Thơ Đoàn Thị Điểm: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Thơ Đoàn Thị Điểm ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ ✅ Sưu Tầm Những Thông Tin Thú Vị Về Cuộc Đời, Phong Cách Sáng Tác Của Đoàn Thị Điểm.

Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Đoàn Thị Điểm

Đoàn Thị Điểm là người được đánh giá bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn chương trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và Sương Nguyệt Anh. Dưới đây là phẩn tổng kết về tiểu sử cuộc đời tác giả Đoàn Thị Điểm cho bạn tham khảo.

  • Đoàn Thị Điểm (1705-1749), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ, là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng.
  • Nhà thơ Đoàn Thị Điểm là người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).
  • Lúc trẻ, nhà thơ Đoàn Thị Điểm có tiếng thông minh, đẹp người, đẹp nết, chăm học, có tài văn và giỏi cả việc nữ công. Cho nên năm 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi để sau dâng lên chúa Trịnh, nhưng bà không chịu.
  • Năm bà 25 tuổi (1729), cha mất, bà cùng với gia đình của anh dời đến ngụ ở làng Vô Ngại, huyện Đường Hào (nay là thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên).
  • Chẳng bao lâu sau anh mất (năm 1735), bỏ lại một đàn con nhỏ, một mình Đoàn Thị Điểm phải vừa làm thuốc, vừa dạy học để có tiền nuôi mẹ và giúp đỡ chị dâu nuôi các cháu.
  • Năm 37 tuổi (1742), bà nhận lời lấy Nguyễn Kiều, một Tiến sĩ nổi tiếng hay chữ đã góa vợ. Nhưng vừa cưới xong, Nguyễn Kiều lại phải đi sứ sang Trung Quốc ba năm.
  • Theo Từ điển văn học (bộ mới), có lẽ trong thời gian xa chồng này bà đã dịch ra quốc âm tập thơ Chinh phụ ngâm từ bản chữ Hán của danh sĩ Đặng Trần Côn.
  • Năm 1745, Nguyễn Kiều về nước. Năm 1748, ông được cử làm Tham thị ở Nghệ An. Nhà thơ Đoàn Thị Điểm cùng đi với chồng, nhưng trên đường đi, bà bị cảm nặng, chạy chữa không khỏi, cuối cùng mất ở Nghệ An vào ngày 11 tháng 9 (âm lịch) năm đó (Mậu Thìn, 1748), lúc 43 tuổi.

Chia sẻ về 👉Thơ Phan Bội Châu👈 Ngoài Chùm Thơ Đoàn Thị Điểm

Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Đoàn Thị Điểm

Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Đoàn Thị Điểm có thể khái quát như sau:

  • Theo Đoàn thị thực lục, lúc sinh thời, nhà thơ Đoàn Thị Điểm thường xướng họa thơ với cha, với anh và với chồng. Song cho đến nay, về sáng tác, bà chỉ còn có tập truyện chữ Hán tên là Truyền kỳ tân phả (khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811), chinh phụ ngâm là của Đặng Trần Côn và một số bài thơ văn (gồm chữ Hán, chữ Nôm) trong tập Hồng Hà phu nhân di văn mới được phát hiện gần đây, nhưng trong đó có không ít sai lẫn.
  • Ngoài ra, bà còn có tác phẩm thơ Nữ trung tùng phận gồm 1401 câu thơ (được viết sau khi bà mất) và bài thơ Bộ bộ thiềm – Thu từ (tức Bộ bộ thiềm- Bài hát mùa thu).
  • Nhà thơ Đoàn Thị Điểm nổi tiếng về tài văn thơ đối đáp. Xung quanh bà có nhiều giai thoại khẳng định tài năng của bà áp đảo các bậc anh tài trong giới nho sinh kẻ sĩ.
  • Nhà thơ Đoàn Thị Điểm là một người con gái có bản lĩnh, một nữ sĩ tài hoa, hội tụ đủ công, dung, ngôn, hạnh.
  • Có thể nói, nhà thơ Đoàn Thị Điểm là một ngôi sao sáng trong hàng ngũ nữ sĩ tại Việt Nam. Và các tác phẩm của bà đã góp phần không nhỏ cho sự đa dạng của nên văn học nước nhà.

Phong Cách Thơ Của Đoàn Thị Điểm

Phong cách thơ của Đoàn Thị Điểm là gì? Cùng tìm hiểu ngay sau đây nhé!

  • Đoàn Thị Điểm không làm thơ về tầng lớp quý tộc, không viết theo kiểu thơ “khẩu khí” mà viết về những đề tài lấy trong sinh hoạt của người lao động, những gì gắn liền với những hoạt động của người dân với làng quê Hiến Phạm, gửi gắm vào đó cái khát khao cuộc sống, niềm tin cuộc sống nơi quê hương bà.
  • Có thể nói nhà thơ Đoàn Thị Điểm là một tác gia lớn của nền văn học thời trung đại, bút pháp đa dạng, vừa giỏi văn Hán, lại cũng vừa giỏi thơ Nôm. Bà sáng tác nhiều nhưng tản mạn phần lớn. Đóng góp của bà chính là ở những giá trị nhân văn cao cả, những tư tưởng lớn lao vì dân vì nước và những đặc sắc về nghệ thuật mà bà đã gửi gắm và đạt được trong trước tác của mình.

Ngoài Thơ Đoàn Thị Điểm, Đón Đọc Thêm 👉Thơ Nguyễn Đình Chiểu👈Tác Giả, Tác Phẩm

Những Nhận Định Về Đoàn Thị Điểm

Nói về nhà thơ Đoàn Thị Điểm, các nhà nghiên cứu đã có những nhận định như sau:

  • Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh cho rằng, Đoàn Thị Điểm không những nổi tiếng về tài văn thơ, mà còn giỏi đối đáp. Xung quanh bà có nhiều giai thoại khẳng định tài năng áp đảo các bậc anh tuấn trong giới nho sinh kẻ sĩ. 
  • Đoàn Thị Điểm được Nguyễn Thị Băng Thanh đánh giá là một người con gái có bản lĩnh, một “gia trưởng” hoàn hảo, một nữ sĩ tài hoa, gồm đủ công dung ngôn hạnh nhưng cũng ngầm mang ít nhiều tính cách trượng phu có tầm cỡ về tư tưởng và dám “phá cách”.
  • Ths.Nguyễn Hồng Chiến đánh giá: Sự kính yêu của người đời sau với Đoàn Thị Điểm không chỉ vì văn tài thi văn điêu luyện, đặc sắc, còn vì bà có những phẩm chất cao quý, đức hạnh tốt đẹp xứng đáng là mẫu phụ nữ tiêu biểu của xã hội Việt Nam ở mọi thời đại.

Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Nhà Thơ Đoàn Thị Điểm

Tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ Đoàn Thị Điểm chia sẻ cho bạn đọc tham khảo.

*Nữ trung tùng phận

  • Phần mở đầu: Ý nghĩa của tác phẩm
  • Phần I: Lời khuyên phụ nữ
  • Phần II: Dạy con trai về nhơn đạo
  • Phần III: Dạy con gái về nhơn đạo
  • Phần IV: Phụ nữ trên con đường tâm linh

*Tục truyền kỳ tân phả

  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 01
  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 02
  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 03
  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 04
  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 05
  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 06
  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 07
  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 08
  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 09
  • Đảo Bạch Mã từ hồi hậu cảm tác kỳ 10
  • Hà xứ thị tiên hương
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 01
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 02
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 03
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 04
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 05
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 06
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 07
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 08
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 09
  • Hoài xuân thập vịnh kỳ 10

*Một số tác phẩm khác của nhà thơ Đoàn Thị Điểm

  • Hứng thu
  • Niềm vui dạo đêm
  • Bộ bộ thiềm – Thu từ
  • Chinh phụ ngâm (dịch từ bản chữ Hán của Đặng Trần Côn)

Đừng bỏ qua chùm 🍀Thơ Phan Châu Trinh🍀 Bên Cạnh Những Bài Thơ Của Đoàn Thị Điểm

15 Bài Thơ Hay Nhất Của Đoàn Thị Điểm

Cùng đọc và chiêm nghiệm 15 bài thơ hay nhất của Đoàn Thị Điểm sau đây để hiểu hơn về quan điểm và phong cách thơ của bà.

Hứng Thu

Thu về gió mát nhẹ mưa bay,
Muôn mảng thơm trong ắp chén đầy.
Trời biển chừng nhiều đàn sáo nổi,
Cuộc đời may có chuyến chơi nay.

Niềm Vui Dạo Đêm

Sao nhỉ! Đêm Xuân đốt đuốc chơi,
Sáng như ngày hửng, quế thơm trời.
Cầu Ngân bến Hán treo cao nhịp,
Phách ngọc đầu thu tỏa ánh ngời.
Đồng nội trước nay nhìn chả khác,
Phồn hoa vua chúa đất xưa thôi.
Hứng về chẳng quản sông hồ lạ,
Một mái chèo thênh chuốc rượu mời.

Lời Khuyên Phụ Nữ

13.
Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.

17.
Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,
Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.
Vật chơi ở chốn khuê phòng,
Đã cam phận vợ để chồng cầm duyên.

21.
Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng,
Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.
Duyên may chồng đã nghĩ tình,
Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?

25.
Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,
Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.
Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,
Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.

29.
Trên lo thảo, giữa hoà, dưới thuận,
Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.
Nỗi trông hương hoả giữ bền,
Giúp nên chồng có phẩm quyền cao sang.

33.
Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,
Huống để công đến ngõ Khổng Trình.
Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

37.
Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
Kiến thân viếng sớm thăm hôm,
Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.

41.
Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ,
Kiêng vật ăn đặng để nuôi con.
Còn con nòi giống chồng còn,
Mảnh thân đành chịu hao mòn với ai?

45.
Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,
Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.
Nào là hương đượm lửa nồng,
Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.

49.
Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,
Vẽ cho hay mày liễu má đào.
Thương gìn lúc ốm khi đau,
Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.

53.
Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu,
Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co.
Không toan sớm đói chiều no,
Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.

57.
Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,
Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

61.
Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận,
Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm.
Phòng đào giữ rủi rơi trâm,
Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

65.
Thử từ nết khi chung lúc chạ,
Gióng từ hơi hoà nhã tơ loan.
Chiều vui dưới trướng ngoài màn,
Nhẫng lo ngại nỗi phụ phàng ái ân.

69.
Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng,
Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi.
Sợ cơn giông gió tơi bời,
Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.

73.
Che đậy kín tường đông ong bướm,
Giấu nhặt nghiêm nhuỵ tướng hương hình.
E khi vách có âm thinh,
Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.

77.
Giao thân cứ gần kề kẻ thiết,
Ép nhớ thương làm điếc làm đui.
Mặc người cha mẹ dễ duôi,
Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.

81.
Hiểu thương ghét giả cam phận dại,
Biết nên hư chẳng cãi cho cùng.
Nên thì an phận kiếm cung,
Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.

85.
Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,
Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.
Vinh thì chàng mão thiếp cân,
Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.

89.
Lấy khổ cực làm bài thuốc mến,
Dụng đau thương rù quến thâm tình.
Dầu chàng đổi dạ én anh,
Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.

93.
Nâng khăn trấp giải buồn quân tử,
Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
Chàng vui thiếp cũng vui càn,
Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.

97.
Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
Chàng thì biển cả vơi vơi,
Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

101.
Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
Rủi duyên gặp phải thường phu,
Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.

105.
Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,
Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.
Vẻ hồng mắc mỏ bao mươi,
Đưa cho quân tử trọn đời chủ trương.

109.
Nhuỵ đương nở mùi thơm ngào ngạt,
Dâng hình hoa lo lót con ong.
Trăm năm kim cải cũng chồng,
Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.

113.
Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,
Đạo phu thê như đũa nên đôi.
Dầu cho lúc đứng khi ngồi,
Chàng là chúa cả, thiếp thời gia nô.

117.
May quan cả, rủi cho lê thứ,
Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.
Hèn người sang ấy của ta,
Chê người ta lại cho là đáng khen.

121.
Chồng sang đặng, ta hèn chẳng quản,
Chồng đẹp hình, ta mảng lo âu.
E ra nhiều thiếp nhiều hầu,
Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.

125.
Hễ xấu dạng thì nhơ mặt thiếp,
Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung.
Mình thương người cũng thương cùng,
Còn như chê bỏ, lại dùng vào đâu?

129.
Kiếm xứng mặt mày râu dưới thế,
E không mưu đủ kế gìn duyên.
Còn theo thăm ván bán thuyền,
Trông chi giữ mảnh hương nguyền cùng nhau.

133.
Lỡ lối cũ động đào lạc bước,
Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam,
Thân Tiên dầu lỡ gót phàm,
Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi?

137.
Nhẹ là bức, nặng chì tình nghĩa,
Để dùng riêng cho phía nữ lưu.
Thung dung quân tử hảo cừu,
Năm thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.

141.
Nào có tưởng vợ nhà đau đớn,
Ôm tình si muôn lượng sầu than.
Máu ghen chăn gối dẫy tràn,
Hình mai ủ dột sắc càng héo don.

145.
Hễ càng ngắm hao mòn đoá ngọc,
Càng riêng lo tơ tóc không bền.
Chàng vui cung nguyệt trao duyên,
Thiếp sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm.

149.
Lo ngại rồi ra cơn mất nết,
Vì ghen tương hết biết thân mình.
Dám toan tử tiết với tình,
Còn chi kể đến gia đình hư nên.

153.
Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,
Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.
Nên toan đập nát cung cầm,
Vô duyên đành phận, sống làm chi đây?

157.
Thương ra giận khó khuây nỗi nhớ,
Mối tơ duyên ai gỡ cho đang?
Hỡi người cỡi phụng ngừa loan,
Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao?

161.
Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,
Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.
Tiếng tiêu dầu lọt phụng lầu,
Hoặc may gỡ đặng dây sầu nữ nhi.

165.
Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,
Một kiếp sanh của bậc văn tài.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.

169.
Khi đầu ấp cùng khi tay gối,
Thân thiết nhau sớm tối quen hơi.
Chừ sao chong ngọn đèn ngồi,
Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.

173.
Nào là thuở âm thầm dan díu,
Vịn bóng trăng đặng níu hoa đào.
Chừ sao bỏ cảnh úa xào,
Nhuỵ phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.

177.
Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt,
Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.
Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.
Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.

181.
Nào khi lén vẽ mày thục nữ,
Nào khi lo gìn giữ hương thề.
Chừ sao bướm cũ lìa huê,
Vườn thu vắng khách, ủ ê canh tàn.

185.
Nào khi tựa bên màn canh lụn,
Nào khi ngồi ngó bóng Hằng Nga.
Chừ sao để lụn canh gà,
Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa.

189.
Nào khi đổ mây mưa đảnh giáp,
Nào khi lo ấm áp cung thiềm.
Chừ sao vắng dạng tàn đêm,
Gia cư rách cửa, ven thềm cỏ chen.

193.
Nào khi ước giữ niềm son sắt,
Nào thề non nắm chặt dải đồng.
Chừ sao đổi dạ thay lòng,
Hẹn xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang.

197.
Nào khi đứng giữa đàng trông ngọc,
Nào khi ngồi dưới bộc trong dâu.
Chừ sao phụ nghĩa sơ giao,
Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.

201.
Nào khi đến cầu Lam chưởng ngọc,
Nào khi lo giã thuốc trường sanh.
Chừ sao bỏ nghĩa én anh,
Tham lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.

205.
Nào khi cửa then gài mấy lớp,
Cấm vườn xuân nườm nượp én anh.
Chừ hoang cây cỏ xủ mành,
Gần cây chim lánh, đến cành gió day.

209.
Nào khi sắc so tài đẹp dạ,
Nào khi nhen hương hoả ba sinh.
Chừ toan bứt mảnh tơ tình,
Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.

213.
Nào khi hỏi thăm hang Từ Thức,
Nào khi dò mấy bực cầu ô.
Chừ sao kẻ Hớn người Hồ,
Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.

217.
Nào là lúc ngửa nghiêng đêm quạnh,
Nào là khi thức tỉnh đêm khuya.
Chừ sao loan phụng chia lìa,
Con trông vợ nhớ, mắt kề ngó song.

221.
Càng thấy con khờ không đủ trí,
Càng thêm lo huyết khí bên chồng.
Nâng niu lúc ẵm khi bồng,
Phụ thân thế phận cho chồng dạy khuyên.

225.
Càng sợ hở thung huyên phiền muộn,
Thảm bao nhiêu gắng gượng làm vui.
Tảo tần sớm dưỡng chiều nuôi,
Thế chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam.

229.
Thấy em dại không ham đèn sách,
Càng để lòng hỏi hạch kinh luân.
Thay chàng thiếp trả nghĩa thâm,
Dạy em văn hoá, thiếp làm trưởng huynh.

233.
Càng nghĩ đến linh đinh phận thiếp,
Càng ngại lo tội nghiệp thân con.
Những ngờ nước thấm đầu non,
Nào hay trăng khuyết hao mòn nhơn duyên.

237.
Càng đeo đẳng nỗi phiền nỗi thảm,
Càng thương thân chích bạn lìa đôi.
Phận sao phận bạc như vôi,
Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là.

241.
Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,
Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.
Chim kết cánh, cây liền cành,
Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô.

245.
Kìa cá giỡn vẩn vơ đáy nước,
Nọ kết đôi cưu thước ven trời.
Còn thân thiếp chịu cút côi,
Đèn khuya nhắc thảm, gió mơi ghẹo sầu.

249.
Kìa oan ương ấp nhau chẳng hở,
Nọ én anh rỉ rả kêu thương.
Còn ta luống những đoạn trường,
Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.

253.
Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,
Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.
Nầy thân thiếp chịu gian nan,
Linh đinh đất chiếu, trời màn không nơi.

257.
Kìa ong kiến tha mồi dành để,
Cơn khốn cùng có thể nuôi thân.
Còn thân thiếp chịu khốn nàn,
Tả tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con.

261.
Thôi đành kiếp nớt non gượng sống,
Sống vì con, chẳng sống vì thân.
Đòi phen đổi thảm ra mầng,
Nâng niu trẻ dại cho gần đặng cha.

265.
Đưa giọt sữa ra hoà giọt luỵ,
Trong tình chung huyết khí đúc hình.
Còn con may đặng giữ tình,
Khối chung tình ở nơi mình ấu nhi.

269.
Nghe trẻ khóc như chì dần dạ,
Thấy con đau như đá đập đầu.
Còn con ô thước bắc cầu,
Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.

273.
Thấy xuân đến vẻ hồng khắp chốn,
Nương con thơ sống rốn cùng xuân.
Ru con giọng hát ngập ngừng,
Xuân ôi! Xuân biết mấy lần đau thương?

277.
Ve kêu hạ như dường trêu thảm,
Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly.
Dỗ con lệ ngọc li bì,
Hạ ôi! Hạ có biết nghì phu thê?

281.
Chiều thu nhắc ủ ê cảnh hạn,
Nhấp nhô xem cánh nhạn về non.
Trông thu rầu nhớ thân con,
Thu ôi! Thu biết hao mòn tấm duyên?

285.
Đông lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ,
Ngồi đêm trường quạnh quẽ phòng không.
Nhớ chồng thấy trẻ não nồng,
Đông ôi! Đông biết tấm lòng kiên trinh?

289.
Vắng mặt chồng, cân hình của trẻ,
Ngó thấy con đặng vẽ tượng chồng.
Cân thương trẻ ấy mà đong,
Thì trong thương ấy, của chồng tám phân.

293.
Kìa máu huyết, cành xuân nhuỵ nở,
Khối ái ân đành ở nơi con.
Dầu cho biển cạn non mòn,
Tơ duyên khắn khít chỉ còn bấy nhiêu.

297.
Trẻ nhỏ dại lắm điều học hỏi,
Thường kiếm cha mong mỏi thấy nhau.
Dỗ con chỉ bóng giải sầu,
Rằng khuya đèn thắp cha hầu về thăm.

301.
Hơi mảnh áo còn cầm đặng ngữi,
Gối loan gìn từ buổi kết duyên.
Ba sanh dầu toại thửa nguyền,
Hoạ trong giấc mộng giải phiền giao hoan.

305.
Càng bạc phước càng than con dại,
Lo tảo tần mảy mạy dưởng nuôi.
Còn cha con tỷ như côi,
Chít chiu trẻ khó, bồi hồi mẹ đơn.

309.
Nhịn ăn mặc ngừa cơn thiếu thốn,
Làm lụng nhiều nuôi dưỡng sắp con.
Nại chi xác yếu thịt mòn,
Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.

313.
Lớn một tuổi, mẹ thêm một khổ,
Hiểu một điều, mẹ hổ cho thân.
Trí con lần mở nẻo gần,
Hỏi cha sao phụ, tố trần làm răng?

317.
Chẳng lẽ nói cho chàng đen bạc,
Chẳng lẽ cho cỡi hạc quên nhà.
Không đành nói thác ra ma.
Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.

321.
Không lẽ nói mến anh quên én,
Không lẽ rằng trộm nén hương thừa.
Nói chi tìm vợ dâng dưa,
Lẽ nào nói rượt theo vừa Hằng Nga.

325.
Không lẽ nói đi qua Đông Độ,
Không lẽ rằng vô số chinh phu.
Lẽ nào nói bị tội tù,
Lẽ nào nói trấn Tây Âu làm hoàng.

329.
Còn nói thiệt rằng chàng phụ thiếp,
Cũng vì mê theo kiếp làng chơi.
E con đến lớn nên người,
Gương cha để thẹn những lời bợm hoang.

333.
Riêng chịu thảm không than với trẻ,
Đổ luỵ rơi theo khoé miệng cười.
Vui là gắng gượng làm vui,
Cái vui cùng trẻ là hồi ai bi.

337.
Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,
Bận lòng con lại vấn nô y.
Xem chừng coi mảnh anh nhi,
Co tay đếm tuổi bấy chầy không cha.

341.
Hột cơm tẻ nhai ra như cát,
Gan còn nguyên như nát bao chừ.
Nuôi con từ lúc đào thư,
Bao nhiêu máu thịt công chờ bấy nhiêu.

345.
Chàng đâu rõ khúc khiu cực nhọc,
Lớn khôn ngoan biết học biết hành.
Biết ơn nuôi dưỡng sanh thành,
Tìm cha lại bỏ một mình thiếp côi.

349.
Càng thấy lớn, mầng rồi lại sợ,
Mầng nên hình, còn sợ theo cha.
Dường như con vịt mẹ gà,
Trẻ thơ vội phản, mụ già kinh tâm.

353.
Làm lụng té bao lăm của cải,
Để cho con làm ngãi cùng con.
Nỗi lo đôi lứa vuông tròn,
Còn lo gia thất vĩnh tồn hậu lai.

Dạy Con Trai Về Nhơn Đạo

357.
Định hương hoả, hằng bày quí tế,
Lập pháp gia, tự kế phụng thờ.
Con chàng thiếp trả khi thơ,
Dòng chàng thiếp dạy phụng thờ tổ tông.

361.
Lựa cho học các công các nghệ,
Tính cho hay mọi vẻ văn tài.
Sĩ, Nông, Công, Cổ sanh nhai,
Ngư, Tiều, Canh, Mục làm bài bảo thân.

365.
Hễ phải mặt văn nhân tài tử,
Dạy con nên vẹn giữ nhơn luân.
Văn là thượng sĩ danh thần,
Võ thì bạt tuỵ siêu quần quân trung.

369.
Quan thì phải tận trung vì chúa,
Dân thì hay tập búa Lỗ Ban.
Sang thì giữ vững ngai vàng,
Hèn thì trừ đảng bạo tàn hại dân.

373.
Trọng thì lấy đai cân làm lịnh,
Khinh thì lo trừ nghịch làm duyên.
Nước non để tuổi cùng tên,
Quốc gia khinh trọng bở bền nơi dân.

377.
Con thương mẹ dầu vâng lịnh dạy,
Thương quê hương trọng ngãi quân thần.
Ngọn rau tấc đất là ân,
Một dòng một giống lo cần ích chung.

381.
Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,
Vạch lưng con viết thử để dành.
Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,
Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.

385.
Dầu rủi phận nợ thân chẳng vẹn,
Đạo Cần Vương nêu tiếng thanh cao.
Trung thành giữ cõi Nam trào,
Hùng anh trước đặng Nguỵ Tào khiếp oai.

389.
Trước quốc chánh chia hai tộc chủng,
Núi Hoành sơn định phỏng biên cương.
Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương,
Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.

393.
Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,
Văn hoá so cũng kịp tha bang.
Xa thơ nay gãy giữa đàng,
Con tua giữ dạ cứu nàn giúp nguy.

397.
Nào quốc thể, người khi kẻ thị,
Nào dân đen, phép quỉ hớp hồn.
Nấu sôi cái máu anh phong,
An bang tế thế một lòng lo âu.

401.
Đấng nam tử đâu đâu cũng nợ,
Khắp năm châu khai mở qui mô.
Châu lưu tứ hải ngũ hồ,
Thơ hương đắc vận cậy nhờ dân sanh.

405.
Vùng Nam Hải uy linh nhứt quốc,
Cỏ rẽ hai chia đất rấp ranh.
Trời còn roi nước hùng anh,
Giang sơn là đấy, còn mình ở đâu?

409.
Con cũng đứng mày râu dưới thế,
Nếu kém phương thiếu thế vận trù.
Dầu khôn, mẹ cũng cho ngu,
Tài chi trong kiếp tội tù dã man.

413.
Con phải nhớ da vàng máu đỏ,
Cõi Nam Châu rỡ rỡ quốc triều.
Con Hồng cháu Lạc bao nhiêu,
Thiếu tài khiếm đức, định triều an bang.

417.
Mẹ dầu phải suối vàng nhắm mắt,
Vui thấy con đáng mặt làm trai.
Nhục con, con chịu chớ nài,
Nhục cho quốc thể ra tài hy sinh.

421.
Thất xã tắc, dân mình nghịch chủng,
Quen nghề tham, lại nhũng quan gian.
Sâu dân mọt nước bạo tàn,
Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.

425.
Đem chơn chánh phô bày trừ mị,
Nâng niu cho dân khí lẫy lừng.
Dân thì biết phận làm dân,
Chúa cho đáng chúa, đình thần đáng quan.

429.
Trừ đảng dữ tham gian bạo ngược,
Diệt những phường mưu chước cầu vinh.
Xem dường cuồng khấu biên đình,
Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.

433.
Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt,
Đại trượng phu trước giặc vong thân.
Nên danh khai quốc công thần,
Nêu tên hậu thế xa gần tặng phong.

437.
Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu,
Học cho hay trọng yếu miếu đường.
Tầng quen cỡi ngựa cầm cương,
Trận trung quyết thắng chiến trường đoạt binh.

441.
Lựa những mặt tài tình thọ giáo,
Học cho thông mối đạo quân thần.
Trương Lương dâng dép ba lần,
Chút công ấy định Hớn Tần nên hư.

445.
Trọng Ni nhận vi sư Hạng Thác,
Học tinh thần khai phát Nho tông.
Gẫm coi tổn bấy nhiêu công,
Làm cho thiên hạ đại đồng trí tri.

449.
Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ,
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
Học hay kế nhiệm mưu mầu,
Học nên tài đặng giải sầu quốc gia.

453.
Học đặng định chánh tà giả thiệt,
Học cho thông đặc biệt hư nên.
Học gan sắt đá cứng bền,
Học cho đủ chước xây nền Nam phong.

457.
Học cho rộng giao thông tứ xứ,
Học cho cùng xử sự ngoại lân.
Học cho đúng bậc tài thần,
Ưu quân ái quốc vua cần dân nghinh.

461.
Học cho thấu máy linh cơ tạo,
Học cho toàn trí xảo văn minh.
Thâu tài hay nhập nước mình,
Làm cho dân hưởng thái bình giàu sang.

465.
Công dạy dỗ muôn ngàn khó nhọc,
Ơn của thầy con học nên người.
Tài hay tom góp một đời,
Cho con chẳng kể vốn lời hơn thua.

469.
Thầy lao lực tuỳ vừa trí trẻ,
Dạy cho thông mọi lẽ gần xa.
Tuổi xanh con đặng trí già,
Còn thơ con học hoá ra lão thành.

473.
Con nhờ thầy công danh mới toại,
Như nhờ cha mới giỏi hình dung.
Hai ơn ấy gẫm so đồng,
Nghĩa kia như hiếu, mặn nồng cả hai.

477.
Xưa ruộng Thuấn voi cày chim cấy,
Vì hiếu thân nổi dậy tuổi tên.
Đế Nghiêu tìm hiếu truyền hiền,
Nương nơi gương ấy vẫn bền đạo con.

481.
Mẫn Tử Khiên tích còn roi dấu,
Dẩy xe cha áo xấu mặt dơ.
Sợ đàn em dại u ơ,
Khổ thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.

485.
Con ví biết trọng nghì phụ tử,
Hiển tông môn khá giữ nơi lòng.
Đừng làm nhục tổ hổ tông,
Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.

489.
Nhìn thung đường đền ơn cúc dục,
Nhớ công sanh giữ chút hình hài.
Dưỡng nuôi lao khổ đắng cay,
Lửa hương chỉn ước có ngày nối xa.

493.
Còn em út trong nhà thơ bé,
Trai dạy khuyên, gái để khép khuôn.
Con đừng quen tánh luông tuồng,
Các em hư nết, gieo buồn song thân.

497.
Một cục máu chia phân mấy mảnh,
Hình hài em tượng ảnh thân con.
Chữ rằng huyết mạch đồng môn,
Riêng chưng thân thể, tâm hồn cũng con.

501.
Ngoài gia tộc, nước non vầy bạn,
Lựa tài danh giao cạn tâm tình.
Đời như trận giặc đua tranh,
Dầu tài một ngựa một mình khó nên.

505.
Coi gương trước Thánh Hiền ghi lại,
Kết bạn nhau đạo ngãi làm sao.
Tuy là khác thửa đồng bào,
Mà trong sanh tử một màu sắt son.

509.
Lưu Quan Trương giữ còn nghiệp Hớn,
Gìn trọn thề chết sống có nhau.
Dầu cơn độc mã đơn đao,
Tâm trung nghĩa khí, Ngô, Tào cũng kiêng.

513.
Sài Triệu Trịnh cũng nguyền như thế,
Mà nên mưu đủ kế đồ vương.
Tống thâu thiên hạ Đại Đường,
Cũng do bởi học nơi trường hữu giao.

517.
Trong vũ trụ hiệp hào là mạnh,
Phận đồ thơ phải gánh non sông.
Anh em bạn tác vầy đông,
Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.

521.
Trai nam tử gió trăng là phận,
Đạp nước non đặng tấn khí hùng.
Đi con đường thế gai chông,
Lớn gan hiu quạnh thì lòng cũng nao.

525.
Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,
Đạo nhơn luân gầy sống của đời.
Dầu cho non nước đổi dời,
Còn niềm chồng vợ, còn người còn ta.

529.
Bạn trăm tuổi thân hoà làm một,
Dầu sanh hèn xấu tốt cũng duyên.
Cùng nhau giữ vẹn hương nguyền,
Cái duyên kinh bố là duyên Châu Trần.

533.
Con đừng thấy phụ nhân nan hoá,
Cầm hồn hoa vầy vã thân hoa.
Vợ con thay phận mẹ già,
Nuôi con mẹ cậy bóng ngà nữ dung.

537.
Khi tối sớm lạnh nồng có kẻ,
Thân mật con đặng dễ giữ con.
Mẹ lo trong lúc còn non,
Vợ con lo lúc thân mòn gối run.

541.
Nếu khổ cực chung cùng chia sớt,
Dầu sang vinh đừng bớt tình nồng.
Hễ là vào đạo vợ chồng,
Hư nên đều có của ông công bà.

545.
Con chớ ỷ mình là nam tử,
Chiếm chủ gia hẹp xử thê nhi.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng bì đồng nhau.

549.
Ai nâng đỡ khi đau lúc ốm,
Ai dù tròn nắng sớm mưa mơi.
Tình chung bền giữ một đời,
Chia cơm cắn muối không dời lòng thương.

553.
Áo trâu đắp đông sương lạnh lẽo,
Cửa hấp gà mở nẻo tiễn phu.
Lập thân đừng để danh lưu,
Cũng như Bá Lý Hề âu bạc tình.

557.
Chém vợ để cầu vinh thuở trước,
Ngô Khởi còn gian ngược chi danh.
Con đừng mượn nét khuynh thành,
Lợi thân mà hại đến mình hồng nhan.

561.
Đừng sang trọng phụ phàng nghèo khó,
Gặp hầu xinh vội bỏ thê hèn.
Cá kia chung chậu hơi quen,
Ái ân đầm thấm bởi bền nghĩa nhân.

565.
Gương đẹp đẽ Mãi Thần thuở trước,
Trọng nhơn luân sau phước nên quan.
Hiền danh ghi tạc giang san,
Nghĩa trung đi cặp con đàng trượng phu.

569.
Tống Hoằng chí trượng phu không đổi,
Giữ nhơn luân sợ lỗi đạo hằng.
Từ duyên công chúa giao thân,
Đút cơm vợ quáng ân cần dưỡng nuôi.

573.
Biết tình nghĩa biết mùi ân ái,
Chia đau thương cột dải đồng tâm.
Kìa ai đã gọi ân thâm,
Hơn niềm chồng vợ âm thầm giúp nhau.

577.
Đừng đến lúc ốm đau chẳng ngó,
Hương sắc xinh lại bỏ hoa tàn.
Những là anh én nhộn nhàng,
Buôn duyên bán nợ như hàng chợ đông.

581.
Có chi trọng đàn ong xóm bướm,
Nơi phồn ba đậm nhuộm màu gian.
Đừng quen kết lũ vầy đoàn,
Cửa thanh lâu những rộn ràng gió trăng.

585.
Giấc phong nguyệt xem bằng tuý mộng,
Vợ cùng hầu so sóng đồng thương.
Nhỏ thì trọng, lớn thì nhường,
Nơi cân quân tử ra trường đánh ghen.

589.
Coi thân vợ như em nhỏ dại,
Đem lòng yêu phận gái đơn cô.
Đặng chồng dường thể đặng mồ,
Chôn thây cửa lạ, cậy nhờ ở ai?

593.
Phải tôn kính cành mai đương nở,
Đừng xa hoa làm mớ hàng chơi.
Sánh mình mỏng mảnh thương người,
Rủi sanh phận gái khó cười với thân.

Dạy Con Gái Về Nhơn Đạo

597.
Gái mẹ dạy ân cần cho lắm,
Đừng để mình luỵ đến sông Tương.
Bông dầu đẹp, khá gìn hương,
Quí chi liễu ngõ hoa tường trao duyên.

601.
Đóng chặt cửa giữ nguyên trinh tiết,
Trọng thân danh bền nét đào yêu.
Phụng lầu gác quyển chờ tiêu,
Gieo cầu cho đáng, nhiễu điều gói gương.

605.
Đừng đứng dựa sông Tương nhắn khách,
Đừng trông trăng hỏi ngạch Cung Thiềm.
Đừng đề thi lá thơ chim,
Cầu hôn để phụng đến tìm cung loan.

609.
Con khá nhớ hồng nhan phận mỏng,
Đừng làm cho thẹn bóng trăng xuân.
Hồng quần tài sắc đa truân,
Vào vòng bạc phận, chi mong trọn nguyền.

613.
Hoa phong nhuỵ cung Tiên cũng mến,
Gấm lót đường trọng tiếng cũng nhơ.
Nhà vàng phận quí khi thơ,
Gót sen dầu lịch cũng nhờ vẻ xuân.

617.
Đừng cho nhiễm lấm thân thục nữ,
Chốn phòng the cứ xủ rèm là.
Vườn thu giấu dạng Hằng Nga,
Hải đường nở muộn mặn mà ái phong.

621.
Phàm phận gái đứng hàng khuê các,
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
Chín tầng cửa đóng then gài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.

625.
Đối với khách đồng bàn đồng tuổi,
Nhớ cho hay lời nói giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.

629.
Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách,
Công chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.

633.
Sửa từ nết ngày thâu tập tánh,
Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu xa rách rưới loã lồ,
Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.

637.
Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,
Rán theo cha học lễ học văn.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.

641.
Thánh xưa dạy từ câu nói hiếu,
Đạo thờ thân chầm khíu nên kinh.
Tích xưa nhắc đến Đề Oanh,
Thương cha nên phải bán mình kêu oan.

645.
Bến nước gái mơ màng trong đục,
Đếm mười hai hoạ phúc khó lừa.
Xem cha cư xử mà ngừa,
Phòng sau cho khỏi đổ thừa lỡ duyên.

649.
Cao niên biết tuyển hiền đáng mặt,
Khỏi lầm mưu kẻ giặc phong tình.
Sự đời thấu rõ dạng hình,
Trá ngôn lánh chước gia đình pháp nghiêm.

653.
Đợi nơi cửa khách tìm thức ngọc,
Đừng đỗ đường rời bốc đoá hoa.
Trông người so sánh với ta,
Lường tài cân sắc hiệp hoà mới nên.

657.
Ai nam tử giữ bền tơ tóc,
Nhiều người hay lừa lọc câu thề.
Trước khen sau ắt có chê,
Ghi tâm tánh đức, kiếm bề phụ nhau.

661.
Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh,
Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.
So mình nắm dễ tóc tơ,
Ngoài ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.

665.
Nét xuân sắc mấy hồi là trọng,
Xuân lỡ rồi khó mộng xuân nguyên.
Thà cho đáng mặt thuyền quyên,
Đừng làm cầm sắt ra duyên bĩ bàng.

669.
Khi gặp đặng phải trang tài mạo,
Hoặc trao trâm đắp áo làm tin.
Thì toan giữ vẹn chung tình,
Đưa thoi đừng để lỗi mình nữ trung.

673.
Đến lúc đã chung phòng hoà hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
Mạnh Quang tích trước ghi tài,
Tề mi vẹn đạo chẳng nài khổ thân.

677.
Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,
Ở thôn quê lam lụ làm ăn.
Chồng thì triều nội cao sang,
Vợ lo canh cửi cơ hàn tấm thân.

681.
Giúp chồng trọn ân cần nhiếp chánh,
Mới nên trang chúa thánh tôi hiền.
Vợ không tham nhũng kim tiền,
Chồng lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.

685.
Phạm trọng Yêm mấy lần xa vợ,
Nợ quân vương nhiều thuở truân chuyên.
May duyên gặp đặng vợ hiền,
Thanh liêm chánh trực giữ bền lòng son.

689.
Phải căn nợ cách non cũng gặp,
Lỡ trái duyên vội gấp ra hư.
Con xem từ trước đến chừ,
Đấng anh hùng gặp anh thư mấy người?

693.
Dầu đẹp xấu để đời luận biện,
Vui duyên con, thân miễn an vui.
Đừng chê chồng phận thiệt thòi,
Đáng danh quân tử phải người lang quân.

697.
Chữ hằng dạy thanh xuân bất tái,
Vợ người rồi danh gái hết kêu.
Noi gương đức tánh Nhị Kiều,
Dở dang Du Sách, giữ điều tiết trinh.

701.
Hễ thất nghĩa rẻ khinh kim cải,
Khó tưới hoa trở lại thanh tươi.
Hư nên cũng có một đời,
Hay chi thay đổi nhành mai sái mùa.

705.
Tri âm ví đáng dây cầm nguyệt,
Đừng đem tình chí thiết giao hoan.
Căn duyên dầu có phụ phàng,
Cũng do tiết giá mở đàng ngại lo.

709.
Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,
Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.
Con coi phận mẹ mỏng mành,
Chánh thê nay lại sánh mình thứ thê.

713.
Muốn còn phước dựa kề quân tử,
Phải hạ mình đặng xử vuông tròn.
Chia chồng vì dạ sắt son,
Nhịn chồng bởi chút sắp con cái nhà.

717.
May tiểu thiếp biết hoà biết thuận,
An thân chồng đẹp xứng nợ duyên.
Rủi ro gặp gái bán thuyền,
Loạn gia phải chịu thảm phiền lắm cơn.

721.
Thà thấy dạng còn hơn hiu quạnh,
Nên cắn răng nhịn nhín tình thương.
Ai đời thắt dạ mà lường,
Bưởi bòng bụng gái vẫn thường giống nhau.

725.
Cội thung thấy càng cao tuổi hạc,
Nhớ liễu mai chếch mác mà đau.
Trường đình giục thảm canh thâu,
Gối còn nửa nguyệt đỡ đầu phòng thu.

729.
Con quốc quốc chưa âu đổi bạn,
Máu đổ quyên đợi mãn kiếp sanh.
Trượng phu hà hải đã đành,
Nỡ nào đày thiếp một mình tương tư.

733.
Chiêu Quân chịu giã từ đất Hớn,
Thân cống Hồ ngất ngưởng tha bang.
Thiếp nay cũng giống như nàng,
Thân Hồ tâm Hớn đôi đàng khó nguyên.

737.
Còn Tinh Vệ lấp phiền biển ái,
Đòi trả chồng hà hải sóng chôn.
Thiếp thân như ốc mượn hồn,
Sống không biết sống, chết còn ngậm đau.

741.
Nơi Phiên quốc xôn xao lượng thảm,
Hạnh Nguơn xưa đã dám hy sinh.
Cũng như thiếp nặng khối tình,
Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.

745.
Dầu chàng có vui riêng quên thiếp,
Thiếp cũng lo tội nghiệp thân chàng.
Đậm hương cho toại hồng nhan,
Gẫm thân có lúc khốn nàn ốm o.

749.
Thương chi thật con đò đưa khách,
Nghĩa chi nồng những cách bán duyên.
Còn thân còn mến còn quyền,
Hết ưa hết chuộng thì duyên hết nồng.

753.
Đây còn nỗi bế bồng thêm trẻ,
Hễ giao tình chẳng lẽ không con.
Hai vai gánh nặng thân mòn,
Cơn đau thất nghĩa, hầu hờn giảm thương.

757.
Chẳng như thiếp nhớ ơn giải cấu,
Mến từ khi mở nụ đào yêu,
Trăm cay ngàn đắng cũng chiều,
Quí thân quân tử, dám liều với thân.

761.
Rẻ rúng bấy, hễ cân cũng trọng,
Quí bao nhiêu, hờ hững cũng khinh.
Chàng thì nhẹ thể vì tình,
Thiếp thì lo sợ luỵ mình trượng phu.

765.
Niềm âu yếm ai đâu rõ giá,
Vui trăng hoa dối trá là thường.
ˆn nhờ, ở tạm, mua thương,
Tiếc chi những thói hoa tường buôn ong.

769.
Trông tin nhạn về đông mòn mỏi,
Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?
Khối sầu càng chất càng dày,
Chờ năm, năm lụn, đợi ngày, ngày qua.

773.
Soi kính cũ mặt hoa đã nhíu,
Tóc hoa râm mày liễu ướm sương.
Mùi chê dưới mắt chán chường,
Còn duyên chi mộng đến đường tái hôn.

777.
Thôi đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết tam tùng.
Hoặc là tròn nghĩa thuỷ chung,
Hoặc là chia dạ não nùng với con.

781.
Ngắm đường thế đã mòn vinh nhục,
Đổi thay duyên đặng phúc hạnh gì.
Lánh buồn lại lạc lối bi,
Rẻ duyên kim cải, đem bì phấn hương.

785.
Liếc mắt ngó vào trường phong nguyệt,
Mua trận cười nào tiếc ngàn vàng.
Chừng cơn phấn lạt hương tàn,
Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.

789.
Nào những khách đoạn trường kim cổ,
Bởi trái duyên nên lỡ gót trần.
Bán xuân khi đắt giá xuân,
Thu qua để thẹn hồng quần biết bao.

793.
Hỏi đến khách sớm đào tối mận,
Đon những trang ngọc cận hương thân.
Tầng nghe giá tuyết trong ngần,
Cớ sao bị nhiễm phong trần bởi đâu?

797.
Bởi thuyền bá sóng xao biển ái,
Bởi non thề sương trải lạnh lùng.
Bởi chàng phụ tấm tình chung,
Bởi tơ duyên cũ, tơ hồng hết xe.

801.
Bởi nhan sắc không khoe không mặn,
Bởi hơi đồng không thẳng không kêu.
Bởi quen mùi vị phòng tiêu,
Bướm ong kiếm dựa vườn điều đổi hương.

805.
Bởi hoa chạ bên đường dễ hái,
Bởi buôn hương nặng ngãi nhiều nhơn.
Đờn hay vặn lắm trục lờn,
Đổi hơi cầm sắt ra trường ca xang.

809.
Bởi vào trướng ra màn hết vị,
Bởi ngồi lơn lên kỷ hết nồng.
Nên ưa mèo mả gà đồng,
Bỏ hình loan phụng dựa lồng chim xanh.

813.
Bởi mến cảnh đôi cành đài liễu,
Bởi ưa hoa bận bịu đài hoa.
Bởi ham nguyệt rạng lánh nhà,
Đèn chong buồn bực lập loà rèm thu.

817.
Bởi quen mặt đào châu bớt đẹp,
Bởi nhìn thường hoa ép liễu nài.
Chê vành xuân hết bịu mai.
Kiếm đường hỏi liễu Chương đài bao mươi.

821.
Bởi cửa tía bóng trời nồng nực,
Bởi hiên thu gió chật đường ong.
Cánh hồng quen với cuồng phong,
Nước non thế giới vẫy vùng tinh trăng.

825.
Bởi cung Quảng bóng Hằng nhấp nhoá,
Bởi đền Ngô nghe gã Tây Thi.
Bởi ham bóng sắc hơn chì,
Mỹ nhân thấy dạng kể gì đến duyên.

829.
Quen xa mã chê thuyền là chậm,
Đã mùi chàm gọi thắm là hơn.
Ca hay quên hẳn giọng đờn,
Một đêm tuý mộng sánh hơn gặp vàng.

833.
Nơi tửu điếm nhà lang khác hẳn,
Vợ chồng thường ít sẵn chiều thương.
Trà mi kém sắc hơn hường,
Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.

837.
Thiếp biết phận cánh buồm dưới gió,
Đã khổ đời chịu khổ cùng đời.
Thuyền nan sợ sóng dòng khơi,
Khúc quanh eo hẹp, chiều thời khúc quanh.

841.
Soi bóng nước đặng nhìn thấy dạng,
Thấy nghi dung hết mặn nét ngài.
Chẳng còn yểu điệu hình mai,
Da mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.

845.
Mảng gượng vui cùng đàn cháu dại,
Chỉ lời hay sự phải khuyên răn.
Tóc xanh là bạn mày nhăn,
Nên ba dạy cháu biết bằng năm mươi.

849.
Khóc của mụ pha cười của trẻ,
Chậm của già đổi lẹ của tơ.
Ngắm coi cái nhỏ bây giờ,
Nhớ trong cái lớn mịt mờ chiêm bao.

853.
Nương con gậy ra vào lụm cụm,
Lưng gối dùn lửng thửng bước đi.
Thôi gần hết kiếp còn gì,
Co tay đếm tuổi quá kỳ tri Thiên.

857.
Bỗng tiếng sấm gần bên tai nổ,
Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.
Ôi thôi trời động đất nghiêng!
Chết chàng hồn thiếp chơi miền Âm cung.

861.
Khi tỉnh giấc còn trong vòng tục,
Mới biết thân ít phúc hơn chàng.
Giá chi một mảnh xương tàn,
Đày cho thiếp nỗi đoạn tràng tử ly.

865.
Một thân goá tang y lại mặc,
Chống gậy lê nhúc nhắc đưa linh.
Đầu sương chất trắng khối tình,
Bao nhiêu ân ái trong mình tử thi.

869.
Ngó vạn vật cũng kỳ lẽ chết,
Nghe non sông như hết khí sinh.
Hỏi ta có sống thật tình,
Hay là giấc mộng Diêm đình đưa nhau.

873.
Xem cây cỏ như màu thảm đạm,
Ngó thú cầm dường cảm đau thương.
Đất nhà cảnh vật ruộng vườn,
Hình chàng như gắn nẻo đường vô ra.

877.
Kìa đào lý tàn già đã cỗi,
Nhắc tượng chàng dựa cội trông hoa.
Nào là trời lặn bóng tà,
Đêm khuya chờ lụng canh gà thăm em.

881.
Kìa cụm liễu gió đêm xao xác,
Đám chim chiều tìm mát nghĩ ngơi.
ƒy là nơi thiếp trao lời,
Trăm năm khi hứa nửa đời buổi nay.

885.
Kìa đầu rừng chòm mai đua nở,
Trước xem màu hớn hở như nay,
Cớ sao như ủ như vày,
Hay là nhắc thiếp những ngày trao tơ.

889.
Kìa lũ én dật dờ cánh liệng,
Dựa chơn mây kêu tiếng nỉ non.
Cớ sao ngươi cũng vẫn còn,
Chồng ta thân mất hình chôn cớ nào?

893.
Bầy hồng nhạn lao xao vịnh liễu,
Đám cò ngà bận bịu gành khơi.
Là nơi lúc đứng khi ngồi,
Trông trăng hẹn biển, ngó trời thề non.

897.
Kìa đường cũ bước mòn lãng tử,
Đám thú nhà dụ dự bước chiều.
ƒy là nẻo thiếp đến kêu,
Chàng vào kẻo trễ quá chiều bữa cơm.

901.
Kìa bến nước dập dồn sóng dợn,
Chỗ đôi ta vui giỡn khi thơ.
Cũng cây, cũng bãi, cũng bờ,
Mà sao buổi ấy bây giờ khác nhau?

905.
Kìa nhịp cầu bên đầu khe nhỏ,
Đông chòm cây, Tây có triền bưng.
ƒy nơi đôi lứa gặp mừng,
Mà nay như nhắc mấy từng tương tư.

909.
Kìa chùa cũ nóc hư muốn sập,
Nơi đôi ta lén gặp gỡ nhau.
Cớ sao cảnh tịnh úa xào,
Hay là thấy thiếp mà sầu lẻ loi.

913.
Bóng hải đường ta ngồi buổi nọ,
Bồng con thơ tìm ngõ nhà thầy.
Còn am tự, còn chùa mây,
Mà chàng đâu vắng, chốn nầy lặng trang.

917.
Kìa cuối xóm mấy hàng trước tử,
Nọ đầu làng chày lữ phơi sương.
ƒy là nơi thiếp đến thường,
Thăm chàng đang học nơi trường sân ngô.

921.
Kìa xóm rẫy nấm mồ lố xố,
Nơi đôi ta tảo mộ đạp thanh.
Gò đâu phút nổi thình lình,
Nào dè chàng cũng đến giành một nơi.

925.
Để thân thiếp mình ngồi hiu quạnh,
Còn thây chàng tuyết lạnh nắng nồng.
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Chia đôi thiếp xóm chàng đồng không hay.

929.
Tiếng oan ương bên tai dan díu,
Gió đẩy đưa bờ liễu lao xao.
Lạ nghe lời vật thế nào,
Mà ra như tiếng chàng chào buổi xưa.

933.
Nhành dâu khuất, bóng đưa mờ mệch,
Cội tà dương như hết reo chiều.
Hương tàn gió tối hiu hiu,
Dở chơn hỏi nợ buổi chiều nghỉ đâu?

937.
Ai sau gót giây lâu như nói,
Xin người thương tha lỗi khi xưa.
Giận đem đổi nhớ cũng vừa,
Trách mình nào có đổ thừa phụ duyên.

941.
Phải buổi trước đừng phiền đừng oán,
Để nguyên tình uống cạn chén tình.
Làm chi rẽ nợ ba sinh,
Mà nay phải chịu một mình riêng thương.

945.
Tội chàng trước tiêu dường tuyết giá,
Còn thiếp mang trọn cả lỗi chàng.
Lời phiền đổi lại tiếng than,
Thương kia bao nả lại càng thêm thương.

949.
Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất nơi thân.
Còn thân sống chịu phong trần,
Dứt hơi dầu muốn trọn gần cũng xa.

953.
Nếu thiếp trước biết hoà biết thuận,
Nhẫn ghen tương nhịn lẫn ân tình.
Chia thương ơn ấy đã đành,
Thứ thê chánh thiếp giựt giành chi duyên.

957.
Giọt lệ thiếp vì phiền mà chảy,
Gẫm thương người chia dải đồng tâm.
Ta than lỗi bậc cung cầm,
Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

961.
Vắng mặt chàng thiếp về kiếm kẻ,
Chia tương tư đặng để nên tình.
Vì chàng thiếp kết bố kinh,
Giữ câu hải thệ sơn minh với nàng.

965.
Mảng sầu muộn ngổn ngang trăm mối,
Chùa thu không bóng tối mịt mờ.
Oanh về tổ, dế reo tơ,
Đường về vắng bước như tờ canh khuya.

969.
Tiếng U Minh tía lia gợi thảm,
Giọng kình khua cửa Phạm dập dồn.
Câu kinh tiếng kệ gọi hồn,
Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân.

973.
Rốn để bước đến gần điện Thánh,
Nhìn tượng thờ lại ngảnh thân mình.
Sao đó hiển, sao đó linh,
Phải chăng trước cũng luỵ tình như ta?

977.
Đau đớn thế nắn ra tượng Phật,
Lánh khổ nên vụ tất cửa không.
Biết chăng cái thảm mất chồng,
Xin cho thiếp dựa nơi lòng từ bi.

981.
Hay sợ khổ sanh ly tử biệt,
Nên tìm phương dứt tuyệt nợ đời.
Biết chăng tình ái của người,
Xin cho thiếp hiểu ít lời chơn ngôn.

985.
Hay đã sợ thân mòn gối mỏi,
Mến ngày xuân mà tuổi không chờ.
Linh đinh bể khổ dật dờ,
Xin cho thiếp gởi thân nhờ cửa không.

989.
Hay đã sợ nắng nồng tuyết lạnh,
Cảnh đau thương khó lánh thân phàm.
Thuyền tình chịu sóng không kham,
Xin cho phận thiếp biến làm ni cô.

993.
Buồn tình lóng nam-mô câu tụng,
Nhìn tượng cây rồi khủng cho thân.
Thân còn nương giữa phong trần,
Khổ kia còn đếm mấy lần mới thôi.

997.
Rón rén trước Phật ngồi cúi gật,
Mấy lạy trình mấy nấc tương tư.
Mảnh thân xin gởi bấy chừ,
Nương theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.

1001.
Lui chân kiếm con đường nhà nội,
Lửa đốm nhen dẫn lối thảm trang.
Mắt xem cái cảnh điêu tàn,
Lòng thương dường đổ dẫy tràn khắp nơi.

1005.
Tiếng dế giống như lời chia thảm,
Ngọn đèn khuya nhấp nhoáng mùi thương.
Thương vì trong kiếp đoạn trường,
Cùng căn là chết ấy đường xưa nay.

1009.
Một ngày sống là bày bước chết,
Sợ chết nên không tiếc sống thừa.
Đời không mến, thế không ưa,
Lòng thương nẩy nở cho vừa tốt tươi.

1013.
Vì sợ chết mà người kiếm sống,
Trong căn oan lại mộng tầm duyên.
Già hay sợ, thế nên hiền,
Khuyên đau giải thảm cổi phiền của ai?

1017.
Một vật nhỏ cũng mài cũng gọt,
Của dầu hèn cũng mót cũng cằn.
Giá kia nào kể nên chăng,
Tay chân chàng để cũng bằng báu châu.

1021.
Thấy ai thảm lòng đau ái ngại,
Nghe kẻ sầu như cháy lòng thương.
Lau giọt lệ, giải tai ương,
Chia cơm nhịn muối đỡ đường khó khăn.

1025.
Thấy ai thảm lòng vàng xót xáy,
Nghe kẻ sầu như cháy tâm can.
Lau giọt thảm, giúp tai nàn,
Nâng hình quân tử với hàng luỵ chung.

1029.
Khi ghen ghét không cùng hiệp mặt,
Nay thấy nhau mà bắt động tình.
Hơn chi giành én giựt anh,
Thước cưu khuất bóng dựa cành chung nhau.

1033.
Xem nét thảm, nàng đau như thiếp,
Trông tình chung mòn kiếp hồng nhan.
Phăng tâm dòm mảnh đoạn tràng,
Thì trong mấy khúc của nàng như ta.

1037.
Sầu đã cháy mặt hoa ủ dột,
Thảm đã tràn hình cốt héo don.
Xuân mai ba bảy đã mòn,
Cội thu thêm nảy mấy hoàn anh nhi.

1041.
Tay bồng con, tay thì dìu trẻ,
Cảnh gia đình quạnh quẽ không ai.
Hương thề để trước vị bài,
Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.

1045.
Cặp liễn tang còn câu long ám,
Hạc qui hồi lãnh đạm trần ai.
Quả như chàng có chốn nầy,
Tưởng khi đổ luỵ châu mày với duyên.

1049.
Hỏi đon thử lời nguyền buổi trước,
Gẫm thân nàng bạc phước như ta.
Oán hình liễu, ghét mày hoa,
Kiếp tu mỏng mảnh mới là nữ nhi.

1053.
Giọt luỵ đổ không chi ngăn nổi,
Thương thân nàng chung với thân mình.
Thương chàng đầy dẫy mông mênh,
Khối thương khó lấy gáo tình đem đong.

1057.
Đôi mặt cách mà lòng vẫn một,
Khác tông môn hài cốt hoà chung.
Thề nhau trọn kết dải đồng,
Cám ơn chàng giúp mặn nồng nghĩa nhân.

1061.
Chia gia nghiệp trong cơn khốn khó,
Hiệp đôi nhà con nhỏ làm chung.
Nầy là vẹn giống trọn dòng,
Nàng sanh thiếp dưỡng cũng đồng như nhau.

1065.
Lập gia thất làm giàu con trẻ,
Định lứa đôi đủ thế cùng đời.
Nàng thì an phận an nơi,
Con thì đáng mặt đáng người với ai.

1069.
Khi thong thả đặt bài trẻ học,
Lấy gương già gợi chọc sắp con.
Nhìn non chỉ nước làm hơn,
Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.

1073.
Cỏ huyên cắm kềnh kềnh đầu tuyết,
Con gậy lê mòn khuyết nửa cây.
Mắt mờ thêm nỗi lảng tai,
Thất tuần đã quá từ ngày ấu xuân.

Hà Xứ Thị Tiên Hương

Lưu thuỷ phù vân lưỡng diểu mang,
Bất tri hà xứ thị tiên hương?
Hư truyền Bồng Đảo càn khôn biệt,
Lãng huyết Đào Nguyên nhật nguyệt trường.
Sở Quán Bạc Từ hoàn mộng huyễn,
Thiên Thai Lạc Phố tổng hoang đường.
Đương niên Tần Hán thành hà sự,
Cô trủng hàn lăng chỉ tịch dương.

Đảo Bạch Mã Từ Hồi Hậu Cảm Tác Kỳ 01

禱白馬祠回後感作其一

催愁天外落罡風,
吹斷情緣一醉中。
綠野未堪宵俗慮,
彩鸞畢竟負奇逢。
同心羅帯猶香味,
細語紗厨宛玉容。
桃峒蓬牕今萬里,
此生何處又相從。

Phiên âm:

Thôi sầu thiên ngoại lạc cương phong,
Xuy đoạn tình duyên nhất tuý trung.
Lục dã vị kham tiêu tục lự,
Thái loan tất cánh phụ kỳ phùng.
Đồng tâm la đới do hương vị,
Tế ngữ sa trù uyển ngọc dung.
Đào động bồng song kim vạn lý,
Thử sinh hà xứ hựu tương tòng.

Dịch thơ:

Cơn buồn bã ngoài trời gió dục
Dứt tơ tình trong lúc la đà
Lòng trần còn nặng vì hoa
Duyên tiên may mắn sao mà dở dang
Dải đồng còn đượm mùi hương
Cửa không còn bóng Kiều nương ra vào
Song sa, xa cách động Đào
Kiếp này biết có nơi nào gặp nhau

Đảo Bạch Mã Từ Hồi Hậu Cảm Tác Kỳ 03

禱白馬祠回後感作其三

紅霞深處盼青鸞,
路隔天台往返難。
照悶燈殘宵漏永,
蔽愁衾薄午風寒。
可憐張碩仍凡骨,
堪笑襄王是梦間。
萬里藍橋娘去矣,
相親何日復相還。

Phiên âm:

Hồng hà thâm xứ phách thanh loan,
Lộ cách Thiên Thai vãn phản nan.
Chiếu muộn đăng tàn tiêu lậu vĩnh,
Tế sầu khâm bạc ngọ phong hàn.
Khả liên Trương Thạc nhưng phàm cốt,
Kham tiếu tương vương thị mộng gian.
Vạn lý Lam Kiều nương khứ hỹ,
Tương thân hà nhật phục tương hoàn.

Dịch thơ:

Cuối trời trông ngóng bóng loan
Thiên thai cách trở khó khăn đi về
Đèn khuya soi nỗi ủ ê
Gió trưa chăn mỏng khôn che nỗi sầu
Tương Vương giấc mộng qua mau
Đáng thương Trương Thạc hết đâu cốt phàm
Nàng đi muôn dặm cầu Lam
Thương nhau bao lại đón tìm được nhau

Hoài Xuân Thập Vịnh Kỳ 01

懷春十詠其一

揚柳隨風到上方,
天間吹下粉脂王。
疏疏山掃青眉淡,
擾擾雲收翠鬢長。
顏貌也應登紫閣,
風流只合配才郎。
何當寂寞書窗夕,
留伴清光四寶房。

Phiên âm:

Dương liễu tuỳ phong đáo thượng phương,
Thiên gian xuy há phấn chi vương.
Sơ sơ sơn tảo thanh mi đạm,
Nhiễu nhiễu vân thâu thuý mấn trường.
Nhan mạo dã ưng đăng tử các,
Phong lưu chỉ hiệp phối tài lang.
Hà đương tịch mịch thư song tịch,
Lưu bạn thanh quang tứ bảo phòng.

Dịch thơ:

Gió tung bông liễu lên không
Gió đưa người ngọc trên cung xuống trần
Mày ngài đượm vẻ thanh tân
Tóc mây mơn mởn mười phần thắm tươi
Giá đành gác tía thảnh thơi
Lứa đôi xứng đáng với người tài hoa
Phòng văn vắng vẻ bóng tà
Ước mong sao được vẻ nga bàn hoàn

Hoài Xuân Thập Vịnh Kỳ 02

懷春十詠其二

書齋歸去憶花神,
百媚千嬌記未真。
袖拂絳紗籠雪腕,
步移苔砌露湘裙。
可嗤癡月癡花客,
更遇傾城傾國人。
沒個紅娘吹信律,
西廂何處再逢春。

Phiên âm:

Thư trai quy khứ ức hoa thần,
Bách mị thiên kiều ký vị chân.
Tụ phất giáng sa lung tuyết oản,
Bộ di đài thế lộ tương quần.
Khả xuy si nguyệt si hoa khách,
Canh ngộ khuynh thành khuynh quốc nhân.
Một cá hồng nương xuy tín luật,
Tây sương hà xử tái phùng xuân.

Dịch thơ:

Về phòng lại nhớ thần hoa
Trăm nghìn nét đẹp lờ mờ bâng khuâng
Áo tung, trắng cổ tay tròn
Quần bay, hé lộ cổ chân trước nhà
Cười ta đắm nguyệt say hoa
Gặp người nghiêng nước hoá ra say tình
Dáng hồng đã khuất bóng hình
Nơi nao tái ngộ cho mình gặp xuân.

Hoài Xuân Thập Vịnh Kỳ 05

懷春十詠其五

人生難遇者嬋娟,
安得黃金換夙緣。
凈境無端空墮玉,
塵心自信未能禪。
癡魂此夜牽襟畔,
好愛何時並枕邊。
風伯若知吟思苦,
穿花吹到美人前。

Phiên âm:

Nhân sinh nan ngộ giả thiền quyên,
An đắc hoàng kim hoán túc duyên.
Tịnh cảnh vô đoan không đoạ ngọc,
Trần tâm tự tín vị năng thiền.
Si hồn thử dạ khiên khâm bạn,
Hảo ái hà thời tịnh chẩm biên.
Phong bá nhược tri ngâm tư khổ,
Xuyên hoa xuy đáo mỹ nhân tiền.

Dịch thơ:

Đời người khó gặp khách thuyền quyên
Dễ có vàng đâu đổi được duyên
Viên ngọc bỗng dưng rơi cảnh vắng
Lòng trần khôn đã bén mùi thiền
Mơ màng cùng muốn chăn uyên đắp
Gần gũi bao giờ gối điệp yên
Dì gió biết ta thương xót nỗi
Rẽ hoa thổi đến trước người tiên

Hoài Xuân Thập Vịnh Kỳ 07

懷春十詠其七

誰知月下遇傾城,
贏得慵癡別後情。
浮世縱能諧夙願,
此緣誓不負今生。
別時悔未詢鄉曲,
去處疑猶響佩瓊。
月落閒愁霄不寐,
暮朝況復杜鵑聲。

Phiên âm:

Thuỳ tri nguyệt hạ ngộ khuynh thành,
Doanh đắc dung si biệt hậu tình.
Phù thế túng năng hài túc nguyện,
Thử duyên thệ bất phụ kim sinh.
Biệt thời hối vị tuân hương khúc,
Khứ xứ nghi do hưởng bội quỳnh.
Nguyệt lạc nhàn sầu tiêu bất mị,
Mộ triêu huống phục đỗ quyên thanh.

Dịch thơ:

Dưới trăng bỗng gặp người tiên
Nỗi niềm canh cánh nửa phiền nửa ngây
Ví chăng phận đẹp duyên may
Thì không để phụ kiếp này dở dang
Chia tay chưa kịp hỏi tường
Ra đi còn lắng tiếng vang ngọc quỳnh
Sầu riêng trằn trọc thâu canh
Lại thêm tiếng cuốc kêu quanh sớm chiều

Hoài Xuân Thập Vịnh Kỳ 08

懷春十詠其八

人間更有這妖嬈,
月下花前影亦嬌。
見面從今成惱漢,
遣懷無趣度良霄。
可憐五夜愁縈枕,
不覺三分瘦到腰。
何日姮娥偏愛我,
登天一路指星橋。

Phiên âm:

Nhân gian cánh hữu giá yêu nhiêu,
Nguyệt hạ hoa tiền ảnh diệc kiều.
Kiến diện tòng kim thành não hán,
Khiển hoài vô thú độ lương tiêu.
Khả liên ngũ dạ sầu oanh chẩm,
Bất giác tam phân sấu đáo yêu.
Hà nhật hằng nga thiên ái ngã,
Đăng thiên nhất lộ chỉ tinh kiều.

Dịch thơ:

Người đâu quá đẹp quá xinh
Trước hoa dưới nguyệt bóng hình càng say
Gặp rồi ta hoá ngất ngây
Thú nào qua được đêm nay hỡi tình
Năm canh sầu mộng vây quanh
Nhớ thương đến nỗi thân hình tóp teo
Hằng Nga bao ngỏ lời yêu
Lên trời sao bắc cầu kiều ta lên

Hoài Xuân Thập Vịnh Kỳ 09

懷春十詠其九

東風何事故參差,
吹起雲來又放歸。
不管鶯茫煙底樹,
空留鵲怨月中枝。
惜春意欲無人會,
題葉吟成只自知。
何日天門方便啓,
此生緣分付紅絲。

Phiên âm:

Đông phong hà sự cố sâm si,
Xuy khởi vân lai hựu phóng quy.
Bất quản oanh mang yên để thụ,
Không lưu thước oán nguyệt trung chi.
Tích xuân ý dục vô nhân hội,
Đề diệp ngâm thành chỉ tự tri.
Hà nhật thiên môn phương tiện khải,
Thử sinh duyên phận phó hồng ti.

Dịch thơ:

Gió Đông sao khéo trêu ngươi
Đã đưa mây đến lại rời mây đi
Trong cây oanh những não nề
Dưới trăng thước những ủ ê đầu cành
Tiếc Xuân ai có thấu tình
Ngâm thơ lá thắm chỉ mình mình hay
Cửa trời mở lúc nào đây
Kiếp này duyên phận cậy dây tơ hồng

Hoài Xuân Thập Vịnh Kỳ 10

懷春十詠其十

風流邂逅古來多,
底事如何又坎坷。
帶悶書懷容易懶,
催愁春漏等閒過。
塵心慢把相思燕,
豪氣空成別恨魔。
最是關懷難遣處,
臨時一轉漾秋波。

Phiên âm:

Phong lưu giải cấu cổ lai đa,
Để sự như hà hựu khảm kha.
Đới muộn thư hoài dung dị lãn,
Thôi sầu xuân lậu đẳng nhàn qua.
Trần tâm mạn bả tương tư yến,
Hào khí không thành biệt hận ma.
Tối thị quan hoài nan khiển xứ,
Lâm thời nhất chuyển dạng thu ba.

Dịch thơ:

Người xưa kỳ ngộ cũng nhiều
Sao nay ta lại gặp nhiều khó khăn
Ngại buồn tấc dạ băn khoăn
Ôm sầu luống để đêm Xuân bóng tà
Nhớ ai con én bay xa
Giận ai như giận con ma trêu mình
Một điều không nỡ dứt tình
Là khi chưa bước mắt xanh đưa chào

Đừng vội bỏ qua 🍀Thơ Nguyễn Trãi🍀 Bên Cạnh Tìm Hiểu Thơ Đoàn Thị Điểm

Viết một bình luận