Thuật Hoài Của Phạm Ngũ Lão (Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích)

Chia sẻ cho các bạn đọc nội dung bài thơ và những mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão hay nhất sau đây.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Thuật Hoài

Nội dung đầu tiên, bạn hãy cùng Thohay.vn tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Thuật Hoài tại bài viết dưới đây trước nhé.

Bài thơ được sáng tác sau khi chiến thắng quân Nguyên – Mông của quân đội nhà Trần với hào khí Đông A ngút trời. Đây là bài thơ thuộc loại thơ “nói chí tỏ lòng”. Qua bài thơ này tác giả muốn bày tỏ nỗi lòng cũng như chí hướng của bản thân.

Bạn xem ngay những mẫu phân tích bài 💛 Tỏ Lòng 💛 hay nhất

Nội Dung Bài Thơ Thuật Hoài Của Phạm Ngũ Lão

Gửi đến các bạn nội dung bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão dưới đây.

Thuật Hoài
Tác giả: Phạm Ngũ Lão

述懷

橫槊江山恰幾秋,
三軍貔虎氣吞牛。
男兒未了功名債,
羞聽人間說武侯。

Phiên âm

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Dịch nghĩa

Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu.
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.

Dịch thơ

Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Xem trọn bộ 👉 Thơ Phạm Ngũ Lão (Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ)

Ý Nghĩa Bài Thơ Thuật Hoài

Bài thơ Thuật hoài là biểu tượng của thời kỳ huy hoàng nhất của triều đại nhà Trần, nơi Phạm Ngũ Lão đồng lòng với những anh hùng khác chống lại quân Mông – Nguyên. Ông ấy nhấn mạnh trách nhiệm công dân và lí tưởng sống trung quân, ái quốc trong bối cảnh quốc gia nổi lên, giữ vững bản sắc dân tộc Việt.

Chia sẻ bạn nội dung 👉 Bài Thơ Hoa Cỏ May

Đọc Hiểu Bài Thơ Thuật Hoài

Đừng nên bỏ qua nội dung phần đọc hiểu bài thơ thuật hoài sau đây nhé!

👉Câu 1. Nêu chủ đề của văn bản trên?

Đáp án: Bài thơ giải bày nỗi lòng trước hoàn cảnh và thời cuộc, đồng thời thể hiện tâm trạng bi tráng và ý chí quật cường của tác giả- người anh hùng thất thế.

👉Câu 2. Chữ hoành trong bản phiên âm thuộc từ loại gì ? Nêu ý nghĩa của từ  « hoành »  trong văn bản ?

Đáp án: Chữ hoành trong bản phiên âm thuộc từ loại động từ. Hiếm có bài thơ chữ Hán nào có từ mở đầu bài thơ bằng động từ. Dùng từ hoành ( cầm ngang), ngay từ đầu bài thơ đã hiện lên một tráng sĩ dọc ngang trời đất, xứng tầm với vũ trụ. Hình ảnh thơ trở nên kì vĩ, mạnh mẽ.

👉Câu 3. Anh/ chị hiểu Hào khí Đông A là gì?

Hào khí Đông A là hào khí thời Trần, tức khí thế chống ngoại xâm của quân dân đời nhà Trần, vì chữ Trần có thể đọc theo lối chiết tự là Đông A.

👉Câu 4. Qua văn bản, viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ những bài học được rút ra dành cho tuổi trẻ hôm nay.

Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :

-Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành ;

-Nội dung: từ hình ảnh người tráng sĩ trong bài thơ, thí sinh suy nghĩ về các bài học như: tiếp tục lập công danh trong thời bình ; sống phải có hoài bão, ước mơ điều lớn lao; gắn khát vọng, lợi ích bản thân với lợi ích Tổ quốc…

Xem nội dung tác phẩm ✨ Bài Thơ Quê Hương Của Tế Hanh ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Nghệ Thuật Bài Thơ Thuật Hoài

Dưới đây là nghệ thuật bài thơ Thuật Hoài mà có thể bạn sẽ quan tâm.

  • Bài thơ Đường luật với thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, hình ảnh giàu sức khái quát…
  • Bút pháp nghệ thuật phóng đại, so sánh cùng âm hưởng khi hào hùng, mạnh mẽ, khi trầm lắng, suy tư để lại dư âm trong lòng người đọc.

Xem ngay chi tiết 👉 Bài Thơ Ngắm Trăng

5+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Thuật Hoài

Chia sẻ cho bạn đọc 5+ mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Thuật Hoài hay nhất mà chúng tôi đã tổng hợp tại bài viết sau đây.

Phân Tích Bài Thơ Thuật Hoài Tiêu Biểu

Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là một nội dung lớn, bao trùm và xuyên suốt văn học giai đoạn này với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng và bài thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của tác giả Phạm Ngũ Lão là một trong số các tác phẩm tiêu biểu. Ra đời sau chiến thắng Mông – Nguyên của quân đội nhà Trần, bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp của hào khí Đông A, sức mạnh của con người và quân đội thời Trần.

Đọc bài thơ, người đọc có thể nhận thấy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực hình tượng của con người và quân đội thời trần. Trước hết đó chính là hình tượng con người thời Trần được khắc họa qua câu thơ đầu tiên:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
(Múa ngang ngọn giáo trải mấy thu)

Câu thơ đã vẽ lên hình ảnh con người tay cầm ngang ngọn giáo mà bảo vệ, trấn giữ quê hương, đất nước. “Cầm ngang ngọn giáo” là một hành động rất mạnh mẽ, nó gợi lên tư thế hiên ngang, hùng dũng, sẵn sàng chiến đấu của người chiến sĩ.

Thêm vào đó, tác giả còn đặt hình ảnh người tráng sĩ trong không gian “giang sơn” rộng lớn của núi rừng, của Tổ quốc và thời gian chiến đấu dài đằng đẵng, suốt từ năm này qua năm khác – “kháp kỉ thu” đã thêm một lần nữa tô đậm thêm tư thế tư thế hiên ngang, bất khuất của người tráng sĩ trong công cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước.

hêm vào đó, hình tượng quân đội nhà Trần tràn đầy sức mạnh và khí thế cũng được tác giả Phạm Ngũ Lão tái hiện thật sống động, rõ nét.

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

“Tam quân” chính là ba quân trong được quân đội nhà Trần xây dựng, đó là tiền quân, trung quân và hậu quân. Thêm vào đó, câu thơ với việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh so sánh và lối nói phóng đại khi so sánh quân đội nhà Trần với “tì hổ” – sức mạnh của loài hổ báo, nó có thể át đi cả sao Ngưu trên trời đã cho thấy khí thế dũng mãnh, hào hùng của quân đội nhà Trần. Đó cũng chính là sức mạnh, là khí thế của hào khí Đông A được cả dân tộc tự hào.

Như vậy, hai câu thơ mở đầu bài thơ, với hình ảnh so sánh, phóng đại và giọng điệu hào hùng đã khắc họa một cách rõ nét tư thế hiên ngang, bất khuất của các tráng sĩ thời Trần cùng sức mạnh, tầm vóc mạnh mẽ của quân đội nhà Trần.

Nếu hai câu thơ mở đầu bài thơ đã thể hiện hình tượng con người và quân đội thời Trần thì trong hai câu thơ còn lại tác giả đã tập trung làm bật nổi nỗi lòng của chính mình.

Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.)

Theo quan niệm của Nho giáo, công danh chính là lập công, ghi danh sử sách để tiếng thơm còn vương lại đến muôn đời sau, đây cũng chính là một món nợ lớn đối với mỗi trang nam nhi. “Công danh” dường như đã trở thành lí tưởng đối với nam nhi dưới thời đại phong kiến.

Là một người văn võ song toàn, từng ghi được nhiều chiến công, nhưng với ông, mình vẫn còn mắc nợ – món nợ “công danh”. Hai chữ “vương nợ” trong bản dịch thơ như khắc sâu thêm nỗi niềm da diết trong lòng tác giả, ông vẫn luôn tự ý thức một cách sâu sắc về trách nhiệm của mình với quê hương, với đất nước.

Không dừng lại ở đó, hai câu thơ còn cho chúng ta thấy được vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn của Phạm Ngũ Lão. Vẻ đẹp ấy được thể hiện qua nỗi “thẹn” của ông với Vũ Hầu. Như chúng ta đã biết, Vũ Hầu tức là Gia Cát Lượng, một nhân vật lịch sử lỗi lạc và là một con người tài năng, một bề tôi trung thành, đã từng nhiều lần giúp đỡ Lưu Bị khôi phục nhà Hán.

Nhắc đến tích chuyện về Vũ Hầu, Phạm Ngũ Lão cảm thấy “thẹn”, thấy xấu hổ, thua kém. Nỗi “thẹn” ấy của Phạm Ngũ Lão xét đến cùng là biểu hiện của một nhân cách cao đẹp, nó đánh thức chí làm trai đàn cuồn cuộn trong ông và đồng thời cũng thể hiện lí tưởng, hoài bão của tác giả.

Như vậy, hai câu thơ khép lại bài thơ với âm hưởng trầm lắng, đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cao cả của Phạm Ngũ Lão cùng quan điểm tiến bộ về chí làm trai của ông.

Tóm lại, bài thơ “Thuật hoài’ với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt hàm súc, ngôn ngữ cô đọng đã thể hiện được hình tượng, khí thế hiên ngang, dũng mãnh của con người và quân đội thời Trần. Đồng thời, qua đó cũng giúp người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nhà thơ Phạm Ngũ Lão.

Chia sẻ chi tiết về 🌿 Thuật Hứng 24 🌿Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Phân Tích Bài Thơ Thuật Hoài Chọn Lọc

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:

Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu).

Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước.

Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nền âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Chia sẻ thêm cho bạn bài thơi 👉 Tràng Giang của Huy Cận

Phân Tích Bài Thơ Thuật Hoài Đặc Sắc

Phạm Ngũ Lão, một trong những vị danh tướng lỗi lạc của nhà Trần, mặc dù không chú trọng vào viết thơ, nhưng những tác phẩm mà ông để lại đều đậm chất cá nhân. Bài thơ ‘Thuật hoài’ hoặc còn được biết đến với tên gọi ‘tỏ lòng’, là một kiệt tác nổi tiếng của Phạm Ngũ Lão, thể hiện tình yêu quê hương hùng vĩ, sự tự hào và lòng khao khát hiến dâng khi đất nước đối mặt với nguy cơ xâm lăng.

‘Chinh phục mọi ngóc ngách kỉ thu
Bốn quân hung mãnh, hùng khí bao la
Người nam nhi chưa hoàn thành sứ mệnh quan trọng
Mong muốn thăng thiên, góp phần chuyện phiêu bạt thế gian’

Bài thơ hiển thị lòng trung thành qua bốn câu thơ, sử dụng hình ảnh sắc nét của quân đội nhà Trần, toát lên vẻ mạnh mẽ, uy nghi của thời kỳ đánh giặc. Ngay từ đầu, Phạm Ngũ Lão tái hiện hình ảnh mạnh mẽ của quân đội nhà Trần trên hành trình bảo vệ lãnh thổ khỏi sự xâm lăng của kẻ thù ngoại vi.

‘Trải đều sức mạnh trên khắp vùng đất
Ba quân hùng mạnh, oai phong như trâu’
(Nhảy múa giữa non sông, đã trải qua bao mùa thu
Ba đội quân đầy sức sống như trôi điều trâu)

Hình ảnh những anh hùng thời Trần hiện lên trong câu thơ vô cùng tráng lệ qua sự biểu diễn của cây ‘giáo’. Tư thế của họ tự tin và kiêu hãnh được thể hiện trên bức tranh lớn của ‘giang sơn’ và thời gian dài ‘trải bao mùa thu’.

Câu thơ là biểu tượng của sức mạnh đầy đủ, tư thế vững chắc sẵn sàng chiến đấu của những người anh hùng xưa. Họ đứng giữa non sông quê hương hùng vĩ, luôn kiên trì bảo vệ tổ quốc suốt nhiều mùa thu. Hình ảnh con người hiện ra vô cùng đẹp đẽ, hùng vĩ như tượng đài bất diệt về những anh hùng của thời Trần.

Không chỉ là hình ảnh của một anh hùng vĩ đại, mà cả ‘tam quân’ thời Trần được mô tả rất mạnh mẽ. Hình ảnh ẩn dụ và phóng đại của ‘hổ khí thôn ngưu’ là một biểu tượng lớn, đẹp đẽ. ‘Hổ khí thôn ngưu’ mang ý nghĩa như hổ báo ‘nuốt chửng trâu’ với ý nghĩa sâu sắc trong việc tái hiện sức mạnh và uy nghi của đội quân nhà Trần.

Hiện lên trong tâm trí độc giả là ba đội quân đông đảo, hùng mạnh với sức mạnh to lớn, đang sẵn sàng chiến đấu hết mình cho đất nước. Khí thế hùng mạnh này là biểu tượng của một thời kỳ hào hùng ở Đông Á, khiến ta nhớ đến những lời oai hùng trong bài hịch của tướng sĩ thời Trần: ‘Tôi thường bỏ bữa quên ăn, giữa đêm vẫn lo lắng, ruột đau như bị cắt, nước mắt ngập đầy, chỉ mong được trả thù cho máu quân thù. Dù làm xác này phơi ngoại cỏ, gói nghìn xác trong da ngựa, tôi vẫn hạnh phúc’.

Với tinh thần chiến đấu hùng mạnh, bảo vệ từng bước đất đất đai cho đất nước, Phạm Ngũ Lão tiếp tục chia sẻ những suy nghĩ cá nhân về trách nhiệm nam nhi thời kỳ ấy:

‘Đối mặt với trách nhiệm công danh
Tâm hồn nam tử gặp lúc đau thương’
(Làm tròn nghĩa vụ công danh nam tử
Tâm hồn trăn trở khi nghe về Vũ Hầu)

Phạm Ngũ Lão đã đề cập đến trách nhiệm với công danh và ‘công danh trái’. Với những nam nhi sống trong thời đại đó, việc theo đuổi công danh có ý nghĩa vô cùng quan trọng. ‘Công danh trái’ không chỉ là danh lợi cá nhân, mà là một nghĩa vụ lớn với quê hương, là sự hi sinh của trí lực và tài năng của người đàn ông, đầu đeo trời chân đạp đất, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích lớn lao, vì sự nghiệp chung của cả dân tộc.

Qua câu thơ, Phạm Ngũ Lão thể hiện lòng trăn trở, khao khát của mình muốn đóng góp nhiều hơn nữa cho đất nước, để hoàn thành nghĩa vụ công danh và trả món nợ lớn của trí lực nam tử. Nguyễn Công Trứ, nhà thơ tài năng, cũng đã chia sẻ nhiều về ‘vai trò làm trai’:

‘Chịu đựng trách nhiệm bên trong ngôi nhà
Đứng đầu gia đình, phục vụ nhân dân.
Trên cao cầm quyền, dưới thấp chăm sóc
Mang trên vai gánh nặng ‘quân’ và ‘thân”

Phạm Ngũ Lão, một danh tướng vĩ đại trong lịch sử nhà Trần, với công lao lớn cho đất nước, vẫn giữ lòng khiêm tốn khi nghe đến ‘thuyết Vũ Hầu’. Ông khôn ngoan khi nhắc đến Gia Cát Lượng, người được ví như người dung trí đa mưu trong thời Tam Quốc, để thể hiện sự thấp kém của mình.

Thẹn vì không đạt tới đẳng cấp của Gia Cát Lượng, nhưng điều này lại làm toát lên phẩm chất cao quý trong con người Phạm Ngũ Lão. Câu thơ thể hiện lòng khao khát mãnh liệt của một tướng tài, mong muốn hiến dâng mình cho sự nghiệp cộng đồng của đất nước. Đó là tâm hồn anh hùng của một vị tướng có tâm huyết và uy tín.

Với bốn câu thơ ngắn gọn, lời thơ đậm chất hào hùng, hình ảnh thơ sắc nét, nhịp thơ maléable, lúc nhanh lúc chậm như những dòng suy tư. Bài thơ gợi lên khung cảnh hào hùng của dân tộc nhà Trần cùng tinh thần chiến đấu sôi nổi của những người anh hùng, mong muốn hiến dâng tất cả cho đất nước theo lối tư duy của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Mặc dù cách đây nhiều thế kỷ, nhưng tác phẩm vẫn để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng hàng triệu độc giả ngày nay.

Bạn xem thêm tác phẩm 👉 Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá

Cảm Nhận Bài Thơ Thuật Hoài Ấn Tượng

Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320) là một danh tướng đời Trần, chiến thắng liên miên, hùng biện văn võ. Với công lao không ngừng, ông đồng lòng cùng Hưng Đạo Đại vương bảo vệ tổ quốc, chống lại kẻ thù xâm lược. Hình như ông là bàn tay đắc lực của Hưng Đạo Đại vương.

Ngoài tài năng quân sự, Phạm Ngũ Lão còn là một nhà thơ tài năng. Bài thơ Thuật hoài – một tác phẩm thể hiện lòng yêu nước anh hùng, khí thế của nhà Trần.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, chỉ bốn câu thơ nhưng Phạm Ngũ Lão đã khéo léo truyền đạt quan điểm, tình yêu quê hương và tinh thần trung quân. Các câu đầu thể hiện sự hiên ngang trong trận đánh và tinh thần đoàn kết của binh sĩ nhà Trần:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân kỳ hổ khí thôn ngưu”

(Múa giáo non sông qua mấy mùa thu

Ba quân mãnh mẽ nuốt trôi kẻ thù)

Hình ảnh những chiến sĩ nhà Trần hiên ngang với giáo trong tay, sẵn sàng đối mặt với mọi thách thức, là biểu tượng của sức mạnh và lòng dũng cảm. Múa giáo non sông như là bức tranh mô tả họ đi khắp giang sơn, làm nên những hành động cao quý vì đồng bào và đất nước.

Chữ “hoành sóc” thực sự làm nổi bật vẻ mạnh mẽ, kiêu hãnh của những người lính nhà Trần. Họ không chỉ đẹp về hình thể, mà còn đẹp về tâm hồn, là niềm tự hào của dân tộc.

Cuối bài thơ, Phạm Ngũ Lão chia sẻ quan điểm về chí làm trai trong thời đại đó:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(Công danh nam nhi còn vương nợ

Nhân gian thường nói về Vũ Hầu)

Ông thừa nhận rằng công danh vẫn còn nợ nần với ông, và khi nghe nói về Vũ Hầu, ông cảm thấy hổ thẹn. Điều này không phải là sự tự ti, mà là sự nhìn nhận trung thực về bản thân.

Phạm Ngũ Lão không chỉ là người lính trung thành, mà còn là nhà lãnh đạo có tầm nhìn. Sự khiêm tốn và lòng trung hiếu của ông là nguồn động viên lớn cho những người lính dưới quyền ông.

Trong tình yêu nước và lòng hiếu thảo, Phạm Ngũ Lão không chỉ là một danh tướng xuất sắc mà còn là một nhà thơ tài năng, để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng dân tộc. Bài thơ Thuật hoài là một biểu tượng của tình yêu quê hương, lòng dũng cảm và lòng trung hiếu, là di sản văn hóa lớn của nhân dân Việt Nam.

Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 🌸 Vội Vàng [Xuân Diệu] 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý

Cảm Nhận Bài Thơ Thuật Hoài Nổi Bật

Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Toản, “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu,… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoành sóc giang san kháp kỉ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vỹ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang san) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỉ thu).

Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo “tỳ hổ” quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu.

Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “sát thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

“Thuyền bè muôn đội

Tinh kỳ phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”

(Bạch Đằng giang phú)

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại.

Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.

“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.

Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông A”.

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Ngôn Chí Bài 10 ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Phân Tích

Viết một bình luận