Thơ Trương Hán Siêu: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Thơ Trương Hán Siêu ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ ✅ Cùng Tìm Hiểu Về Cuộc Đời, Sự Nghiệp, Phong Cách Làm Thơ Của Trương Hán Siêu.

Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Trương Hán Siêu

Trương Hán Siêu là một danh sĩ nổi tiếng đời Trần, kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài Bạch Đằng giang phú được lưu truyền đến ngày nay. Nếu bạn muốn tìm hiểu sâu hơn về tiểu sử cuộc đời Trương Hán Siêu thì hãy tham khảo các thông tin sau nhé!

  • Trương Hán Siêu (không rõ năm sinh – mất năm 1354) tên tự là Thăng Phủ, hiệu là Độn Tẩu.
  • Ông quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình).
  • Trương Hán Siêu là người học vấn sâu rộng. Ông đã đem hết tài năng tâm huyết ra phục vụ cho non sông đất nước. Là người tính tình thẳng thắn bộc trực, cho nên cuộc đời làm quan của ông không ít thăng trầm.
  • Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách của Trần Quốc Tuấn, tính tình cương nghị. Ông tham dự cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba.
  • Trương Hán Siêu là nhà chính trị, nhà thơ, nhà sử học danh tiếng, học thức sâu rộng, được các vua Trần luôn tôn gọi là Thầy chứ không gọi tên húy. Ông từng làm nhiều chức quan trải suốt 4 đời vua nhà Trần:
    • Năm 1308, vua Trần Anh Tông phong Trương Hán Siêu làm Hàn lâm học sĩ.
    • Năm, 1314, vua Trần Minh Tông phong Trương Hán Siêu giữ chức Hành khiển.
    • Năm 1339, vua Trần Hiến Tông phong Trương Hán Siêu làm môn hạ hữu ty lang trung.
    • Năm 1342, vua Trần Dụ Tông phong Trương Hán Siêu làm tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng Giang, rồi thăng tả gián nghị đại phu năm 1345 và năm 1351 làm tham tri chính sự.
    • Năm Quý Tỵ 1353, ông lãnh quân Thần sách ra trấn nhậm ở Hóa Châu (Huế), giữ đất này yên ổn.
  • Tháng 11 năm sau, ông bị bệnh nặng nên cáo bệnh xin về nhưng chưa đến kinh đô ông đã qua đời.
  • Năm 1363, thượng hoàng Trần Nghệ Tông truy tặng Trương Hán Siêu chức thái phó và được thờ ở Văn Miếu quốc gia (từ năm 1372), ngang với các bậc hiền triết đời xưa.

Tìm hiểu thêm 🔰Thơ Nguyễn Trãi🔰Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Trương Hán Siêu

  • Trương Hán Siêu là người có học vấn sâu rộng, giàu lòng yêu nước, được các vua đời Trần tôn quý như bậc thầy. Thời trẻ, ông bài xích (phản đối) Phật, nhưng vua không trách, còn bổ ông làm quản tự cho một ngôi chùa lớn. Về cuối đời, ông lại là người sùng đạo Phật và những sáng tác của ông cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng này.
  • Các tác phẩm nổi tiếng của ông: Cúc hoa bách vịnh, Hoá Châu tác (Thơ làm ở Hoá Châu), Dục Thuý sơn (Núi Dục Thuý sơn), Quá Tống đô (Qua kinh đô nhà Tống).
  • Về văn xuôi Trương Hán Siêu có 2 bài: Khai Nghiêm tự bi ký (Văn bia chùa Khai Nghiêm) và Dục Thuý sơn linh tế tháp ký (Bài ký tháp linh tế núi Dục Thuý sơn), hai bài đều được viết bằng chữ Hán.
  • Ông còn soạn Linh tế thập ký (bài ký tháp Linh Tế), Quang nghiêm tự bi văn (bài văn bia chùa Quang Nghiêm). Hai bài đó có đề cao Nho học và phê phán Phật giáo.
  • Ngoài ra Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn còn hợp soạn bộ Hoàng triều đại điển và Hình thư đặt nền tảng cho chế độ Phong kiến Việt Nam vận hành theo pháp luật.
  • Trong đó, Bạch Đằng Giang phú được xem là tác phẩm xuất sắc nhất của Trương Hán Siêu, đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí – Trần, một đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học và được xem là một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Bạch Đằng giang phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lí nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam.

Phong Cách Sáng Tác Của Trương Hán Siêu

Dưới ngòi bút khách quan của mình Trương Hán Siêu đã cho ra những tác phẩm văn học nổi tiếng với nhiều chủ đề và thể loại khác nhau. Tuy nhiên, phong cách sáng tác của ông nhìn chung vẫn là thể hiện niềm tự hào, lời ngợi ca của dân tộc đối với những con người trong lịch sử.

  • Những áng văn mẫu mực mang tinh thần thời đại của ông là cảm hứng yêu nước cho bao thế hệ trẻ học tập và phát huy.
  • Cuối đời, ông là người sùng đạo Phật và những sáng tác của ông lúc này cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng này.

Đọc thêm về ❤️️Thơ Nguyễn Du ❤️️Chùm thơ hay đặc sắc

Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Nhà Thơ Trương Hán Siêu

Tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ, danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu:

  • Bạch Đằng giang phú
  • Cố tích thần từ bi ký
  • Cúc hoa bách vịnh kỳ 1
  • Cúc hoa bách vịnh kỳ 2
  • Cúc hoa bách vịnh kỳ 3
  • Cúc hoa bách vịnh kỳ 4
  • Dục Thuý sơn
  • Dục Thuý sơn Linh Tế tháp ký
  • Hoá Châu tác
  • Khai Nghiêm tự bi ký
  • Quá Tống đô
  • Linh tế thập ký
  • Quang nghiêm tự bi văn
  • Hoàng triều đại điển
  • Hình thư

8+ Bài Thơ Hay Nhất Của Thi Sĩ Trương Hán Siêu

Trương Hán Siêu không sáng tác nhiều thơ, trong các tác phẩm của ông còn lại đến ngày nay thì có 8 bài thơ nổi tiếng hay nhất sau đây, mời bạn cùng đón đọc:

Cúc Hoa Bách Vịnh Kỳ 1

菊花百詠其一

雨餘開圃移根種,
霜後巡籬摘蕊收。
莫道幽人閒懶散,
一年忙處是深秋。

Phiên âm:

Vũ dư khai phố di căn thực,
Sương hậu tuần ly trích nhị thu.
Mạc đạo u nhân nhàn lãn tán,
Nhất niên mang xứ thị thâm thu.

Dịch thơ:

Mưa tạnh ra vườn tỉa gốc trồng,
Sương gieo, quanh giậu lượm từng bông.
Chớ rằng nhàn ẩn nên lười nhác,
Bận rộn khi ngày sắp tới đông.

Cúc Hoa Bách Vịnh Kỳ 2

菊花百詠其二

一秋多雨又多風,
豈意秋花尚滿叢。
應是天工憐冷落,
故留寒蕊伴衰翁。

Phiên âm:

Nhất thu đa vũ hựu đa phong,
Khởi ý thu hoa thượng mãn tùng.
Ưng thị thiên công liên lãnh lạc,
Cố lưu hàn nhị bạn suy ông.

Dịch thơ:

Thu nay mưa gió loạn cuồng,
Mà sao cúc vẫn đầy vườn trổ bông.
Phải chăng trời cũng chiều lòng,
Cho loài hoa rét bạn cùng già nua.

Cúc Hoa Bách Vịnh Kỳ 3

菊花百詠其三

重陽時節今朝是,
故國黃花開未開。
卻憶琴樽前日雅,
幾回搔首賦歸來。

Phiên âm:

Trùng dương thời tiết kim triêu thị,
Cố quốc hoàng hoa khai vị khai.
Khước ức cầm tôn tiền nhật nhã,
Kỷ hồi tao thủ phú quy lai.

Dịch thơ:

Sớm nay vừa tiết trùng dương,
Chẳng hay quê cũ hoa vàng nở chưa?
Rượu đàn trạnh nhớ thú xưa,
Vò đầu, mấy bận làm thơ “đi về”.

Cúc Hoa Bách Vịnh Kỳ 4

菊花百詠其四

去年今日有花多,
對客愁無酒可賒。
世事相違每如此,
今朝有酒卻無花。

Phiên âm:

Khứ niên kim nhật hữu hoa đa,
Ðối khách sầu vô tửu khả xa.
Thế sự tương vi mỗi như thử,
Kim triêu hữu tửu khước vô hoa.

Dịch thơ:

Hoa tươi, năm ngoái ngày này,
Ngồi suông với bạn, rượu bày có đâu!
Việc đời thường trái ngược nhau
Bửa nay sẵn rượu, lại sầu không hoa.

Dục Thuý Sơn

浴翠山

山色尚依依,
遊人胡不歸。
中流光塔影,
上界塏岩扉。
浮世如今別,
閒名悟昨非。
五湖天地闊,
好訪舊漁磯。

Phiên âm:

Sơn sắc thượng y y,
Du nhân hồ bất quy?
Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi.
Phù thế như kim biệt,
Nhàn danh ngộ tạc phi.
Ngũ hồ thiên địa khoát,
Hảo phỏng cựu ngư ky.

Dịch thơ:

Xanh xanh sắc núi đợi chờ,
Cớ sao du tử còn chưa trở về?
Long lanh bóng tháp in kề,
Cửa hang mổ lối mây che thượng tầng.
Lòng ta đã sạch bụi trần,
Phù sinh, nay tỏ nẻo lầm lạc xưa.
Mênh mông sóng nước Ngũ Hồ,
Hãy tìm phiến đá ven bờ buông câu.

Hoá Châu Tác

化州作

玉京回首五雲深,
零落殘生苦不禁。
已辨荒郊埋病骨,
海天草木共愁吟。

Phiên âm:

Ngọc kinh hồi thủ ngũ vân thâm,
Linh lạc tàn sinh khổ bất câm (cấm).
Dĩ biện hoang giao mai bệnh cốt,
Hải thiên thảo mộc cộng sầu ngâm.

Dịch thơ:

Ngoảnh lại năm mây phủ đế đô,
Hồn tàn bao xiết khổ bơ vơ.
Thôi đành cõi rậm vùi xương bệnh,
Cây cỏ chung sầu cũng hoạ thơ.

Quá Tống Đô

過宋都

艮岳神霄失故基,
茫茫煙草沒狐狸。
政經王蔡誰為厲,
事到徽欽亦可悲。
南渡重興能幾日,
中原恢復已無期。
惟餘城闕連雲外,
空使行人賦黍離。

Phiên âm:

Cấn nhạc Thần Tiêu thất cố ky,
Mang mang yên thảo một hồ li.
Chính kinh Vương, Thái thuỳ vi lệ,
Sự đáo Huy, Khâm diệc khả bi.
Nam độ trùng hưng năng kỷ nhật,
Trung nguyên khôi phục dĩ vô kỳ.
Duy dư thành khuyết liên vân ngoại,
Không sử hành nhân phú “Thử ly”.

Dịch thơ:

Núi Cấn cung Thần đã mất rồi,
Mênh mông cỏ biếc cáo chồn chui.
Quyền sa Vương, Thái nên nghiêng ngửa,
Việc đến Khâm, Huy đáng ngậm ngùi.
Vạc chuyển trời Nam, Thôi lỡ hội,
Gươm thu đất Bắc đã qua thời.
Ngoài mây thành khuyết, ôi đâu tá?
Thơ khách thương cho lúa tốt bời.

Bạch Đằng Giang Phú

白藤江賦

客有:
掛汗漫之風帆,
拾浩蕩之海月。
朝嘎舷兮沅湘,
暮幽探兮禹穴。
九江五湖,
三吳百粵。
人跡所至,
靡不經閱。
胸吞雲夢者數百而,
四方壯志猶闕如也。
乃舉楫兮中流,
縱子長之遠遊。
涉大灘口,
溯東潮頭。
抵白藤江,
是泛是浮。
接鯨波於無際,
蘸繇尾之相繆。
水天一色,
風景三秋。
渚获岸蘆,
瑟瑟颼颼。
折戟沉江,
枯骨盈丘。
慘然不樂,
佇立凝眸。
念豪傑之已往,
嘆蹤跡之空留。
江邊父老,
謂我何求。
或扶黎杖,
或棹孤舟。
揖余而言曰:
此重興二聖擒烏馬兒之戰地,
與昔時吳氏破劉弘操之故洲也。
當期:
舳艫千里,
旌旗旖旎。
貔貅六軍,
兵刃蜂起。
雌雄未決,
南北對壘。
日月昏兮無光,
天地凜兮將毀。
彼:
必烈之勢強,
劉龔之計詭。
自謂投鞭,
可掃南紀。
既而:
皇天助順,
凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,
符堅合淝之陣須臾送死。
至今江流,
終不雪恥。
再造之功,
千古稱美。
雖然:
自有宇宙,
故有江山。
信天塹之設險,
賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂,
濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,
猶大王之賊閒。
英風可想,
口碑不刊。
懷古人兮隕涕,
臨江流兮厚顏。
行且歌曰:
大江兮滾滾,
洪濤巨浪兮朝宗無盡。
仁人兮聞名,
匪人兮俱泯。
客從而賡歌曰:
二聖兮並明,
就此江兮洗甲兵。
胡塵不敢動兮,千古昇平。
信知:不在關河之險兮,
惟在懿德之莫京。

Phiên âm:

Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu,
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
“Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã.”
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:
Tất Liệt chi thế cường,
Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
Hung đồ phi mỵ.
Mạnh Đức Xích Bích chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái bạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
“Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn.”
Khách tòng nhi canh ca viết:
“Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh.”

Dịch thơ:

Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh: ba thu.
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bên sông bô lão hỏi, hỏi ý ta sở cầu?
Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao, Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.

Đón đọc thêm 🔰Thơ Nguyễn Công Trứ 🔰 Tác giả, tác phẩm

Những Đánh Giá, Nhận Định Về Nhà Thơ Trương Hán Siêu

Dưới đây là những đánh giá, nhận định về nhà thơ Trương Hán Siêu, bạn có thể đọc thêm để hiểu hơn về vị danh nhân văn hóa này.

  • Lược truyện các tác giả Việt Nam viết: Trương Hán Siêu “Lập được nhiều công trạng trong 2 trận đánh giặc Nguyên; Từ điển văn học ghi: Trương Hán Siêu “có ít nhiều đóng góp trong 2 cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ 2 và thứ 3”.
  • Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.
  • Triều đại nhà Trần rất giàu có các danh nhân không chỉ trong những võ công giữ nước mà cả trong tư duy sáng suốt anh minh. Một trong những bậc hào kiệt nổi bật về trí tuệ của triều đại nhà Trần là Trương Hán Siêu. – Nhà báo Lưu Hùng Văn
  • Sử cũ đánh giá Trương Hán Siêu là một người tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm, rất có tài văn chương và chính sự. Nhà vua sinh thời luôn luôn gọi ông bằng thầy chứ không bằng tên….

Sưu tầm thêm 🔰Thơ Đặng Trần Côn🔰 Tác Giả, Tác Phẩm Nổi Tiếng

Viết một bình luận