
105. Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
110. Khả liên tranh đấu cựu giang sơn
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
115. Tam xích kiếm nhất nhung yên
Thu phong sa thảo
Minh nguyệt quan sơn
Mã đầu minh đích
Thành thượng duyên can
120. Công danh bách mang lý
Lao khổ vị ưng nhàn

👉Hoài tưởng – 懷想

勞與閒誰與言
君在天涯妾倚門
倚門固妾今生分
天涯豈君平生魂
自信相隨魚水伴
那堪相隔水雲村
妾身不想為征婦
君身豈學為王孫
何事江南與江北
令人愁曉更愁昏
一個是風流少年客
一個是深閨少年婚
可堪兩年少
千里各寒暄
憶昔與君相別時
柳條猶未囀黃鸝
問君何日歸
君約杜鵑啼
杜鵑已逐黃鸝老
青柳樓前語鷾鴯
憶昔與君相別中
雪梅猶未識東風
問君何日歸
君指桃花紅
桃花已伴東風去
老梅江上又芙蓉
與我約何所
乃約隴西岑
日中兮不來
墜葉兜我簪
竚立空涕泣
荒邨喧午禽
與我約何所
乃約漢陽橋
日晚兮不來
谷風吹我袍
竚立空涕泣
寒江起暮潮
昔年寄信勸君回
今年寄信勸君來
信來人未來
楊花零落委蒼苔
蒼苔蒼苔又蒼苔
一步閒庭百感催
昔年回書訂妾期
今年回書訂妾歸
書歸人未歸
紗窗寂寞轉斜暉
斜暉斜暉又斜暉
十約佳期九度違

Phiên âm:

Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn
Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn
Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận
125. Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn
Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn
Na kham tương cách thuỷ vân thôn
Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ
Quân thân khởi học vi vương tôn
130. Hà sự giang Nam dữ giang Bắc
Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn
Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn
Khả kham lưỡng niên thiếu
135. Thiên lý các hàn huyên
Ức tích dữ quân tương biệt thời
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly
Vấn quân hà nhật quy
Quân ước đỗ quyên đề
140. Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão
Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi
Ức tích dữ quân tương biệt trung
Tuyết mai do vị thức Ðông phong,
Vấn quân hà nhật quy
145. Quân chỉ đào hoa hồng
Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ
Lão mai giang thượng hựu phù dung
Dữ ngã ước hà sở
Nãi ước Lũng Tây sầm
150. Nhật trung hề bất lai
Trụy diệp đâu ngã trâm
Trữ lập không thế khấp
Hoang thôn huyên ngọ cầm
Dữ ngã ước hà sở
155. Nãi ước Hán Dương kiều
Nhật vãn hề bất lai
Cốc phong xuy ngã bào
Trữ lập không thế khấp
Hàn giang khởi mộ trào
160. Tích niên ký tín khuyến quân hồi
Kim niên ký tín khuyến quân lai
Tín lai nhân vị lai
Dương hoa linh lạc uỷ thương đài
Thương đài thương đài hựu thương đài
165. Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi
Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ
Kim niên hồi thư đính thiếp quy
Thư quy nhân vị quy
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
170. Tà huy tà huy hựu tà huy
Thập ước giai kỳ cửu độ vi

👉Cô lánh – 孤另

試將去日從頭數
不覺荷錢已三鑄
最苦是連年紫塞人
最苦是千里黃花戍
黃花戍誰無堂上親
紫塞人誰無閨中婦
有親安可暫相離
有婦安能久相負
君有老親鬢如霜
君有兒郎年且孺
老親兮倚門
兒郎兮待哺
供親餐兮妾為男
課子書兮妾為父
供親課子此一身
傷妾思君今幾度
思君昨日兮已過
思君今年兮又暮
君淹留二年三年更四年
妾情懷百縷千縷還萬縷
安得在君邊
訴妾衷腸苦
妾有漢宮釵
曾是嫁時將送來
憑誰寄君子
表妾相思懷
妾有秦樓鏡
曾與郎初相對影
憑誰寄君子
照妾今孤另
妾有鉤指銀
手中時相親
憑誰寄君子
微物寓慇懃
妾有搔頭玉
嬰兒年所弄
憑誰寄君子
他鄉幸珍重

Phiên âm:

Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ
Bất giác hà tiền dĩ tam chú
Tối khổ thị liên niên tử tái nhân
175. Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú
Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ
Hữu thân an khả tạm tương ly
Hữu phụ an năng cửu tương phụ
180. Quân hữu lão thân mấn như sương
Quân hữu nhi lang niên thả nhụ
Lão thân hề ỷ môn
Nhi lang hề đãi bộ
Cung thân xan hề thiếp vi nam
185. Khoá tử thư hề thiếp vi phụ
Cung thân khoá tử thử nhất thân
Thương thiếp tư quân kim kỷ độ
Tư quân tạc nhật hề dĩ quá
Tư quân kim niên hề hựu mộ
190. Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên
Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ
An đắc tại quân biên
Tố thiếp trung trường khổ
Thiếp hữu Hán cung thoa
195. Tằng thị giá thời tương tống lai
Bằng thuỳ ký quân tử
Biểu thiếp tương tư hoài
Thiếp hữu Tần lâu kính
Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh
200. Bằng thuỳ ký quân tử
Chiếu thiếp kim cô lánh
Thiếp hữu câu chỉ ngân
Thủ trung thời tương thân
Bằng thuỳ ký quân tử
205. Vi vật ngụ ân cần
Thiếp hữu tao đầu ngọc
Anh nhi niên sở lộng
Bằng thuỳ ký quân tử
Tha hương hạnh trân trọng

👉Vọng tưởng – 望想

昔年音信有來時
今年音稀信亦稀
見雁枉然思塞帛
聞霜漫自製綿衣
西風欲寄無鴻便
天外憐伊雪雨垂
雪寒伊兮虎帳
雨冷伊兮狼幃
寒冷般般苦
天外可憐伊
錦字題詩封更展
金錢問卜信還疑
幾度黃昏時重軒人獨立
幾回明月夜單枕鬢斜攲
不關酖與酣惛惛人似醉
不關愚與惰懵懵意如癡
簪斜委鬌髼無奈
裙褪柔腰瘦不支
晝沈沈午院行如墜
夕悄悄湘簾捲又垂
簾外窺日出枝頭無鵲報
簾中坐夜來心事只燈知
燈知若無知
妾悲只自悲

Phiên âm:

210. Tích niên âm tín hữu lai thời
Kim niên âm hy tín diệc hy
Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch
Văn sương mạn tự chế miên y
Tây phong dục ký vô hồng tiện
215. Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
Tuyết hàn y hề hổ trướng
Vũ lãnh y hề lang vi
Hàn lãnh ban ban khổ
Thiên ngoại khả liên y
220. Cẩm tự đề thi phong cánh triển
Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi
Kỷ độ hoàng hôn thời trùng hiên nhân độc lập
Kỷ hồi minh nguyệt dạ đơn chẩm mấn tà khi
Bất quan trầm dữ hàm hôn hôn nhân tự tuý
225. Bất quan ngu dữ nọa mộng mộng ý như si
Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại
Quần thối nhu yêu sấu bất chi
Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ
Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
230. Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo
Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri
Đăng tri nhược vô tri
Thiếp bi chỉ tự bi

👉Sầu muộn – 愁悶

悲又悲兮更無言
燈花人影總堪憐
咿喔雞聲通五夜
披拂槐陰度八磚
愁似海
刻如年
強燃香花魂消檀炷下
強臨鏡玉筋墜菱花前
強援琴指下驚停鸞鳳柱
強調瑟曲中悲遏鴛鴦絃
此意春風若肯傳
千金借力寄燕然
燕然未能傳
憶君迢迢兮路如天
天遠未易通
憶君悠悠兮思何窮
懷人處傷心胸
樹葉青霜裡
蛩聲細雨中
霜斧殘兮楊柳
雨鋸損兮梧桐
鳥返高舂
露下低叢
寒垣候虫
遠寺曉鐘
蟋蟀數聲雨
芭蕉一院風
風裂紙窗穿帳隙
月移花影上簾櫳
花前月照月自白
月下花開花自紅
月花花月兮影重重
花前月下兮心忡忡

Phiên âm:

Bi hựu bi hề cánh vô ngôn
235. Đăng hoa nhân ảnh tổng kham liên
Y ốc kê thanh thông ngũ dạ
Phi phất hoè âm độ bát chuyên
Sầu tự hải
Khắc như niên
240. Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ
Cưỡng lâm kính ngọc cân truỵ lăng hoa tiền
Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ
Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền
Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền
245. Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên
Yên Nhiên vị năng truyền
Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên
Thiên viễn vị dị thông
Ức quân du du hề tứ hà cùng
250. Hoài nhân xứ thương tâm hung
Thụ diệp thanh sương lý
Cùng thanh tế vũ trung
Sương phủ tàn hề dương liễu
Vũ cứ tổn hề ngô đồng
255. Điểu phản cao thung
Lộ há đê tùng
Hàn viên hậu trùng
Viễn tự hiểu chung
Tất suất sổ thanh vũ
260. Ba tiêu nhất viện phong
Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích
Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung
Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch
Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng
265. Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung.

👉Thất vọng – 失望

千般懶萬事慵
慵女工錦軸恥拋鴛對偶
慵婦巧金針羞刺蝶雌雄
慵粧對曉空施粉
慵語終朝悶倚窗
倚窗倚窗復倚窗
郎君去兮誰為容
誰為容兮空盤桓
郎君去兮隔重關
何啻天帝孫冷落泣銀渚
何啻姮娥婦凄凉坐廣寒
藉愁兮為枕
煮悶兮為餐
欲將酒制愁愁重酒無力
欲將花解悶悶壓花無顏
愁悶總為愁悶誤
悶愁化作九泉灘
試瓊笙兮不成響
抱銀箏兮不忍彈
思遠塞兮行路難
念征夫兮囊索單
鵑聲啼落關情淚
樵鼓敲殘帶憊肝
不勝憔悴形骸軟
始覺睽離滋味酸

Phiên âm:

Thiên ban lãn vạn sự dung
Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu
Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng
270. Dung trang đối hiểu không thi phấn
Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song
Ỷ song ỷ song phục ỷ song
Lang quân khứ hề thuỳ vi dung
Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn
275. Lang quân khứ hề cách trùng quan
Hà thí Thiên đế tôn lãnh lạc khấp Ngân Chử
Hà thí Hằng Nga phụ thê lương tọa Quảng Hàn
Tạ sầu hề vi chẩm
Chử muộn hề vi xan
280. Dục tương tửu chế sầu sầu trọng tửu vô lực
Dục tương hoa giải muộn muộn áp hoa vô nhan
Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ
Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than
Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng
285. Bão ngân tranh hề bất nhẫn đàn
Tư viễn tái hề hành lộ nan
Niệm chinh phu hề nang tác đơn
Quyên thanh đề lạc quan tình lệ
Tiều cổ xao tàn đái bại can
290. Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn
Thủy giác khuê ly tư vị toan

👉Vọng tầm – 望尋

滋味酸兮酸更辛
酸辛端的為良人
為良人兮雙妾淚
為良人兮隻妾身
妾身不到君征帳
妾淚不到君征巾
惟有夢魂無不到
尋君夜夜到江津
尋君兮陽台路
會君兮湘水濱
記得幾番歡會處
無非一枕夢中春
此身反恨不如夢
隴水函關與子親
夢去每憎驚更斷
夢回又慮幻非真
惟有寸心真不斷
未嘗頃刻少離君
心不離君未見君
凭高幾度望征輪
望君何所見
江洲滿白蘋
燕草披青縷
秦桑染綠雲
南來井邑半兵塵
落日平沙鷺一群
望君何所見
官路短長亭
雲間吳樹暗
天際蜀山青
北來禾黍半荒城
微雨江樓笛一聲
望君何所見
崆山葉做堆
自飛青野雉
自舞隔江梅
東去煙嵐慘不開
西風飄薄鳥聲哀
望君何所見
河水曲如鉤
長空數點雁
遠浦一歸舟
西去松楸接斷蕪
行人微沒隔蒼洲
望盡天頭又地頭
幾日登樓更下樓
凍雲阻盡相思眼
何處玉關征戰陬

Phiên âm:

Tư vị toan hề toan cánh tân
Toan tân đoan đích vị lương nhân
Vị lương nhân hề song thiếp lệ
295. Vị lương nhân hề chích thiếp thân
Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng
Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân
Duy hữu mộng hồn vô bất đáo
Tầm quân dạ dạ đáo giang tân
300. Tầm quân hề Dương Đài lộ
Hội quân hề Tương thuỷ tân
Ký đắc kỷ phiên hoan hội xứ
Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân.
Thử thân phản hận bất như mộng
305. Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân
310. Tâm bất ly quân vị kiến quân,
Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân
Vọng quân hà sở kiến
Giang châu mãn bạch tần
Yên thảo phi thanh lũ
315. Tần tang nhiễm lục vân
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
Lạc nhật bình sa lộ nhất quần
Vọng quân hà sở kiến
Quan lộ đoản trường đình
320. Vân gian Ngô thọ ám
Thiên tế Thục sơn thanh
Bắc lai hoà thử bán hoang thành
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh
Vọng quân hà sở kiến
325. Không sơn diệp tố đôi
Tự phi thanh dã trĩ
Tự vũ cách giang mai
Đông khứ yên lam thảm bất khai
Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai
330. Vọng quân hà sở kiến
Hà thủy khúc như câu
Trường không sổ điểm nhạn,
Viễn phố nhất quy châu
Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu
335. Hành nhân vi một cách thương châu
Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu
Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu
Đống vân trở tận tương tư nhãn
Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu.

👉Hoài nghi – 懷疑

恨無長房縮地術
恨無仙子擲巾符
有心誠化石
無淚可登樓
回首長堤楊柳色
悔教夫婿覓封侯
不識離家千里外
君心有似妾心否
君心倘與妾心似
妾亦於君何怨尤
妾心如花常向陽
只怕君心如流光
流光一去不復照
花為流光黃又黃
花黃更向誰邊笑
流光不肯一迴照
黃花卻為流光老
黃花老兮落滿墻

Phiên âm:

340. Hận vô trường phòng súc địa thuật
Hận vô tiên tử trịch cân phù
Hữu tâm thành hóa thạch
Vô lệ khả đăng lâu
Hồi thủ trường đề dương liễu sắc
345. Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Bất thức ly gia thiên lý ngoại
Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu
Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự
Thiếp diệc ư quân hà oán vưu
350. Thiếp tâm như hoa thường hướng dương
Chỉ phạ quân tâm như lưu quang
Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu
Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng
Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu
355. Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu
Hoàng hoa khước vi lưu quang lão
Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường.

👉Ưu lão – 憂老

花落如今經幾霜
庭蘭兮已摘
江藻兮又芳
攝衣步前堂
仰目觀天章
纖雲時彷彿
北斗忽低昂
河水翻明滅
參躔乍現藏
月照兮我床
風吹兮我牆
玉顏隨年削
丈夫猶他方
昔為形與影
今為參與商
君邊雲擁青絲騎
妾處苔生嚮屧廊
廊內春風日將歇
可憐誤盡良時節
良時節姚黃魏紫嫁東風
良時節織女牛郎會明月
昨日未笄西家娘
今年已歸東鄰倩
可怜兔守一空房
年年誤盡良時節
良時節兮忽如梭
人世青春容易過
況復是春悶未消秋恨續
況復是合歡更少別愁多
別愁秋恨兩相磨
蒲柳青青能幾何
空漢惜淚咨嗟
只怕白到文君頭空嘆惜
只恐花到潘郎鬢浪咨嗟
嘆惜何以為
顏色猶紅如嫩花
咨嗟何以為
光陰一擲無回戈
咨命薄惜年花
紛紛少婦幾成皤
香閣重懷陪笑臉
花樓尚記解香羅
恨天不與人方便
底事到今成坎坷
坎坷坎坷知奈何
為妾嗟兮為君嗟

Phiên âm:

Hoa lạc như kim kinh kỷ sương
Đình lan hề dĩ trích
360. Giang tảo hề hựu phương
Nhiếp y bộ tiền đường
Ngưỡng mục quan thiên chương
Tiêm vân thời phảng phất
Bắc đẩu hốt đê ngang
365. Hà thuỷ phiên minh diệt
Sâm triền sạ hiện tàng
Nguyệt chiếu hề ngã sàng
Phong xuy hề ngã tường
Ngọc nhan tuỳ niên tước
370. Trượng phu do tha phương
Tích vi hình dữ ảnh
Kim vi Sâm dữ Thương
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang
375. Lang nội xuân phong nhật tương yết
Khả liên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Ðông phong
Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt
Tạc nhật vị kê Tây gia nương
380. Kim niên dĩ quy Ðông lân thiến
Khả linh thố thủ nhất không phòng
Niên niên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết hề hốt như thoa
Nhân thế thanh xuân dung dị qua
385. Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục
Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa
Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma
Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà
Không thán tích lệ tư ta
390. Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích
Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lãng tư ta
Thán tích hà dĩ vi
Nhan sắc do hồng như nộn hoa
Tư ta hà dĩ vi
395. Quang âm nhất trịch vô hồi qua
Tư mệnh bạc tích niên hoa
Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà
Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm
Hoa lâu thượng ký giải hương la
400. Hận thiên bất dữ nhân phương tiện
Để sự đáo kim thành khảm kha
Khảm kha khảm kha tri nại hà
Vị thiếp ta hề vị quân ta

👉Nguyện ước – 願約

君不見野外雙鴛鴦
甘心不忍兩分張
又不見樑間雙燕燕
白首何曾忘眷戀
鶼鶼也無情
比翼相隨過一生
蛩蛩也無知
並驅到老不相違
路柳曾傳連理處
池蓮亦有並頭時
負蟨兮駏驉
抱蘿兮菟絲
何人生之相違
嗟物類之如斯
安得在天為比翼鳥
在地為連理枝
寧甘死相見
不忍生相離
雖然死相見
曷若生相隨
安得君無老日
妾常少年
願為影兮隨君邊
君有行兮影不遠
君依光兮妾如願
願君許國心如丹
願君庇民身如鐵
饑來吞下月氏頭
渴來飲下單于血

Phiên âm:

Quân bất kiến dã ngoại song uyên ương
405. Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương
Hựu bất kiến lương giang song yến yến
Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến
Kiêm kiêm dã vô tình
Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh
410. Cùng cùng dã vô tri
Tịnh khu đáo lão bất tương vi
Lộ liễu tằng truyền liên lý xứ
Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời
Phụ quyết hề cự hư
415. Bão la hề thố ty
Hà nhân sinh chi tương vi
Ta vật loại chi như tư
An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu
Tại địa vi liên lý chi
420. Ninh cam tử tương kiến
Bất nhẫn sinh tương ly
Tuy nhiên tử tương kiến
Hạt nhược sinh tương tuỳ
An đắc quân vô đáo lão nhật
425. Thiếp thường thiếu niên
Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên
Quân hữu hành hề ảnh bất viễn
Quân y quang hề thiếp như nguyện
Nguyện quân hứa quốc tâm như đan
430. Nguyện quân tí dân thân như thiết
Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu
Khát lai ẫm hạ Thiền Vu huyết.

👉Khẩn cầu – 懇求

何幸期門鋒刃中
老天著意護英雄
護英雄百戰功
長驅駟馬靜關東
關東關北休傳箭
山尾山頭早掛弓
捷色旌旗辭塞月
凱歌將士背邊風
勒詩兮燕然石
獻馘兮未央宮
未央宮兮向天朝
挽銀河兮洗刀弓
詞人刪下平淮頌
樂府歌傳入漢謠
凌煙閣兮秦叔寶
麒麟台兮霍嫖姚
天長地久茅苴券
子蔭妻封爵祿標
有愁兮此日
得意兮來時
妾非蘇家癡心婦
君亦洛陽好男兒
歸來倘佩黃金印
肯學當年不下機
願為君兮解征衣
願為君兮捧霞巵
為君梳櫛雲鬟髻
為君粧點玉臙脂
取君看兮舊淚帕
訴君聽兮舊情詞
舊情詞兮換新聯
語新話舊兮酒杯前
淺斟兮慢慢
底唱兮連連
斟不斟兮蒲城釀
唱不唱兮紫騮篇
願斟九醞兮唱雙聯
與君整頓兮舊姻緣
交頸成雙到老天
償了功名離別債
相憐相守太平年
太平年願君止戈置
若然此別妾何淚
將會之期將寄言
嗟乎丈夫當如是

Phiên âm:

Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung
Lão thiên trước ý hộ anh hùng
435. Hộ anh hùng bách chiến công
Trường khu tứ mã tịnh quan Ðông
Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn,
Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung
Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt
440. Khải ca tướng sĩ bối biên phong
Lặc thi hề Yên Nhiên thạch
Hiến quắc hề Vị Ương cung
Vị Ương cung hề hướng thiên triều
Vãn Ngân hà hề tẩy đao cung
445. Từ nhân san hạ Bình Hoài Tụng
Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao
Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu
Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu
Thiên trường địa cửu mao thư khoán
450. Tử ấm thê phong tước lộc tiêu
Hữu sầu hề thử nhật
Đắc ý hề lai thời
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi
455. Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
Khẳng học đương niên bất há ky
Nguyện vi quân hề giải chinh y
Nguyện vi quân hề bổng hà chi
Vi quân sơ trất vân hoàn kế
460. Vi quân trang điểm ngọc yên chi
Thủ quân khan hề cựu lệ phạ
Tố quân thính hề cựu tình từ
Cựu tình từ hề hoán tân liên
Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền
465. Thiển châm hề mạn mạn
Đê xướng hề liên liên
Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
470. Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên
Giao kỉnh thành song đáo lão thiên
Thường liễu công danh ly biệt trái
Tương liên tương thủ thái bình niên
Thái bình niên nguyện quân chỉ qua trí
475. Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ
Tương hội chi kỳ tương ký ngôn
477. Ta hồ trượng phu đương như thị.

Bên Cạnh Chinh Phụ Ngâm, Đọc Thêm ❤️️Đánh Đu Hồ Xuân Hương ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật

Chinh Phụ Ngâm Đoàn Thị Điểm Dịch

Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả, thể hiện thành công lẫn trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.

Chinh phụ ngâm
Dịch giả: Đoàn Thị Điểm

I.
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
Nước thanh bình ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ từ đây
Sứ trời sớm giục đường mây
Phép công là trọng, niềm tây sá nào
Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
Bóng cờ tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng
II.
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
Nhủ rồi tay lại trao liền
Bước đi một bước lại vin áo chàng
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
III.
Hà Lương chia rẽ đường này
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch trổi nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp lại về buồng cũ gối chăn
Ðoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
IV.
Chàng từ đi vào nơi gió cát
Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
Ôm yên, gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua
Hình khe, thế núi gần xa
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như giội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
Não người áo giáp bấy lâu
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên
Chẳn nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan
Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong
Lên cao trông thức mây lồng
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương!
V.
Chàng từ sang Ðông Nam khơi nẻo
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
Những người chinh chiến bấy lâu
Như xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa, nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
Phận trai già cõi chiến trường
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên
Xông pha gió bãi trăng ngàn
Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành
Áng công danh trăm đường rộn rã
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
VI.
Trong cửa này đã đành phận thiếp
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
Những mong cá nước sum vầy
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn
Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục, oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió Ðông
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng, lá rụng cành trâm
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ
Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?
Ngập ngừng gió thổi chéo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông
VII.
Tin thường lại, người không thấy lại
Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh
Rêu xanh mấy lớp chung quanh
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ
Thư thường tới, người không thấy tới
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy
Tiền sen này đã nẩy là ba
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài
Tình gia thất nào ai chẳng có
Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương
Mẹ già phơ phất mái sương
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
Nay một thân nuôi già dạy trẻ
Nỗi quan hoài mang mể biết bao!
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, Ðông nào còn dư
Kể năm đã ba tư cách diễn
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang
Ước gì gần gũi tấc gang
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá
Gương lầu Tần dấu đã soi chung
Cậy ai mà gửi tới cùng?
Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía
Ngọc cài đầu thuở bé vui tươi
Cậy ai mà gửi tới nơi
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân.
VIII.
Trải mấy thu, tin đi tin lại
Tới xuân này tin hãy vắng không
Thấy nhàn, luống tưởng thư phong
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng
Gió tây nổi không đường hồng tiện
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
Màn mưa trướng tuyết xông pha
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài
Ðề chữ gấm, phong thôi lại mở
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai
Há như ai, hồn say bóng lẫn
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Bức rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
IX.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun
Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau
Ðâu xiết kể, muôn sầu nghìn não
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi
Xót nỗi chàng, ngoài cõi trùng quan
Khác gì ả Chức, chị Hằng
Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối
Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi
X.
Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng
Ôm đàn tranh mấy phím rời tay
Xót người hành dịch bấy nay
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt
Trống tiều khua, như đốt buồng gan
Võ vàng đổi khác dung nhan
Khuê ly mới biết tân toan dường này
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ
Chua cay này, há có vì ai?
Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn
Duy còn hồn mộng được gần
Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người
Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
Sum vầy mấy lúc tình cờ
Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân
Giận thiếp thân lại không bằng mộng
Ðược gần chàng bến Lũng, thành Quan
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
Duy có một tấm lòng chẳng dứt
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi
Lòng theo song chửa thấy người
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe
Trông bến Nam, bãi che mặt nước
Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh
Nhà thôn mấy xóm chông chênh
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách
Rườm rà xanh cây ngất núi non
Lúa thành thoi thóp bên cồn
Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu
XI.
Non Ðông thấy lá hầu chất đống
Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai
Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu
Ngàn thông chen chúc khóm lau
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về
Trông bốn bề chân trời mặt đất
Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
Gậy rút đất dễ khôn học chước
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên
Lòng này hóa đá cũng nên
E không lệ ngọc mà lên trông lầu
Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa
Hướng dương lòng thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
Hoa để vàng bởi tại bóng dương
Hoa vàng hoa rụng quanh tường
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần
XII.
Chồi lan nọ trước sân đã hái
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương
Sửa xiêm dạo bước tiền đường
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ
Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ
Ðộ Khuê Triền buổi có buổi không
Thức mây đòi lúc nhạt hồng
Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
Bừng mắt trông sương gội cành khô
Lạnh lùng thay, bấy nhiêu thu
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi
Một năm một nhạt mùi son phấn
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi
Xưa sao hình ảnh chẳng rời
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in
Gió Xuân ngày một vắng tin
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông
Thương một kẻ phòng không luống giữ
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh
Xuân thu để giận quanh ở dạ
Hợp ly đành buồn quá khi vui
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước
E đến khi đầu bạc mà thương
Mặt hoa nọ gã Phan Lang
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt
Lầu hoa kia phảng phất mùi hương
Trách trời sao để nhỡ nhàng
Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên
XIII.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội
Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương
Chẳng xem chim yến trên rường
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau
Kìa loài sâu đôi đầu cùng cánh
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay
Liễu, sen là thức cỏ cây
Ðôi hoa cũng dính, đôi dây cũng liền
Ấy loài vật tình duyên còn thế
Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
Thiếp xin về kiếp sau này
Như chim liền cánh, như cây liền cành
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên
Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền
Mọi bề trung hiếu, thiếp xin vẹn tròn
XIV.
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt
Sức tý dân dường sắt trơ trơ
Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi
Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn
Mũi đòng vác đòi lần hăm hở
Ðã lòng trời gìn giữ người trung
Hộ chàng trăm trận nên công
Buông tên ải Bắc, treo cung non Ðoài
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh
Ðỉnh non kia, đá đề danh
Triều thiên vào trước cung đình dâng công
Nước Ngân Hán vác đòng rửa sạch
Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền
Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân
Nền huân tướng nên công rạng vẻ
Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông
Ơn trên: tử ấm thê phong
Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương trời
XV.
Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
Khi về đeo quả ấn vàng
Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
Xin vì chàng giũ lớp phong sương
Vì chàng tay chuốc chén vàng
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng
Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm
Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu
Câu vui đổi với câu sầu
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời
Sẽ rót vơi lần lần từng chén
Sẽ ca dần ren rén từng thiên
Liên ngâm đối ẩm đòi phen
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
Ngâm nga mong gửi chữ tình
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu!

Những Nhận Định, Đánh Giá Về Chinh Phụ Ngâm

Dưới đây là những nhận định, đánh giá về tác phẩm Chinh phụ ngâm.

  • Tác phẩm có địa vị văn học sử đặc biệt trong nền văn học cổ, là kiệt tác văn học viết bằng chữ Hán của Việt Nam.
  • Văn học thời kỳ Lê trung hưng phản ánh bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị, đồng thời truyền tải nỗi đớn đau của những nạn nhân dưới thế sự loạn lạc, máu lửa và binh đao. “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn cũng không nằm ngoài xu hướng văn chương đó, nhưng vẫn mang nét riêng biệt mới mẻ như đề cao quyền sống, khát khao tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người.
  • Tình cảm chứa chan. Ngôn từ diễm lệ, uyển chuyển, đầy nhạc điệu. “Chinh phụ ngâm” là một thiên trường thi trữ tình bất hủ.

Chia sẻ tác phẩm 🌿 Quả Mít Hồ Xuân Hương 🌿 Ngoài Tìm Hiểu Chinh Phụ Ngâm

Tóm Tắt Chinh Phụ Ngâm Lớp 10

Thohay.vn chia sẻ cho bạn đọc bản tóm tắt bài thơ Chinh phụ ngâm lớp 10 như sau:

Tác phẩm mở đầu với khung cảnh của chiến tranh ác liệt và nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia chiến cuộc. Trong bối cảnh này, nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng lên đường phò vua giúp nước, ra đi với quyết tâm giành hàng loạt thành trì dâng vua, hùng dũng trong chiếc chiến bào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng như tuyết. Cuộc tiễn đưa lưu luyến kết thúc, người chinh phụ trở về khuê phòng và tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi chiến địa.

Những xúc cảm về một hình ảnh “lẫm liệt” của chồng phút chia ly đã dần mờ nhòe, thay thế vào đó là nỗi lo sợ khủng khiếp về số phận của chồng giữa chiến trường khốc liệt, đầy oan hồn tử khí, và niềm đau khổ khôn nguôi về thân phận đơn chiếc của bản thân nàng.

Trong phần tiếp theo, câu chuyện chủ yếu diễn tả tâm trạng trăn trở, cô quạnh của người chinh phụ. Đó là việc chồng quá hạn không về, cũng không có tin tức gì, và người chinh phụ đành phải tính thời gian bằng chu kỳ quyên hót, đào nở, sen tàn.

Đó là tâm trạng “trăm sầu nghìn não” khi người chinh phụ quanh quẩn trước hiên, sau rèm, vò võ dưới đêm khuya vắng, đối diện với hoa, với nguyệt. Đó là tâm trạng chán chường khi tìm chồng trong mộng nhưng mộng lại buồn hơn, lần giở kỷ vật của chồng mong tìm chút an ủi nhưng sự an ủi chỉ le lói, thấy thân phận của mình không bằng chim muông, cây cỏ có đôi liền cành.

Cuối cùng, chán chường và tuyệt vọng, người chinh phụ đã không còn muốn làm việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu mong được sống hạnh phúc cùng chồng. Kết thúc khúc ngâm, người chinh phụ hình dung ngày chồng nàng chiến thắng trở về giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh bình, yên ả.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Chinh Phụ Ngâm

Hãy cùng Thohay.vn tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Chinh phụ ngâm ngay sau đây nhé!

Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, khoảng năm 1741. Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng.

Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy và Chinh phụ ngâm ra đời cũng để phản ánh điều ấy.

Tìm hiểu thêm tác phẩm 🍃Cảnh Thu Hồ Xuân Hương🍃Bên Cạnh Tìm Hiểu Chinh Phụ Ngâm

Ý Nghĩa Bài Thơ Chinh Phụ Ngâm

Bài thơ Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.

Bố Cục Bài Thơ Chinh Phụ Ngâm

Bố cục bài thơ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn được chia thành 13 phần nhỏ:

  • Phần 1: Từ đầu đến “minh tiên xuất Vị kiều”: Thời loạn
  • Phần 2: Tiếp theo đến “quân tâm thuỳ đoản trường”: Xuất chinh
  • Phần 3: Tiếp theo đến “Lao khổ vị ưng nhàn”: Nhớ mong
  • Phần 4: Tiếp theo đến “giai kỳ cửu độ vi”: Cũng là nỗi nhớ mong
  • Phần 5: Tiếp theo đến “Tha hương hạnh trân trọng”: Xa cách
  • Phần 6: Tiếp theo đến “Thiếp bi chỉ tự bi”: Mong tưởng
  • Phần 7: Tiếp theo đến “tâm xung xung”: Sầu muộn
  • Phần 8: Tiếp theo đến “khuê ly tư vị toan”: Thất vọng
  • Phần 9: Tiếp theo đến “quan chinh chiến tưu”: Trông ngóng
  • Phần 10: Tiếp theo đến “hề lạc mãn tường”: Hoài nghi
  • Phần 11: Tiếp theo đến “vị quân ta” : Lo già
  • Phần 12: Tiếp theo đến “Thiền Vu huyết”: Ước mong
  • Phần 13: Phần còn lại: Khẩn cầu

Đừng bỏ lỡ tác phẩm thơ 🌿Vịnh Cái Quạt 1,2 Hồ Xuân Hương🌿 Nội Dung, Phân Tích

Nghệ Thuật Bài Thơ Chinh Phụ Ngâm

Điểm qua các giá trị nghệ thuật trong bài thơ Chinh phụ ngâm:

  • Thể thơ: trường đoản cú (nguyên tác), song thất lục bát (bản dịch)
  • Hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng.
  • Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
  • Bản dịch đã đưa ngôn ngữ dân tộc lên một tầm cao mới, phong phú, uyển chuyển.

Đọc Hiểu Chinh Phụ Ngâm Lớp 10

Gợi ý trả lời các câu hỏi đọc hiểu tác phẩm Chinh phụ ngâm lớp 10 ngay sau đây:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.

(Trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, tr 87, Ngữ Văn 10, Tập II, NXBGD năm 2006)

👉Câu 1: Xác định thể thơ của văn bản?Xác định phương thức biểu đạt trong văn bản?

Đáp án:

  • Thể thơ của văn bản: song thất lục bát
  • Phương thức biểu đạt: biểu cảm.

👉Câu 2: Hãy nêu những hành động và việc làm của người chinh phụ trong văn bản. Hành động và việc làm đó nói lên điểu gì?

Đáp án:

  • Văn bản miêu tả một tổ hợp hành động của người chinh phụ, bao gồm: dạo, ngồi, rủ thác
  • Hành động của người chinh phụ được miêu tả thông qua những việc cứ lặp đi, lặp lại. Nàng rủ rèm rồi lại cuốn rèm, hết cuốn rèm rồi lại rủ rèm. Một mình nàng cứ đi đi, lại lại trong hiên vắng như để chờ đợi một tin tốt lành nào đó báo hiệu người chồng sắp về, nhưng cứ đợi mãi mà chẳng có một tin nào cả…
  • Cách miêu tả hành động ấy cũng đã góp phần diễn tả những mối ngổn ngang trong lòng người chinh phụ. Người cô phụ chờ chồng trong bế tắc, trong tuyệt vọng.

👉Câu 3: Tác giả đã dùng yếu tố ngoại cảnh nào để diễn tả tâm trạng người chinh phụ? Ý nghĩa của yếu tố đó?

Đáp án: Tả đèn chính là để tả không gian mênh mông, và sự cô đơn của con người. Người chinh phụ đối diện với bóng mình qua ánh đèn leo lắt trong đêm thẳm. Hoa đèn với bóng người hiện lên thật tội nghiệp.

=>Ý nghĩa: Trong biết bao đêm trường cô tịch, người chinh phụ chỉ có người bân duy nhất là ngọn đèn.

👉Câu 4: Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) bình giảng nét độc đáo hình ảnh Đèn trong văn bản trên với đèn trong ca dao: Đèn thương nhớ ai/mà đèn không tắt

Gợi ý: Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:

    – Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành;

    – Nội dung: Sử dụng thể thơ vãn bốn, ngọn đèn trong bài ca dao chỉ xuất hiện một lần diễn tả nỗi nhớ người yêu của cô gái. Đó là nỗi nhớ của niềm khao khát về một tình yêu cháy bỏng, sáng mãi như ngọn đèn kia.

    + Sử dụng thể thơ song thất lục bát, ngọn đèn trong văn bản xuất hiện hai lần, diễn tả nội tâm của người chinh phụ. Đêm đêm, người thiếu phụ ngồi bên ngọn đèn mong ngóng, nhớ nhung, sầu muộn cho đến khi cái bấc đèn cháy rụi thành than hồng rực như hoa. Nhà thơ tả ngọn đèn leo lét nhưng chính là để tả không gian mênh mông và sự cô đơn trầm lặng của con người.

Giới thiệu thêm cho bạn 🌿Thơ Lục Vân Tiên Trọn Bộ🌿 Nội Dung, Ý Nghĩa, Cảm Nhận

Soạn Bài, Soạn Văn Chinh Phụ Ngâm Lớp 10

Hướng dẫn các em học sinh soạn bài, soạn văn tác phẩm Chinh phụ ngâm trong chương trình lớp 10 như sau:

👉Câu 1 (trang 88 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Yếu tố ngoại cảnh thể hiện tâm trạng:

  • Hiên vắng: không gian mênh mang, vắng lặng
  • Ngọn đèn leo lét: tả không gian mênh mang và sự cô đơn trầm lặng của con người.
  • Tiếng gà: âm thanh trong đêm bị chìm đi trong cái cô tịch của đêm.
  • Bóng cây hòe gợi ra thêm cảm giác hoang vắng và đáng sợ

=> Ý nghĩa diễn tả nội tâm: tô đậm nỗi cô đơn, lẻ bóng, gợi nỗi nhớ mong, sự khao khát hạnh phúc của người chinh phụ.

👉Câu 2 (trang 88 sgk Ngữ văn 10 Tập 2): Những dấu hiệu cho thấy nỗi cô đơn của người chinh phụ:

  • Những hành động lặp đi lặp lại: đi đi lại lại ngoài hiên vắng, ngồi rủ rèm chờ đợi, một mình ngồi với ngọn đèn trong phòng riêng vắng lặng
  • Từ ngữ trầm buồn : bi thiết, buồn rầu nói chẳng nên lời, đằng đẵng, mối sầu dằng dặc, hương gượng đốt, gương gượng soi, gượng gảy ngón đàn,…
  • Câu hỏi tu từ : đèn biết chăng?

👉Câu 3 (trang 88 sgk Ngữ văn 10 Tập 2): Người chinh phụ buồn đau khổ, vì:

  • Chồng nàng đi chinh chiến sa trường đã mấy năm, nàng chỉ biết chờ đợi, lo lắng cho sự an nguy của chồng
  • càng khao khát đoàn tụ, khao khát cuộc sống vợ chồng bao nhiêu lại càng rơi vào tình cảnh tuyệt vọng bấy nhiêu.
  • Nguyên nhân sâu xa là cuộc chiến tranh phi nghĩa

👉Câu 4 (trang 88 sgk Ngữ văn 10 Tập 2): Những câu thơ là lời (đây là ngôn ngữ nội tâm, ngôn ngữ nửa trực tiếp) của người chinh phụ:

  • Đèn có biết … bi thiết mà thôi.
  • Lòng này gửi gió đông … đau đáu nào xong.

=> Giá trị biểu hiện : làm lời văn sinh động, góp phần làm nổi bật bi kịch tinh thần, tâm thế buồn đau da diết, than vãn hiện thực của người chinh phụ.

👉Câu 5 (trang 88 sgk Ngữ văn 10 Tập 2): Nhạc điệu của thể song thất lục bát: giọng cao thấp, bổng trầm, lên xuống linh hoạt, vừa chắc khỏe, réo rắt của thể thơ thất ngôn, vừa có sự du dương, mềm mại của thể lục bát.

5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Chinh Phụ Ngâm Hay Nhất

Sưu tầm 5 mẫu phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm hay nhất, cùng đón đọc nhé!

Phân Tích Tác Phẩm Chinh Phụ Ngâm Hay – Mẫu 1

Ra đời vào khoảng nửa đầu thế kỷ 18 với nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, Chinh phụ ngâm nhanh chóng đi vào lòng mọi tầng lớp nhân dân. Trải qua hơn hai thế kỷ rưỡi, cho đến nay, Chinh phụ ngâm vẫn luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc văn học sáng ngời, một sản phẩm đáng tự hào của nền “thi ca lừng danh” nước nhà.

Trong đó, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thể hiện rõ nét tâm trạng lẻ loi của người vợ nhớ chồng trong chiến tranh và nghệ thuật miêu tả tâm trạng tài tình của hai tác giả Đặng – Đoàn, bằng diễn Nôm. do nữ sĩ Đoàn Thị Điểm thể hiện xuất sắc. Đoạn trích trong Cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về hoàn cảnh và tâm trạng của người chinh phụ phải sống cô đơn buồn tủi lâu ngày khi chồng đi chinh chiến không biết tin tức:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Nhưng có lẽ chỉ những người định mệnh không được gần nhau mới biết sợ hãi khi không ở bên người định mệnh “trên trời dưới đất”. Khiến lòng người chinh phụ lo lắng khôn nguôi:

Ngoài rèm thước chẳng mách tin
……
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.

Giữa lúc loạn lạc, một người một nhà đi lính, “thân ta vạn mã”, biết bao lần ai báo chiến? Không nghe được tin chồng chỉ biết chờ đợi trong sợ hãi, cô như chết dần chết mòn bởi nỗi buồn trong lòng, nỗi buồn đến từ nỗi cô đơn, nhớ nhung vô tận. Ngay cả một con chim có đôi cánh có thể sải cánh khắp thế giới cũng không biết, một người dũng cảm như cô làm sao biết được?  

Nhưng năm gà gáy sáng mà bóng nàng vẫn chưa thể chợp mắt được. Ai nói mặt trời là hi vọng, ai nói ánh sáng là nguồn sống? Cô chỉ biết rằng một ngày nữa đã trôi qua, số ngày xa nhau đã tăng thêm một, nỗi nhớ ùa về, nỗi sợ hãi ùa về.

Chiếc gương đồng vẫn sáng, cô vẫn soi gương, trang điểm hàng ngày nhưng cũng chỉ là “chật vật” mà thôi. Chồng cô đã ở trong chiến trường và cô không còn nghĩ về bản thân mình nữa. Những lúc nhớ chồng, nước mắt rơi lúc nào không biết. Kỷ niệm luôn đau đáu trong lòng cô. Nước mắt Châu chan trào, cô đã khóc nhiều ngày. Cô đánh đàn nhưng tiếng đàn ngắt quãng, sợ đứt dây, chùng phím, gợi điềm gở cho đôi lứa yêu nhau:

Khắc giờ đằng đẵng như niên
……
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Mười sáu dòng đầu tiên là điệp khúc chậm rãi, day dứt bởi sự liên tục và bởi vô tận – tiếng đàn hạc cứ ngân mãi, như tiếng kêu kìm nén của một người thiếp trong đêm. Đó không chỉ là một đêm đen tối – mà còn là một đêm đầy lo lắng và sợ hãi.  Đó là một đêm cô đơn, cô độc ẩn mình trong ánh sáng ban ngày.

Nếu mười sáu dòng đầu là đoạn điệp khúc khi nỗi nhớ nhung, tâm trạng đau đớn được đẩy lên tột độ thì tám dòng cuối như một khúc dạo đầu cao trào. Nỗi nhớ nhung xa chồng đang chống chọi dần dần biến nỗi cô đơn thành nỗi đau, nỗi đau không gì so sánh được. Giống như một chữ ‘tuyệt vọng’, nó nghiến, nó cứa vào tim người đọc như xé vào tim kẻ chinh phục. Trước hết là khát khao cháy bỏng ngày đêm:

Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên

“Trái tim này” là nỗi nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua bao đợi chờ. Gió đông là gió xuân. Trong nỗi cô đơn, người chinh phụ chỉ biết nhờ gió, nhờ gió gửi gắm, nhắn gửi người chồng yêu thương nơi chiến trường xa xôi hiểm nguy, nơi ngàn thu vạn yên. Non yên, một nơi cách Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía bắc. Hỏi gió có “thuận” nhờ gió không khác gì nhún vai xin gió. Nhưng đó chỉ là một giấc mơ, một tia hy vọng le lói rồi nhanh chóng bị dập tắt. Chỉ có nỗi nhớ là có thật.

Qua thể thơ song thất lục bát, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh ước lệ, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế những sắc thái tình cảm khác nhau về nỗi cô đơn, muộn phiền của kẻ chinh phụ trong tình yêu và hạnh phúc. Đoạn trích còn thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc của tác giả với khát vọng hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ. Hãy lên tiếng vì nhân nghĩa, phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Người Chinh Phụ Đặc Sắc – Mẫu 2

Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn lấy bối cảnh những cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII. Bằng việc khắc họa hình ảnh nhớ thương, nỗi khổ đau của người chinh phụ khi chồng ra trận ở miền biên ải xa xôi, tác giả đã bày cất tiếng nói đồng cảm của mình với những người phụ nữ trong xã hội cũ đồng thời lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa.

Tác phẩm được nhiều dịch giả nổi tiếng yêu quý dịch sang bản diễn Nôm nhưng bản dịch hay nhất có lẽ là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích trong tác phẩm gồm 25 câu thơ từ câu 193 đến câu 216 đã diễn tả nỗi cô đơn lẻ loi của người vợ trong những năm tháng chồng đi chiến trận.

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Hạnh phúc là điều lớn lao mà ai cũng ao ước có được. Đặc biệt là đối với những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa thì hạnh phúc đến không phải là dễ dàng, bởi vậy mà họ càng trân quý. Người chinh phụ trong tác phẩm phải chấp nhận xa chồng, càng xa chồng nàng càng cô đơn, buồn tẻ.

Nỗi cô đơn ngập tràn cả khuê phòng, căn gác, tràn ngập cả không gian, thời gian. Trước hiên nhà, những bước đi chậm rãi, nặng nề và nhàm chán của người chinh phụ càng lột tả nỗi cô đơn, chán chường hơn bao giờ hết. Hành động buông rèm xuống, kéo rèm lên như lặp lại tô đậm thêm nỗi cô đơn trong khuê các. Càng cô đơn, càng thương nhớ, trông chờ một tiếng lành từ chim thước từ xa nhưng chẳng có, nàng đành ngậm ngùi bên chiếc đèn khuya.

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

Tìm đến đèn để tâm giao cho vơi bớt nỗi ưu sầu, mà đèn nào có biết. Cuối cùng, ánh đèn dẫu có sáng tỏa đấy thôi nhưng nào soi rọi được tâm hồn người chinh phụ, nào thấu được tâm can kẻ cô đơn. Ánh đèn, dẫu sau nó cũng là một vật vô tri, vô giác, nào có thể lặng nghe người chinh phụ giãi bày, thở than. Ánh đèn nào có thể thay được người chồng nơi biên ải, có thể cùng nàng chia sẻ nỗi ngọt bùi, đắng cay.

Có chăng, ánh đèn ngày một hiu hắt như chính lòng người chinh phụ ngày một nặng nề, trĩu những nỗi u hoài khôn thấu.

Nàng buồn bã trong khuê phòng với ánh đèn dầu hiu hắt mà xót thương cho số phận mình, tủi hổ cho cảnh lẻ loi, đơn chiếc vì chia ly của mình. Nỗi bi thiết của lòng nàng cất lên trong từng tiếng thơ ai oán, vừa như trách móc, vừa như xót xa cho thân phận chính mình:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Nỗi uất ức trong nàng như trỗi dậy, lòng người chinh phụ buồn tủi, đớn đau, nỗi lòng mình nàng “riêng bi thiết”, mình nàng chịu đựng. Hoa đèn in bóng người con gái cô độc trên khuê các càng tô đậm nỗi sầu trong đêm thâu. Đèn dần tàn, thời gian vẫn vậy cứ trôi đi, một mình, một bóng, gặm nhấm nỗi cô độc, sầu tủi, nỗi chán chường vì lẻ loi tận cùng.

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Tiếng thở dài trong đêm thâu bởi hạnh phúc ấm êm bị chiến tranh phi nghĩa tước đoạt thật xót xa. Phải chăng lòng người buồn tủi, nỗi sầu thương nhuốm lên cả vị thời gian, màu không gian. Tiếng gà “eo óc” đếm thời gian trong đêm lạnh, bóng hòe “phất phơ rủ bóng” ngẩn ngơ bốn bề, tất cả đều đượm buồn thương.

Thiên nhiên có thanh, có sắc mà chẳng có lấy chút niềm vui dù là nhỏ bé, như chính trái tim người thiếu phụ đang độ tuổi xuân thì, khát khao hạnh phúc lứa đôi lại chịu cảnh cô đơn khôn thấu. Ngồi buồn đếm vị thời gian trôi, mỗi khắc thời gian tựa như một năm dài. Hình ảnh so sánh kết hợp với từ láy gợi hình” khắc giờ đằng đẵng như niên” càng tô đậm nỗi nhớ thương, đợi chờ.

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

Trong nỗi buồn tủi, sầu muộn, cô độc đến cùng cực ấy, người chinh phụ cố vực dậy tinh thần mình bằng việc tìm đến những thú vui đời thường. Nhưng trớ trêu thay, mọi thứ dường như đều trở nên gượng gạo, bất lực trước tâm trạng chinh phụ.

Hướng gượng đốt thì hương mê mải, gượng soi ngắm dung nhan thì không ngăn được dòng lệ nhớ thương. Tay gõ lên phím đàn mà lòng quặn thắt, sợ dây đứt, phím chùng lại lắng lo về những điều xảy ra sắp đến. Mọi thứ dường như đều trở nên vô nghĩa, người chinh phụ càng làm, nỗi đau càng xoáy sâu trong tâm khảm, nỗi buồn càng day dứt chẳng nguôi ngoai.

“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

Càng cô đơn, tuyệt vọng, nỗi nhung nhớ lại càng dâng trào, mãnh liệt. Người chinh phụ nhớ thương chồng tha thiết nhưng đành bất lực vì khoảng cách quá xa xôi.

“Non Yên” một hình ảnh ẩn dụ cho sự xa xôi, cách trở của người chinh phụ và kẻ chinh phụ. Vì nỗi nhớ thương da diết, không biết làm gì hơn, nàng đành gửi nỗi nhớ theo gió đông đến “Non Yên”. Mong rằng, những nhớ thương ấy có thể là niềm động viên, ủi an cũng là nỗi mong mỏi cho chồng nơi xa được an toàn, đợi ngày trở về đoàn thủ.

Từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu” kết hợp với cụm danh từ “đường lên bằng trời” đã đặc tả nỗi nhớ khôn nguôi, mênh mông và cao rộng đến tận cùng trong người chinh phụ. Qua đó bộc lộ được tình yêu tha thiết, thủy chung son sắt của người con gái khi yêu.

“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Đúng như ai đó đã từng viết:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Trong những dòng thơ cuối, bút pháp tả cảnh ngụ tình một lần nữa được tác giả sử dụng đầy tinh tế. Cảnh buồn với sương đượm cành, thanh âm của tiếng côn trùng réo rắt, mưa phùn mênh mang như chính lòng người thiếu phụ lúc này: buồn ưu, cay đắng, đơn côi giữa dòng đời.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã chạm đến trái tim bao người đọc bởi những rung động tình cảm đời thường nhất. Đó là sự đồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ, là sự trân trọng vẻ đẹp một tâm hồn của người phụ nữ khi yêu và sự căm phẫn trước chiến tranh tàn ác đã đẩy bao con người phải chịu khổ đau, chìa lìa như người chinh phụ.

Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Người Chinh Phụ Hay Sâu Sắc – Mẫu 3

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Đoạn trích không chỉ thể hiện được tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính mà còn có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật. Với ngòi bút sâu sắc và khéo léo tác giả đã phản ánh một hiện thực xã hội về chiến tranh, nó không chỉ ảnh hưởng tới người trực tiếp tham gia chiến đấu mà nó còn ảnh hưởng tới người thân của họ mà cụ thể là người vợ.

Trước hết đoạn trích thể hiện nỗi cô đơn tủi phận, nỗi thương nhớ buồn thương mong muốn gửi tới chàng tấm lòng vàng của người phụ nữ. Những hành động, cử chỉ, trạng thái tâm trạng được tăng tiến dần thể hiện nỗi cô đơn buồn tủi chuyển dần thành nỗi bi ai, buồn rầu, tuyệt vọng:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
…..
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!”

Hành động dạo hiên vắng cho thấy người phụ nữ đang cô đơn, quanh quẩn với thềm với chiếc rèm và cây đèn hoa nọ. Nàng không thể làm gì và cũng không thiết làm gì. Nàng dạo từng bước một, như gieo mình buông thả mặc cho bước chân đi tới đâu, cũng không mảy may đến độ dài rộng của chiếc bậc để khỏi bị ngã. Hành động này thể hiện tâm trạng thơ thẩn thẫn thờ của nàng khi thiếu vắng chàng.

Hết dạo thì lại ngồi, trong lòng nỗi băn khoăn, nhớ nhung cứ dằng dặc. Nàng ngồi trong chiếc rèm rồi chờ con thước báo tin chồng nhưng chỉ tuyệt vọng. Nàng tự hỏi đèn thường xuyên thức cùng nàng mong ngóng tin chồng thì liệu đèn có biết được nỗi lòng của nàng. Đèn chỉ là vật vô tri vô giác làm sao có thể hiểu thấu được lòng nàng. Tâm trạng nàng thay đổi từ thẫn thờ đến trông mong, bi thiết và buồn rầu tuyệt vọng.

Nàng chờ đợi trông mong rồi thức cả năm canh dài, một khắc trôi qua dài như một năm, mối sầu được thế càng giăng kín trong lòng người thiếu phụ. Nàng ngắm nhìn cảnh vật mà tự thương lấy bản thân mình. Buồn là thế nàng gượng cả đốt hương, vì càng đốt thì nàng hồn nàng càng như mê mệt, nàng gượng cả soi gương vì sợ nhìn thấy chính mình lại nước mắt thương thân. Muốn đánh đàn để vơi đi nỗi nhớ, để bày tỏ lòng mình với trời đất nhưng lại kinh ngại dây tơ hông, loan phượng đứt chùng:

“Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Trước muôn vàn nỗi nhớ người chinh phụ muốn gửi đến chồng mình tấm lòng thủy chung son sắt, gửi cả những nỗi nhớ niềm thương sự lo lắng tới chàng:

“Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.”

Nàng nhờ gió đông gửi đến chàng cho tiện nhưng liệu chàng có thể nhận được chăng. Trời cao với chẳng ai khôn thấu, lòng nàng buồn rầu liệu ai hiểu được chăng. Không chỉ người buồn mà cảnh vật cũng buồn, những hình ảnh thiên nhiên được nhìn qua con mắt của người thiếu phụ buồn rầu vì thương nhớ cũng mang một màu tâm trạng nhớ thương:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.”

Âm thanh của tiếng gà gáy trở nên “eo óc” ảm đạm, Cây hòe tươi đẹp ngày nào nay ủ rũ bốn bên, dưới bầu trời sương dằng dặc như giọt nước mắt thầm lặng của người chinh phụ, hòe hiện lên như khuôn mặt buồn bi thiết. Ở đây tác giả đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, nói thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của người chinh phụ.

Như vậy, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh người và cảnh đẹp nhưng buồn. Bức tranh ấy có hình ảnh của những bông hòe ủ rủ bốn bên, mềm mại những yếu ớt, có những hạt mưa phùn rơi trên thềm vắng. Người con gái như đang chuyển động từ dạo bước rồi ngồi rồi lại mong ngóng trông xa. Người thiếu phụ ấy vẫn còn trẻ nhưng lại đang đối mặt với nguy cơ trở thành một người phụ nữ góa chồng. Nàng cô đơn một phần thì thương nhớ lo lắng đến hơn mười phần.

Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Người Chinh Phụ Ngắn Hay – Mẫu 4

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn là một áng thơ hay thuộc thể ngâm khúc, hơn hết đoạn trích còn để lại cho hậu thế một giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. Đặc biệt chính là tâm trạng hiu quạnh cô đơn của người chinh phụ trong 8 câu thơ đầu tiên

Hai câu thơ đầu, Đặng Trần Côn miêu tả tâm trạng của người chinh phụ đã được khắc họa qua các hình động:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Tiếng than đầy oán trách của người phụ nữ vắng bóng chồng, khi chồng phải ra chiến trận, chính cái hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước”, “rèm thưa rủ” việc miêu tả các hành động ngoại hình mà dụng ý chính của tác giả chính là miêu tả tâm trạng cô đơn trống vắng, nỗi nhớ da diết chồng của người chinh phụ. Khung cảnh là buổi chiều tối, với một hiên vắng hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước” đầy mệt mỏi như muốn nói lên cái chờ đợi cái trống vắng lặp đi lặp lại của người phụ nữ xa chồng. Hành động gieo từng bước như nỗi lòng nặng trĩu mong ngóng ngày người chồng trở về.

“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” chiếc rèm cuốn lên hạ xuống như vô thức thể hiện một trạng thái tâm lý buồn bã, chán chường. Cảm giác bất an lo lắng cho người chồng ngoài chiến trận vừa là nỗi nhớ tha thiết, cảm xúc dồn nén càng làm cho người chinh phụ trở nên buồn bã, ngóng trông nhiều hơn, nhưng:

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”

Chờ đợi nhưng chẳng thấy tin? Chim “thước” là biểu tượng của điềm lành sẽ có người đi xa trở về. Thế nhưng chả thấy hình bóng của chim thước để baso tin nỗi nhớ đầy rẫy khắc khoải, ngóng chờ một tín hiệu dù chỉ là nhỏ nhoi nhưng không có càng làm người nỗi buồn người chinh phụ càng tăng lên bội phần. Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với nàng.

“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Sự cô đơn đến cùng cực đã làm cho người chinh phụ phải thốt lên “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Ngọn đèn có thể soi sáng nỗi lòng của nàng người phụ nữ không, có rọi sáng được sự nhớ nhung của nàng dành cho chồng, hai câu thơ tiếp theo lại càng diễn tả thêm sự ưu phiền của người chinh phụ:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

Tác giả sử dụng điệp ngữ “Đèn biết chăng -đèn có biết” càng làm cho nỗi cô đơn của người phụ nữ kéo dài ra, triền miên ra. Hình ảnh ngọn đèn được sử dụng hai lần như thể là nỗi trút bầu tâm sự của nhân vật trữ tình, ngọn đèn là vật vô tri nó chẳng thể hiểu được nỗi lòng của người phụ nữ, nó chỉ có tác dụng là giải toả tâm trạng cho người chinh phụ mà thôi. Nhìn ngọn đèn heo hắt trong đêm tối càng làm lòng người thêm ưu phiền mà thô. Ngọn đèn sáng ấm áp thể hiện cái đối nghịch của sự cô đơn, rầu rĩ

“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Câu thơ thứ tám kết lại là hình ảnh hoa đèn, như thế nỗi nhớ nhung cứ đọng lại, dồn nén lại, đỏ rực như bấc đèn nung nóng, ánh sáng lên như hoa.

Trong bóng đêm đen như mực người chinh phụ chỉ biết trút bầu tâm sự với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình in lên tường cho vơi đi nỗi cô đơn nỗi nhớ chồng da diết mà thôi

Tám câu thơ đầu trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã cho người đọc thấy được tâm trạng của người phụ nữ, cùng khung cảnh hiu quạnh, cô đơn của người phụ nữ phải xa chồng, tất cả do chiến tranh đã khiến những cặp vợ chồng son phải xa nhau trong nhớ thương, các biện pháp tu từ đã khắc họa nên bao nỗi ưu sầu, nỗi cô đơn trống trải của những người ở lại chờ tin người đi xa.

Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Người Chinh Phụ Chọn Lọc – Mẫu 5

Được trích trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn, đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện một cách chân thật và sâu sắc nỗi cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ ngóng trông, nhớ thương người chồng đi chinh chiến nơi xa. Không chỉ mang ý nghĩa lớn về giá trị văn chương, tác phẩm còn mang ý nghĩa nhân đạo lớn lao.

Sau khi tiễn chồng đi nơi biên ải xa xôi, người vợ trẻ mới trở về với cuộc sống hàng ngày – cuộc sống của sự lẻ bóng và cô đơn được khắc họa rõ nét qua 8 câu thơ đầu tiên:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Chỉ qua 2 câu thơ, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh một người chinh phụ với hành động đi đi lại lại ngoài hiên, rồi cuốn rèm lên lại hạ rèm xuống. Dường như các hành động được thực hiện trong vô thức, chứ người chinh phụ vốn chẳng màng để tâm đến. Những hành động lặp đi lặp lại ấy phải chăng cũng để giết thời gian, chất chứa đầy nỗi lòng của người phụ nữ. Nỗi cô đơn cứ bủa vây xung quanh khi nàng phải sống một mình trong ngôi nhà đó.

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng”

Câu thơ này có sự xuất hiện của hình ảnh chim ô thước – loài chim may mắn luôn báo tin vui. Thế nhưng “chẳng mách tin” – chim ô thước không báo tin vui về làm người vợ trẻ lo lắng ngày đêm cho người chồng nơi sa trường, trận mạc. Nỗi day dứt trong lòng người chinh phụ càng được tô đậm với câu hỏi tu từ “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng”.

“Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Ngọn đèn là hình ảnh chỉ thời gian đêm khuya – người chinh phụ vẫn thức đợi và ngóng trông. Sự cô đơn lên đến đỉnh điểm khi không ai sẻ chia. Hoa đèn – bóng người cho thấy người chinh phụ trằn trọc nhớ chồng đến mức không còn chút sức sống nào. Tâm trạng cũng vì thế mà buồn sầu, nhớ nhung nhưng tất cả chỉ trong vô vọng.

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”

Tác giả tả cảnh nhưng thực chất để ngụ tình. Cảnh vật xuất hiện nhưng cũng chỉ để khắc họa rõ nét hơn, lột tả sâu sắc hơn tình cảnh của người chinh phụ mà thôi.

Đúng như Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Tâm trạng não nề của người chinh phụ đã nhuốm màu lên cảnh vật khiến cảnh vật và sự sống đều trở nên trống trải, hoang vắng và buồn bã tột cùng.

Tiếng gà gáy vang vọng – dường như cả đêm khuya thanh vắng người chinh phụ chẳng thể ngủ được vì nỗi nhớ chồng. Tiếng gà ấy khắc khoải như khoan sâu thêm vào tâm trạng người phụ nữ đang đau đáu nhớ chồng. Cây hòe dường như cũng chẳng còn sức sống, chỉ phất phơ bên thềm. Nỗi nhớ, nỗi buồn ấy cứ đầy lên theo thời gian, cứ chồng chất lên theo thời gian và kéo dài ra đằng đẵng.

“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Một giờ xa cách như một năm, cứ trải qua từng khắc từng giờ, nỗi nhớ trong lòng người chinh phụ lại càng được nối dài dằng dặc như biển xa. Liệu có ai có thể thấu hiểu nỗi lòng ấy cho người chinh phụ hay không? Nỗi buồn ấy chẳng có điểm dừng, chẳng có hồi kết khiến tâm trạng của người chinh phụ bị đẩy lên tột cùng:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại ngùng”

Sự rối bời và cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ khiến nàng làm bất cứ thứ gì cũng chỉ là sự gượng gạo và miễn cưỡng mà thôi. Nàng miễn cưỡng đốt hương mong thấy sự tỉnh táo thì tâm hồn lại mê man trong nỗi nhớ. Nàng miễn cưỡng soi gương để chải chuốt dung nhan lại nhìn thấy mình u sầu với lệ chan nhạt nhòa phản chiếu.

Nàng định đánh đàn để giải khuây, để vơi bớt đi nỗi buồn, nỗi nhớ đang giăng kín trong lòng mình lại càng thêm sầu khổ bởi “dây uyên”, “phím loan” là đại diện của lứa đôi hạnh phúc khác hoàn toàn với thực tại nàng đang trải qua. Tất cả như đang cuộn xoáy trong lòng nàng, chất chứa thêm chẳng thể vơi bớt, chẳng thể giải tỏa cùng ai. Nàng hướng đến nơi biên ải xa xôi có người chồng nàng ngày đêm mong nhớ:

“Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”

Không gian trở lên rộng lớn hơn, xa xôi hơn nhưng cũng chỉ toàn chất chứa nỗi buồn và cách biệt nghìn trùng chẳng thể nào đi tới. Trời thăm thẳm như chính nỗi nhớ trải dài trong triền miên không dứt, nỗi nhớ ấy còn có cả sự “đau đáu” ngóng trông trong vô vọng, mòn mỏi. Người chinh phụ cũng chỉ đành biết gửi tới người chồng nỗi nhớ qua gió miền, nhưng núi cao liệu gió có tới nơi?

“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Nỗi lòng của người chinh phụ đã trở nên quá bí bách cần được sẻ chia, nhưng ngoài cảnh vật xung quanh, người chinh phụ còn biết chia sẻ nơi ai. Dường như hiểu được nỗi lòng ấy, cảnh vật xung quanh cũng có sự đồng cảm. “Sương đượm” và “mưa phun” là sự lạnh giá như lòng nàng bây giờ cũng đã giá băng và tan nát theo từng nỗi nhớ.

Bằng thể thơ song thất lục bát với giọng thơ buồn bi thương kết hợp các biện pháp nghệ thuật tư từ tác giả Đặng Trần Côn đã lột tả trọn vẹn tỉnh cảnh lẻ loi, tâm trạng buồn khổ, nỗi nhớ mong day dứt của người chinh phụ ấy.

Không chỉ dừng lại ở giá trị văn chương, thông qua tác phẩm này tác giả bày tỏ sự xót thương và đồng cảm sâu sắc với thân phận phụ nữ có chồng đi chinh chiến xa nhà đồng thời còn gián tiếp lên án chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh chia ly và thậm chí cảnh nước mất, nhà tan…

Trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” chỉ là diễn biến tâm trạng của người phụ nữ đợi chồng, chờ chồng chinh chiến nơi xa nhưng bằng tài năng và tấm lòng của mình, Đặng Trần Côn đã tái hiện thật đặc sắc, sâu đậm nỗi lòng ấy.

Đọc hiểu 🔰Lục Vân Tiên Cứu Kiều Nguyệt Nga🔰 Bên Cạnh Tác Phẩm Chinh Phụ Ngâm

Viết một bình luận