Thơ Victor Hugo: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Thơ Victor Hugo ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay ✅ Đón Đọc Các Thông Tin Về Cuộc Đời Và Phong Cách Sáng Tác Thơ Của Victor Hugo.

Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Victor Hugo

Victor Hugo là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng của nước Pháp. Ông giữ vai trò quan trọng trong nền Văn học nước Pháp và cả toàn nhân loại. Dưới đây là phần tóm tắt tiểu sử cuộc đời nhà thơ Victor Hugo, bạn có thể tham khảo.

  • Victor Hugo (26/2/1802 tại Besançon – 22/5/1885 tại Paris) là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch danh tiếng nhất của nước Pháp. Ông chính người dẫn đầu phong trào lãng mạn (the romantic movement) của nền Văn Chương Pháp. Ông cũng đồng thời là một nhà chính trị, một trí thức dấn thân tiêu biểu của thế kỷ XIX.
  • Ông sinh ra tại Besançon (thuộc vùng Franche-Comté), tuy nhiên, ông đã chọn cuộc sống tha hương dưới thời vua Napoléon III của Pháp — ông đã sống ở Bỉ (1851), ở đảo Jersey (1852-1855) và ở đảo Guernsey (1855-1870 và 1872-1873).
  • Victor Hugo đã đi thăm cha tại nước Ý vào tuổi lên 5 và theo học trường tiểu học tại Madrid, nước Tây Ban Nha, vào tuổi lên 9. Ký ức về tuổi trẻ xa xứ đã được Victor Hugo ghi lại sau này qua các tập thơ và các vở kịch. 
  • Khi còn là một cậu bé, Victor Hugo có niềm đam mê và hứng thú với thơ ca.  Lên 12 tuổi, Victor và các anh trai được gửi đến trường Pension Cordier. Ở đó, họ thực hiện các nghiên cứu khoa học, thời gian rảnh thì viết thơ và đóng kịch.
  • 15 tuổi, Victor Hugo giành chiến thắng trong cuộc thi thơ do Académie Française tổ chức. Năm 16 tuổi, ông đứng đầu trong cuộc thi Académie des Jeux Floraux.
  • Năm 1818, Victor Hugo ghi danh vào Đại Học Luật Khoa Paris nhưng việc theo học này đã không đều và không có chủ đích.
  • Năm 1878, ông bị tắc nghẽn mạch máu não. Ông và tình nhân của mình, Juliette, tiếp tục sống ở Paris cho đến cuối đời. Con phố nơi ông sống được đổi tên thành Đại lộ Victor Hugo nhân dịp sinh nhật lần thứ 80 của ông vào năm 1882.
  • Nhà thơ Victor Hugo qua đời tại Paris vào ngày 22/5/ 1885 vì bệnh viêm phổi.

=> Những lựa chọn mang tính đạo đức và chính trị của Victor Hugo, cùng với những kiệt tác văn học đã đưa ông trở thành gương mặt nổi bật của thời đại đó. Khi qua đời, Victor Hugo được nhà nước cử lễ quốc tang và thi hài ông được đưa vào điện Panthéon.

Ngoài Thơ Victor Hugo, Tặng Thêm 🍃Thơ Tagore🍃Tìm Tập Thơ Về Tình Yêu, Con Người

Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Victor Hugo

Khái quát những nét chính trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Victor Hugo:

  •  Năm 1817, Victor Hugo lãnh được bằng khen danh dự của Hàn Lâm Viện Pháp về một bài thơ dự thi rồi tới năm 1819, đã đoạt giải nhất trong một kỳ thi thơ phú toàn quốc.
  • Năm 1821, mẹ ông qua đời, ông từ chối nhận tất cả các khoản hỗ trợ tài chính từ cha mình và chịu đựng một năm nghèo đói trầm trọng. Cho đến năm 1822, tập thơ đầu tiên của ông, “Odes at Poésies”, đã giúp ông trở nên nổi tiếng. Mỗi năm, Victor Hugo nhận được lương hoàng gia với khoản tiền trợ cấp là 1.000 franc từ vua Louis XVIII.
  • Vào năm 1824, Victor Hugo là một thành viên của nhóm những người nổi loạn thời Lãng mạn đang cố gắng lật đổ sự thống trị của văn học cổ điển.
  • Với tư cách là nhà thơ trữ tình, Hugo đã xuất bản tập Odes et Ballades (1826), Les feuilles d’automne (1831) hay Les Contemplations (1856). Nhưng ông cũng thể hiện vai trò của một nhà thơ dấn thân chống Napoléon III bằng tập thơ Les Châtiments (1853) và vai trò một nhà sử thi với tập La Légende des siècles (1859 và 1877). 
  • Thành công vang dội của hai tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris và Những người khốn khổ đã đưa Victor Hugo trở thành tiểu thuyết gia của công chúng.
  • Về kịch, ông đã trình bày thuyết kịch lãng mạn trong bài tựa của vở kịch Cromwell (1827) và minh họa rõ nét thể loại này ở hai vở kịch nổi tiếng Hernani (1830) và Ruy Blas (1838).
  • Khả năng sáng tạo của Victor Hugo rất lớn lao, mỗi ngày ông có thể làm 100 câu thơ hay viết 20 trang tiểu thuyết và qua các tác phẩm của ông, đã phản ánh các phong trào chính trị và văn chương của thời đại, đã bộc lộ rõ niềm tin của ông nơi Khoa Học, nền Dân Chủ và Tự Do. 

=> Victor Hugo chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp. Các tác phẩm của ông đa dạng về thể loại và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, thế kỷ 19 với nền văn chương đặc sắc của nước Pháp đã được gọi là “Thế Kỷ của Victor Hugo”.

Ngoài viết văn, Victor Hugo còn xuất chúng trong lĩnh vực hội họa.

  • Ông đã xuất bản được hơn 4.000 bản vẽ. Ban đầu với ông vẽ chỉ như một sở thích bình thường, ấy vậy mà những ngày trước khi sống lưu vong và quyết định ngừng viết để cống hiến cho chính trị, vẽ với Victor Hugo lại vô cùng quan trọng.
  • Một số tác phẩm của ông đã được đánh giá cao bởi các nghệ sĩ đương đại như van Gogh và Delacroix người thứ hai bày tỏ quan điểm rằng nếu Hugo quyết định trở thành một họa sĩ thay vì một nhà văn, ông sẽ thua kém các nghệ sĩ trong thế kỷ của họ.

Phong Cách Sáng Tác Của Victor Hugo

Phong cách sáng tác của Victor Hugo, ông đề cập đến nhiều chủ đề văn học trong suốt sự nghiệp của mình, từ nội dung mang tính chính trị đến các bài viết mang tính cá nhân cao hơn nhiều. 

  • Là một trong những cây bút xuất sắc nhất của văn học lãng mạn, V. Hugo chủ trương dùng tình thương để thanh lọc cuộc sống. Các tác phẩm của ông đều được xây dựng dựa trên hai thái cực xấu – ác, thiên đường – địa ngục. Sự đấu tranh không ngừng giữa các thế lực này tạo nên một vũ trụ văn chương mang đầy tính nhân văn. Mỹ học lãng mạn kết hợp với cảm quan hiện thực tạo nên sức lôi cuốn và thuyết phục của lí tưởng thẩm mỹ .
  •  Ông bày tỏ mối quan tâm của mình đối với phúc lợi của những người khác và của các thể chế lịch sử, với các chủ đề phản ánh niềm tin cộng hòa của chính ông và sự tức giận của ông trước những bất công và bất bình đẳng.
  • Mặc dù Hugo trở lại Pháp sau năm 1870 như một biểu tượng của sự chiến thắng của nền cộng hòa, nhưng những năm sau đó của ông phần lớn rất buồn. Ông mất hai con trai từ năm 1871 đến năm 1873. Các tác phẩm sau này của ông có phần u ám hơn so với các tác phẩm trước đó của ông, tập trung vào các chủ đề về Chúa, Satan và cái chết.

=> Hugo là một trong những đại diện đáng chú ý nhất của chủ nghĩa lãng mạn ở Pháp, từ văn xuôi đến thơ và kịch của ông. Do đó, các tác phẩm của ông chủ yếu bao gồm các lý tưởng lãng mạn của chủ nghĩa cá nhân, cảm xúc mãnh liệt, và tập trung vào các nhân vật và hành động anh hùng.

Tìm Hiểu Thêm Về🌿Thơ Hải Thượng Lãn Ông [Lê Hữu Trác] 🌿Bên Cạnh Tìm Hiểu Thơ Victor Hugo

Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Nhà Thơ Victor Hugo

Victor Hugo là một nhà văn lớn của thế giới, các tác phẩm của ông đều được xếp vào hàng kinh điển, mang giá trị lịch sử to lớn. Dưới đây là tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ Victor Hugo, theo dõi ngay nhé!

Kịch

  • Cromwell (1827)
  • Hernani (Trận chiến Hernani, 1830)
  • Marion Delorme (1831)
  • Le Roi s’amuse (Vị vua tiêu khiển,1832)
  • Lucrèce Borgia (1833)
  • Marie Tudor (1833)
  • Angelo, tyran de Padoue (Angelo, bạo chúa thành Padoue, 1835)
  • Ruy Blas (1838)
  • Les Burgraves (1843)
  • Torquemada (1882)
  • Théâtre en liberté (1886)

Tiểu Thuyết

  • Bug Jargal – Người nô lệ da đen (Bug-Jargal) (1820)
  • Han d’Islande (Hãn của Islande) (1823)
  • Ngày cuối cùng của một tử tù (Le Dernier Jour d’un condamné) (1829)
  • Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) (1831)
  • Claude, thằng cùng (Claude Gueux) (1834)
  • Những người khốn khổ (Les Misérables) (1862)
  • Lao động biển cả (Les Travailleurs de la mer) (1866)
  • Thằng cười (L’Homme qui rit) (1869)
  • Chín mươi ba (Quatre-vingt-treize) (1874)

Thơ

*Những ca khúc – Odes et ballades (1826)

  • Tuổi thơ tôi (I)

*Những khúc hát phương đông – Les orientales (1829)

  • Em bé
  • Lazzara
  • Sáng trăng

*Lá thu – Les feuilles d’automne (1831)

  • Bỗng một ngày nghệ sĩ
  • Em hãy trông, cành cây kia
  • Khi bóng trẻ thơ xuất hiện
  • Mơ mộng của khách qua đường về một ông vua (trích)
  • Trời tà
  • Vậy đâu là hạnh phúc?

*Khúc hát hoàng hôn – Les chants du crépuscule (1836)

  • Đôi ta đã chạm môi
  • Hoa và bướm
  • Tháng năm nở đầy hoa
  • Tụng ca

*Tia sáng và bóng tối – Les rayons et les ombres (1840)

  • Biển đêm
  • Cây ghi-ta khác
  • Chức trách của nhà thơ (trích)
  • Đêm tháng sáu
  • Gặp gỡ
  • Nỗi buồn của Ôlanhpiô
  • Ôi! khi anh ngủ

*Trừng phạt – Les châtiments (1853)

  • Bài ca (Chim mẹ đâu? đã chết rồi)
  • Bài ca (Kẻ đi đày nay nghĩ gì đây?) (trích)
  • Bài ca (Uy thế y chói loà lịch sử) Chanson
  • Bài ca của những người đi biển
  • Chiếc áo bào
  • Con người ấy đã cười
  • Cuộc đối chất
  • Đêm
  • Đêm ấy trời mưa, nước triều dâng cao
  • Đời vui (I)
  • Đời vui (V)
  • Gửi sự tuân thủ thụ động (I)
  • Gửi sự tuân thủ thụ động (VIII)
  • Hãy thổi vang, thổi vang, hỡi kèn đồng tư tưởng
  • Lời cuối cùng (trích)
  • Nghệ thuật với nhân dân
  • Ngỏ cùng nhân dân
  • Ngụ ngôn hay lịch sử
  • Người đang sống (trích)
  • Ơi nước Pháp! lúc ngươi quỳ gối

*Chiêm ngưỡng – Les contemplations (1856)

  • “Cô gái đã cởi giày và bỏ mũ”
  • “Hãy yêu nữa, yêu nhau mãi mãi”
  • “Sống cùng chốn người thương”
  • “Tới đây nào! cây sáo vô hình”
  • 15 tháng hai 1843
  • Anh đã hái hoa này
  • Bài ca (Nếu không có gì cần nói)
  • Cái chết là gì
  • Cảnh trong nhà
  • Chúng tôi vào vườn hái trái anh đào
  • Dương cúc
  • Đàn bà trên trái đất
  • Đúng, tôi là người mơ mộng…
  • Églogue
  • Gửi bà mẹ của em bé qua đời
  • Hai con gái tôi
  • Hiện hình
  • Khoảng trời quang
  • Lise
  • Lời trong bóng tối
  • Mộ chí
  • Một chiều khi tôi nhìn trời
  • Ngày mai, khi rạng đông
  • Ông lão ăn mày
  • Thi sĩ về thôn quê
  • Thơ anh rời trang giấy
  • Thuở ấy chúng tôi cùng ở
  • Tôi đã đến, đã thấy, đã sống
  • Tôn giáo
  • Trên sườn đất…
  • Trời lạnh

*Truyền thuyết những thế kỷ – La légende des siècles (1859)

  • Cây đèn biển
  • Chiếc máy chém
  • Chọn giữa hai kẻ qua đường
  • Homo
  • Lương tâm
  • Nàng Ê-va
  • Những hiệp sĩ lang thang
  • Pétrarque
  • Ra-căng
  • Rôngxa
  • Sau trận đánh
  • Tự do
  • Viết trong thời lưu vong
  • Xưa, tôi đã gặp

*Những khúc hát đường phố và núi rừng – Les chansons des rues et des bois (1866)

  • Chiều, mùa gieo giống
  • Gửi Rôxita
  • Lũ trẻ tóc vàng hoe
  • Tặng Jan

*Năm khủng khiếp – L’année terrible (1872)

  • Mạnh hơn nam nhi
  • Một thiếu phụ đã kể chuyện này
  • Người mẹ bảo vệ con thơ
  • Thư gửi người phụ nữ (trích)
  • Trên chiến luỹ
  • Trong bóng tối
  • Vụ xử án cách mạng

*Nghệ thuật làm ông – L’art d’être grand-père (1877)

  • Bruych-xen, đêm 27 tháng Năm
  • Chiếc bình vỡ
  • Georges và Jeanne (trích)
  • Giấc ngủ trưa
  • Jan phải phạt ăn bánh nhạt
  • Kẻ lưu vong thoả mãn
  • Trăng

*Bốn hướng gió tinh thần – Les quatre vents de l’esprit (1881)

  • Bài ca (Ly hương, hãy nhìn những bông hồng)
  • Gặp một em bé lượm củi
  • Những chuyến dạo chơi trên núi – Chuyến dạo chơi thứ 3

*Trọn tiếng đàn – Toute la lyre (1893)

  • Đây, thưa ngài chánh án
  • Mùa thu
  • Nỗi khốn cùng
  • Vì sao các vĩ nhân đau khổ?

*Các tác phẩm khác

  • Đàn ông và đàn bà
  • Đêm hôm qua
  • Gửi dáng kiêu sa
  • Gửi một người đàn bà
  • Lời khuyên con lúc xuất giá
  • Những khúc ca ngắn và những bài khác
  • Những khúc ca ngắn mới
  • Những khúc ca và ballad
  • Khúc ca phương Đông
  • Tiếng nói bên trong
  • Bốn phương tâm hồn

Tác Phẩm Di Cảo

  • La Fin de Satan (Cái kết của quỷ Satan, 1886)
  • Toute la Lyre (1888)
  • Dieu (Thiên chúa, 1891)
  • Les Années funestes (1898)
  • Dernière Gerbe (1902)
  • Océan. Tas de pierres (1942)
  • Choses vues – 1re série (Những điều trông thấy I, 1887)
  • Alpes et Pyrénées (1890)
  • France et Belgique (1892)
  • Correspondances – Tome I (Trận chiến I, 1896)
  • Correspondances – Tome II (Trận chiến II, 1898)
  • Choses vues – 2e série (Những điều trông thấy II, 1900)
  • Post-scriptum de ma vie (1901)
  • Mille Francs de récompense (1934)
  • Pierres (1951)
  • Mélancholia

Tác Phẩm Khác

  • Étude sur Mirabeau (Nghiên cứu về Mirabeau, 1834)
  • Littérature et philosophie mêlées (Văn học và triết học trộn lẫn, 1834)
  • Le Rhin (1842)
  • Napoléon le Petit (Napoleon bé nhỏ) (pamphlet, 1852)
  • Lettres à Louis Bonaparte (Những lá thư gửi Louis Bonaparte) (1855)
  • William Shakespeare (1864)
  • Paris-Guide (1867)
  • Mes Fils (1874)
  • Actes et paroles – Avant l’exil (Hành động và lời nói – Trước khi tha hương, 1875)
  • Actes et paroles – Pendant l’exil (Hành động và lời nói – Trong khi tha hương, 1875)
  • Actes et paroles – Depuis l’exil (Hành động và lời nói – Từ khi tha hương, 1876)
  • Histoire d’un crime – 1re partie (Lịch sử của một cuộc chiến, tập 1)(1877)
  • Histoire d’un crime – 2e partie (Lịch sử của một cuộc chiến, tập 2) (1878)
  • Le Pape (Đức Giáo hoàng) (1878)
  • L’Âne (1880)
  • L’Archipel de la Manche (Quần đảo La Manche, 1883)
  • Œuvres posthumes

15+ Bài Thơ Hay Nhất Của Thi Sĩ Victor Hugo

Điểm qua 15 bài thơ hay nhất của thi sĩ Victor Hugo vừa được tổng hợp dưới đây.

Đàn Ông Và Đàn Bà

L’homme et la femme

L’homme est la plus élevée des créatures;
la femme est le plus sublime des idéaux.
Dieu a fait pour l’homme un trône;
Pour la femme un autel.

Le trône exalte;
L’autel sanctifie.
L’homme est le cerveau,
La femme le coeur.

Le cerveau fabrique la lumière;
Le coeur produit l’Amour.
La lumière féconde;
L’Amour ressuscite.

L’homme est fort par la raison;
La femme est invincible par les larmes.
La raison convainc;
Les larmes émeuvent.

L’homme est capable de tous les héroïsmes;
La femme de tous les martyres.
L’héroïsme ennoblit;
Le martyre sublime.

L’homme a la suprématie;
La femme la préférence.
La suprématie signifie la force;
La préférence représente le droit.

L’homme est un génie,
la femme un ange.
Le génie est incommensurable;
L’ange indéfinissable.

L’aspiration de l’homme, c’est la suprême gloire;
L’aspiration de la femme, c’est l’extrême vertu.
La gloire fait tout ce qui est grand;
La vertu fait tout ce qui est divin.

L’homme est un Code;
La femme un Evangile.
Le Code corrige;
L’Evangile parfait

L’homme pense;
La femme songe.
Penser, c’est avoir dans le crâne une larve;
Songer, c’est avoir sur le front une auréole.

L’homme est un océan;
La femme est un lac.
L’Océan a la perle qui orne;
Le lac, la poésie qui éclaire.

L’homme est un aigle qui vole;
La femme est le rossignol qui chante.
Voler, c’est dominer l’espace;
Chanter, c’est conquérir l’Ame.

L’homme est un Temple;
La femme est le Sanctuaire.
Devant le Temple nous nous découvrons;
Devant le Sanctuaire nous nous agenouillons.

Enfin:
L’homme est placé où finit la terre;
La femme où commence le ciel

Bản dịch:

Đàn ông cao nhất muôn loài
Đàn bà tột đỉnh trên ngai ý lòng
Chúa ban ngôi báu đàn ông
Đàn bà đặt ở nơi lòng thượng tôn

Ngôi cao nhất cõi linh hồn
Bàn thờ tột đỉnh nghiêm tôn dưới trời
Đàn ông là não xây đời
Đàn bà là trái tim ngời yêu thương.

Não sinh ra ánh quang dương
Tim sinh ra bóng yêu thương dạt dào
Hào quang cho nhựa sống trào
Tình yêu làm sống lại bao mảnh đời.

Đàn ông trí, dũng song đôi
Đàn bà nước mắt rã rời nhân gian
Lý cho mọi lẽ đều phân
Lệ cho nhân thế được phần bao dung.

Đàn ông bản sắc anh hùng
Đàn bà tâm nhẫn với cùng hy sinh
Anh hùng là để tôn vinh
Nhẫn là để giữ tâm bình thứ tha.

Đàn ông quyền lực tối cao
Đàn bà để được đón chào nâng niu
Quyền là không để đổ xiêu
mà dành thể hiện những điều nhân văn.

Đàn ông là một tài năng
Đàn bà là một thiên thần quả nhiên
Thiên tài là tính vô biên
Thiên thần vô lượng diệu hiền trái tim

Đàn ông tìm kiếm vinh quang
Đàn bà đức hạnh ôm mang cả đời
Vinh quang là đỉnh tuyệt vời
Trong khi đức hạnh là trời thiêng liêng.

Đàn ông là Mã kinh nguyền
Đàn bà là quyển sách truyền Phúc âm
Mã đem khắc chế lỗi lầm
Phúc âm hoàn thiện nhân tâm con người

Đàn ông luôn nghĩ việc đời
Đàn bà đan gối mộng nơi gia đình
Nghĩ suy lay động thần kinh
Mộng mơ trước mặt luôn hình hào quang.

Đàn ông là biển mênh mang
Đàn bà khép nép dung nhan mặt hồ
Đại dương có ngọc điểm tô
Hồ trong lồng lộng ánh thơ sáng ngần

Đàn ông là cánh đại bàng
Đàn bà là tiếng rộn ràng sơn ca
Bay, ôm cả trời bao la
Hót vang, để gọi thiết tha hồn người.

Đàn ông là một ngôi đền
Đàn bà là Thánh địa thênh thang tình
Trước đền thờ, để soi mình
Trước nơi Thánh địa cho minh quỳ xin.

Cuối cùng rồi cũng phải tin:
Đàn ông để kết thúc trên địa cầu
Đàn bà, thế giới bắt đầu.

Gửi Dáng Kiêu Sa

À la belle impérieuse

L’amour, panique
De la raison,
Se communique
Par le frisson.

Laissez-moi dire,
N’accordez rien.
Si je soupire,
Chantez, c’est bien.

Si je demeure,
Triste, à vos pieds,
Et si je pleure,
C’est bien, riez.

Un homme semble
Souvent trompeur.
Mais si je tremble,
Belle, ayez peur.

Bản dịch:

Yêu, nên có lúc giật mình
Thì rằng có nghĩa chứng minh lòng người
Là khi giao tiếp lứa đôi
Bởi tim hồi hộp mà lời run run.

Hãy cho tôi nói cùng em
Đừng cho tôi thứ gì thêm phút này
Nếu tôi buông tiếng thở dài
Hát lên, thì sẽ rất hay hơn nhiều.

Nếu tôi ở lại nơi đây
Chắc buồn hiu dưới gót hài của em
Và tôi có khóc vì em
Là điều hay đấy, xin em hãy cười.

Đàn ông có lẽ lắm người
Thường hay khó hiểu bởi lời ngây ngô
Nếu tôi run sợ vu vơ
Giai nhân ơi, chắc thẫn thờ vì tôi.

Gửi Một Người Đàn Bà

A une femme

Enfant! si j’étais roi, je donnerais l’empire,
Et mon char, et mon sceptre, et mon peuple à genoux
Et ma couronne d’or, et mes bains de porphyre,
Et mes flottes, à qui la mer ne peut suffire,
Pour un regard de vous!

Si j’étais Dieu, la terre et l’air avec les ondes,
Les anges, les démons courbés devant ma loi,
Et le profond chaos aux entrailles fécondes,
L’éternité, l’espace, et les cieux, et les mondes,
Pour un baiser de toi!

Bản dịch:

Em! nếu là vua, anh sẽ cho đế chế,
Chiến xa, quyền trượng, và cả thần dân
Vương miện vàng, và bồn tắm đài trang,
Những hạm đội, đại dương không chứa đủ,
Để có được cái nhìn em quyến rũ!

Nếu là Chúa, đất trời cùng sóng tụ,
Thiên thần, ác quỷ phải chịu phép thôi,
Hỗn mang đầy với đất mật ruộng xôi,
Miên viễn, không gian, trên trời, dưới đất,
Để có được nụ hôn em ngây ngất!

Sáng Trăng

Clair de lune

La lune était sereine et jouait sur les flots. —
La fenêtre enfin libre est ouverte à la brise,
La sultane regarde, et la mer qui se brise,
Là-bas, d’un flot d’argent brode les noirs îlots.

De ses doigts en vibrant s’échappe la guitare.
Elle écoute… Un bruit sourd frappe les sourds échos.
Est-ce un lourd vaisseau turc qui vient des eaux de Cos,
Battant l’archipel grec de sa rame tartare ?

Sont-ce des cormorans qui plongent tour à tour,
Et coupent l’eau, qui roule en perles sur leur aile ?
Est-ce un djinn qui là-haut siffle d’un voix grêle,
Et jette dans la mer les créneaux de la tour ?

Qui trouble ainsi les flots près du sérail des femmes ? —
Ni le noir cormoran, sur la vague bercé,
Ni les pierres du mur, ni le bruit cadencé
Du lourd vaisseau, rampant sur l’onde avec des rames.

Ce sont des sacs pesants, d’où partent des sanglots.
On verrait, en sondant la mer qui les promène,
Se mouvoir dans leurs flancs comme une forme humaine… —
La lune était sereine et jouait sur les flots.

Bản dịch:

Trăng tỏ dập dờn trên sóng bạc
Cửa sổ hé đón gió lùa qua
Hậu nhìn biển cả lung linh sóng
Toả ánh bạc viền đảo xám xa

Những ngón tay mềm dạo khúc lòng
Bỗng nghe tiếng đục gợn lời trong
Phải chăng thuyền Thổ từ hòn Cos
Quanh xứ Hi đang chèo suốt vòng?

Phải chăng đàn cốc thi nhau lặn
Nước đọng thành châu bám cánh dài?
Có phải thần Hồi kêu lanh lảnh
Ném vào biển cả ổ châu mai?

Vậy ai cản sóng lầu cung nữ?
Không phải đàn chim giỡn sóng cao
Không phải châu mai, không chiến hạm
Mái chèo gấp gáp lướt như lao

Mà là túi nặng đang rền rĩ
Lênh đênh biển cả dưới trời đêm
Trong túi như hình người tỉnh giấc
Dập dờn trăng tỏ sóng ru êm

Em Hãy Trông, Cành Cây Kia

Vois, cette branche est rude

Vois, cette branche est rude, elle est noire, et la nue
Verse la pluie à flots sur son écorce nue;
Mais attends que l’hiver s’en aille, et tu vas voir
Une feuille percer ces noeuds si dur pour elle,
Et tu demanderas comment un bourgeon frêle
Peut, si tendre et si vert, jaillir de ce bois noir.

Demande alors pourquoi, ma jeune bien-aimée,
Quand sur mon âme, hélas! endurcie et fermée,
Ton souffle passe, après tant de maux expiés,
Pourquoi remonte et court ma sève évanouie,
Pourquoi mon âme en fleur et tout épanouie
Jette soudain des vers que j’effeuille à tes pieds!

C’est que tout a sa loi, le monde et la fortune;
C’est qu’une claire nuit succède aux nuits sans lune;
C’est que tout ici-bas a ses reflux constants;
C’est qu’il faut l’arbre au vent et la feuille au zéphyre;
C’est qu’après le malheur m’est venu ton sourire;
C’est que c’était l’hiver et que c’est le printemps!

Bản dịch:

Em hãy trông, cành cây kia xù xì và đen
Vỏ trơ trụi, mưa rót vào như xối
Ít lâu nữa mùa đông trôi qua, em lại thấy
Một lá con, nơi mắt cứng, đâm cành
Em sẽ hỏi sao chồi yếu mỏng manh
Xanh non thế, mà nhoi gỗ đen lên được

Em sẽ hỏi, khi hơi thở em nhẹ lướt
Hỡi em yêu, trên tâm hồn anh chai sạn
Khép kín sau bao nỗi đau lòng
Sao dòng nhựa trong anh đã cạn lại lưu thông
Sao tâm hồn anh như hoa xuân bừng nở
Bỗng tung những vần thơ, dưới chân em, anh ngắt từng cành nhỏ!

Vì đó là quy luật ở thế giới này
Vì nối tiếp những đêm đen là đêm trăng sáng
Vì mọi thứ trên đời như thuỷ triều lên xuống
Vì cần cây cho gió và lá cho ngọn heo may
Vì sau cơn hoạn nạn, nụ cười em đã đến với anh
Vì mùa đông qua rồi và xuân đã tới!

Ơi Nước Pháp! Lúc Ngươi Quỳ Gối

France! à l’heure où tu te prosternes

France! à l’heure où tu te prosternes,
Le pied d’un tyran sur ton front,
La voix sortira des cavernes
Les enchaînés tressailleront.

Le banni, debout sur la grève,
Contemplant l’étoile et le flot,
Comme ceux qu’on entend en rêve,
Parlera dans l’ombre tout haut ;

Et ses paroles qui menacent,
Ses paroles dont l’éclair luit,
Seront comme des mains qui passent
Tenant des glaives dans la nuit.

Elles feront frémir les marbres
Et les monts que brunit le soir,
Et les chevelures des arbres
Frissonneront sous le ciel noir;

Elles seront l’airain qui sonne,
Le cri qui chasse les corbeaux,
Le souffle inconnu dont frissonne
Le brin d’herbe sur les tombeaux;

Elles crieront: Honte aux infâmes,
Aux oppresseurs, aux meurtriers!
Elles appelleront les âmes
Comme on appelle des guerriers!

Sur les races qui se transforment,
Sombre orage, elles planeront;
Et si ceux qui vivent s’endorment,
Ceux qui sont morts s’éveilleront.

Bản dịch:

Ơi nước Pháp! Lúc ngươi quỳ gối
Bàn chân bạo chúa đạp lên đầu
Sẽ vang tiếng thét từ hang núi
Gọi kẻ qua đời tỉnh giấc mau

Nhìn dãy triều dâng sao bóng nước
Như đôi bè bạn gặp trong mơ
Một người biệt xứ ngang cồn cát
Giọng nói vang lên giữa tối mờ

Tiếng người vụt ánh chớp uy nghi
Lời nói bừng lên nhắc bốn bề
Lời nói như bàn tay dũng sĩ
Vung gươm loang loáng giữa trời khuya

Nghe người… đá gấm cũng rung lên
Núi ngả màu nâu tối sẫm nền
Và những cây rừng ngơ ngác tán
Rùng mình run bóng dưới trời đen

Lời người đồng vọng tiếng chuông vang
Là tiếng xua dài lũ quạ khoang
Là gió lạ về mang xao xuyến
Tới làn cỏ rạt nấm mồ hoang

Lời kêu: Nhục nhã loài đê tiện
Áp bức quen trò lũ sát nhân
Lời gọi tâm hồn đâu thánh thiện
Như hồi kèn nghĩa giục ba quân

Lời tựa cuồng giông bay tiếp tiếp
Giống nòi vận mệnh hẳn vần xoay
Kẻ đang sống sẽ mau hồn thiếp
Người đã qua đời vụt tỉnh ngay

Nghệ Thuật Với Nhân Dân

L’art et le peuple

I
L’art, c’est la gloire et la joie.
Dans la tempête il flamboie ;
Il éclaire le ciel bleu.
L’art, splendeur universelle,
Au front du peuple étincelle,
Comme l’astre au front de Dieu.

L’art est un champ magnifique
Qui plaît au cœur pacifique,

Que la cité dit aux bois,
Que l’homme dit à la femme,
Que toutes les voix de l’âme
Chantent en chœur à la fois !

L’art, c’est la pensée humaine
Qui va brisant toute chaîne !
L’art, c’est le doux conquérant !
A lui le Rhin et le Tibre !
Peuple esclave, il te fait libre ;
Peuple libre, il te fait grand !

II
O bonne France invincible,
Chante ta chanson paisible !
Chante, et regarde le ciel !
Ta voix joyeuse et profonde
Est l’espérance du monde,
O grand peuple fraternel !

Bon peuple, chante à l’aurore,
Quand le soir vient, chante encore !
Le travail fait la gaîté.
Ris du vieux siècle qui passe !

Chante l’amour à voix basse,
Et tout haut la liberté !

Chante la sainte Italie,
La Pologne ensevelie,
Naples qu’un sang pur rougit,
La Hongrie agonisante… –
O tyrans ! le peuple chante
Comme le lion rugit !

Bản dịch:

I
Nghệ thuật là sự vinh quang và niềm vui thú
Cháy bừng trong bão tố
Chiếu sáng trời xanh
Nghệ thuật, ánh sáng của vũ trụ chói lọi
Rạng ngời trên vừng trán nhân dân
Như vừng sao trên vừng trán Chúa

Nghệ thuật là bài ca tuyệt mỹ
Làm vui trái tim yên lành

Đô thành nói với rừng xanh
Đàn ông ngỏ lời với phụ nữ
Tất cả những tiếng nói tâm hồn
Hoà một khúc ca chung

Nghệ thuật là tư tưởng nhân loại
Đi bẻ gãy mọi xích xiềng!
Nghệ thuật là người chinh phục dịu hiền!
Thuộc về mình cả sông Rhin, sông Tibre
Nhân dân nô lệ, nghệ thuật làm cho người trở nên tự do
Nhân dân tự do, nghệ thuật làm cho người trở nên vĩ đại

II
Ôi nước Pháp tốt lành bất khả xâm phạm
Hãy hát bài ca thanh bình của người
Hãy hát và vọng nhìn trời
Tiếng ca của người vui tươi, sâu thẳm
Là niềm hy vọng của thế gian
Ôi nhân dân vĩ đại anh em!

Hỡi nhân dân tốt lành, hãy hát lúc rạng đông!
Khi chiều buông, hãy còn cứ hát
Lao động gây niềm hoan lạc
Hãy nhạo cười thế kỷ già nua đã qua

Hãy thì thầm những bản tình ca
Và cao giọng khúc hát tự do!

Hãy ca ngợi nước Ý thần thánh
Nước Ba Lan đang bị chôn vùi
Đô thành Náp đỏ dòng máu thắm
Và nước Hung hấp hối kia rồi
Này bạo chúa! nhân dân ca hát
Như sư tử đang lúc gầm thét.

Mùa Thu

L’automne

L’aube est moin clair, l’air moin chaud, le ciel moin pur;
Les longs jours sont passés, les mois charmants finissent.
Hélas! Voici déjas les arbres qui jaunissent!…
L’automne est triste avec sa bise et son brouillard
Et l’été qui s’enfuit et un ami qui part.

Bản dịch:

Bình minh kém sáng, bầu trời kém tươi
Ngày dài đã rụng, tháng đẹp qua rồi
Lạnh lẽo không gian, úa vàng cây cối
Mùa thu trĩu buồn, sương mù rơi rơi
Và hè nhẹ trôi, người tình li biệt.

Viết Trong Thời Lưu Vong

Écrit en exil

L’heureux n’est pas le vrai, le droit n’est pas le nombre;
Un vaincu toujours triste, un vainqueur toujours sombre,
Le sort n’a-t-il donc pas d’autre oscillation?
Toujours la même roue et le même Ixion!
Qui que vous soyez, Dieu vers qui tout me ramène,
Si le faible souffrait en vain, si l’âme humaine
N’était qu’un grain de cendre aux ouragans jeté,
Je serais mécontent de votre immensité;
Il faut, dans l’univers, fatal et pourtant libre,
Aux âmes l’équité comme aux cieux l’équilibre;
J’ai besoin de sentir de la justice au fond
Du gouffre où l’ombre avec la clarté se confond;
J’ai besoin du méchant mal à l’aise, et du crime
Retombant sur le monstre et non sur la victime;
Un Caïn triomphant importune mes yeux;
J’ai besoin, quand le mal est puissant et joyeux,
D’un certain grondement là-haut, et de l’entrée
Du tonnerre au-dessus de la tête d’Atrée.

Bản dịch:

Sung sứng hông là thực, quyền không thuộc số đông
Kẻ thắng luôn ảo não, người bại luôn u buồn
Số phận không biết vần xoay kiểu khác?
Hay chỉ một bánh xe, một I-xi-ôn!
Dầu Chúa là ai, Chúa với ta ai cũng nhắc
Nếu kẻ yếu chỉ khổ đau vô ích
Nếu hồn người là hạt cát ném trận phong ba
Thì ta bất bình với danh Chúa bao la
Trên thế giới tự do, dầu là tiền định
Con người cần công bằng như đất trời mong ổn định
Ta muốn cảm nhận nền công lý tận đáy vực sâu
Nơi ánh sáng và bóng đêm hoà nhập cùng nhau
Ta muốn kẻ bạo tàn luôn bứt rứt
Tội ác rơi lại đầu quỷ dữ, không hại người oan khuất
Mắt ta không nhìn nổi cảnh gã Canh sát hại người
Nếu điều ác luôn có sức mạnh và vui tươi
Thì ta cần sấm vang trời cao thẳm
Và sét đánh A-tơ-rê dập đầu loài rắn

Cô Gái Đã Cởi Giày Và Bỏ Mũ

“Elle était déchaussée, elle était décoiffée”

Elle était déchaussée, elle était décoiffée,
Assise, les pieds nus, parmi les joncs penchants;
Moi qui passais par là, je crus voir une fée,
Et je lui dis: Veux-tu t’en venir dans les champs?

Elle me regarda de ce regard suprême
Qui reste à la beauté quand nous en triomphons,
Et je lui dis: Veux-tu, c’est le mois où l’on aime,
Veux-tu nous en aller sous les arbres profonds?

Elle essuya ses pieds à l’herbe de la rive;
Elle me regarda pour la seconde fois,
Et la belle folâtre alors devint pensive.
Oh! comme les oiseaux chantaient au fond des bois!

Comme l’eau caressait doucement le rivage!
Je vis venir à moi, dans les grands roseaux verts,
La belle fille heureuse, effarée et sauvage,
Ses cheveux dans ses yeux, et riant au travers.

Bản dịch:

Cô gái đã cởi giày và bỏ mũ
Chân trần ngồi giữa đám cói nghiêng nghiêng
Tôi đi qua tưởng mình gặp nàng tiên!
– “Em có muốn xuống đồng chơi?” Tôi ướm

Nàng ngó tôi từ cái nhìn tối thượng
CỦa diễm kiều khi chiến thắng phân vân
– “Nơi đó mùa này người ta thích dừng chân
Muốn chăng em dạo dưới rặng cây xanh tốt?”

Nàng chùi bàn chân lên bờ cỏ mượt
Quay lại tôi đôi mắt ngó chăm chăm
Đang vui tươi nhí nhảnh bỗng trầm ngâm
Ôi! như chim trong rừng sâu ca hát!

Như nước vuốt ve dịu dàng bờ cát!
Từ đám lau xanh nàng tiến lại bên tôi
Cô gái kinh hoàng, hoang dã, xinh tươi
Tóc vàng buông trên mắt biếc, nàng cười.

Vì Sao Các Vĩ Nhân Đau Khổ?

Pourquoi les grands hommes sont malheureux?

Une nuit, j’écoutais, seul, parmi des décombres;
Et j’entendis parler les Évènements sombres:

Nous sommes les forgeurs; et les grands hommes sont
Les enclumes que Dieu met dans l’antre profond,
Prêtes au dur travail de créer d’autres races.
Car les hommes sont vils, méchants, lâches, voraces,
Monstrueux, et-le temps est venu de changer.
C’est à force de coups qu’on parvient à forger.
Donc les hommes, sans frein, sans loi, sans coeur, sans flamme,
Sans joie, avaient besoin qu’on leur fit une autre âme,
Et que quelqu’un de grand sur eux étincelât.
Il fallait faire à l’Homme une âme ayant l’éclat,
Le rayon, la puissance et la douceur, une âme
Paternelle à l’enfant, fraternelle à la femme,
Une âme juste. -Un jour, Dieu nous dit: Forgez-leur
Cette âme, et nous donna pour marteau le malheur;
Les grands hommes pensifs étant là, nous conclûmes
Que nous pouvions frapper sur ces sombres enclumes.

Bản dịch:

Có đêm, một mình, tôi nghe trong đổ nát
Những Biến động lớn lao cất tiếng thì thầm:

– Chúng ta, những thợ rèn, còn các vĩ nhân
Là chiếc đe, Thượng đế người sắp đặt
Để sẵn sàng làm công việc gian nan
Tạo ra một giống loài khác ở thế gian
Bởi con người hiện nay đang sống
Độc ác, dối lừa, xấu xa, hèn kém
Cắn xé nhau vì chút lợi nhỏ nhen
Chẳng luật lệ và không hiểu biết
Chẳng kiềm chế và không biết đến niềm vui
Đã đến lúc rồi. Cần phải đổi thay
Hãy giáng mạnh vào đe
Cho loé lên những gì cao thượng
Mới luyện được con người có tâm hồn toả sáng
Giàu niềm tin và sức mạnh của trái tim
Mang tình cha con với các trẻ em
Và tình anh em với bao phụ nữ
Có ý thức và tràn đầy trí tuệ
Một tâm hồn đúng nghĩa CON NGƯỜI
Thượng đế bảo: Cần rèn ngay ra họ
Chiếc búa ta trao là nỗi đau nhân thế
Buộc các vĩ nhân phải ngẫm nghĩ suy tư
Chúng ta tin: có thể đập mạnh vào đe
Là những vĩ nhân đang ngồi kia trầm mặc

Ông Lão Ăn Mày

Le mendiant

Un pauvre homme passait dans le givre et le vent.
Je cognai sur ma vitre; il s’arrêta devant
Ma porte, que j’ouvris d’une façon civile.
Les ânes revenaient du marché de la ville,
Portant les paysans accroupis sur leurs bâts.
C’était le vieux qui vit dans une niche au bas
De la montée, et rêve, attendant, solitaire.
Un rayon du ciel triste, un liard de la terre.
Tendant les mains pour l’homme et les joignant pour Dieu.
Je lui criai: — Venez vous réchauffer un peu.
Comment vous nommez-vous? — Il me dit: — Je me nomme
Le pauvre. — Je lui pris la main: — Entrez, brave homme. —
Et je lui fis donner une jatte de lait.
Le vieillard grelottait de froid; il me parlait.
Et je lui répondais, pensif et sans l’entendre.
— Vos habits sont mouillés, dis-je, il faut les étendre
Devant la cheminée. — Il s’approcha du feu.
Son manteau, tout mangé des vers, et jadis bleu,
Étalé largement sur la chaude fournaise.
Piqué de mille trous par la lueur de braise,
Couvrait l’âtre, et semblait un ciel noir étoilé.
Et, pendant qu’il séchait ce haillon désolé
D’où ruisselait la pluie et l’eau des fondrières,
Je songeais que cet homme était plein de prières.
Et je regardais, sourd à ce que nous disions.
Sa bure où je voyais des constellations.

Bản dịch:

Một ông già khốn khổ đi ngang qua trong gió, tuyết
Tôi gõ kính, ông dừng lại
Trước cửa nhà tôi, rộng mở ân cần
Nông dân đi chợ tỉnh đang lũ lượt về thôn
Ngồi xổm trên yên những chú lừaddungr đỉnh
Ông già ấy ở túp lều cuối dốc
Sống mơ ước, đợi chờ, cô độc
Một đồng tiền nơi mặt đất, một tia sáng nơi trời buồn
Chìa tay xin người và chắp tay cầu Chúa
Tôi gọi: – Cụ ơi, vào đây sưởi đã
Tên cụ là gì? – Cụ trả lời:
– Tôi là Kẻ khó. – Vào đi đã, cụ ơi!
Dắt tay cụ, tôi đưa mời bát sữa
Ông lão rét run; còn tôi thì tư lự
Tai nghe chẳng rõ, nhưng vẫn chuyện trò
– Áo ướt sũng, cụ ơi, giăng trước lò sưởi cho khô
Cụ bước lại gần lửa rực
Chiếc áo khoác, gián ăn, màu thanh thiên đã bạc
Trải rộng, chùm lên lò than
Đốm lửa soi qua lỗ chỗ muôn ngàn
Giống khoảng trời đen đầy sao lấp lánh
Trong lúc cụ hong manh áo nghèo cũ rách
Đẫm nước mưa và lấm đầy bùn
Tôi tưởng chừng như cụ đang tĩnh tâm cầu nguyện
Và chẳng để tai nghe những câu trò chuyện
Tôi nhìn tấm áo vải thô với những chòm sao

Đêm

C’est la nuit

C’est la nuit; la nuit noire, assoupie et profonde.
L’ombre immense élargit ses ailes sur le monde.
Dans vos joyeux palais gardés par le canon,
Dans vos lits de velours, de damas, de linon,
Sous vos chauds couvre-pieds de martres zibelines,
Sous le nuage blanc des molles mousselines,
Derrière vos rideaux qui cachent sous leurs plis
Toutes les voluptés avec tous les oublis,
Aux sons d’une fanfare amoureuse et lointaine,
Tandis qu’une veilleuse, en tremblant, ose à peine
Éclairer le plafond de pourpre et de lampas,
Vous, duc de Saint-Arnaud, vous, comte de Maupas,
Vous, sénateurs, préfets, généraux, juges, princes,
Toi, César, qu’à genoux adorent tes provinces,
Toi qui rêvas l’empire et le réalisas,
Dormez, maîtres… – Voici le jour. Debout, forçats!

Bản dịch:

Đêm. Tối đen, xạc xào và sâu lắng
Bóng mênh mông dang cánh phủ trần gian
Trong lâu đài vui gác bằng họng súng
Các quan ngài say giấc mơ màng
Trên giường nhung vải hoa Damas
Dưới chăn lông chồn thứ đắt
Dưới làn mây bằng vải màu kem
Sau chấn song từng nếp gấp rèm
Đang che mọi thú vui và quên lãng
Trong tiếng kèn đồng diễm tình và xa thẳm
Lúc đèn đêm leo lét mờ soi rạng
Những trần nhà gấm vóc lụa là
Các ngài công tước Saint-Arnaud, bá tước Maupas
Các ngài tỉnh trưởng, nghị viên, hoàng tử, quan toà, tướng lĩnh
Ngươi, César, mà các chư hầu gối quỳ sùng kính
Ngươi mơ đế chế và từng thực hiện giấc mơ sừng sỏ
– Đứng lên, những người cùng khổ
Đây là lúc bình minh rạng tỏ.

Sáng Trăng

Clair de lune

La lune était sereine et jouait sur les flots. —
La fenêtre enfin libre est ouverte à la brise,
La sultane regarde, et la mer qui se brise,
Là-bas, d’un flot d’argent brode les noirs îlots.

De ses doigts en vibrant s’échappe la guitare.
Elle écoute… Un bruit sourd frappe les sourds échos.
Est-ce un lourd vaisseau turc qui vient des eaux de Cos,
Battant l’archipel grec de sa rame tartare ?

Sont-ce des cormorans qui plongent tour à tour,
Et coupent l’eau, qui roule en perles sur leur aile ?
Est-ce un djinn qui là-haut siffle d’un voix grêle,
Et jette dans la mer les créneaux de la tour ?

Qui trouble ainsi les flots près du sérail des femmes ? —
Ni le noir cormoran, sur la vague bercé,
Ni les pierres du mur, ni le bruit cadencé
Du lourd vaisseau, rampant sur l’onde avec des rames.

Ce sont des sacs pesants, d’où partent des sanglots.
On verrait, en sondant la mer qui les promène,
Se mouvoir dans leurs flancs comme une forme humaine… —
La lune était sereine et jouait sur les flots.

Bản dịch:

Trăng tỏ dập dờn trên sóng bạc
Cửa sổ hé đón gió lùa qua
Hậu nhìn biển cả lung linh sóng
Toả ánh bạc viền đảo xám xa

Những ngón tay mềm dạo khúc lòng
Bỗng nghe tiếng đục gợn lời trong
Phải chăng thuyền Thổ từ hòn Cos
Quanh xứ Hi đang chèo suốt vòng?

Phải chăng đàn cốc thi nhau lặn
Nước đọng thành châu bám cánh dài?
Có phải thần Hồi kêu lanh lảnh
Ném vào biển cả ổ châu mai?

Vậy ai cản sóng lầu cung nữ?
Không phải đàn chim giỡn sóng cao
Không phải châu mai, không chiến hạm
Mái chèo gấp gáp lướt như lao

Mà là túi nặng đang rền rĩ
Lênh đênh biển cả dưới trời đêm
Trong túi như hình người tỉnh giấc
Dập dờn trăng tỏ sóng ru êm

Chiếc Áo Bào

Le Manteau impérial

Oh! vous dont le travail est joie,
Vous qui n’avez pas d’autre proie
Que les parfums, souffles du ciel,
Vous qui fuyez quand vient décembre,
Vous qui dérobez aux fleurs l’ambre
Pour donner aux hommes le miel,

Chastes buveuses de rosée,
Qui, pareilles à l’épousée,
Visitez le lys du coteau,
Ô sœurs des corolles vermeilles,
Filles de la lumière, abeilles,
Envolez-vous de ce manteau!

Ruez-vous sur l’homme, guerrières!
Ô généreuses ouvrières,

Vous le devoir, vous la vertu,
Ailes d’or et flèches de flamme,
Tourbillonnez sur cet infâme!
Dites-lui: «Pour qui nous prends-tu?

»Maudit! nous sommes les abeilles!
Des chalets ombragés de treilles
Notre ruche orne le fronton;
Nous volons, dans l’azur écloses,
Sur la bouche ouverte des roses
Et sur les lèvres de Platon.

»Ce qui sort de la fange y rentre.
Va trouver Tibère en son antre,
Et Charles neuf sur son balcon.
Va! sur ta pourpre il faut qu’on mette,
Non les abeilles de l’Hymette,
Mais l’essaim noir de Montfaucon!»

Et percez-le toutes ensemble,
Faites honte au peuple qui tremble,
Aveuglez l’immonde trompeur,
Acharnez-vous sur lui, farouches,
Et qu’il soit chassé par les mouches
Puisque les hommes en ont peur!

Bản dịch:

Ồ! các em mà lao động là vui
Các cô em không kiếm mồi nào khác
Ngoài hương thơm, hơi thở của trời
Tháng chạp về, các em đi trốn
Hổ phách của hoa, các em lấy trộm
Để làm mật ngọt cho người

Các cô em trong trắng hút sương mai
Ong ơi ong, giống cô dâu mới cưới
Ong đi thăm hoa huệ trên đồi
Là con của ánh dương phơi phới
Là em gái những cánh hoa đỏ chói
Rời bỏ áo bào, ong hãy xa bay!

Xông vào hắn đi, hỡi ong chiến sĩ
Ôi các cô thợ hảo tâm
Nghĩa vụ, các em, đức hạnh, các em
Bộ cánh vàng và mũi tên rực lửa
Hãy xoáy tít trên đầu thằng nhục nhã
Hãy bảo hắn: “Mi nghĩ ta là ai?

“Ta là ong! hỡi tên khốn kiếp!
Tổ của ta rợp bóng giàn nho
Làm đẹp cho các mí nhà nên thơ
Chúng ta bay, trong trời xanh, bừng nở
Trên miệng những đoá hồng hé mở
Vàg trên môi Platon

“Mi hãy tìm Charles IX trên ban công
Và đến với Tibère trong hang tối
Từ bùn thối, phải trở về bùn thối
Cần thêu lũ quạ đen Montfaucon
Chứ không phải bầy Hymette ong vàng
Trên áo mi màu đỏ tía!”

Hãy nhất tề đâm hắn đi, ong
Hãy làm cho những kẻ nhát gan xấu hổ
Hãy lăn xả vào, hung dữ
Hãy chọc mù tên lừa đảo nhớp nhơ
Hắn phải bị ong ruồi tống cổ đi
Bởi vì con người run sợ!

Đón đọc thêm tuyển tập 🌿Thơ Nguyễn Du 🌿Ngoài Các Bài Thơ Victor Hugo

Những Đánh Giá, Nhận Định Về Nhà Thơ Victor Hugo

Tổng hợp những đánh giá, nhận định về nhà thơ Victor Hugo. Bạn có thể đọc thêm:

  • Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mênh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học.
  • Tư tưởng của Victor Hugo là tư tưởng cơ bản của toàn bộ nghệ thuật thế kỷ XIX và ông là người đầu tiên phát ngôn cho tư tưởng đó. – Dostoievski.
  • Hugo thường biểu hiện những tình cảm phổ biến của con người bình thường với những từ ngữ của cuộc sống hằng ngày.
  • “Tôi thấy ngôn từ Pháp khi ra khỏi miệng ông đã biến thành một thế giới, một vũ trụ đầy màu sắc, du dương và sống động”. – Baudelaire.
  • Toàn bộ bề mặt nứt ra, nhung nhúc và cựa quậy trong thơ Hugo”. – Eli Faure.

Tổng hợp các thông tin về 🌿Thơ Lê Quý Đôn 🌿Bên Cạnh Thơ Victor Hugo

Viết một bình luận