Thơ Tú Mỡ: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Thơ Tú Mỡ ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay ✅ Tặng Bạn Chùm Thơ Hay Nhất Của Thi Sĩ Tú Mỡ, Đón Đọc Ngay.

Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Tú Mỡ

Tú Mỡ hay Hồ Trọng Hiếu là một trong những nhà thơ nổi tiếng Việt Nam. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, mang đến cho độc giả nhiều cảm xúc trong thơ ca. Để tìm hiểu thêm về tiểu sử cuộc đời tác giả Tú Mỡ thì hãy xem ngay phần chia sẻ sau đây nhé!

  • Tú Mỡ tên thật là Hồ Trọng Hiếu (14/3/1900 – 13/7/1976) là một nhà thơ trào phúng Việt Nam. “Tú Mỡ” hay “Bút Chiến Đấu” đều là bút danh của Hồ Trọng Hiếu do thời vận mà thành.
  • Ông sinh ra tại phố Hàng Hòm (Hà Nội), trong một gia đình lao động nghèo ở thành thị (tiểu thủ công).
  • Lên 5 tuổi, ông học chữ Hán với ông nội. Khi ông nội mất, ông mới học chữ quốc ngữ với thầy giáo Quý ở phố Hàng Mành.
  • Mới chỉ học được một năm, ông xin chuyển vào học trường nhà nước ở phố Hàng Bông, tiếp đến là trường ở Hàng Vôi.
  • Năm 1914, lúc đó ông 14 tuổi và đỗ đầu bằng sơ học Pháp-Việt, nên năm sau được vào học tại trường Bưởi (nay là Trung học phổ thông Chu Văn An), chung với Hoàng Ngọc Phách.
  • Năm 18 tuổi, Tú Mỡ đỗ bằng Thành Chung và cuối năm đó, ông xin vào làm (thư ký) trong Sở Tài chính (Hà Nội) cho đến Cách mạng tháng Tám (1945).
  • Năm 1926, ông bắt đầu có thơ đăng trên Việt Nam thanh niên tạp chí, Tứ dân tạp chí.
  • Năm 1932, Tú Mỡ tham gia Tự Lực văn đoàn, rồi được cử phụ trách mục Giòng nước ngược trên tờ Phong Hóa, một tờ báo chuyên về văn chương, hài hước và trào phúng của bút nhóm này.
  • Tháng 12/1946, ông lên chiến khu và tham gia kháng chiến bằng ngòi bút trào phúng sở trường của mình. Lúc này, Tú Mỡ ký tên là Bút Chiến Đấu.
  • Năm 1954, chiến tranh kết thúc, ông vẫn tiếp tục sáng tác phục vụ cuộc đấu tranh trong giai đoạn mới.
  • Năm 1957, ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, và làm Ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam.
  • Tú Mỡ mất ngày 13 tháng 7 năm 1976, tại Bệnh viện Hữu nghị Việt- Xô, Hà Nội, hưởng thọ 76 tuổi.

Giới thiệu thêm 🔰Thơ Trần Nhuận Minh🔰 Tuyển Tập Thơ Hay

Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Tú Mỡ

Gửi bạn những thông tin chi tiết về sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tú Mỡ.

  • Không biết vì cơ duyên nào, năm lên 16 tuổi, Trọng Hiếu bắt đầu “nhiễm chứng” làm thơ. Ông đã kể lại một cách rất hồn nhiên và hóm hỉnh trong hồi ký của mình rằng: “… tôi quyết tâm học làm thơ. Trước hết tôi mua bộ Hán- Việt văn khảo để nghiên cứu các thể thơ ca, từ, phú, rồi mua những tập thơ của nữ sĩ họ Hồ tên Xuân Hương, rồi đến Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Trần Tuấn Khải… những tác phẩm mà tôi thích đọc nhất…”. Đấy toàn là những bậc thơ tài danh đất Việt… ”.
  • Năm 17 tuổi (1917), ông bắt đầu yêu một cô gái 15 tuổi ở Hàng Bông, làm được bài thơ tình đầu tiên (theo thể thất ngôn bát cú) có tên là Tương tư, bị Hoàng Ngọc Phách chê là sáo…
  • Theo các nhà nghiên cứu văn học, thì với gần nửa thế kỷ cầm bút bền bỉ, Tú Mỡ đã có những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của thơ ca, đặc biệt về thể loại thơ trào phúng, thời nào ông cũng là bậc thầy.
  • Là một nhà thơ trào phúng cự phách, người đại diện duy nhất của dòng thơ này được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
  • Tú Mỡ là một nhà thơ đã cống hiến cả đời cầm bút của mình cho nghệ thuật trào phúng. Ông là cây bút tài năng và có sức viết đổi dào nhất trong dòng sông trào phúng ở nước ta thế kỷ XX. 

Các tác phẩm tiêu biểu:

  • Thơ: Nụ cười kháng chiến, Đòn bút, Ông và cháu, Anh hùng vô tận, Bút chiến đấu,…
  • Nghiên cứu: Bước đầu viết chèo.
  • Diễn ca, chèo, tuồng: Trung du cười chiến thắng, Tấm Cám, Nhà sư giết giặc, Dân tộc vùng lên.

Vinh danh:

  • 1951: Giải nhất về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam.
  • 1955: Giải nhì về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam
  • 2000: Được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II

Phong Cách Sáng Tác Của Tú Mỡ

Về phong cách sáng tác của Tú Mỡ, nhắc đến ông người đọc thường nhớ đến một nhà thơ có tài trào phúng với lối viết hài hước, dí dỏm trong tác phẩm của mình. 

Có thể nhận thấy, qua các tập thơ của Tú Mỡ, người đọc luôn thấy hiện lên từ sáng tác của ông một chân dung tác giả thật nhân hậu, chan chứa tình yêu thương, một phong cách sống gần gũi với người lao động bình thường. 

Đón đọc thêm 🍃Thơ Sóng Hồng🍃Tác giả, tác phẩm

Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Nhà Thơ Tú Mỡ

Tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ Tú Mỡ. Theo dõi ngay chia sẻ sau đây để biết chi tiết:

Tuyển Tập Thơ

*Giòng nước ngược

  • Nhớ thời oanh liệt
  • Tu tiên

+Tập I (1934)

  • “Điếu” đức tụng
  • “Phở” đức tụng
  • Bài phú “thầy phán”
  • Bầu cử
  • Bốn lần đi thi
  • Chồng gàn
  • Duyên con vồ
  • Giầu và nghèo
  • Hồ Gươm phú
  • Hư danh
  • Khai bút rông
  • Khuyên ai kén vợ
  • Kiệu bay
  • Kinh tế khủng hoảng phú
  • Mề đay
  • Mỡ mà chẳng… mỡ
  • Mười thương
  • Nhắn nhủ ông nghị
  • Ông cụ non
  • Ông nghị đi hội đồng về
  • Phụ bạc
  • Quan phán
  • Trời đầy Nguyễn Khắc Hiếu
  • Tú Mỡ với Quan Ôn
  • Tủi cho bà Tú Mỡ
  • Tự thuật
  • Văn tế bảo hộ
  • Vợ chồng đời nay
  • Xoay hòn đất

+Tập II (1941)

  • Bút sắt cưới bút lông
  • Các quan được tăng lương
  • Thiên tai

+Tập III (1945)

  • Dân ngu phú
  • Đóng thuế thân
  • Mừng ông Hàn La và ông Cửu Bổng
  • Ông Táo xin miễn chầu
  • Phu kéo xe
  • Tầu bay bảo hộ
  • Tượng lo

*Các tác phẩm khác

  • …Và ông già trẻ
  • “Sư cậu” đi hát ả đào
  • Bé Nguyệt làm thơ
  • Bốn cái mong của thầy phán
  • Các ông nghị đi xem đồn điền di dân
  • Cái búp tăng gia
  • Cảnh sướng về hưu
  • Câu chuyện “Tướng đi ỉa”
  • Cháu là thanh niên
  • Còn say
  • Dạy búp bê
  • Gây quan
  • Ghét Tết
  • Hai chiến công oanh liệt của giặc Pháp
  • Hát sẩm
  • Hoạ “Gửi đùa bác Tú Mỡ” chơi
  • Khóc người vợ hiền2
  • Khoe lười
  • Không phải thiến
  • Lại thăm bác Tản Đà
  • Lỡm cô Ngọc Hồ
  • Lý Toét đặt tên con
  • Một trò chơi không thành
  • Mời vọng Tản Đà
  • Mùa xuân
  • Nàng Thơ của tôi
  • Ông là “Ông… thợ cạo”
  • Ông trẻ già
  • Ông và cháu
  • Sư cô ở cữ
  • Tam khí de Tassigny
  • Tản Đà cốc tử
  • Thân gửi Ngân Giang nữ sĩ
  • Thề đi
  • Thủ trưởng… tại gia
  • Thương ông
  • Tiếng gọi của Nàng Thơ
  • Tính công với bà nó
  • Tôi đi bầu nghị viện
  • Trách giăng già
  • Tú Mỡ và giải Nobel: Lấy vợ cho Hitler
  • Tứ đại của Bà lớn
  • Tương tư
  • Văn tế Phong hoá tuần báo viếng An Nam tạp chí
  • Vịt con trong vườn trẻ

Diễn Ca, Chèo, Tuồng

  • Rồng nan xuống nước (tuồng, 1942)
  • Địch vận diễn ca (diễn ca, 1949),
  • Trung du cười chiến thắng (thơ, chèo, hát xẩm, 1953)
  • Tấm Cám (chèo, 1955)
  • Nhà sư giết giặc (chèo, 1955)
  • Dân tộc vùng lên (diễn ca, 1959),…

Nghiên Cứu

  • Bước đầu viết chèo (1952)

15+ Bài Thơ Hay Nhất Của Thi Sĩ Tú Mỡ

Cùng điểm qua danh sách 15 bài thơ hay nhất của thi sĩ Tú Mỡ:

Thương Ông

Ông bị đau chân
Nó sưng nó tấy
Đi phải chống gậy
Khập khiễng, khập khà
Bước lên thềm nhà
Nhấc chân quá khó
Thấy ông nhăn nhó
Việt chơi ngoài sân
Lon ton lại gần,
Âu yếm, nhanh nhảu:
“Ông vịn vai cháu,
Cháu đỡ ông lên.”

Ông bước lên thềm
Trong lòng sung sướng
Quẳng gậy, cúi xuống
Quên cả đớn đau
Ôm cháu xoa đầu:
“Hoan hô thằng bé!
Bé thế mà khoẻ
Vì nó thương ông.”

Đôi mắt sáng trong
Việt ta thủ thỉ:
“Ông đau lắm nhỉ?
Khi nào ông đau
Ông nhớ lấy câu
Bố cháu vẫn dạy
Nhắc đi nhắc lại:
– Không đau! Không đau!
Dù đau đến đâu,
Khỏi ngay lập tức.”

Tuy chân đang nhức,
Ông phải phì cười:
“Ừ, ông theo lời
Thử xem có nghiệm”
Ông bèn nói liền:
“Không đau! Không đau!”
Và ông gật đầu:
“Khỏi rồi! Tài nhỉ!”
Việt ta thích chí:
“Cháu đã bảo mà…!”
Và móc túi ra:
“Biếu ông cái kẹo!”

“Sư Cậu” Đi Hát Ả Đào

Có hai “sư cậu” chùa Bà,
Ăn no rửng mỡ la cà rong chơi.
Tịnh chay mãi cũng chán đời,
Nên sư phá giới nếm mùi phong lưu.
Lần mò đến xóm hồng lâu,
Ở Ngã Tư Sở, cô đầu tìm chơi.
Kinh ân ái, tượng mày ngài,
Sư đang tụng niệm lả lơi với tình.
Ngón chầu tom chát đang xinh,
Bỗng thầy chánh tổng thình lình tạt qua.
Nhác trông bóng sãi kề hoa,
Bạch sư hổ lửa: “Đâu mà đến đây?”
Sư rằng: “Chơi gió, chơi mây,
Nhỡ đường vào tạm chốn này trú chân,
Rượu chay nhấp chén tẩy trần,
Hát chay di dưỡng tinh thần miên man.”
Thầy chánh đe giải lên quan,
Lưỡng sư xanh mắt, kêu van, nằn nì.
Chắp tay, rồi lạy, rồi quỳ,
Sì sà sì sụp như kỳ dâng sao.
Rằng: “Nay trong cuộc tiêu dao,
Ma vương đưa lối lạc vào xóm hoa.
Lần này chót dại xin tha,
A di đà phật! Đến già xin tu!”

Các Ông Nghị Đi Xem Đồn Điền Di Dân

Người ta mời các nghị viên,
Lên Yên Bái xem đồn điền di dân.
Có quan Công sứ đại thần,
Mới về nhà “xẹc” ân cần thết cơm.
Cần thường đặc biệt An Nam
Cỗ tuy lòng dấm, món làm cũng thơm.
Nào là lòng lợn mắm tôm,
Nào là bò tái chấm tương điểm gừng.
Thịt dê nướng chả thơm lừng,
Tiết dê pha rượu vô cùng bổ dương.
Vịt hầm nhừ biến cả xương,
Thịt nhồi mộc nhĩ nấm hương ngon lành.
Cỗ bàn đủ cả tam sinh,
Rượu ngon nhắm tốt thoả linh các ngài.
Bữa nay được dịp trổ tài,
Với thời khí vụng ăn thời rất hay.
Của ngon thức thức sẵn bày,
Bát này đĩa nọ hết bay rầm rầm!
Tiệc tan khi đã triệt mâm,
Mặt to tai lớn đỏ hăm hồng hào.
Các ngài chếnh choáng lao đao,
Ra ga bước thấp bước cao lên tàu.
Bồi bàn một lũ theo hầu,
Nước chanh, nước đá, chè Tầu, rượu bia.
Bây giờ men ngấm hao ghê,
Sẵn đồ giã rượu hả hê dạ dày.
Kẻ hầu tíu tít luôn tay,
Các “ông dân” cũng ngớt say tỉnh dần.
Đi xem công cuộc di dân,
Hẳn nhìn mọi sự bội phần lớn to.
Khi về nhớ… bữa say no,
Ghi lòng tạc dạ tái bò chả dê.

Cái Búp Tăng Gia

Bé ra đời trong kháng chiến,
Mười ba tháng chập chững đi
Môi nụ hồng xinh chúm chím,
Mắt nâu một mí, dài mi.
Tay tròn như củ cải múp,
Ngón thon như búp măng non.
Ông đặt tên là cái Búp,
Búp bê chạy lon ton.
Búp đã bắt đầu cai sữa
Mẹ sắp chỉnh huấn phương xa,
Bồng bế Búp về tạm ở
Hú hí với ông cùng bà.
Trên đồi thấy ông hì hụi
Ngày ngày vỡ đất tăng gia
Ngô, khoai, sắn, rau, dứa, chuối,
Thêm thặt thức ăn trong nhà.
Búp cũng lăng xăng bắt chước,
Sơm sớm theo ông ra đồi
Tay nâng không nổi cái cuốc:
– “Cháu cũng tăng gia, ông ơi!”
– “Búp tăng gia gì?” – ông hỏi
Búp ta lém lỉnh trả lời
– “Ông ạ, cháu tăng gia chuối
Cháu lại tăng cả gia… xôi”
Ông ngắm cháu ngoan loắt choắt,
Phủi tay, hôn cháu, cả cười:
– “Ông chịu con nhà láu thật!
Tăng gia toàn thứ thích xơi”
Hôm sau, ông ra lò chợ
Đánh một cái cuốc con con
Cho “cô nông dân” bụ bẫm
Sáng sáng theo ông làm vườn…

Còn Say

“Nhắn bác Tản Đà”

Đã lâu, bác mới ra đời,
Tưởng rằng gột óc theo thời duy tân.
Nào ngờ bác vẫn say lăn,
Lè nhè vẫn giọng thơ văn trái mùa.
Vẫn còn mộng mị, mơ hồ,
Người đời vui sống, bác ngờ chiêm bao,
Người đời hoạt động xôn xao,
Bác vờ triết lý thanh cao: bác lười!
Ngồi dưng nổi bệnh chán đời.
Bác buồn trời gió, rồi trời lại mưa!
Giải buồn chén tít say sưa,
Chai con chai bố vẫn chưa hết buồn!
Rượu vào, rồng rổng thơ tuôn,
Miệng ngâm sặc sụa hơi cồn, mùi men,
Bác rằng: khách tục bon chen,
Lao tâm, lao lực, thấp hèn bác thương.
Đời rằng: bác dở, bác ương,
Giả danh ẩn dật là phường bỏ đi.
Bác rằng: chữ thọ quí chi.
Lợi, danh, hão cả! Ham gì sống dai?
Đời rằng: thuận với lẽ trời,
Sống mà gánh vác việc đời mới hay.
Còn như sống để mà… say.
Hỏi ai vất vưởng bấy nay làm gì?
Rung đùi, rượu nốc tì tì,
Người ta tỉnh, bác li bì vẫn mê!

Khoe Lười

Anh em chớ bảo ta lười,
Làm việc cho hay phải thức thời.
Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,
Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.
Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,
Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.
Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,
Anh em chớ bảo ta lười.

Dạy Búp Bê

Đặt con búp bê nhựa
Đứng quay mặt vào tường
Nguyệt làm bộ nghiêm trang
Lên cái giọng con cớn
Mắng rằng: “Con gái lớn
Đã lên tám tuổi rồi
Mẹ dạy chẳng nghe lời
Dạo này cô hư quá
Mẹ gọi cô không dạ
Mẹ bảo cô mần thinh
Cái mặt rắn như sành
Úi chà đanh đá khiếp!
Mỗi ngày có hai vệc:
Bữa cơm xong quét nhà
Và cứ sáng ngày ra
Cọ rửa bộ ấm chén
Thế mà cô lười biếng
Cứ trốn như chãch thôi
Cô cứ để cho tôi
Ngày ngày phải làm hộ
Bảo cô đã rát cổ
Như nước đổ lá khoai
Có con gái nhà ai
Lại hư thân mất nết?
Đáng lẽ tôi phải đét
Cho cô trận đòn đau
Nhưng cô đã bẹp đầu
Mà lại còn sứt mũi
Vì mấy lần ngã chúi
Cho nên tôi lại thương
Chỉ bắt cô đứng tường
Để thi hành kỷ luật”

Nhìn cháu nghiêm nét mặt
Ông không nhịn được cười
Cháu học đâu những lời
Nghiêm chỉnh pha hài hước
Mà đem ra bắt chước
Để dạy cái búp bê?
Nhưng được cái không chê
Là từ ngày hôm đó
Nguyệt ta rất là nhớ
Rựa ấm chén, quét nhà
Điều gì dạy người ta
Chính mình phải làm trước!

Phu Kéo Xe

Xưa nay các học trò lười
Mẹ cha mắng mỏ, nặng lời mỉa mai
Rằng: “Mày lêu lổng. rông rài
Nhớn lên thời đến suốt đời kéo xe!”
Bây giờ thời buổi khắt khe
Kéo xe cũng hoá ra nghề khó khăn!
Cu ly cũng phải lấy… bằng
Của toà đốc lý chứng rằng… chính tông
Là người da sắt, xương đồng
Khoẻ chân, cứng gối, vốn giòng kiện nhi
Danh trong, giá sạch như li
Chẳng khi can án, chưa khi ngồi tù
Bao lần giấy, bấy lần… xu
Mới làm nên chức đại “phu xe hàng”
Phải đâu là việc dễ dàng!

Ông Trẻ Già

Ngược đời! Có lắm hạng “ông ranh”
Đạo mạo làm ra mặt lão thành!
Trước mắt long lanh đôi kính trắng,
Dưới cằm lún phún sợi râu xanh.
Đứng ngồi khệ nệ oai nghiêm giả,
Ăn nói màu mè đạo đức tuênh!
Động hé môi ra là…thở hắt,
Than cho thế thái với nhân tình.

Tượng Lo

A di đà Phật!
Bụt trên toà ngồi ngất bệ sen
Tưởng rằng nhà Bụt chí hiền
Từ bi từ tại, ai phiền nhiễu chi!
Nào nhờ gặp thời kỳ tranh chiến
Cõi phàm trần tai biến lung tung
Loạn đằng Tây, loạn đằng Đông
Cảnh từ bi cũng hãi hùng, tượng lo…
Cũng là bởi duyên do vạ vịt
Tự anh chàng họ Hít tên Le
Dùng dấu hiệu thực éo le
Trăm nghìn vạn dấu, thiếu gì dấu hay
Mà lại chọn nhằm ngay chữ thập
Dấu hiệu riêng nhà Phật từ bi
Để sinh ra chuyện hồ nghi
Giận cá chém thớt, biết thì tại sao?
Chữ thập ngoặc ghép vào quốc cấm
Phướn, cờ còn giấu dấm được chăng
Khắc vào tượng gỗ, mần răng?
Có khi bị đẽo, nên rằng… tượng lo

Mùa Xuân

Dung dăng dung dẻ
Dẫn trẻ đi chơi
Mùa xuân đến rồi
Ánh xuân tươi sáng.

Đám mây bông trắng
Nổi giữa trời xanh
Gió đưa bồng bềnh
Cao vời lồng lộng

Vườn thênh thang rộng
Cỏ non xanh vờn
Hoa đào tươi thắm
Vườn xuân đầm ấm
Ríu rít chim ca.

Đóng Thuế Thân

Biết cơ đầu tháng tiền chưa cạn
Toà thuế Hà Thành rất mẫn cán
Giục giã các thầy đóng thuế thân
Khiến mình trong dạ đâm ngao ngán!

Ơn nhờ cái miệng mấy “ông dân”
Sưu tớ năm nay gấp bộn phần:
Hai chục bảy đồng, đau quá hoạn!
Cắn răng nộp vậy, dám lần khân

Lấy bát họ con vừa giốc ống
Gạt thầm giọt lệ đem đi cống…
Làm tròn bổn phận một thằng dân
Có những đoàn trùm vô sở vọng

Ngẫm nghĩ, song le cũng tự hào
Dân mình há chịu kém ai sao!
Tự do bình đẳng tuy thua thiệt
Nhưng đã bằng người cái… thuế cao!

Gây Quan

Mỗi năm nhà nước mở khoa thi
Để kén trong trung bắc lưỡng kỳ
Lấy mặt sỏi sành ra giúp việc
Bổ làm tập sự ngạch quan chi

Mỗi năm các cậu lớp tân khoa
Sung sướng bằng xưa đỗ thám hoa
Tuy chẳng vinh quy, cờ võng lọng
Cũng là lừng lẫy khắp gần xa

Quảng cáo công không, các nhật trình
Đăng tên, đăng tuổi, lại đăng hình,
Làm như các cậu “quan non” ấy
Là những kỳ đồng mới tái sinh

Trong làng trưởng giả những cô nào
Sẵn mỏ nhưng chưa có kẻ đào
Mấp máy hòng lên bà lớn tắt
Mơ màng của dẫn lại tay trao

Cụ thượng Quỳnh ta cũng sướng ran
Xoa tay hỉ hả cái gan vàng
Mừng cho nước Việt còn cơ khá
Vì chẳng bao giờ tiệt giống quan

Hát Sẩm

Anh thì hào, anh thì hào
Chúng anh xưa cũng mặt anh thì hào
Cũng phường tai mắt, anh nào có chịu kém ai!
Cung cách phong lưu, anh cũng đủ mùi đời
Chỉ còn thiếu nỗi, lên trời trọc tiên
Kể từ ngày thế sự đảo điên
Làm cho anh dơ cả mắt, hoá cho nên anh phải hoá mù
Ngước cái con ngươi, anh chỉ thấy cái bóng lù lù…
Cuộc đời xoay chuyển, anh vẫn ù ù, minh minh
Người ta thời tiến bộ cạnh tranh
Mà anh đây chẳng biết ánh sáng văn minh nó ra thế nào
Số phận nhá nhem, song le anh vẫn tự hào
Nợ đời lo trả, há nào thua ai!
Nghiệp sẩm soan thế mà có ích cho đời
Tay đàn, miệng hát, anh giúp người thêm vui
Anh thẹn cho phường con mắt chẳng đui
Úa sương nặng thịt, chỉ ngồi dồi ăn dưng
Anh lại thương cho phường con mắt tráo trưng
Thấy của đời, than ôi! tối mắt [?] lăn lưng vơ quàng
Chưng anh đây danh lợi chẳng màng
Suốt đời ca hát, sường tràn hơn tiên
Có cóc ra gì cái thời buổi bạc đen
Anh chẳng thèm mở mắt để bon chen vì tiền
Được cái thảnh thơi, quan bất nhiễu, dân bất phiền…

Cháu Là Thanh Niên

Thằng Sơn lên bảy tuổi
Bé nhất nhà chon nên
Ông yêu ông gọi nựng
Là thằng Ẻm thằng Em
Tình nó cũng ngoan ngoãn
Nhưng láu lỉnh ngang nhiên
Nhiều “lý do lý trấu”
Để bênh vực lẽ riêng.

Trời nổi gió đông bắc
Ông kêu gọi thằng Em:
– “Mau lấy áo len mặc
Kẻo cảm lạnh ho hen”
Thằng Em liến thoắng đáp:
– “Cháu đang thấy nóng điên”
– “Nhưng ông thấy trời lạnh
Bảo cháu phải nghe lời”
– “Ông già ông sợ lạnh
Còn cháu là thanh niên”

Ồ thanh niên lên bảy
Thằng bé nói dị kỳ
Ý chưng muốn nhảy vọt
Qua giai đoạn thiếu nhi?
– “Tốt lắm! Nhưng ông hỏi:
Đã ba sẵn sàng chưa?”
– “Chưa! Cháu chưa đến tuổi
Là thanh niên nhận vờ”
– “Bây giờ nghe ông bảo
Thanh niên hãy xung phong
Chống lạnh mặc thêm áo”
– “Sẵn sàng vâng lời ông!”

Tham khảo thêm tuyển tập 🏵 Thơ Lê Đạt 🏵 Tác Giả, Tác Phẩm

Những Đánh Giá, Nhận Định Về Nhà Thơ Tú Mỡ

Tổng hợp những đánh giá, nhận định về nhà thơ Tú Mỡ của các nhà văn, nhà thơ và phê bình văn học nổi tiếng.

  • Theo Nguyễn Hoàng Khung, thì Tú Mỡ là người có một “tâm hồn đôn hậu, lạc quan và chan chứa tình đời”.
  • Theo nhà văn Nguyễn Công Hoan thì: Tú Mỡ là người “thuốc lá không hút, chè tàu không nghiện, tổ tôm không biết đánh”. Giữa đám người cầm bút đông đảo “đa ngôn đa sự”, ông có vẻ như sống riêng ra, lấy sự siêng năng cần mẫn làm trọng, lấy cảnh gia đình yên ấm làm vui, không phiêu lưu không mơ tưởng hão huyền, tin rằng thiên đường chỉ có ở trên trần thế, được sống khỏe mạnh, lại có công việc ưa thích đã là tiên cảnh lắm rồi, còn như có gì khó chịu trước sự đời, thì đã có nụ cười hóa giải giúp!…
  • Vũ Ngọc Phan trong tác phẩm “Nhà văn Việt Nam hiện đại” nhận xét:
    • “Thơ mới ngày nay đã xâm chiếm gần đến đất đai của thi ca Việt Nam… làm cho những tay kiện tướng còn lại của trường thơ cũ như Trần Tuấn Khải, Tương Phố đều phải xếp bút. Tuy vậy, vẫn còn một dòng thơ cũ chảy róc rách, nước thật ngọt ngào, vì nó là thứ nước của nguồn xưa mà người Việt Nam quen uống từ lâu. Tôi muốn nói đến hai tập “Dòng nước ngược” (tập 1 và 2) của Tú Mỡ. 
    • Hai tập thơ này đều có cái giọng bình dân rất trong sáng. Chúng ta vốn ưa thích xưa nay: giọng cợt đùa lẳng lơ của Hồ Xuân Hương, giọng nhạo đời của Trần Tế Xương, giọng thù ứng ý nhị của Nguyễn Khắc Hiếu, giọng giao duyên tình tứ của Trần Tuấn Khải; từng ấy giọng thơ, ngày nay ta thấy cả trong hai tập thơ trào trúng của Tú Mỡ…
    • Cũng như Tản Đà và Trần Tuấn Khải, Tú Mỡ viết rất nhiều lối, nào phong dao, nào thù ứng, nào hát xẩm, nào văn tế, nào chầu văn… mà lối nào của ông cũng đều hay cả… Thơ Tú Mỡ thật là thơ có tính cách Việt Nam đặc biệt”.
  • Còn theo Giáo sư Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam văn học giản ước tân biên” (Quyển 3) đã từng nhận xét như sau:
    • “Trong làng thơ Việt Nam sau 1932, có một cây bút không mới chút nào… vậy mà ngự trị thường xuyên trên báo Phong Hóa và Ngày Nay’ và được độc giả thời ấy rất ham coi, đó là cây bút trào phúng Tú Mỡ… “
    • “Thơ ông chịu ảnh hưởng rõ rệt thơ cũ… từ cảm hứng đến thể cách. Ông sáng tác đủ loại: thơ Đường, phú, văn tế, lục bát, hát nói, hát xẩm, chầu văn… Nói rằng ông đã tiến hơn tiền bối thì quá đáng, song ở ông cũng đã có một lời thơ hoạt bát, cách gieo vần tài tình, giọng dí dỏm tự nhiên và biết mượn tình cười để chinh phục người ta… Sau Tú Mỡ (và đồng thời ông nữa) trên khắp các báo, người ta làm thơ trào phúng nhan nhãn, nhưng dễ chừng không ai bắt chước được tác giả “Giòng nước ngược”.
  • Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn từng viết về Tú Mỡ như sau: “mặc dù sống trong một thế kỷ đầy biến động, song cuộc đời Tú Mỡ lại chỉ hiện ra với những đường nét đơn giản…Theo bạn bè và những người thân trong gia đình kể lại, thì cách sống của ông phải gọi là thanh bạch. Lúc nhỏ, đi học, lớn lên, đi làm nuôi gia đình. Lớn lên là một công chức mẫn cán…Đến khi được chuyển hẳn sang sáng tác, thì ông lại cặm cụi lo đọc lo viết.”

Khám phá những thông tin thú vị về 🍃Thơ Hồ Dzếnh🍃 Tuyển tập thơ hay

Viết một bình luận