Thơ Mãn Giác Thiền Sư ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ ✅ Chia Sẻ Cho Bạn Đọc Về Sự Nghiệp Làm Thơ Của Mãn Giác Thiền Sư.
NỘI DUNG CHÍNH
Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Mãn Giác Thiền Sư
Thiền sư Mãn Giác là một thiền sư nổi tiếng vào đời thứ tám của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Ông đã để lại cho đời bài thơ nổi tiếng “Cáo tật thị chúng”. Để biết thêm nhiều thông tin về tác giả Mãn Giác Thiền Sư thì bạn có thể xem phần khái quát về tiểu sử cuộc đời của ông dưới đây.
- Thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096 ) tên tục là Nguyễn Trường (theo là Lý Trường), cha là Hoài Tố làm chức Trung thơ Viên ngoại lang. người làng An Cách, con viên Trung thư ngoại lang Lý Hoài Tố. Ông là người ham học, thông hiểu cả Nho và Phật.
- Là một thiền sư Việt Nam thuộc đời thứ 8 của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Sư nối pháp Thiền sư Quảng Trí và truyền tâm ấn lại cho đệ tử là Bản Tịnh.
- Thuở nhỏ, ông được vào hầu Thái tử Kiền Đức (tức là Lí Nhân Tông sau này) và được Thái hậu rất trọng.
- Thiếu thời, vua Lý Nhân Tông thường mời con em các danh gia vào hầu hai bên, Nguyễn Tường nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Lão, Phật nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, Nguyễn Tường thường chú tâm vào Thiền học. Đến khi vua Lý Nhân Tông lên ngôi, vì rất mến chuộng nên vua ban cho Nguyễn Trường hiệu Hoài Tín.
- Vua Lý Nhân Tông và hoàng hậu rất trọng đãi ông, cho làm một ngôi chùa ở bên cạnh cung Cảnh Hưng, mời ông đến ở để tiện hỏi han về đạo Phật và bàn bạc việc nước. Vua còn phong ông làm Nhập nội đạo tràng.
- Ông mất ngày 30 tháng Mười một năm Bính Tý, niên hiệu Hội Phong thứ năm (tức ngày 17 tháng Mười hai năm 1096); thọ 45 tuổi. Sau khi mất vua đặt hiệu cho là Mãn Giác.
Ngoài Thơ Mãn Giác Thiền Sư, Đón Đọc Thêm 🌿Thơ Phan Châu Trinh 🌿 Tác Giả, Tác Phẩm
Sự Nghiệp Sáng Tác Của Mãn Giác Thiền Sư
Cùng Thohay.vn tìm hiểu thêm về sự nghiệp sáng tác của Mãn Giác thiền sư ngay sau đây.
Mãn Giác không trở thành một người cận thần của nhà vua giống thân phụ mà tự chọn lấy con đường mình thích: rèn luyện kiến thức Phật giáo và Nho giáo đến mức uyên bác, rồi kế thừa tâm ấn của Thiền sư Quảng Trí ở chùa quán Đính, núi Không Lộ, đi vân du khắp nơi, trở thành một vị Thiền sư tên tuổi, có rất đông học trò, được tôn là người tiêu biểu cho thế hệ thứ tám, dòng Thiền Quan bích.
Sư là một người am hiểu và học rộng, thông nhiều đạo Nho, Lão, Phật, sau những lúc việc quan sư thường chú tâm vào học thiền. Đến khi vua Lý Nhân Tông lên ngôi vì rất mến sư nên đã ban cho sư hiệu Hoài Tín.
Sau đó Hoài Tín dâng biểu muốn xin xuất gia, học với thiền sư Quảng Trí và bắt đầu vân du khắp nơi. Thiền sư Mãn Giác là bậc lĩnh tụ pháp môn trong một thời, được vua Lý Nhân Tông cùng Hoàng Thái Hậu Cảm Linh Nhâm (Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan) hết sức kính nể, dựng chùa cạnh cung Cảnh Hưng, lấy hiệu là Giáo Nguyên rồi thỉnh sư về trụ trì để tiện việc tới lui học hỏi. Vua Lý Nhân Tông phong hiệu cho sư là Giáo Nguyên Thiền Viện – Hoài Tín đại sư.
Vào cuối tháng 11 năm 1096, đại sư cáo bệnh và để lại một bài kệ dạy chúng gọi là “Cáo tật thị chúng”. Sau khi nói kệ xong thì thiền sư ngồi tư thế kiết già và thị tịch, thọ 45 tuổi, 19 tuổi hạ. Vua ban cho thiền sư thụy hiệu là Mãn Giác.
Phong Cách Thơ Của Thiền Sư Mãn Giác
Trong suốt cuộc đời tu hành của mình, thiền sư chỉ để lại đúng một bài thơ đó là Cáo tật thị chúng”. Tuy nhiên chỉ với bài thơ ngắn này, chúng ta cũng có thể nhận thấy rõ phong cách và quan điểm sáng tác của thiền sư Mãn Giác như sau:
Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) trở thành một tác phẩm thi kệ nổi tiếng thời kỳ văn học Lý – Trần, một tuyên ngôn triết học ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương. Bài thơ mượn cảnh thị tình, lấy tình “trực chỉ chân tâm” nhằm khai phóng nhân sinh.
Dùng tư duy trực giác để hình thành nên một biểu tượng, bài thơ bắt đầu từ chỗ miêu tả một thực tại, một hình ảnh đơn giản, sinh động: Khai, lạc của mai hoa (đào hoa, xuân hoa…) là cái nhãn tiền tự nhiên nhi nhiên:
Xuân khứ bách hoa lạc / Xuân đáo bách hoa khai
Không có mới cũng chẳng có cũ, không có đi cũng chẳng có về; đáo hay khứ thực ra chỉ là một thực tại bị chia cắt thành những khái niệm mà chỉ cần khởi tâm trí tuệ thì bỗng dưng được con mắt sáng mà nhìn, mà nghe, mà cảm nhận cái thi vị của cuộc đời sau những tột cùng vô biên của sự phân chia, tách bạch.
=>Phong cách thơ và quan điểm của thiền sư Mãn Giác dựa trên triết lý tuần hoàn của nhà Phật. Vũ trụ này là tuần hoàn, là vĩnh viễn sinh sinh hóa theo luật nhân quả, và người đời – sắc thân mà mỗi con người mang lấy, do nghiệp của kiếp trước chuyển hóa mà có, cũng chỉ là một trong những hình thức biểu hiện lẽ tuần hoàn của vũ trụ, nó là sự biến diệt không tránh khỏi và không trừ một vật gì ở trên đời này
Chia sẻ thông tin chi tiết về 🍀Thơ Nguyễn Trãi🍀Tuyển Tập Thơ Hay
Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Mãn Giác Thiền Sư
Như đã chia sẻ thì suốt cuộc đời tu hành của mình, Mãn Giác thiền sư chỉ để lại một tác phẩm duy nhất, nhưng cũng là một tác phẩm độc đáo của nền văn học thời Lý còn lại đến nay, đó là bài kệ “Cáo tật thị chúng”. Bài kệ này được nhiều người coi là một nhà thơ đại biểu cho dòng thơ Lý – Trần.
Bài kệ có tính cách di chúc viết dặn lại học trò trước lúc mất, một bài thơ đã gây cho rất nhiều thế hệ bạn đọc trong gần chín thế kỷ qua những cảm xúc trái ngược, và cho đến nay, sự tranh luận vẫn chưa phải đã ngã ngũ.
Đừng vội bỏ qua ❤️️Thơ Nguyễn Du ❤️️ Tác giả, tác phẩm
Bài Thơ Hay Nhất Của Thiền Sư Mãn Giác
Mời bạn đọc cùng thưởng thức và chiêm nghiệm bài thơ hay nhất của thiền sư Mãn Giác ngay dưới đây.
Cáo Tật Thị Chúng
告疾示眾
春去百花落,
春到百花開。
事逐眼前過,
老從頭上來。
莫謂春殘花落盡,
庭前昨夜一枝梅
Phiên âm:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch nghĩa:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở.
Việc trước mắt qua mãi
Trên đầu già đến rồi.
Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai.
Dịch thơ:
Xuân trỗi, trăm hoa rụng
Xuân đến, trăm hoa cười
Trước mặt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
Đây là một tác phẩm giải thích về cái sinh cái tử. Cái sinh cái tử là thông thường, đời người có sinh ra, có già đi, và có chết, cũng là chuyện thông thường. Bốn câu đầu rõ ràng nói lên ý đó, cũng tức là làm cho người đọc hiểu và cảm thông một cách thanh thản với tác giả, khi tác giả đang trên giường bệnh, đang ở điểm mút cuối của cái hiện kiếp của mình.
Bài kệ Cáo tật thị chúng thể hiện một nhân cách, một quan niệm sống cao đẹp của một vị thiền sư đáng kính. Tư tưởng Phật giáo hòa quyện với thi ca, tầm cao và chiều sâu của triết lý Phật giáo được khoác lên bằng những vần thơ đẹp, giàu hình ảnh và cảm xúc.
Bài thơ mang hai thông điệp chính: một là, nêu lên cái sự vô thường, phơi bầy cái sự vô thường trước hết ở cây cỏ hoa lá trong tự nhiên, rồi đến cái thân xác con người; hai là, bên cạnh cái vô thường luôn có cái thường hằng bất biến không đến, không đi và không mất, đó là nơi an lạc bình yên.
=>Trong cuộc đời cái mất, cái được chỉ là mộng ảo. Bài thơ muốn gửi tới người đọc một thông điệp: Cái gì có tướng thường là thay đổi, cái đang biết – cái không – vô ngã là cái thường còn, không sinh, không diệt.
Tuyển tập chùm 🌿Thơ Trần Tế Xương 🌿Bên Cạnh Thơ Mãn Giác Thiền Sư