Nội Dung Tác Phẩm Bến Quê Của Nguyễn Minh Châu, Giá Trị, Phân Tích, Soạn Bài, Giáo Án. Chia Sẻ Bạn Đọc Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Đọc Hiểu, Tóm Tắt.
NỘI DUNG CHÍNH
Giới thiệu Tác Phẩm Bến Quê
“Bến Quê” là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Minh Châu, được xuất bản năm 1985. Tác phẩm kể về nhân vật Nhĩ, một người đàn ông từng đi khắp nơi trên thế giới nhưng cuối đời lại bị cột chặt vào giường bệnh. Trong hoàn cảnh đó, Nhĩ nhận ra vẻ đẹp bình dị của bãi bồi bên kia sông và tình cảm sâu sắc của vợ mình, Liên.
Nội dung chính của truyện xoay quanh khao khát của Nhĩ được một lần đặt chân lên bờ bãi bên kia sông, nơi gần gũi nhưng lại trở nên xa vời với anh. Nhĩ nhờ con trai thay mình thực hiện ước mơ đó, nhưng cậu con trai vì mải mê chơi cờ mà để lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Từ đó, Nhĩ chiêm nghiệm ra quy luật đầy nghịch lý của đời người: “con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình.
Ý nghĩa nhan đề “Bến Quê” không chỉ là một địa danh cụ thể mà còn mang tính biểu tượng sâu sắc. Nó gợi lên những suy ngẫm về bến đỗ của đời người, về những giá trị bình dị, gần gũi mà đôi khi chúng ta vô tình bỏ qua.
Giá trị nội dung của truyện là lời nhắn gửi đến mọi người hãy biết trân trọng những điều bình dị, đời thường nhất, đừng để đến lúc không còn cơ hội mới ân hận, xót xa.
Xem thêm tác phẩm: Mảnh Trăng Cuối Rừng
Nội Dung Truyện Ngắn Bến Quê
Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt – cái giống hoa ngay khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt. Hẳn có lẽ vì đã sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn. Ừ cũng chả phải, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ, chính vì thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi, cái nóng hầm hập ở trong phòng cùng với thứ ánh sáng loa lóa vừa nhìn đã thấy chói cả mắt ở ngoài bờ sông Hồng không biết đã rút đi đâu từ bao giờ.
Bên kia những hàng cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình.
Nhĩ khó nhọc nâng một cánh tay lên khẽ ẩy cái bát miến trên tay Liên ra. Anh ngửa mặt như một đứa trẻ để cho thằng Tuấn cầm chiếc khăn bông tẩm nước ấm khẽ lau miệng, cằm và hai bên má cho mình.
Anh không dám nhìn vào mặt con. Trong khi lại nghiêng mặt ra ngoài cửa sổ, anh ngạc nhiên nhận thấy những cánh hoa bằng lăng càng thẫm màu hơn – một màu tím thẫm như bóng tối…
Chờ khi đứa con trai đã bưng thau nước xuống nhà dưới, anh hỏi Liên:
– Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không?
Liên giả vờ không nghe câu chồng vừa hỏi. Trước mặt chị hiện ra một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ òa vào giấc ngủ.
– Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?
Liên vẫn không đáp và biết chồng đang nghĩ gì. Chị đưa những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai chồng:
– Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được.
Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá.
– Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh.
– Có hề sao đâu…
Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này… Ngừng một lát, Liên nói tiếp:
– Anh cứ tập tành và uống thuốc cho đều. Sang tháng mười, nhất định anh đi lại được.
– Vậy thì đầu hoặc giữa tháng mười một, anh sẽ đi Thành phố Hồ Chí Minh một chuyến.
Liên biết chồng nói đùa:
– Đi Thành phố Hồ Chí Minh thì chắc chẳng được nhưng anh có thể chống gậy đi trong nhà. Hoặc tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước xuống một bậc… hoặc giá anh lại khỏe hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc.
– Ừ, tưởng gì… nhất định đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu thang…
Liên đặt bàn tay vào sau phiến lưng đã có nhiều mảng da thịt vừa chai cứng vừa lở loét của Nhĩ:
– Em đỡ anh nằm xuống nhé?
– Khoan. Em cần ra chợ hay đi đâu thì cứ đi. Khi nào mỏi anh sẽ gọi con.
Một lát sau Nhĩ còn nghe tiếng vợ đi lại dọn dẹp và dặn dò con điều gì đó. Liên hãm nước thuốc ở cái siêu đất ra chiếc bát chiết yêu, Nhĩ đoán thế, nghe tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào nhà. Rồi Liên xuống thang, vẫn cái tiếng bước chân rón rén quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm.
Chờ Liên xuống tầng dưới rồi Nhĩ mới lên tiếng:- Tuấn, Tuấn à! Anh con trai đánh trần ngồi tựa vào bức tường đầu cầu thang, tay nhặt rau muống, mắt cúi xuống một cuốn sách truyện dịch.
Nghe bố gọi, Tuấn chạy vào trong tay vẫn cầm quyển sách dảy cộm gập đôi:
– Bố mỏi rồi. Con đỡ bố nằm xuống nhé!
– Chưa… – đến lúc này Nhĩ mới ngắm kĩ đứa con trai. Nó là đứa thứ hai, gần một năm nay vắng nhà, đi học tận trong một thành phố phía nam và vừa mới trở về đêm qua. Anh thấy càng lớn thằng con anh càng có nhiều nét giống anh.
Người cha sắp từ giã cõi đời đang giấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng túng. Anh ngước nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa rồi quay vào bất chợt hỏi:
– Đã bao giờ Tuấn… sang bên kia chưa hả?
– Sang đâu hả bố?
– Bên kia sông ấy!
Anh con trai đáp bằng vẻ hờ hững:
– Chưa…
Nhĩ tập trung hết sức còn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời mình:
– Bây giờ con sang bên kia sông hộ bố…
– Để làm gì ạ?
– Chẳng để làm gì cả. – Nhĩ có vẻ ngượng nghịu vì cái điều anh sắp nói ra quá ư kì quặc – Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về…
Anh con trai cười:
– Bố đang sai con làm cái việc gì lạ thế?
– Hay là thế này nhé. – Nhĩ vẫn không hề thay đổi ý kiến – Con cầm đi mấy đồng bạc xem bên ấy có hàng quán người ta bán bánh trái gì, con mua cho bố.
Anh con trai miễn cưỡng mặc quần áo, đội chiếc mũ nan rộng vành đề phòng đến trưa có thể nắng to – theo lời yêu cầu khẩn khoản của Nhĩ – giắt vào người mấy đồng bạc.
Vừa nghe Tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh tưởng như mình vừa bay được nửa vòng trái đất – trong một chuyến đi công tác ở một nước bên Mĩ La-tinh hai năm trước đây. Anh mệt lử. Và đau nhức. Ngồi lại nghỉ một chặng và chỉ muốn có ai đỡ cho để nằm xuống.
Nghe tiếng chân giậm thình thịch đều đặn ở bên kia tường. Nhĩ cúi xuống thở hổn hển để lấy lại sức rồi cất tiếng gọi yếu ớt: “Huệ ơi!”.
Từ phòng bên kia một cô bé rất xinh mặc chiếc áo may ô con trai và vẫn còn cầm thu thu một đoạn dây sau lưng chạy sang. Cô bé bên nhà hàng xóm đã quen với công việc này. Nó lễ phép hỏi Nhĩ: “Bác cần nằm xuống phải không ạ?”. Nhĩ đáp trong hơi thở gấp gáp: “Ừ, ừ… chào cháu!”. Cô bé nhảy lên phản, vừa mò vào người Nhĩ đã vội vã nhảy xuống, nó chạy ra đầu cầu thang cầm đoạn dây khẽ phất xuống bên dưới và gọi toáng lên:
– Vân ơi, Tam ơi, Hùng ơi!
Một lát sau không phải chỉ có ba đứa mà cả một lũ trẻ ở tầng dưới lần lượt chạy lên:
– Chúng cháu chào bác ạ!
– Chào bác Nhĩ ạ!
Vây bọc bởi đám trẻ con đứng lố nhố chung quanh. Nhĩ nhận thấy hoàn cảnh của mình thật buồn cười, y như một chú bé mới đẻ đang toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chúng chăm sóc và chơi với.
Cả bọn trẻ xúm vào, và rất nương nhẹ, giúp anh đi nốt nửa vòng trái đất – từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm chục phân.
Chúng giúp anh đặt một bàn tay lên bậu cửa sổ, kê cao thêm dưới mông anh bằng cả một chiếc chăn gập lại rồi sau đó mới bê cái chồng gối đặt sau lưng.
Chẳng biết thế nào mà sáng nay tất cả những ngón tay của chúng đều chua lòm mùi nước dừa, nhưng không sao, vì thế anh càng yêu lũ trẻ trong ngôi nhà mình.
Ngay lúc ấy, cái vật mà Nhĩ nhìn thấy trước tiên khi được ngồi sát ngay sau khuôn cửa sổ là một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên. Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa hai bờ ở khúc sông Hồng này vừa mới bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi bồi bên kia, cánh buồm nâu bạc trắng vẫn còn che lấp gần hết cái miền đất mơ ước.
Sát bên bờ của dải đất lở dốc đứng bên này, một đám đông khách đợi đò đứng nhìn sang. Người đi bộ, người dắt xe đạp. Một vài tốp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy. Nhĩ nhìn mãi đám khách nhưng vẫn không tìm thấy cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo đâu cả.
Thì ra thằng con trai của anh chỉ mới đi được đến hàng cây bằng lăng bên kia đường. Thằng bé vẫn cắp cuốn sách bên nách đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được. Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày. Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại, nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết.
Nhĩ chợt nhớ ngày bố mẹ anh mới cưới Liên từ một làng bên kia sông về làm vợ anh Liên vẫn đang còn mặc áo nâu và chít khăn mỏ quạ. So với ngày ấy bây giờ Liên đã trở thành một người đàn bà thị thành. Tuy vậy, cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sao nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
Con đò đã sang quá nửa sông, ngồi đây Nhĩ đã có thể nhìn thấy rõ từng mảnh vá trên lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ.
Giữa lúc Nhĩ đang nhìn thấy trong tưởng tượng chính mình trong tấm áo màu xanh trứng sáo và chiếc mũ nan rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa – chợt nghe sau lưng có tiếng ho. Nhĩ quay lại.
Ông cụ giáo Khuyến tựa trên chiếc gậy song đang đứng bên phản. Đã thành lệ, buổi sáng nào ông cụ già hàng xóm đi xếp hàng mua báo về cũng ghé vào hỏi thăm sức khỏe của Nhĩ.
– Cụ ạ – Nhĩ bắt đầu ra hiệu về phía đầu tấm nệm nằm của mình – cháu Huệ có gửi lại chìa khóa cho cụ.
– Hôm nay ông Nhĩ có vẻ khỏe ra nhỉ?
– Dạ, con cũng thấy như hôm qua…
Chợt ông cụ già hàng xóm hốt hoảng quá! Ông cụ giáo Khuyến chợt nhận thấy mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó.
Ngay lúc bấy giờ, chiếc đò ngang mỗi ngày một chuyến chở khách qua lại hai bên sông Hồng vừa chạm mũi vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này.
Khám phá thêm bài 🔻 Mây Và Sóng [Ta-Go] 🔻 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Tóm Tắt Truyện Bến Quê
Nhĩ là người đàn ông từng đi nhiều vùng đất nhưng cuối đời lại bị cột chặt vào giường bệnh. Nhìn sang bãi bồi bên kia sông nơi bến quê quen thuộc, anh mới nhận ra vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê mình. Cũng khi trên giường bệnh, anh mới cảm nhận được nỗi vất vả, tình thương, đức hi sinh của vợ mình.
Nhĩ khát khao đặt chân lên bãi bờ bên kia sông nhưng bệnh tật không cho phép, anh nhờ đứa con trai mình. Đứa con không hiểu ước muốn của cha, nó miễn cưỡng đi và bị hút vào trò chơi hấp dẫn trên đường làm lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
Nhĩ chiêm nghiệm được cái quy luật đầy nghịch lí “con người ta khó tránh được cái vòng vèo, chùng chình, phải dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống”.
Chia sẽ bạn: 20+ Mẫu Phân Tích Một Tác Phẩm Truyện Hay Nhất
Về Nhà Văn Nguyễn Minh Châu
- Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội và theo học ở trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn.
- Từ 1952 – 1958, ông công tác và chiến đầu tại Sư đoàn 320.
- Năm 1963, Nguyễn Minh Châu về Phòng Văn nghệ quân đội, sau đó chuyển sang tạp chí Văn nghệ Quân đội.
- Năm 2000, ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Một số tác phẩm tiêu biểu:
- Tiểu thuyết: Cửa sông (1967), Dấu chân người lính (1972), Lửa từ những ngôi nhà (1977)…
- Tập truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1987)…
- Các tác phẩm viết cho thiếu nhi: Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974), Đảo đá kỳ lạ (1985)…
- Tiểu luận phê bình: Trang giấy trước đèn (1994)
Xem thêm🌻Nói Với Con [Y Phương]🌻 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Bến Quê
- “Bến quê” là một sáng tác tiêu biểu của tác giả được trích trong tập truyện ngắn cùng tên xuất bản 1985. Là một sáng tác tiêu biểu của tác giả giai đoạn sau 1975.
- Là cây bút luôn miệt mài trên hành trình khám phá những chiêm nghiệm sâu sắc và mới mẻ của cuộc sống nhân sinh, tác giả Nguyễn Minh Châu đã không ngừng đưa vào tác phẩm của mình những triết lí độc đáo. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Bến quê”.
Xem thêm về phân tích 💌 Sang Thu [Hữu Thỉnh] 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Bến Quê
“Bến quê” là hình ảnh vô cùng gần gũi, thân thương nhất với Nhĩ. Đó là những gì giàu có, đẹp đẽ, thuần phác, cổ sơ nhất của mảnh đất quê hương xứ sở- nơi đã sinh thành ra anh và sẽ đón nhận anh về khi anh nhắm mắt xuôi tay. Đó còn là mái ấm gia đình- điểm tựa để anh cất cánh bay cao đồng thời cũng là nơi nương tựa vững chắc, bình yên của anh trong những ngày tháng cuối đời.
Nhan đề “Bến quê” có ý nghĩa thức tỉnh mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi mà đích thực của cuộc sống, của quê hương. Đó cũng là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc được cô đúc qua nhan đề của tác phẩm.
Bố Cục Bến Quê
Bố cục Bến quê được chia làm 3 phần chính:
- Phần 1. Từ đầu đến “ trước cửa sổ nhà mình ”: Tình cảnh của nhân vật Nhĩ qua cuộc trò chuyện của Nhĩ và Liên.
- Phần 2. Tiếp theo đến “ lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ ”: Hành trình sang bên kia sông của Tuấn.
- Phần 3. Còn lại: Chuyến ghé thăm Nhĩ của cụ giáo Khuyến.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích 🌷 Viếng Lăng Bác [Viễn Phương] 🌷 phân tích đầy đủ nhất
Đọc Hiểu Tác Phẩm Bến Quê
Tham khảo nội dung đọc hiểu tác phẩm Bến quê bên dưới.
1. Hoàn cảnh của nhân vật Nhĩ
– Quá khứ: “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”.
– Hiện tại: bị bệnh, phải nằm một chỗ, cảnh vật duy nhất anh thấy là bãi bồi bên kia sông Hồng nhìn từ cửa sổ nhà mình.
=> Một hoàn cảnh nghịch lý, đau đớn để thấy được sự vô thường trong cuộc sống.
2. Những suy nghĩ của Nhĩ khi nằm trên giường bệnh
a. Về vẻ đẹp thiên nhiên
– Điểm nhìn: khung cửa sổ trong căn phòng của mình.
– Khung cảnh thiên nhiên:
- Những bông hoa bằng lăng cuối mùa đậm sắc hơn.
- Vòm trời thu như cao hơn.
- Vẻ đẹp trù phú của bãi bồi bên kia sông.
=> Không gian dường như vốn quen thuộc, gần gũi nhưng giờ đây lại trở nên mới mẻ với Nhĩ, tưởng như lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.
b. Cảm nhận về Liên
– Lần đầu tiên Nhĩ “để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá”, cảm nhận được “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai”, nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hy sinh thầm lặng của vợ.
– Nhĩ mới thực sự thấu hiểu với lòng biết ơn sâu sắc người vợ của mình: “Cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau những ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”.
c. Cảm nhận về bản thân Nhĩ
Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông nên đã nhờ đứa con trai thực hiện việc đó.
=> Nhà văn muốn gửi gắm rằng hãy trân trọng những giá trị bình dị nhất trong cuộc sống, quê hương và xứ sở.
Giá Trị Bến Quê
Ngay sau đây là những giá trị Bến quê.
Giá trị nội dung
- Qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu nói lên những suy nghĩ về con người, về cuộc đời về cách sống.
- Truyện ngắn đã thức tỉnh con người cần phải trân trọng cuộc sống gia đình, những vẻ đẹp bình dị của quê hương xứ sở, của nơi chôn rau cắt rốn…
Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ năm chữ
- Nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi với dân ca,
- Nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm
- Nhiều so sáng và ẩn dụ sáng tạo
Xem thêm bài viết đầy đủ ✨ Mùa Xuân Nho Nhỏ [Thanh Hải] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Soạn Bài Bến Quê
Có thể bạn sẽ cần gợi ý soạn bài Bến quê.
👉Câu 1 (trang 107 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
– Hoàn cảnh nhân vật Nhĩ : thời trẻ đi nhiều, không sót một nơi nào trên Trái Đất, khi bệnh tật không đi được nữa anh mới phát hiện ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, vẻ đẹp của người vợ cực nhọc.
→ Tác giả muốn nhắn nhủ mọi người: cuộc sống và số phận con người đầy bất thường, nghịch lí, nên biết trân trọng những giá trị tốt đẹp quanh mình.
👉Câu 2 (trang 107 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
– Những ngày cuối đời, Nhĩ đã thấy ngoài cửa sổ có vòm trời như cao hơn, bông hoa bằng lăng cuối mùa, sông Hồng màu đỏ nhạt, bãi bồi màu mỡ…
– Niềm khao khát của Nhĩ chính là đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Nhĩ khao khát như vậy vì anh chợt nhận ra mình đã bỏ quên những vẻ đẹp bình dị, gần gũi ngay quê mình, anh nuối tiếc về quãng đời của mình → Sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường mà con người hay bỏ quên.
👉Câu 3 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Minh Châu rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo :
– Sự tinh tế: Những suy nghĩ của nhân vật Nhĩ về lẽ sống, về cuộc đời rất cụ thể và sâu sắc. Thiên nhiên qua con mắt của Nhĩ hiện ra thật đẹp (chùm bằng lăng, con sông Hồng màu đỏ nhạt,…).
– Tinh thần nhân đạo: đặt nhân vật vào cảnh hiểm nghèo làm bật lên khát vọng sống; vào những ngày cuối đời, Nhĩ vẫn luôn có gia đình là nơi nương tựa.
👉Câu 4 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Những chi tiết miêu tả chân dung và cử chỉ của Nhĩ với vẻ khác thường ở đoạn cuối truyện Anh đang cố thu nhặt hết mọi sức lực… chứng tỏ Nhĩ đang lo lắng thúc giục cậu con trai sẽ làm lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Miêu tả đoạn này, nhà văn muốn thức tỉnh mọi người về cái vòng vèo mà chúng ta đang sa vào trên đường đời khó dứt khỏi để hướng tới những giá trị đích thực vốn giản dị, gần gũi.
👉Câu 5 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Một số hình ảnh, chi tiết mang tính biểu tượng :
– Hình ảnh bãi bồi, bến sông, thiên nhiên ngoài khung cửa sổ ngoài ý nghĩa thực còn biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê hương.
– Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này đổ ụp vào giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng… gợi ra ý nghĩa sự sống của nhân vật Nhĩ đã ở vào những ngày cuối cùng.
– Đứa con trai ham chơi gợi suy nghĩ về sự chùng chình, vòng vèo của đường đời.
👉Câu 6 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
– Đoạn văn thể hiện tập trung chủ đề truyện là đoạn văn Nhĩ nhận ra đứa con trai ham chơi, quên cả việc bố nhờ “Thì ra thằng con trai của anh chỉ mới đi được đến …không bao giờ giải thích hết”.
– Ý nghĩa đoạn : thể hiện một triết lí mà nhà văn muốn gửi gắm – con người khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình, đồng thời thức tỉnh về những giá trị và vẻ đẹp đích thực của đời sống.
Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 💚 Bài Thơ Con Cò Của Chế Lan Viên 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Giáo Án Bến Quê
Đừng vội bỏ lỡ nội dung giáo án Bến quê.
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
– Giúp HS nhận ra được tình huống của truyện, ý nghĩa của tình huống; bước đầu cảm nhận được ý nghĩa triết lí mang tính trải nghiệm về cuộc đời con người.
– Thấy được đặc sắc trong nghệ thuật tạo tình huống của truyện.
2. Kĩ năng
– Củng cố kĩ năng đọc, tóm tắt, phân tích tác phẩm tự sự.
3. Thái độ
– Giáo dục học sinh ý thức học tập, giáo dục khơi gợi tình yêu quê hương, đất nước.
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên
SGK, SGV đọc các tài liệu tham khảo liên quan, chuẩn kiến thức kĩ năng, soạn bài.
2. Học sinh
Chuẩn bị bài, đọc và trả lời các câu hỏi đọc hiểu trong SGK.
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức
Sĩ số:
2. Kiểm tra đầu giờ: Việc chuẩn bị bài của học sinh.
3. Bài mới: GV giới thiệu bài.
– Trong cuộc đời của con người nhiều khi cảm nhận được những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình, của quê hương mà phải hết đời người, hoặc đi nửa vòng trái đất ta mới nhận ra. Đó chính là 1 phần ý nghĩa triết lí trong truyện ngắn “Bến quê” của nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm tới chúng ta. Để hiểu được rõ hơn ý nghĩa đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài học hôm nay.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1 – Hướng dẫn HS đọc và tìm hiểu chú thích: – GV hướng dẫn đọc, đọc mẫu và gọi học sinh đọc. – Đọc chú thích * và nêu những nét chính về tác giả? | I. Đọc và tìm hiểu chú thích: 1. Đọc: 2. Chú thích: a. Tác giả: – Nguyễn Minh Châu (1930- 1989) – Quê: Quỳnh Lưu – Nghệ An. – Ông là nhà văn quân đội, nổi tiếng từ hồi kháng chiến chống Pháp. – Từ sau 1975, nhất là từ đầu những năm 80- thế kỉ XX, ông đã trăn trở đổi mới mạnh mẽ về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần đổi mới VH nước nhà. – Năm 2000, ông được truy tặng giải thưởng HCM về VHNT. |
– Gọi HS đọc (giọng trầm tư suy nghĩ của người từng trải). | b. Tác phẩm: – “Bến quê” in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu xuất bản năm 1985. c. Từ khó: |
HĐ2 – Hướng dẫn HS đọc – hiểu văn bản: Hỏi: Xác định thể loại? – Hãy tóm tắt cốt truyện? | II. Đọc- hiểu văn bản: 1. Thể loại: Truyện ngắn 2. Cốt truyện: – Nhĩ đă từng đi khắp nơi trên trái đất về cuối đời lại bị cột vào giường bệnh với 1 căn bệnh hiểm nghèo đến nỗi không tự mình dịch chuyển được lấy vài mươi phân trên chiếc giường hẹp kê bên cửa sổ. – Nhĩ nhìn qua cửa sổ ngắm hàng cây bằng lăng, con sông Hồng trong nắng sớm và bãi bồi bên kia dòng sông. – Nhĩ trò chuyện với vợ, bày tỏ lòng biết ơn vợ. – Nhĩ sai con đi sang bãi bồi bên kia sông Hồng thay mình nhưng con trai anh lại sà vào 1 đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. – Lũ trẻ con hàng xóm sang giúp Nhĩ trở người dậy. – Nhĩ lại nghĩ đến người vợ, thức tỉnh về vẻ đẹp tâm hồn vợ. – Ông giáo Khuyến sang hỏi thăm, hoảng hốt trước vẻ mặt và cử chỉ bất thường của Nhĩ. |
Hỏi: Tác giả đã đặt nhân vật Nhĩ vào hoàn cảnh như thế nào? – GV chốt. | 3. Phân tích: a. Tình huống truyện: – Hoàn cảnh: nhân vật Nhĩ vốn đã từng đặt chân khắp mọi nơi trên trái đất, lúc cuối đời lại bị cột chặt vào giường bệnh. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó, nhân vật mới có thể nhận ra những vẻ đẹp và giá trị truyền thống hết sức bình dị, gần gũi trong cuộc đời. |
H: Hãy nêu tình huống truyện? | – Tình huống truyện chính là ở cái điều trớ trêu như 1 nghịch lí. + Nhĩ từng đi khắp nơi trên TG, thế mà giờ đây muốn nhích người đến bên cửa sổ thì việc ấy khó khăn như phải đi hết 1vòng trái đất. + Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp bãi bồi bên kia sông ngay trước cửa sổ nhà mình, anh muốn nhờ cậy con trai thay mình sang bên kia sông nhưng cậu ta lại sà vào đám chơi cờ thế trên hè phố và có thể lỡ chuyến đ̣ò sang duy nhất trong ngày. |
H: Ý nghĩa trong việc tạo tình huống như vậy? | ⇒ Tạo tình huống như trên tác giả muốn lưu ý người đọc đến 1 nhận thức về cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn toan tính của người ta. – Mở ra nội dung triết lí, mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả đời người: trên đường đời thật khó tránh những điều ṿòng vèo hay chùng chình, nhưng vẻ đẹp gần gũi, bình dị nhất thì đến khi sắp từ giã cõi đời anh mới nhận ra. |
H: Nhân vật Nhĩ đã lâm vào cảnh ngộ ntn? | b. Những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ: + Cảnh ngộ: Bệnh tật hiểm nghèo kéo dài, phải trông cậy vào sự chăm sóc của vợ con. Bằng trực giác anh nhận ra rằng thời gian của đời mình chẳng còn bao nhiêu nữa. |
H: Trong buổi sáng đầu thu, nhìn từ khung cửa căn phòng, Nhĩ đã cảm nhận cảnh vật vật thiên nhiên như thế nào? H: Nhận xét gì về cách miêu tả đó? | * Cảnh vật thiên nhiên qua cái nhìn của Nhĩ: – Những bông hoa bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng lại đậm sắc hơn. – Con sông Hồng đỏ nhạt, mặt sông như rộng hơn. – Bãi bồi bên kia sông: vàng thau xen xanh non. → Cảnh thiên nhiên được miêu tả theo tầm nhìn của nhân vật Nhĩ từ gần đến xa, tạo thành 1 không gian có chiều rộng, chiều sâu. |
H: Từ việc quan sát cảnh vật thiên nhiên xung quanh, Nhĩ cảm thấy và chiêm nghiệm ra điều gì? | → Nhĩ cảm thấy cảnh vật quen thuộc, nhưng mới mẻ, Nhĩ tưởng như lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó. – Anh rút ra: phải là 1 người từng trải, đi khắp mọi nơi mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của 1 bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia. |
H: Nhĩ c̣òn cảm nhận gì về Liên- vợ anh? H: Qua đoạn đối thoại giữa Nhĩ và Liên, ta thấy Nhĩ đã nhận ra điều gì từ người vợ của mình? | * Cảm nhận của Nhĩ về Liên: – Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc áo vá, những ngón tay gầy guộc… → Nhận ra tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ. |
H: Đoạn văn thể hiện những suy nghĩ gì của Nhĩ về Liên và gia đình? H: Từ đó anh rút ra 1 quy luật gì trong cuộc đời? H: Nhĩ khao khát điều ǵì? sao anh lại khát khát như vậy? | – Anh nhớ lại ngày Liên mới về làm vợ anh…Bây giờ, Liên trở thành 1 người đàn bà thị thành nhưng vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh. – Quy luật: sau nhiều tháng bôn tẩu, kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đ́nh trong những ngày này. + Điều khao khát của Nhĩ: – Khi nhận ra tất cả vẻ đẹp của cảnh vật rất đỗi bình dị và gần gũi qua cửa sổ, đồng thời hiểu rằng mình sắp phải từ biệt cõi đời. Nhĩ bùng lên khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. |
H: Ý nghĩa của điều khao khát ấy? | → Đó là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường mà sâu xa trong cuộc sống, những giá trị thường bị bỏ qua, lăng quên nhất là khi còn trẻ, khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn con người tìm đến. Khi nhận thức ra thì Nhĩ đã nằm liệt trên giường bệnh, bởi thế sự thức tỉnh có xen lẫn niềm ân hận xót xa. |
H: Nhĩ đã thực hiện khát vọng đó của mình bằng cách nào? Anh có thành công không? | – Nhĩ đã nhờ anh con trai thay mình sang bên kia sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ. Song anh con trai không hiểu được ước muốn của cha, nên làm 1 cách miễn cưỡng, rồi bị cuốn hút vào đám chơi phá cờ thế bên hè phố để có thể làm lỡ mất chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. |
H: Anh rút quy luật gì và được thể hiện qua câu văn nào? | → Quy luật: con người trên đời khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình. → Anh đã thế và bây giờ con anh cùng thế. Nhưng con anh lỡ mất chuyến đò hôm nay thì ngày mai nó lại có thể sang sông, còn anh thì không bao giờ có thể mình sang sông được nữa. |
H: Cuối truyện, Nhĩ có vẻ mặt, cử chỉ rất khác thường? Hãy giải thích? | + Hành động kì quặc của Nhĩ: Nhĩ thu nhặt hết mọi sức lực đu mình, nhô người ra ngoài, giơ 1 cánh tay gầy gầy khoát khoát như đang khẩn thiết ra hiệu cho 1 ai đó → ra hiệu cho con hãy mau kẻo lỡ chuyến đò, đồng thời: thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo hoặc chùng chình mà chúng ta đang sa trên đường đời để rút ra khỏi nó và hướng tới những giá trị đích thực vốn giản dị, gần gũi và bền vững. |
H: Hãy so sánh cách xây dựng nhân vật Nhĩ của nhà văn với các nhân vật: anh thanh niên (Lặng lẽ Sa Pa), ông Hai (Làng), bé Thu (Chiếc lược ngà)? | → Nhân vật anh thanh niên là 1 bức chân dung, ông Hai, bé Thu được khắc họa khá rõ về tính cách và nội tâm, còn nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng để tác giả gửi gắm những chiêm nghiệm, triết lí về đời sống và con người. (Đây là kiểu nhân vật rất quen thuộc trong sáng tác của NMC từ sau 1980, như ông họa sĩ trong: Bức tranh) |
H: Tác giả đã gửi gắm qua nhân vật Nhĩ điều gì? | c. Chiều sâu tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm: – Tác giả đã gửi gắm qua nhân vật Nhĩ: + Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những nghịch lí, những ngẫu nhiên vượt ra ngoài những dự tính, ước muốn và thật khó tránh những điều vòng vèo hoặc chùng chình. |
H: Cách gửi gắm có gì đặc sắc? | + Trong cuộc đời cần biết tôn trọng những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi quen thuộc ở quanh ta như bến quê, bãi bồi, vên sông, gia đình, hàng xóm… để khỏi ân hận, xót xa khi sắp từ giã cuộc đời. – Những chiêm nghiệm và triết lí về cuộc đời được nhà văn gửi gắm qua thế giới nội tâm của người sắp từ giã cõi đời và nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. |
H: Em hãy tìm và chỉ ra ý nghĩa của các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng qua truyện? | * Hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng: + Bãi bồi, bến sông và khung cảnh thiên nhiên gợi vẻ đẹp của đời sống trong những cái gần gũi, bình dị quen thuộc. + Những bông hoa bằng lăng cuối mùa, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này khi con nước đầu nguồn đã dồn về, đổ ụp vào trong giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng → gợi cho biết sự sống của Nhĩ đã ở vào những ngày cuối cùng. + Chi tiết: đứa con trai sa vào 1 đám người chơi cờ thế bên lề đường → gợi những điều chùng chình, vòng vèo trên đường đời người ta khó tránh khỏi. + Hành động kì quặc của Nhĩ ở cuối đoạn trích |
H: Nêu những giá trị Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của truyện? | III. Tổng kết: 1. ND: Những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của n/văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh ở mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương. 2. Nghệ thuật: xây dựng những tình huống đầy nghịch lí, miêu tả tâm lí tinh tế, ngôn ngữ giàu hình ảnh biểu tượng. |
4. Củng cố, luyện tập:
H: Hãy tóm tắt lại cốt truyện?
H: Nêu tình huống chính của đoạn trích và ý nghĩa của nó?
H: Trình bày ý nghĩa của truyện: Bến quê?
5. Hướng dẫn HS về nhà:
– Tìm đọc toàn truyện ngắn. Nắm ND bài học.
– Làm bài tập 1, chuẩn bị:Ôn tập Tiếng Việt – trả lời câu hỏi lí thuyết và bài tâp SGK
Sơ Đồ Tư Duy Bến Quê
Cập nhật cho bạn đọc thêm các sơ đồ tư duy Bến quê.
Cập nhật cho bạn đọc 🌼 Khóc Dương Khuê 🌼 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
5 Mẫu Phân Tích Bến Quê Hay Nhất
Nhất định đừng bỏ qua 5 mẫu phân tích Bến quê hay nhất bên dưới.
Phân Tích Bến Quê Chọn Lọc – Mẫu 1
Nhà thơ Đỗ Trung Quân từng có một định nghĩa bằng thơ rất hay về quê hương:
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay…”
Thực vậy, trên thế gian này có bao nhiêu con người thì có bây nhiêu cách định nghĩa khác nhau về quê hương. Nhưng hiểu một cách chung nhất, quê hương là điểm đến của tâm linh, điểm về của mọi xáo trộn tâm hồn và là nơi để ta có thể nương tựa sau những vấp ngã, khó khăn trên đường đời.
Bởi đơn giản quê hương chính là nơi lưu giữ những kỉ niệm ngọt ngào và là nơi luôn tồn tại những tấm lòng giàu tình yêu thương, sẵn sàng dang rộng vòng tay để đón chúng ta vào lòng.
Cũng nhận ra được điều đó, Nguyễn Minh Châu – một nhà văn luôn có những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời đã viết lên truyện ngắn “Bến quê” (1985) nhằm thức tỉnh người đọc biết nhận ra và biết trân trọng những vẻ đẹp gần gũi, bình dị, vững bền và quý giá của gia đình, quê hương.
Truyện được kể theo ngôi thứ ba nhưng toàn bộ diễn biến câu chuyện được nhìn qua lăng kính tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật Nhĩ với một hoàn cảnh đặc biệt: sắp giã từ cuộc đời.
Vì thế, làm cho dòng trần thuật chuyển hóa thành dòng độc thoại nội tâm với những suy ngẫm, triết lí khái quát về con người và cuộc đời của Nhĩ. Từ đó, giúp cho câu chuyện trở nên chân thực, sinh động, đồng thời toàn bộ tư tưởng, chủ đề của truyện được truyền tải một cách dễ dàng, tự nhiên, gần gũi và sâu sắc.
Trước hết, truyện ngắn “Bến quê” đã được nhà văn tạo dựng bằng một tình huống truyện độc đáo mang đầy những nghịch lí, éo le. Nhĩ – một con người đã từng chu du đi khắp nơi trên trái đất với bất kể xó xỉnh nào anh cũng đã từng đặt chân tới nhưng đến phút giây cuối đời anh lại phải cột chặt thân mình bên giường bệnh.
Và khi phải bó mình trên chiếc giường chật hẹp, không đi lại được anh mới chợt nhận ra vẻ đẹp giàu có của bãi bồi bên kia sông Hồng – nơi mà anh chưa từng đặt chân đến và vẻ đẹp tâm hồn của người vợ nhưng tiếc thay đã quá muộn màng.
Tạo ra một tình huống nghịch lí ấy, tác giả muốn hướng tới một nhận thức mang tính chiêm nghiệm: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của con người.
Do không thể trực tiếp thực hiện được khát vọng đi tới “miền đất mơ ước” ấy, nên Nhĩ đã nhờ vả đứa con trai thay mình đặt chân lên bãi bồi bên kia sông.
Nhưng cậu bé đã không hiểu được ý cha nên nó chịu đi một cách miễn cưỡng và rồi bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế bên dọc đường, có thể làm lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Anh nhớ lại thời trai trẻ của mình cũng ham chơi như thế, vả lại nó cũng chưa nhận ra sự hấp dẫn bên kia sông, nên anh không hề trách cậu bé.
Từ đó, anh rút ra một triết lí có tính chất tổng kết, chiêm nghiệm về qui luật của cuộc đời con người: “Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Nhĩ một con người của thời đại mới chỉ biết chạy theo những ước vọng xa vời mà lãng quên đi những vẻ đẹp bình dị, thân quen mà mình đang có.
Để rồi khi vấp ngã, khi phải sắp chia xa với cuộc sống này vĩnh viễn thì anh mới chịu nhận ra quê hương, gia đình, người vợ mới là bến đậu, là nơi nương tựa bình yên và vững chắc nhất cho con người sau hành trình đi xa trở về. Mặc dù nhận thức của Nhĩ dẫu có chút muộn màng nhưng dù sao anh cũng đã kịp nhận ra trước sự sai lầm của mình, giúp anh cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng.
Cuối truyện, nhà văn miêu tả chân dung và hành động của Nhĩ với vẻ không bình thường: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai con mắt long lanh chứa một nỗi say mê đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy.
Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”.
Hành động đó của Nhĩ thể hiện sự nôn nóng, thức giục con trai hãy mau mau đi đi không lại lỡ mất chuyến đò. Hay đó chính là điều mà tác giả muốn gửi gắm cho chúng ta đừng để mất thời gian vô ích cho những cái “chùng chình”, “vòng vèo” trên đường đời mà hãy hướng tới những giá trị đích thực, giản dị, bền vững quanh ta.
Trong truyện, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng rất nhiều những hình ảnh, chi tiết mang tính biểu tượng, có sức chứa đựng khái quát về tư tưởng, chủ đề của truyện với hai lớp nghĩa: tả thực và tượng trưng. Mở đầu truyện là hình ảnh thiên nhiên rất đẹp, thơ mộng với bãi bồi bên kia sông Hồng của tiết trời đầu thu trong buổi sớm bình minh.
Đó chính là vẻ đẹp đời sống bình dị, thân thuộc, gần gũi quanh ta như bãi bồi, bến sông mà mở rộng ra là quê hương, làng xóm.
Những bông hoa bằng lăng cuối mùa còn sót lại trên cành xòe nở ra một màu tím thẫm; tiếng đất đá lở bên bờ sông, những cơn lũ đầu nguồn đổ về lúc gần sáng… có ý nghĩa biểu tượng cho sự sống của Nhĩ rất mong manh, lóe lên rồi vụt tắt trong những ngày cuối cùng của cuộc đời….Hình ảnh đứa con trai sà vào trò chơi phá cờ thế trên dọc đường biểu tượng cho sự “chùng chình”, “vòng vèo” trong cuộc sống mà con người khó có thể tránh khỏi, rứt ra được….
Có thể nói, với truyện ngắn “Bến quê”, Nguyễn Minh Châu đã sử dựng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thật tinh tế, thấm đượm tinh thần nhân đạo.
Nếu như các nhà văn xưa, khi đặt nhân vật trong hoàn cảnh phải đối diện giữa sự sống và cái chết thường hướng tới sức mạnh tinh thần, ý chí nghị lực để vươn lên, chiến thắng nỗi sợ hãi thông thường hay biểu trưng cho sự hi sinh lớn lao, cao cả, thiêng liêng như “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen – ri, “Tình yêu cuộc sống” của Giắc Lân – đơn …
Nguyễn Minh Châu lại không đi theo cái lối mòn ấy mà lại lựa chọn và xây dựng lên một tình huống khác lạ, độc đáo: đặt nhân vật vào hoàn cảnh sắp từ giã cõi đời để hướng tới sự chiêm nghiệm triết lí về con người và cuộc đời. Bởi khi con người từng trải đang sống nốt những giây phút ít ỏi còn lại của mình thì mới đủ chín chắn và trưởng thành để có thể đưa ra những bài học có tính chất tổng kết một cách sâu sắc về cuộc đời con người được.
Cách tư duy đó của nhà văn từ đó cũng giúp cho câu chuyện không chỉ tự nhiên mà còn trở nên thuyết phục, giàu tính nhân văn, nhân đạo hơn. Hay nói cách khác là nhà văn không trực tiếp giao giảng, áp đặt chân lí vào người đọc mà ngược lại thông qua một cuộc đời, một số phận con người để tự rút ra những suy ngẫm của riêng mình nhưng đó lại là suy nghĩ chung, phù hợp với tất cả mọi người.
Vì vậy, tuy nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng nhưng đã không bị biến thành “cái loa phát thanh” cứng nhắc cho tác giả mà ngược lại số phận, hoàn cảnh của nhân vật lại là “công cụ” đắc lực hợp tình hợp lí để truyền tải tư tưởng của Nguyễn Minh Châu.
Tóm lại, truyện ngắn “Bến quê” rất tiêu biểu cho nghệ thuật trần thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu, có sự kết hợp khéo léo giữa tự sự, trữ tình và triết lí. Đồng thời cho thấy tài năng dựng truyện tự nhiên, hợp lí, cách miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo, thể hiện được những suy ngẫm của nhân vật, kết hợp với những hình ảnh, chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng.
Từ đó, làm nổi bật tư tưởng, chủ đề mà tác giả gửi gắm. Khép lại “Bến quê” cũng như biết bao nhiêu những trang văn khác của Nguyễn Minh Châu, người đọc nhận ra những điều gửi gắm của nhà văn: con người cần phải nhìn lại mình, cần biết trân trọng những giá trị vững bền, bình dị của gia đình và quê hương mà ta đang có.
Phân Tích Bến Quê Ấn Tượng – Mẫu 2
Nguyễn Minh Châu là một cây bút nổi tiếng với những truyện ngắn ẩn chứa những tìm tòi quan trọng về tư tưởng và nghệ thuật góp phần đổi mới văn học nước nhà những năm 80 của thế kỉ XX đến nay. Truyện ngắn “Bến quê” trích trong tập truyện cùng tên của ông chứa đựng những suy ngẫm, trải đời, hơn cả đó là triết lý sống về con người và cuộc đời, thức tỉnh trong người đọc biết trân trọng giá trị cuộc sống và những vẻ đẹp bình dị.
Xây dựng nhân vật Nhĩ và đặt anh vào hoàn cảnh đặc biệt, tác giả đã rất thành công trong việc thể hiện quan điểm cũng như suy ngẫm của mình về triết lý cuộc sống. Nhân vật Nhĩ là điểm nhìn của truyện ngắn, câu chuyện được kể theo cái nhìn và tâm trạng, suy nghĩ và cảm nhận của nhân vật; cũng chính anh là người đã thức tỉnh, nhận ra triết lý sống đời người.
Nhân vật Nhĩ từng làm công việc được đi khắp đó đây, đặt chân tới khắp mọi miền xa lạ, ngắm biết bao cảnh đẹp trên thế giới thế nhưng khi cuối đời lại mắc phải căn bệnh hiểm nghèo, gắn chặt thân mình với giường bệnh không thể tự đi lại và sinh hoạt.
Khi nằm trên giường bệnh ở những năm tháng cuối đời, anh mới có cơ hội nhìn thấy và nhận ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, nơi đó có một vẻ đẹp gần gũi, bình dị và quen thuộc ấy vậy mà cả đời anh lại chưa từng đặt chân sang, cũng chẳng còn cơ hội để thực hiện điều đó.
Đó chính là một nghịch lý dễ thấy của cuộc đời, có thể bôn ba khắp muôn nẻo, tìm kiếm cái đẹp ở nơi xa xôi nhưng lại để lỡ nơi gần gũi nhất, nơi quê hương gắn bó. Khi Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông cũng chính là lúc anh cảm thấy xót xa, day dứt và nuối tiếc nhất, cũng chỉ khi nằm trên giường bệnh mọi sinh hoạt phụ thuộc hoàn toàn vào vợ con Nhĩ mới nhận ra vẻ đẹp tần tảo, hy sinh thầm lặng và lòng vị tha của vợ.
Anh nhận ra mình đã lãng quên, vô tâm với vợ, nhận ra mình đã bỏ lỡ những vẻ đẹp đáng quý của cuộc đời, anh cũng nhận ra rằng, chỉ có trải qua cuộc sống mới nhận ra được cái đẹp của những thứ bình dị trong cuộc sống. Con người ta thường mải miết tìm kiếm và chạy theo những cái mới mẻ, xa lạ mà dễ dàng quên đi những thứ gần gũi, bình dị ngay bên cạnh.
Khi nhận ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, Nhĩ khao khát cháy bỏng được một lần đặt chân lên đó nhưng chính anh cũng biết điều đó là không thể, anh nhờ con trai của mình thực hiện điều đó nhưng chính trong việc nhờ ấy anh lại nhận ra một triết lí rằng: “con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”.
Thằng bé cũng giống như anh hồi trẻ, chưa nhìn thấy gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông, vả lại nó bị cuốn hút bởi những ván cờ thế trên hè phố, giống như anh “đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được”. Đó chính là những cái vòng vèo, chùng chình cản trở trên đường đời mỗi người, anh đã trải qua những cái vòng vèo và chùng chình đó, là người từng trải nên anh cảm nhận được sự giàu có và vẻ đẹp của bãi bồi.
Sự thức tỉnh trong Nhĩ chính là sự thức tỉnh về giá trị hạnh phúc gia đình, cuộc đời của mỗi con người dù có trải qua bao nhiêu phong ba bão táp cũng chỉ có gia đình là bến đỗ bình yên và an toàn nhất, là nơi nương tựa duy nhất và vững chắc nhất.
Qua truyện ngắn “Bến quê”, ta cảm nhận được ý nghĩa triết lý đời người mà tác giả Nguyễn Minh Châu gửi gắm, quả thực trong cuộc đời mỗi người, không ai lại không gặp phải những cái gọi là “vòng vèo, chùng chình” đó chính là cám dỗ, mê hoặc của cuộc đời.
Con người ta vừa phải biết trân trọng những thứ giá trị của cuộc sống vừa phải thật mạnh mẽ, sáng suốt và tỉnh táo để vượt qua những cám dỗ đó, đặt chân tới những giá trị tươi đẹp của cuộc sống.
Phân Tích Bến Quê Đặc Sắc – Mẫu 3
Nguyễn Minh Châu là một cây bút văn xuôi rất xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1975, với những tác phẩm như Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng, Cửa sông mang tính chất sử thi, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện hình ảnh những con người tràn ngập cảm hứng lãng mạn, tươi tắn, trẻ trung.
Nhưng khi chiến tranh đã đi qua, anh đã nhìn ra được sự đổi thay của con người, những đời người nặng trĩu đau thương nhưng vẫn nồng nàn với cuộc sống. Nhà văn đã khám phá thế giới nội tâm ở mỗi con người trong những tình huống đầy nghịch lý. Bến quê – một truyện ngắn trong tập truyện cùng tên được xuất bản năm 1985 đã thể hiện điều đó.
Câu chuyện viết về số phận của Nhĩ, một người đàn ông đã từng được đi nhiều nơi, “đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất” nhưng lại quên cái vẻ đẹp bình dị và gần gũi nhất với mình đó là cái bãi bồi bên kia sông ngay trước cửa sổ nhà mình, nơi anh chưa một lần đặt chân đến. Khi Nhĩ bị liệt toàn thân, đối diện với cái chết, Nhĩ cảm thấy bãi bồi ấy thật ý nghĩa.
Một sáng mùa thu, khi hướng cái nhìn ra xa, anh bắt gặp bãi bồi bên kia sông Hồng, lòng trỗi dậy khát vọng được sang bên đó. Nhưng bệnh tật đã buộc chặt anh vào chiếc giường nhỏ bé, Nhĩ muốn nhích tới cửa sổ mà khó khăn như phải đi hết cả vòng trái đất. Thật là nghịch lý đáng buồn. Bãi bồi ở quê hương người vợ của anh thật gần mà anh không thể nào đến được.
Anh đã bỏ mất cơ hội của đời người, để rồi khi nhận ra thì đã muộn. Khát vọng cũng chỉ là khát vọng. Nhĩ chỉ còn hi vọng cậu con trai sẽ thay mình đi qua bên ấy, nhưng cậu con trai không đồng cảm với bố, nó sa vào một đám chơi cờ thế và để lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
Chính ở những ngày cuối đời, anh mới thực sự trân trọng cái bãi bồi ở quê hương, xứ sở, mới cảm nhận được vẻ đẹp của dòng sông Hồng uốn lượn, bầu trời cao rộng, bãi cát phẳng lì, những hàng cây bằng lăng tím nở hoa duyên dáng.
Đó là những cảnh vật rất gần gũi nhưng lại rất mới mẻ đối với Nhĩ, nó là vẻ đẹp của cuộc sống, vẻ đẹp bình dị của quê hương xứ sở mà Nhĩ có cảm giác như đã lãng quên trong cuộc đời. Khi nhận ra vẻ đẹp ấy thì anh không thể làm gì được nữa. Anh chỉ biết khát khao.
Có thể nói nghệ thuật xây dựng hình ảnh mang tính biểu tượng của nhà văn đã giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tâm lí nhân vật, khám phá nhiều điều trong tâm hồn một con người đang tàn tạ vì bệnh tật. Cũng ở những ngày cuối đời này, Nhĩ mới nhận ra cái tần tảo của vợ. Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liền đang mặc tấm áo vây cảm nhận những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai và Nhĩ đã nhận ra tất cả tình yêu thương, sự thầm lặng yêu thương của vợ.
Nhĩ đã thực sự biết ơn vợ, thấu hiểu tấm chân tình của vợ, nhưng khi hiểu ra thì sự sống của anh chẳng còn bao lâu nữa. Nhĩ cảm thấy mình quá vô tình với vợ, cũng như vô tình lãng quên vẻ đẹp của bãi bồi quê hương. Có lẽ khi còn trẻ, Nhĩ đã lao vào những ham muốn xa vời, từng trải trong cuộc đời nên thấm thía những buồn vui và cay đắng. Điều nghịch lí hơn nữa là hình ảnh tuyệt vọng của Nhĩ.
Niềm hi vọng duy nhất là nhờ cậu con trai giúp anh thỏa niềm mong ước cuối cùng, nhưng cậu con trai lại thực hiện một cách miễn cưỡng và còn bị cuốn hút vào trò chơi phá cờ thế trên đường. Có lẽ con trai chẳng thấy được vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, không thấy được cái đáng yêu của quê nhà nên mới chùng chình, vòng vèo như thế.
Hành động của cậu con trai phải chăng là hành động của Nhĩ ngày nào. Chính vì vậy Nhĩ đã suy ngẫm, nghĩ ra một triết lý sâu xa. Nhĩ chiêm nghiệm được cái qui luật phổ biến của đời người: Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái vòng vèo hoặc chùng chình.
Anh không trách đứa con trai bởi nó giống anh ngày trước. Anh chỉ biết ân hận, xót xa và tuyệt vọng. Xót xa vì khi còn trẻ không gắn bó với quê hương, gắn bó với gia đình, để đến khi cuối đời anh mới nhận ra quê hương và gia đình rất quan trọng đối với anh. Anh hiểu ra những giá trị bền vững, những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời thật ý nghĩa mà anh đã lãng quên.
Anh đã hướng tới những giá trị đích thực, hướng tới cái thực tại đầy ý nghĩa ở quanh mình. Đáng lí ra chính Nhĩ phải phát hiện từ sớm để gắn bó với quê hương, gia đình và người thân, gắn bó để cuộc đời Nhĩ có ý nghĩa hơn. Nhĩ cần thấy cái bến quê đáng yêu ở thời điểm sớm hơn để cuối cuộc đời không thấy tiếc.
Bến quê đã thành công nổi bật ở sự miêu tả tinh tế tâm lí và cảm nghĩ của nhân vật, thành công trong bút pháp xây dựng nhiều hình ảnh giàu tính biểu tượng, đặt nhân vật vào những tình huống đầy nghịch lí để khắc họa tính cách, tư tưởng của con người, cũng như thể hiện triết lí về cuộc đời.
Tác phẩm mang phong cách hiện đại, thể hiện những chiêm nghiệm, trăn trở của một nhà văn nặng lòng với cuộc sống mới sau chiến tranh. Tác phẩm đã minh chứng cho sự đổi thay của một thời kì văn học mới, văn học hiện đại Việt Nam.
Bến quê thức tỉnh mọi người ở sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị; gần gũi của gia đình và của quê hương. Rút ra bài học cuộc sống từ nhân vật Nhĩ, ta hãy sống cho thật ý nghĩa, đừng láng phí thời gian, đừng lãng phí tuổi trẻ. Hãy sống và cống hiến, sống có mục đích, có lí tưởng tốt đẹp.
Phân Tích Bến Quê Tiêu Biểu – Mẫu 4
Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông đã để lại cho văn học nước nhà một sự nghiệp thơ văn khá đồ sộ như : Bức tranh, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng… Đây là thời kỳ nhà văn đang “đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người” thời kỳ mà con người Việt Nam dường như chỉ sống trong lý tưởng và sống bằng lý tưởng.
Nhưng khi đất nước hòa bình, anh đã rất nhạy cảm và nhìn ra được những thay đổi của con người, những cuộc đời trĩu nặng đau thương nhưng nồng nàn khắc khoải với cuộc sống. Đọc “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm.
Tác phẩm được tạo nên bởi cốt truyện thật đơn giản nhưng cũng rất đặc biệt. Tác giả đặt nhân vật của mình vào một căn bệnh hiểm nghèo – đó là bị liệt toàn thân, không thể di chuyển được dù chỉ là nhích người trên giường bệnh.
Và anh làm một công việc để có điều kiện đi khắp nơi trên trái đất không xót một xó xỉnh nào. Một cách xây dựng rất tinh tế, ngay mở đầu câu chuyện đã thu hút bạn đọc phải tò mò đọc tiếp những tình huống, chi tiết của truyện.
Nhưng đâu chỉ dừng lại là tình huống trớ trêu ấy mà nhà văn xây dựng lên tình huống khác cũng đầy nghịch lý. Khi Nhĩ phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông, ngay phía trước cửa sổ nhà anh, nhưng anh biết rằng mình sẽ không bao giờ được đặt chân lên mảnh đất ấy cho dù nó ở rất gần anh, Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình cái điều khao khát ấy, nhưng rồi cậu ta lại xa vào một đám chơi cờ trên hè phố và làm lỡ chuyến đò sang sông duy nhất trong ngày.
Tạo ra một chuỗi những nghịch lý như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc đi đến nhận thức về cuộc đời : đời người chứa nhiều những bất thường, những nghịch lý rất ngẫu nhiên, không ai nói trước và khó tránh được sự vòng vèo đó.
Truyện mở đầu với hình ảnh, Nhĩ từ khung cửa sống của căn phòng đã nhìn thấy những cảnh vật vô cùng tươi đẹp và tràn trề sức sống. Từ gần tới xa Nhĩ nhận thấy : bông hoa bằng lăng tím, con sông Hồng như rộng ra, vòm trời như cao hơn, bãi bồi bên kia sông sao mà gần gũi thế…Một sự cảm nhận bình dị nhưng qua con mắt của một người đã từng đi khắp nơi nay bị bệnh thì lại khác.
Phải chăng, có như vậy tác phẩm mới diễn tả hết được những triết lý của cuộc đời và làm hiện lên một không gian có chiều sâu và chiều rộng. Không gian vẫn như xưa mà Nhĩ cảm thấy mới mẻ và giàu đẹp vô cùng. Qua đó tác phẩm muốn rút ra một triết lý cho cuộc đời : quê hương là máu thịt, là tâm hồn của chúng ta, hãy đừng vô tình mà phải biết gắn bó và trân trọng.
Trong mỗi chúng ta ai cũng biết rằng: gia đình, người thân là chỗ dựa tinh thần quan trọng nhất của cuộc đời ta. Đặc biệt đối với nhân vật Nhĩ thì Liên vợ anh là người chăm sóc, quan tâm đến anh nhiều nhất. Nhìn vợ bước xuống cầu thang anh đã xót xa “ suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm” , nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữa thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì.
Cái nghèo đã không che giấu được của cả gia đình, khi Nhĩ nhìn thấy “ Liên đang mặc áo vá”, cảm nhận “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai”. Và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu, sự tần tảo, đức hy sinh thầm lặng của người vợ.
Chính trong những ngày cuối đời, nhân vật mới thực sự thấu hiểu lòng biết ơn sâu sắc người vợ của mình“cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi phới bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hy sinh từ bao đời nay và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.”
Sang được bờ bên kia sông với Nhĩ vừa là ước mơ vừa là suy ngẫm về cuộc đời. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến. Nhĩ đã nhờ đứa con trai – niềm hy vọng của vợ chồng anh thực hiện ước mơ ấy.
Nhưng đứa con trai đã không hiểu được khát khao của người cha, nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị thu hút vào trò chơi hấp dẫn ngay bên hè đường “sà vào đám người chơi phá cờ thế bên hè”, để rồi làm lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.
Hình ảnh đứa con, hình ảnh của ước vọng từ “ cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo” cứ chập chờn, khi là đứa con, khi là chính nhân vật. Từ hoàn cảnh của mình, từ đứa con trai Nhĩ đã chiêm nghiệm được cái quy luật phổ biến của đời người “con người ta trên con đường đời thật khó tránh được những cái vòng vèo hoặc chùng chình”.
Nên anh cũng không trách đứa con trai của mình. Còn với đám trẻ con và ông giáo Khuyến, Nhĩ cũng đã nhận ra tình làng nghĩa xóm vô cùng ấm áp và cần thiết cho con người.
Miền đất bãi bồi bên kia sông cũng gợi trong Nhĩ bao suy ngẫm về cuộc đời thực. Cuộc đời thực ấy đối lập với sự cầu kỳ mà cần đến sự giản dị.Nhưng để hiểu được ý nghĩa của cuộc đời, người ta phải có con mắt xanh”, phải “in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia”.
Cái nghịch lý ấy không triết luận dài dòng mà nằm ngay trong tâm trạng giày vò “ mà lời lẽ không bao giờ giải thích hết giữa say mê và ân hận đau đớn”. Nhưng chặng đường đến với cuộc đời mỗi người lại chọn cho mình một cách riêng, và chặng đường ấy như cuộc chạy tiếp sức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Có thể nói truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu chứa đựng những suy ngẫm, những trải nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời. Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trong những vẻ đẹp bình dị nhưng thiêng liêng bền vững của cuộc sống, của quê hương gia đình.
Bên cạnh đó tác giả rất thành cồn ở cách xây dựng tình huống, nhân vật đặc sắc hấp dẫn. Ông như một ngôi sao vút qua bâu trời sáng lòa rồi tan biến vào cõi vĩnh hằng. Nhưng với di sản văn học của ông để lại cho đời, đặc biệt là truyện ngắn trên cũng đáng cho chúng ta tự hào.
Phân Tích Bến Quê Nổi Bật – Mẫu 5
Một tác phẩm văn học xuất sắc là một tác phẩm hướng đến những chân giá trị cao đẹp ở đời. Một tác phẩm hay phải chạm đến những rung cảm về cái đẹp, những cảm xúc thật và mang tầm tư tưởng lớn. Truyện ngắn Bến quê là một tác phẩm thành công của nhà văn Nguyễn Minh Châu, không chỉ lôi cuốn người đọc bởi tình huống sáng tạo, cốt truyện đơn giản nhưng hấp dẫn mà truyện còn mang đến những tư tưởng thấm đẫm triết lí trong cuộc đời mỗi con người.
Một tình huống đầy éo le đã xảy ra với Nhĩ, cuộc đời Nhĩ đã đi nhiều nơi trên thế giới nhưng những ngày cuối cùng vì mắc căn bệnh hiểm nghèo ông buộc phải chôn chân mình trên giường bệnh.
Cũng từ đây, ông nhận ra giá trị đích thực của cuộc sống không phải là những mộng ước xa vời, viễn vông, không phải là những thứ xa xôi hay những điều to lớn. Mà hạnh phúc chính bắt nguồn từ những điều đơn giản, bình dị trong cuộc sống, những thứ quanh ta mới là điều đẹp đẽ và đáng trân trọng.
Lúc trên giường bệnh, ông mới thấu hiểu hết những vất vả cực nhọc của Liên- người vợ của mình. Ông chưa bao giờ thấy thương Liên như lúc này. Một người vợ tần tảo, chịu thương chịu khó, chăm lo cho Nhĩ từng li từng tí. Nhìn đôi bàn tay gầy guộc của vợ, mảnh áo vá Liên mặc Nhĩ càng chưa xót hơn bao giờ hết.
“Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm…mà em vẫn cứ nín thinh.
Có hề sao đâu, miễn anh sống là được, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong ngôi nhà này…”
Liên – một cô gái thành phố, lấy Nhĩ về quê mà vẫn mang trong mình nét tần tảo, sự chịu đựng và đức hi sinh cao cả. Từng bước chân nhẫn nại, từng lời nói nhẹ nhàng và chịu đựng đủ để biết Liên đã yêu anh biết nhường nào, anh hiểu hết. Dường như, sau những mệt mỏi của cuộc hành trình tìm kiếm những khao khát của tuổi trẻ thì cuối cùng, gia đình vợ và con chính là điểm tựa duy nhất cho những ngày cuối đời của Nhĩ.
Nhĩ là một người từng bay những chuyến bay với khoảng cách cả nửa vòng trái đất. Vậy mà giờ đây, lại không thể nhấc nổi mình cho vài bước chân đơn giản. Ngồi trong tấm phản nhìn ra ngoài cửa sổ, Nhĩ thấy những bông bằng lăng tím đến màu đỏ nhạt của con sông Hồng, vòm trời cao và bãi bồi bên kia sông, tất cả dường như rất đỗi gần gũi nhưng với Nhĩ lại quá xa lạ.
Trong mắt Nhĩ bây giờ, cảnh vật buổi sáng cuối thu đẹp hơn, trong hơn và hấp dẫn lạ kì, nó mang một vẻ đẹp rất riêng mà chỉ mình Nhĩ mới thấy, chỉ mình Nhĩ mới có những cảm xúc như thế. Một vẻ đẹp mà sau bao nhiêu năm cho đến bấy giờ Nhĩ mới nhận ra nó, khát khao và đam mê nó, chính điều đó đã thôi thúc ước muốn được đặt chân lên bãi bồi bên kia song của Nhĩ.
Cách nhìn nhận đó giúp ta thấy được trong tâm hồn nhân vật Nhĩ là một niềm tha thiết với cuộc sống, một sự rung động trước vẻ đẹp thân thuộc của thiên nhiên quê hương mình.
Không thể dịch chuyển bản thân mình trên giường bệnh, Nhĩ phải nhờ sự giúp đỡ của những đứa trẻ con hàng xóm và người thân của mình. Điều Nhĩ khao khát bây giờ là được sang bãi bồi bên kia sông nhưng Nhĩ lại không thể thực hiện được mà gửi gắm nguyện vọng ấy vào đứa con của mình.
Nhưng chính đứa con lại mải mê sa vào đám chơi phá cờ trên hè phố của lũ trẻ mà để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Dù Nhĩ đã nôn nóng, thúc giục nhưng chính những cám dỗ xung quanh, những ham thích của tuổi nhỏ mà cuối cùng Nhĩ chẳng thể thực hiện được ước mơ tưởng chừng đơn giản như thế.
Bến quê đã thành công trong việc xây dựng những hình ảnh giàu tính biểu tượng. Hình ảnh bãi bồi bên kia sông mang ý nghĩa biểu trưng cho những vẻ đẹp giản dị, gần gũi của quê hương đối với mỗi người mà ở đó chúng ta cần trân trọng, hướng về và gìn giữ.
Hình ảnh những bó hoa bằng lăng cuối mùa, màu sông Hồng nhạt dần hay tiếng sạt lở bờ đất gợi lên những bất trắc của cuộc đời con người mà Nhĩ là hiện thân cho những gập ghềnh, chông chênh cho sự sống mong manh đó.
Hành động Nhĩ đưa tay khoát khoát như đang giục giã cậu con trai đi cho kịp chuyến đò nhằm thức tỉnh mọi người về những điều vòng vèo, chùng chình, những khó khăn, cám dỗ của cuộc sống để hướng tới những chân giá trị bền vững. Từ đó, tác phẩm đã mang lại cho người đọc những chiều sâu triết lí chiêm nghiệm đầy sâu sắc. “Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình”.
Trong cuộc sống, đôi khi có những điều bất ngờ xảy ra mà ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Những điều bất thường và những nghịch lí đó mang đến cho chúng ta nhiều điều mà vốn dĩ ta chưa thể nắm bắt hay kiểm soát.
Khi đã từng trải hoặc vào một lúc nào đó bạn chợt nhận ra giá trị đích thực thì lúc đó bạn đã không còn khả năng để thực hiện. Bởi vậy, ngày lúc này, chúng ta nên biết trân trọng những điều gần gũi, tốt đẹp và bình dị quanh ta.
Những điều đó, đôi khi vì một vài lí do hay những chật vật của cuộc sống mà chúng ta vô tình bỏ qua, không trân trọng hay thậm chí thờ ơ với nó. Nhưng cuối cùng, những chân giá trị lại đến từ đó. Và hơn hết, điều quý giá nhất trong cuộc đời mỗi con người là quê hương, là gia đình, đó là những chỗ dựa bền vững nhất cho chúng ta.