Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm [500 Câu + Bình Giải Toàn Tập]

500 Câu Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ❤️️ 487 Câu Tiên Tri + Bình Giải Ý Nghĩa ✅ Thohay.vn Chia Sẽ Các Thông Tin Đầy Đủ, Hữu Ích Về Sấm Trạng Trình.

Tiên Tri Sấm Trạng Trình Là Gì

Sấm Trạng Trình hay sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm là những lời được cho là có tính tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm (còn gọi là Trạng Trình, nhân vật lịch sử nổi tiếng của Việt Nam) về các biến cố chính của dân tộc Việt Nam trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng năm 2019). Theo suy diễn, nhiều điểm được nêu trong sấm ký này đã ứng nghiệm với các sự kiện lịch sử Việt Nam như Cách mạng tháng Tám, Chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến Tranh Iraq… mà nổi bật nhất là tiên đoán về quốc hiệu Việt Nam vì vào thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sống thì Việt Nam chưa có quốc hiệu này mà vẫn còn dùng quốc hiệu Đại Việt.

Xưa nay có rất nhiều bản khác nhau vì nhiều người sửa đổi. Không biết bản nào là bản chính, nên trước khi san định, nghiên cứu, chúng ta phải sưu tập tài liệu. Tại các thư viện Việt Nam nhất là tại Hà Nội có nhiều bản Sấm Trạng Trình chữ Nôm và các bản này cũng khác nhau.

Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng Xuân và Thời Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản quốc ngữ Mai Lĩnh.`

Ngoài sấm ký bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó bảy bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội và 12 tựa sách quốc ngữ về sấm Trạng Trình xuất bản từ năm 1948 đến nay. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 mà hiện nay vẫn chưa tìm được.

Ngoài 500 câu sấm trạng trình, Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ❤️️Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Trạng Trình

Ý Nghĩa 500 Câu Sấm Trạng Trình

Sấm Trạng Trình là một tài liệu lưu truyền về tài tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm (còn gọi là Trạng Trình) về các biến cố chính của dân tộc Việt Nam trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng năm 2019). Sấm Trạng Trình có ý nghĩa là một tài liệu quý giá, phản ánh tình yêu quê hương, dân tộc, văn hóa của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cũng như khả năng nhìn xa trông rộng, dự đoán tương lai của ông. Sấm Trạng Trình cũng là một tác phẩm nghệ thuật, sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, ẩn dụ, ví von, so sánh, nhân hóa, để tạo ra những bức tranh quê hương đa dạng, phong phú, độc đáo

487 Câu Sấm Trạng Trình Tiên Tri

Thohay.vn chia sẻ thêm 487 câu sấm trạng trình mời các bạn tham khảo thêm.

1 – Vận lành mừng gặp tiết lành
2 – Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
3 – Một câu là một nhiệm màu
4 – Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5 – Trải vì sao mây che Thái ất
6 – Thủa cung tay xe nhật phù lên
7 – Việt Nam khởi tổ xây nên
8 – Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 – Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
10 – Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11 – Đến đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
12 – Mở bản đồ rũ áo chấp tay
13 – Nhự đao phút chốc đổi thay
14 – Tập bát tử rày quyền đã nổi lên
15 – Đông a âm vị nhi thuyền
16 – Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
17 – Chấn cung hiện nhật quang minh
18 – Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 – Đoài cung vẽ rạng trăng thu
20 – Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
21 – Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật
22 – Dưới lẫn trên n( vẫn uống quen
23 – Sửa sang muôn việc cầm quyền
24 – Ngồi không ai dễ khẫng nhìn giúp cho
25 – Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
26 – Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
27 – Trời sinh ra những kẻ gian
28 – Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
29 – Áo vàng ấm áp đà hay
30 – Khi sui đấp núi khi say xây thành
31 – Lấy đạc điền làm công thiên hạ
32 – Được mấy năm đất lở giếng mòn
33 – Con yết ạch ạch tranh khôn
34 – Vô già mợ hội mộng tôn làm chùa
35 – Cơ trời xem đã mê đồ
36 – Đã đô lại muốn mở đô cho người
37 – ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
38 – Suốt vạn dân cưu giận nhân than
39 – Dưới trên dốc chí lo toan
40 – Những đua bán nước bán quan làm giàu
41 – Thống rủ nhau làm mồi phú quí
42 – Mấy trung thần có chí an dân
43 – Đua nhau làm sự bất nhân
44 – Đả tuần bốn bể lại tuần đầu non
45 – Dư đồ chia xẻ càn khôn
46 – Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
47 – Vội sang giàu giết người lấy của
48 – Sự có chăng mặc nọ ai đôi
49 – Việc làm thất chính tơi bời
50 – Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
51 – Xem tượng trời đả gia ra trước
52 – Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
53 – Cuồng phong cả sớm liền trưa
54 – Đả đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55 – ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
56 – Để vạn dân dê lại giết dê
57 – Luôn năm chật vật đi về
58 – Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
59 – Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
60 – Cũng một lòng trời chống khác nào
61 – Xem người dường vững chiêm bao
62 – Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
63 – Một góc thành làm tâm chứng quỷ
64 – Đua một lòng ích kỷ hại nhân
65 – Bốn phương rời rỡ hồng trần
66 – Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
67 – Tiếc là những xuất dân làm bạo
68 – Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
69 – Nhân danh trọn hết đâu đâu
70 – Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
71 – Hùm già lạc dấu khôn về
72 – Mèo non chi chí tìm về cố hương
73 – Chân dê móng khởi tiêu tường
74 – Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75 – Nội thành ong ỏng hư kinh
76 – Đầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
77 – Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
78 – Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
79 – Quốc trung kinh dụng cáo không
80 – Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng
81 – Gà đâu sớm gáy bên tường
82 – Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
83 – Thủy binh cờ phất vầng hồng
84 – Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85 – Đứng hiên ngang đố ai biết trước
86 – ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
87 – Ai còn khoe trí khoe năng
88 – Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
89 – Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90 – Bổng khiến người giá họa cho dân
91 – Muốn bình sao chẳng lấy nhân
92 – Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
93 – Đả nên si Hoàn Linh đời Hán
94 – Đúc tiền ra bán tước cho dân
95 – Xun xoe những rắp cậy quân
96 – Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
97 – Máy hóa công nắm tay dễ ngõ
98 – Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
99 – Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100 – Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra

101 – Cát lầm bốn bể can qua
102 – Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
103 – Quân hùng binh nhuệ đầy khe
104 – Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105 – Bấy gia+ý càng khốn thay ôi
106 – Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?
107 – Thương những kẻ ăn rau ăn giới
108 – Gặp nước bung con cái ẩn đâu
109 – Báo thù ấy chẳng sai đâu
110 – Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
111 – Xin những kẻ hai lòng sự chúa
112 – Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
113 – Cho nên phải báo trầm luân
114 – Ai khôn mới được bảo thân đời này
115 – Nói cho hay khảm cung rồng dấy
116 – Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
117 – Chữ rằng lục thất nguyệt gian
118 – Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
119 – Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
120 – Thì phụ nguyên mới chỗ binh ra
121 – Bốn phương chẳng động can qua
122 – Quần hùng các xứ điều hòa làm tôi
123 – Bấy gia+ý mở rộng qui khôi
124 – Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
125 – Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
126 – Hoàng phúc xưa đã định tây phong
127 – Làu làu thế giới sáng trông
128 – Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
129 – Rỏ sinh tài lạ khác thường
130 – Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
131 – Xem ý trời có lòng đãi thánh
132 – Đốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
133 – Chọn đầu thai những vì sao cả
134 – Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 – Bắc phương chính khí sinh ra
136 – Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai
137 – Song thiên nhật rạng sáng soi
138 – Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
139 – Đời này thánh kế vị vương
140 – Đủ no đạo đức văn chương trong mình
141 – Uy nghi trạng mạo khác hình
142 – Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
143 – Cùng nhau khuya sớm dượng nuôi
144 – Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145 – Binh thơ mấy quyển kinh luân
146 – Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
147 – Ở đâu anh hùng hẳn biết
148 – Xem sắc mây đã biết thành long
149 – Thánh nhân cư có thụy cung
150 – Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
151 – Lại dặn đấng tú nam chí cả
152 – Chớ vội vàng tất tả chạy rong
153 – Học cho biết lý kiết hung
154 – Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 – Hễ trời sinh xuống phải thì
156 – Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
157 – Kìa những kẻ vội lòng phú quí
158 – Xem trong mình một thí đều không
159 – Ví dù có gặp ngư ông
160 – Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
161 – Xin khuyên đấng thời trung quân tử
162 – Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
163 – Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
164 – Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165 – Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
166 – Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
167 – Võ thông yên thủy thần kinh
168 – Được vào trận chiến mới càng biến cơ
169 – Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170 – Biết ray tay miệng biếng nói không
171 – Ngỏ hay gặp hội mây rồng
172 – Công danh choi chói chép trong vân đài
173 – Bấy giờ phỉ sức chí trai
174 – Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175 – Nặng lòng thật có vĩ kinh
176 – Cao tay mới gẫm biết tình năm nao
177 – Trên trời có mấy vì sao
178 – Đủ no biền tướng anh hào đôi nơi
179 – Nước Nam thường có thánh tài
180 – Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
181 – So mấy lời để tàng kim quỉ
182 – Chờ hậu mai có chí sẽ cho
183 – Trước là biết nẻo tôn phò
184 – Sau là cao chí biết lo mặc lòng
185 – Xem đoài cung đến thời bất tạo
186 – Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
187 – Nguôi lòng tham tước tham giàu
188 – Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
189 – Trẻ con mang mệnh tướng quân
190 – Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
191 – Ai lấy gương vua U thủa trước
192 – Loạn ru vì tham ngược bất nhân
193 – Đoài phương ong khởi lần lần
194 – Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195 – Man mác một đỉnh Hoành Sơn
196 – Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
197 – ấy là những binh thù Thái Thái
198 – Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
199 – Phá điền đầu khỉ cuối thu
200 – Tái binh mới động thập thò liền sang

Ngoài những câu sấm của Trạng Trình, chia sẻ thêm ❤️️ Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

201 – Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
202 – Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
203 – Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 – Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
205 – Xem thấy những sương săm tuyết lạnh
206 – Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
207 – Thành câu cá, lửa tưng bừng
208 – Kẻ ngàn đông Hải người rừng Bắc Lâm
209 – Chiến trường chốn chốn cát lầm
210 – Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
211 – Sang thu chín huyết hồng tứ giả
212 – Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
213 – Đua nhau đồ thán quần lê
214 – Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215 – Kẻ thì phải thủa hung hoang
216 – Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
217 – Kẻ thì mắc thửa hung tàn
218 – Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
219 – Muông vương dựng ổ cắn tranh
220 – Điều thì làm chước xuất binh thủ thành
221 – Bời bời đua mạnh tranh giành
222 – Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
223 – Bể thanh cá phải ẩn cây
224 – Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225 – Nào ai đã dễ nhìn U
226 – Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
227 – Cây bay lá lửa đôi ngàn
228 – Một làng còn mấy chim đàn bay ra
229 – Bốn phương cùng có can qua
230 – Làm sao cho biết nơi nào bảo thân
231 – Đoài phương thức có chân nhân
232 – Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
233 – Tìm cho được chốn được nơi
234 – Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
235 – Bốn bề núi đá riễu quanh
236 – Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
237 – Hễ đông nam nhiều phen tàn tạc
238 – Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
239 – Bắc kinh mới thật đế kinh
240 – Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
241 – Chim hồng vỗ cánh bay cao
242 – Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
243 – Ai dễ cứu con thơ sa giếng
244 – Đưa một lòng tranh tiếng dục nhau
245 – Vạn dân chịu thủa u sầu
246 – Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
247 – Cấy cày thu đãi thời mùa
248 – Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
249 – Nhân ra cận duyệt viễn lai
250 – Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
251 – Xem tượng trời biết đường đời trị
252 – Gẫm về sau họ Lý xưa nên
253 – Dòng nhà để lấy dấu truyền
254 – Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255 – Thần qui cơ nổ ở trời
256 – để làm thần khí thủa nơi trị trường
257 – Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
258 – Sông Bảo Giang thiên định ai hay
259 – Lục thất cho biết ngày dày
260 – Phụ nguyên ấy thực ở dầy tào khê
261 – Có thầy nhân thập đi về
262 – Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
263 – Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp
264 – Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265 – Ra tay điều chỉnh hộ may
266 – Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
267 – Lọ là phải nhọc kéo quân
268 – Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
269 – Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270 – Lộ ngủ tinh trinh tượng thái hanh
271 – Ân trên vũ khí vân hành
272 – Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài
273 – Bản đồ chảng sót cho ai
274 – Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275 – Vấn nền vương cha truyền con nối
276 – Dõi muôn đời một mối xa thư
277 – Bể kình tâm lặng bằng tờ
278 – Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
279 – Au vàng khỏe đặt vững chân
280 – Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
281 – Vừa năm nhâm tý xuân đầu
282 – Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
283 – Quyển vàng mở thấy sấm trời
284 – Từ đinh đổi đời chí lục thất gian
285 – Một thời có một tôi ngoan
286 – Giúp trong việc nước gặp an thái bình
287 – Luận chung một tập kim thời
288 – Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
289 – Trượng phu có chí thời coi
290 – Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
291 – Tài nầy nên đấng vẻ vang
292 – Biết chừng đời trị biết đường đời suy
293 – Kể từ nhân đoản mà đi
294 – Số chưa gặp thì biết hòa chép ra
295 – Tiếc thay hiền sĩ bao già
296 – Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
297 – Thử cho tay giúp ra dùng
298 – Tài này so cùng tài trước xem sao
299 – Trên trời kể chín tầng cao
300 – Tay nghe bằng một ti hào biết hay

301 – Hiềm vì sinh phải thời này
302 – Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
303 – Hợp đà thay thánh nghìn tài
304 – Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305 – Nói ra thì lậu sự đời
306 – Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 – Nói ra ám chúa bội quân
308 – Đương thời đời trị xoay vần được đâu
309 – Chờ cho nhân đoản hết sau
310 – Đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
311 – Trời xui những kẻ ắt gian
312 – Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
313 – Vua nào tôi ấy đã bày
314 – Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315 – Đua nhau bội bạn nghịch vi
316 – ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
317 – Tiếc tài gẫm được thời hay
318 – Đã sao như vậy ra tay sẽ dùng
319 – Tài trai có chí anh hùng
320 – Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
321 – Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
322 – Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
323 – Đi tìm cho đến đế cung
324 – Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
325 – Bảo nhau cương kỷ cho tường
326 – Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
327 – Chờ cho động đất chuyển trời
328 – Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
329 – Còn bên thì náu chưa xong
330 – Nhân lực cướp lấy thiên công những là
331 – Đời ấy những quỉ cùng ma
332 – Chẳng còn ở thật người ta đâu là
333 – Trời cao đất rộng bao xa
334 – Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335 – Dù trai ai chửa biết tường
336 – Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
337 – Ý ra lục thất gian nay
338 – Thời vận đã định thời nầy hưng vương
339 – Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340 – Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
341 – Vua ngự thạch bàn xa thay
342 – Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
343 – Gà kêu vượn hót vang lừng
344 – Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345 – Nhân dân vắng mạt bằng tờ
346 – Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
347 – Vua còn cuốc nguyệt cày mây
348 – Phong điều vũ thuận thú rày an dân
349 – Phong đăng hòa cóc chứa chan
350 – Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
351 – Chính cung phương khảm vầng mây
352 – Thức thay thiên tử là nay trị đời
353 – Anh hùng trí lượng thời coi
354 – Công danh chấn ngại tìm đòi ra đi
355 – Tìm lên đến thạch bàn khê
356 – Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
357 – Nhìn đi nhìn lại cho tường
358 – Chửa có sinh vương đâu là
359 – Chẳng tìm thì đến bình gia
360 – Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
361 – Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
362 – Tả long triều lại có thành đợt vây
363 – Hữu hổ quấn khúc giang này
364 – Minh đường thất diệu trước bày mặt tai
365 – Ở xa thấy một con voi
366 – Cúi đầu quen bụi trông hồ sâu
367 – ấy điềm thiên tử về chầu
368 – Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
369 – Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370 – Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
371 – Đến đời thịnh vượng còn lâu
372 – Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
373 – Khuyên cho đông bắc nam tây
374 – Muốn làm tướng súy thì xem trông này
375 – Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
376 – Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
377 – Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
378 – Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
379 – Kìa cơn gió thổi lá rung cây
380 – Rung bắc sang nam đông tới tây
381 – Tan tác kiến kiều an đất nước
382 – Xác xơ cổ thụ sạch am mây
383 – Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
384 – Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385 – Một gió một yên ai sùng bái
386 – Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
387 – Con mùng búng tít con quay
388 – Vù vù chong chóng gió bay trên đài
389 – Nhà cha cửa đóng then cài
390 – Mầm sấm động hỏi người đông lân
391 – Tiếc tám lạng thương nửa cân
392 – Biết rằng ai có du phần như ai
393 – Bắt tay nằm nghĩ dông dài
394 – Thương người có một lo hai phận mình
395 – Canh niên tân phá
396 – Tuất hợi phục sinh
397 – Nhị ngủ dư bình
398 – Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
399 – Can qua tứ xứ loạn đao binh
400 – Mã đề dương cước anh hùng tận
401 – Thân dậu niên lai kiến thái bình

Bên cạnh giải nghĩa 500 câu sấm Trạng Trình tiên tri, mời bạn xem thêm tuyển tập nổi tiếng 👉 Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm

402 – Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 – Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 – Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 – Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 – Chuột nọ lăm le mong cản tổ
407 – Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
408 – Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 – Tìm về quê củ bắt ngứa tàu
410 – Cửu cửu kiền khôn dĩ định
411 – Thanh minh thời tiết hoa tàn
412 – Chức đáo dương đầu mã vĩ
413 – Hồ binh bát vạn nhập trường an
414 – Bảo Giang thiên tủ xuất
415 – Bất chiến tứ nhiên thành
416 – Lê dân bảo bảo noãn
417 – Tứ hải lạc âu ca
418 – Dục đức thánh nhân hương
419 – Quá kiều cư bắc phương
420 – Danh vi Nguyễn gia tử
421 – Kim tịch sinh ngưu lang
422 – Thượng đại nhân bất nhân
423 – Thánh ất dĩ vong ân
424 – Bạch hổ kim đái ấn
425 – Thất thập cổ lai xuân
426 – Bắc hữu kim thành tráng
427 – Nam tạc ngọc bích thành
428 – Hỏa thôn đa khuyển phệ
429 – Mục giả dục nhân canh
430 – Phú quí hồng trần mộng
431 – Bần cùng bạch phát sinh
432 – Anh hùng vương kiếm kích
433 – Manh cổ đổ thái bình
434 – Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 – Quá thất thân thủy sinh
436 – Địa giới sĩ vị bạch
437 – Thủy trầm nhi bắc kinh
438 – Kỷ mã xu dương tẩu
439 – Phù kê thăng đại minh
440 – Trư thử giai phong khởi
441 – Thìn mão xuất thái bình
442 – Phân phân tùng Bắc khởi
443 – Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
444 – Bảo sơn thiên tử suất
445 – Bất chiến tự nhiên thành
446 – Thủy chung tàng bảo cái
447 – Hứa cập thánh nhân hương
448 – Mộc hạ châm châm khẩu
449 – Danh thế xuất nan lương
450 – Danh vi nguyễn gia tử
451 – Tinh bản tại ngưu lang
452 – Mại dử lê viện dưỡng
453 – Khởi nguyệt bộ đại giang
454 – Hoặc kiều tam lộng ngạn
455 – Hoặc ngụ kim lăng cương
456 – Thiên dử thần thức thụy
457 – Thụy trình ngũ sắc quang
458 – Kim kê khai lựu điệp
459 – Hoàng cái xuất quí phương
460 – Nhân nghĩa thùy vi địch
461 – Đạo đức thực dữ đương
462 – Tộ truyền nhị thập ngũ
463 – Vận khải ngũ viên trường
464 – Vận đáo dương hầu ách
465 – Chấn đoài cương bất trường
466 – Quần gian đạo đanh tự
467 – Bách tính khổ tai ương
468 – Can qua tranh đấu khởi
469 – Phạm địch tánh hung hoang
470 – Ma vương sát đại quỉ
471 – Hoàng thiên tru ma vương
472 – Kiền khôn phú tải vô lương
473 – Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
474 – Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 – Đảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
476 – Ta hồ vô phụ vô quân
477 – Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành
478 – Đoài phương phước địa giáng linh
479 – Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
480 – Phá điền thiên tử giáng trần
481 – Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
482 – Trần công nải thị phúc tâm
483 – Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
484 – Tướng thần hệ xuất y chu
485 – Thứ ky phục kiến đường ngu thi hành
486 – Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487 – Đông tây vô sứ nam thành quốc gia

Bên cạnh 500 câu sấm trạng trình, Thohay.vn Chia Sẽ chùm thơ nổi tiếng của Trạng Trình ❤️️ Thói Đời 1 + 2 [Nguyễn Bỉnh Khiêm] ❤️️Nội Dung Bài Thơ, Ý Nghĩa

Bỉnh giải sấm ký Trạng Trình

Trong lịch sử khoa cử Việt Nam, ít có ông Trạng nào tên tuổi lại được nhắc đến với nhiều giai thoại kỳ bí như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dân gian truyền tụng về ông như một vị Thánh của nước Việt, với khả năng thấu thị và tiên tri về số mệnh, vận mệnh…

Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi (1535), đời Mạc Đăng Doanh. Nhưng ông chỉ làm quan với nhà Mạc có 7 năm và sau khi dâng sớ xin chém 18 tên quyền thần không được chấp nhận, ông xin về an trí tại quê nhà.

Giai thoại và sấm ký Trạng Trình

Quê hương Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm bên bờ sông Hàn, còn có tên là sông Tuyết. Nơi đây ông đã mở trường dạy học và sau khi ông mất, các học trò đã mượn tên sông mà tôn ông làm Tuyết Giang Phu Tử. Trong đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vế câu đối như sau: “Lý học thâm nguyên Trình tiên giác” (Dịch nghĩa: Trạng Trình hiểu sâu sắc lý học, biết trước các việc). Chính khả năng này đã tạo nên màn sương huyền thoại xung quanh cuộc đời ông.

Giai thoại về Nguyễn Bỉnh Khiêm trước hết gắn liền với giai thoại về người mẹ của ông.  Truyện kể rằng, mẹ ông, bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Tiến sĩ Nhữ Văn Lan, là một phụ nữ tài năng mẫn tiệp, tinh thông lý số. Sống dưới thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông), bà đã biết trước rằng nhà Lê sẽ suy yếu nên có ý kén một người chồng có tướng sinh quý tử để tính chuyện đại sự quốc gia. Kén mãi không gặp người vừa ý, mãi đến năm ngoài 30 tuổi, bà đành kết bạn với ông Nguyễn Văn Định, học trò Quốc Tử Giám và sinh ra Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Mộng lớn của bà sẽ sinh ra con làm Thiên tử, chứ không chịu công hầu khanh tướng. Vì thế, hôm động phòng hoa chúc, bà cắm chiếc đũa ở ngoài sân và dặn chồng: “Khi bóng trăng đến chiếc đũa, ông mới được nhập phòng”. Đợi lâu quá, ông Định nóng ruột đẩy cứa bước vào, bà trách: “Ông vội vàng như thế, con cái sau này chỉ làm đến Tứ trụ hoặc đỗ Trạng nguyên là cùng, chứ không thể làm được Hoàng đế”.

Một hôm, khi bế con chơi ở bến đò Hàn, bỗng thấy một người tướng mạo phi phàm bà liền than rằng: “Sao ta không sớm gặp người này?”. Người đó chính là Mạc Đăng Dung. Thực ra, đây chỉ là giai thoại, chứ sự thực khi đó Mạc Đăng Dung mới chỉ là một cậu bé.

Hôm khác, bà đưa con về quê, dọc đường gặp một thầy tướng Trung Hoa. sau khi liếc nhìn dung mạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy tướng buột miệng khen: “Tướng mạo của thằng bé này không phải tầm thường. Nhưng vì nước da hơi thô nên chỉ làm đến Trạng nguyên thôi”.

Lớn lên, Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học quan bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Một hôm, cụ Lương Đắc Bằng ốm, biết mình không sống được bao lâu, bèn gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm lại, chỉ cho ông một cái tráp để trên đầu giường, giở ra lấy một bộ sách quý. Cụ Bằng nói: “Thầy cho con cuốn sách quý này vì chỉ có con mới có thể hiểu được nó. Lúc thầy đi sứ qua Tàu, có gặp một cụ già trao cho thầy cuốn sách này và nói: ‘Ta không cho nhà ngươi mà nhờ người đem về giao cho một người An Nam’. Thầy ngạc nhiên hỏi tên người đó, cụ già bảo: ‘Không cần, chừng nào trong tâm linh nhà ngươi muốn cho ai là người ấy được phần’. Sau này thầy mới biết cụ già đó là một dị nhân”.  Bộ sách ấy chỉnh là cuốn “Thái Ất thần kinh”. Nhiều người cho rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên cứu cuốn sách này mà thông suốt được mọi việc trong quá khứ, tương lai. 

500 câu Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
500 câu Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Câu chuyện trong dân gian

Tối 30 Tết năm đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm đang ngồi đàm luận lý số với một người học trò ở xa đến bỗng ngoài cửa có tiếng gọi. Ông sai gia nhân ra bảo người đó hãy chờ một chút. Trong khi đó, ông và người học trò ngồi bấm quẻ để xem thử người gõ cửa có chuyện gì. Cả hai thầy trò đều bấm  vào quẻ “Thiết đoản mộc tràng”, nghĩa là “sắt ngắn gỗ dài”. Người học trò nói: “Thưa thầy, sắt ngắn gỗ dài, theo ý con, người này vào đây chắc hắn chỉ có mượn cái mai đào đất. Chứ ngoài ra không có cái gì nữa”. Nguyễn Bỉnh Khiêm cười: “Tôi lại đoán anh ta vào mượn cái búa”.

Quả nhiên người gõ cửa vào mượn cái búa thật! Anh học trò hỏi lý do thầy đoán đúng, Nguyễn Bỉnh Khiêm giải thích: “Như anh bấm quẻ cũng là giỏi nhưng mức đoán còn thấp. Anh nói sắt ngắn gỗ dài mà đoán vậy thử hỏi 30 Tết, người ta đến đây mượn mai để làm gì? Tôi đoán người ta đến mượn cái búa để bổ củi nấu bánh chưng. Bấm quẻ đã trúng, nhưng phán đoán phải có biến, linh hoạt mới tránh được sai lầm”. Người học trò nghe xong rất khâm phục.

Lại có giai thoại khác kể rằng, ở quê ông có một người học trò nghèo tên Bùi Sinh, một hôm đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về kế làm giàu. Ông hỏi năm, tháng, ngày, giờ sinh của anh ta rồi bảo: “Sáng mai, đúng vào giờ Dần anh cứ ra chỗ bờ sông mà đón, hề gặp cái gì, dù dơ bẩn thế nào cũng vớt lên, anh sẽ giàu đấy!”.  Bùi Sinh lạy tạ ra về.

Theo lời dặn, anh ta ra ngồi ở mé sông để đợi. Vừa lúc đó, trời đổ mưa xuống như trút nước, anh ta thối chí, định quay về. Nhưng nghĩ ráng kiên nhẫn xem lời cụ Trạng nói có đúng không. Ngồi chờ mãi, bỗng từ xa, một thây người chết theo sóng tạt vào bờ, chình ình ngay trước mặt anh ta. Theo lời cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm hễ gặp gì vớt nấy nên mặc dù cái thây người đang thời kỳ phân hủy, anh vẫn cố gắng vớt lên. Khi đem được thây người lên bờ. trời bỗng tạnh mưa.

Nghĩ là điềm lành, anh ta xem lại đó là xác một người con gái, nhìn phục trang thì là người Trung Hoa, trên người đem theo rất nhiều ngọc ngà châu báu và vàng bạc. Bùi Sinh liền lấy lại số của cải đó và chôn cất người con gái xấu số một cách cẩn thận. Trên đường trở về, anh phục tài Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm vô cùng.

Sau đó chừng nửa tháng, bỗng có thông cáo rằng có một công chúa đi thuyền chơi Nam Hải, không may thuyền bị bão đánh, tất cả mọi người trên thuyền đều chết hết, không biết thi thể công chúa trôi dạt đến đâu. Nếu người Nam nào vớt được xác hãy báo sang thiên triều sẽ được trọng thưởng. Thế là Bùi Sinh được thưởng không biết bao nhiêu tiền của. Từ một anh học trò nghèo rớt mùng tơi, anh ta bỗng trở nên một nhà cự phú giàu nhất vùng.

Tiếng tăm của cụ Trạng Trình qua đó cũng được truyền đi khắp nơi.  Dân miền Vĩnh Lại quê hương Nguyễn Binh Khiêm hiếu học và trọng khoa cử, nhưng đỗ đạt lại ít. Trong khi các vùng xung quanh phát tích không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt. Trước thực trạng đó, dân Vĩnh Lại nghĩ lấy làm tức, các sĩ tử bèn rủ nhau đến hỏi Trạng Trình. Nhưng ông không trả lời, chỉ bảo thiên cơ bất khả lộ.

Thấy mọi người có vẻ không hài lòng, Nguyễn Bỉnh Khiêm bèn làm một con ngựa đá để ở bên này bờ sông Vĩnh Lại. Trên lưng con ngựa ông cho khắc 2 câu thơ chữ Nho: “Hà thời thạch mã độ giang/Thứ thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu” (Dịch nghĩa: Bao giờ ngựa đá sang sông, thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng).

Ngày tháng trôi qua, con sông Vĩnh Lại mỗi ngày một lở thêm để bồi sang bên kia. Đến cuối đời Hậu Lê, con ngựa đá không biết chạy lại sang sông được. Dân làng Vĩnh Lại chờ đón tin mừng. Đi đâu cũng thấy bàn tán về chuyện con ngựa đá ở bờ sông Vĩnh Lại. Con gái khắp nơi thi nhau về làng Vĩnh Lại, trong đầu nghĩ mong mình có thể trở thành bà đô đốc hay bà quận công.

Giữa lúc ấy, cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn trong Nam xảy ra. Quân Tây Sơn thắng, thừa cơ đem quân ra tiêu diệt chúa Trịnh ở phía Bắc, trao lại quyền bính cho nhà Lê. Nhưng sau khi vua Hiển Tông mất, vua Chiêu Thống lên ngôi, dòng dõi Trịnh lại quay trở lại. Vua Lê phải mật báo Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân ở Nghệ An ra giúp.

Dẹp tan con cháu chúa Trịnh, Chỉnh lại chuyên quyền và ra mặt chống lại Tây Sơn. Nguyễn Huệ liền sai tướng Vũ Văn Nhậm đem binh ra đánh Chỉnh. Quân Nhậm tiến gần Thăng Long, Chỉnh đem vua chạy trốn. Nửa đường, Chỉnh bị quân Nhậm bắt sống, vua đành giả dạng dân thường mang ấn trong người chạy trốn đến vùng Vĩnh Lại. Dân làng Vĩnh Lại cho rằng đó là điềm trời xui, mới rước vua về đình và thảo hịch chiêu mộ quân sĩ chống lại quân Tây Sơn. Sẵn ấn tín, dân làng bức vua phải ký giấy phong tước cho mình.

Thế là chỉ trong mấy ngày, các thành viên trong làng đều được phong thành quận công, đô đốc.  Tương truyền, tướng Vũ Văn Nhậm đem quân tràn đến. Dân làng Vĩnh Lại chống cự không được, bao nhiêu đô đốc, quận công đều bị giết hoặc bị bắt.

Không thể phủ nhận rằng những lời tiên tri của sấm Trạng Trình chưa được xác thực, nhưng vai trò của nó trong lịch sử Việt Nam vẫn được coi là quan trọng.

Với tài lý số xuất sắc, ông đã tạo ra những kỳ tích mà cho đến nay vẫn chưa được giải thích hoàn toàn. Toàn bộ những ghi chú về ông là những bí ẩn về tài năng của một thiên tài.

Tài năng của ông đã được thể hiện từ khi còn sống, thông qua việc sử dụng tài lý số của mình, ông đã “giúp đỡ” triều đình nhà Mạc tồn tại trong một thời gian khá lâu.

Khi ông 45 tuổi, trong thời kỳ nhà Mạc, ông tham gia kỳ thi và đỗ Trạng nguyên. Vua Mạc Đăng Doanh đã bổ nhiệm ông làm Tả thị lang Đông các học sỹ.

Xem thêm chùm 👉 Bài Thơ Tâm Sự Tuổi Già

Lời tiên tri đầu tiên của sấm Trạng Trình

Tuy nhiên, cuộc sống trong thế giới chính trị đầy sóng gió, sau khi ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần mà không được vua chấp thuận, ông đã rút lui về ẩn cư.

Thời điểm đó, đất nước Việt Nam đang chịu sự chia cắt của ba triều đại đồng thời là nhà Mạc, nhà Nguyễn và nhà Trịnh, tạo nên một giai đoạn hỗn loạn.

Sự suy thoái của triều đại nhà Mạc đã đến sớm hay muộn, vì vậy vua Mạc trong thời gian triều đại mới đã sai người đến hỏi ý kiến ông. Ông đã tiên tri rằng: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”.

Theo đó, ông dự đoán rằng nếu nhà Mạc đến Cao Bằng, họ sẽ tồn tại thêm ba thế hệ nữa. Lời tiên tri có nghĩa là nếu họ chiếm lĩnh Cao Bằng, thì sẽ còn tồn tại thêm ba thế hệ.

Vùng đất Cao Bằng được xem là một vị trí chiến lược quan trọng, là một khu vực thịnh vượng và bình yên. Việc nhà Mạc thực hiện chiến lược xây dựng tại Cao Bằng là một quyết định rất thông minh và sáng suốt.

Hơn nữa, người Trung Quốc đặc biệt coi trọng vùng đất Quảng Uyên (tên cũ của Cao Bằng), và tin rằng nơi đó có nhiều mỏ vàng khai thác dễ dàng, là một vùng trời ban phúc cho đất nước Việt Nam.

Lời tiên tri về cách mạng tháng Tám

Cụ Trạng Trình còn dự báo cả Cách mạng Tháng 8 năm 1945, qua câu thơ: “Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”. Có thể hiểu “đầu Thu” là tháng Tám dương lịch, “gà” là năm Ất Dậu (1945). Theo lối chiết tự thì “trăng xưa” nghĩa Nôm hiểu sang Hán tự là “cổ nguyệt” (cổ = xưa, nguyệt = trăng), hai chữ Hán này ghép lại thì thành chữ “hồ”, chỉ Bác Hồ. Câu sau nói về sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Thăng Long (Hà Nội).

Cụ tiên đoán chắc chắn rằng: “Hồng Lam ngũ bách nghinh thiên hạ/ Hưng tổ diên trường ức vạn xuân” (Non nước Hồng Lam này sau ta 500 năm/ Sẽ là những mùa xuân hưng thịnh vĩnh viễn). Lịch sử đã khẳng định những tiên đoán của cụ hầu như đều đúng!

Tặng bạn chùm 👉 Thơ Thiền Hay Nhất

Những ứng nghiệm sấm ký trạng trình

Nhà tiên tri Trạng Trình cũng đã đưa ra lời sấm “An Nam lý số hữu Trình tuyền” cho nhà Nguyễn. Đất nước Việt Nam ngày nay có hình thái như hiện tại nhờ nhà Nguyễn mở rộng lãnh thổ về phía Nam.

Theo các tư liệu lịch sử ghi lại năm 1568, chúa Nguyễn Hoàng trong tình huống người anh em của ông, Nguyễn Uông, bị Trịnh Kiểm giết. Ông cảm thấy số phận của mình cũng đang gặp nguy hiểm, vì vậy Nguyễn Hoàng đã sai người đến am Bạch Vân để gặp Trạng Trình và xin lời sấm.

Câu chuyện kể rằng Trạng Trình chỉ vào một đàn kiến đang bò và cầm tay sứ giả dắt ra hòn non bộ, nói: “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”, và câu này truyền tụng cho đến ngày nay.

Ý nghĩa của câu nói đó là một dải núi Hoành sơn có thể trở thành nơi trú ngụ. Hiểu được ý tứ ẩn chứa trong câu nói đó, Nguyễn Hoàng đã nhờ chị xin với anh rể là Trịnh Kiểm cho ông được cai trị đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào. Nhờ sự đồng ý đó, lãnh thổ của gia tộc Nguyễn mở rộng sang phía Nam.

Hy vọng có thể duy trì thành tựu này mãi mãi, nhà Nguyễn đã thay đổi câu sấm của Trạng Trình thành: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân”.

Chúng ta nhận thấy rằng, Trạng Trình đã có một ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành địa đồ quốc gia của Việt Nam hiện nay. Việc nhà Nguyễn di chuyển và mở rộng đến vùng Thuận Hóa đã tạo điều kiện cho việc mở rộng lãnh thổ Việt Nam xuống phía Nam, và đó là nguyên nhân cho sự thay đổi này.

Tặng bạn chùm 👉 Thơ Mãn Giác Thiền Sư

Phải giữ được Biển Đông

Sấm Trạng Trình” là tập hợp nhiều câu sấm ký truyền lại về tài tiên tri của cụ Trạng Trình, người được coi là người đầu tiên trong lịch sử có liên quan đến Quốc hiệu Việt Nam. Những câu sấm này mang giá trị nhân đạo cao, giàu chất triết lý, cũng như tinh thần yêu nước và là một kho tàng quý báu cho muôn đời sau.

Cụ để lại cho thế hệ sau một di sản văn hóa vô cùng quan trọng của đất nước. Ngoài câu sấm ký “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”, cụ Trạng cũng có lời tiên tri về Biển Đông, dạy rằng:

“Biển Đông vạn dặm dang tay giữ Đất Việt muôn năm vững trị bình”.

Với cái nhìn chiến lược, cụ như đã nhìn thấy tương lai của thiên hạ hàng ngàn năm và khuyên thế hệ sau phải giữ vững Biển Đông để đất nước thịnh vượng và thống trị mãi mãi. Điều này nhấn mạnh việc tuân thủ lời dặn của tổ tiên từ xa xưa. Bài thơ vô cùng thời sự này đã tồn tại hơn 500 năm và ngày nay khi đọc lại, ta càng thấy giá trị tuyệt vời của nó.

Bài thơ ban đầu nhằm thể hiện chí nguyện của cụ, “Chí những phù nguy xin gắng sức” (Tâm không dễ chướng ngại hãy nỗ lực), nhưng ta có cảm giác như cụ đang nói với chính chúng ta (những người sau này). Nó chứa đựng một tư tưởng chiến lược và một dự báo thiên tài:

“Biển Đông vạn dặm dang tay giữ

Đất Việt muôn năm vững trị bình

Vạn lý Đông minh quy bả ác

Ức niên Nam cực điện long bình”.

Hôm nay, biển Đông của chúng ta đang có kẻ dòm ngó, đã được cụ Trạng Trình tiên đoán trước 500 năm trong bài thơ “Cự Ngao Đới Sơn” (Con rùa lớn đội núi). Cụ đã khẳng định chủ quyền và như tiếp thêm sức mạnh chính nghĩa cho con cháu: “Vạn lý Đông minh quy bả ác/ Ức niên Nam cực điện long bình/ Ngã kim dục triển phù nguy lực/ Vãn khước quan hà cựu đế thành” (Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/ Đất Việt muôn năm vững vàng hoà bình thịnh trị/ Nay ta muốn thi thố sức phù nguy/ Vãn hồi lại núi sông bờ cõi và kinh thành cũ của nhà vua).

Tặng bạn chùm 👉 Thơ Về Sinh Lão Bệnh Tử, Sống Chết Vô Thường

Áp dụng trên thực tế

Qua thời gian, chúng ta càng nhận ra rằng những câu thơ sấm truyền của cụ Trạng mang tính thời sự và phản ánh đúng với tình hình của người Việt trong quá khứ và hiện tại. Hai câu thơ này đã làm rung động tâm hồn và ý chí của người Việt, đồng thời mang tính chiến lược về việc ý thức bám biển và giữ biển của dân tộc. Chúng cho thấy người Việt đã từ lâu là những người sống gắn liền với văn hóa biển đảo.

Nhà nghiên cứu và nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, người đã thực hiện bộ phim Nguyễn Bỉnh Khiêm – Cây đại thụ rợp bóng 500 năm, đã đóng góp vào việc giải mã cuộc đời của cụ Trạng Trình và đưa ra nhận định về một kỳ nhân.

Với kho sấm truyền của cụ Trạng, những lời sấm không chỉ phù hợp với tình hình của nước ta mà còn đúng với hai sự kiện quan trọng trên thế giới. Đầu tiên là Chiến tranh Thế giới thứ hai. Cuộc chiến này bắt đầu khi phát xít Đức xâm lược Ba Lan từ năm 1940 (năm Thìn – Long Vĩ) và tiếp tục với cuộc tấn công của Hitler vào Liên Xô vào năm 1941. Chiến tranh kéo dài đến cuối năm 1944 – 1945 mới kết thúc.

Thứ hai là dự đoán về cuộc chiến tranh Iraq, diễn ra vào cuối năm 2000 (năm Thìn), đầu năm 2001 (năm Tỵ) và kéo dài tới năm Thân và Dậu mới ổn định.

Sự tồn tại và tầm ảnh hưởng của ông trong lịch sử Việt Nam là một niềm tự hào cho con cháu của nước Nam, của dân tộc Việt Nam, và là một phần trong hình ảnh văn hóa của loài rồng cháu tiên. Ông là một nhân vật lịch sử được tôn kính và lưu truyền cho hậu thế.

Nếu bạn cần tải 487 câu sấm trạng trình pdf toàn tập vui lòng Liên hệ nhé.

(Tổng hợp nhiều nguồn)

Viết một bình luận