Thượng Kinh Kí Sự Của Lê Hữu Trác (Nội Dung, Đọc Hiểu)

Giới thiệu tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác. Tác giả không chỉ là danh y vang tiếng mà còn là nhà văn lớn, nhà văn hóa xuất sắc của dân tộc.

Thượng Kinh Kí Sự Là Gì?

Thượng kinh ký sự (上京記事, Ký sự lên kinh đô) là tập ký sự bằng chữ Hán của nhà y học và nhà văn Lê Hữu Trác (biệt hiệu: Hải Thượng Lãn Ông, có nghĩa: Ông già lười Hải Thượng). Thượng Kinh ký sự kể lại thời gian sống ở Kinh thành biết bao biến động lớn, tả lại sự giao du với các công hầu khanh tướng thời Lê mạt và lúc nào tác giả cũng mong thoát khỏi vòng công danh phú quý về với núi cũ non xưa.

Đón đọc tác phẩm 👉 Vào Phủ Chúa Trịnh

Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Tác Phẩm Thượng Kinh Kí Sự

Thượng Kinh Ký Sự được in ở phần cuối bộ Y tông tâm lĩnh như một phụ lục, ghi chép lại chuyến đi của Hải Thượng Lãn Ông từ Hà Tĩnh lên Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đây là một tác phẩm văn học rất có giá trị được viết bằng chữ Hán.

Thượng kinh ký sự được viết vào thập niên 80 của thế kỷ XVIII ( năm 1781) – một giai đoạn rối ren của triều đình phong kiến Lê Trịnh trước khi vua Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà. Tác giả kể lại cuộc hành trình của mình từ Nghệ Tĩnh về Thăng Long để chữa bệnh cho Chúa Trịnh do tiếng tăm lừng lẫy của một đại danh y. Thượng kinh ký sự cũng ghi lại thời gian sống ở kinh thành với biết bao biến động và thổ lộ tấm lòng một vị danh y mong thoát khỏi vòng công danh phú quý, trở về với núi cũ non xưa.

Xem thêm tác phẩm 👉 Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh

Tóm Tắt Nội Dung Tác Phẩm Thượng Kinh Kí Sự Của Lê Hữu Trác

Chia sẻ đến bạn đọc bài tóm tắt nội dung tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác dưới đây:

Thượng kinh kí sự ghi lại chuyến về kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán (con của chúa Trịnh Sâm và nguyên phi Đặng Thị Huệ). Ngày 12 tháng giêng năm Nhâm Dần (1782), Lê Hữu Trác từ Hương Sơn đi Thăng Long theo chỉ triệu của chúa, mãi đến mùng 2 tháng 11 mới trở lại được quê mẹ; một chuyến đi kéo dài 9 tháng 20 ngày.

Tác giả Lê Hữu Trác đã kể lại những điều mắt thấy tai nghe ở chốn kinh kì, cuộc sống xa hoa của vua chúa và quan lại trong phủ chúa, việc chữa bênh cho thế tử Trịnh Cán, những cuộc tiếp xúc với các công khanh, nho sĩ ờ chốn đế đô, chuyến trở vế ngắn ngủi thăm cố hương,… Tác giả đã kể lại một cách chân thực cảm động cuộc tự đấu tranh tư tưởng để thoát khỏi mọi cám dỗ về danh lợi để được sống thanh cao thanh nhàn.

Xem thêm tác phẩm 👉 Bài Ca Ngất Ngưởng

Ý Nghĩa Tác Phẩm Thượng Kinh Kí Sự

Tác phẩm Thượng kinh kí sử của Lê Hữu Trác đã phê phán nhẹ nhàng mà thấm thía cuộc sống giàu sang, xa hoa, phù phiếm đầy giả tạo của tầng lớp quyền quý thời kỳ phong kiến.

Đọc Hiểu Tác Phẩm Thượng Kinh Kí Sự

Thượng kinh kí sự thể hiện nhân cách cao đẹp của một danh y: coi trọng việc cứu người, coi thường danh lợi, ưa cuộc sống thanh nhàn. Cảnh, việc, người được tác giả nói đến trong tập kí sự mang giá trị tư liệu lịch sử đáng quý. Xem thêm phần đọc hiểu tác phẩm sau đây để có thêm nhiều tư liệu hay và hữu ích.

👉 Câu 1: Miêu tả quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được đề cập trong tác phẩm Thượng kinh kí sự?

Đáp án:

  • Quang cảnh trong phủ chúa: Tráng lệ, tôn nghiêm, lộng lẫy ( đường vào phủ, vườn hoa, bên trong phủ, nội cung của thế tử…)
  • Cung cách sinh hoạt: Theo nghi lễ, khuôn phép (cách đưa đón thầy thuốc, cách xưng hô, cảnh khám bệnh)

=>Cao sang, quyền uy tột đỉnh, cuộc sống xa hoa đến cực điểm và sự lộng uyền của nhà chúa.

👉 Câu 2: Thái độ, tâm trạng của tác giả như thế nào?

Đáp án:

– Dửng dưng trước cuộc sống xa hoa, giàu sang; không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng ngột ngạt, thiếu sinh khí.

– Lúc đầu có ý định chữa cầm chừng để tránh bị công danh trói buộc, nhưng sau đó ông đã làm đúng với lương tâm của người thầy thuốc, đưa ra cách chữa đúng bệnh.

=> Nhân cách, con người Lê Hữu Trác: một thầy thuốc giỏi, bản lĩnh, giàu kinh nghiệm, y đức cao, xem thường danh lợi, yêu tự do, sống giản dị, thanh đạm.

👉 Câu 3: Nét đặc sắc trong bút pháp kí sự là gì?

Đáp án: Quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, kể diễn biến sự việc sinh động, tạo nên được chất hiện thực của tác phẩm. Kết hợp văn xuôi và thơ làm tăng chất trữ tình cho tác phẩm.

Chia sẻ cho bạn bài 👉 Vịnh Khoa Thi Hương

Giá Trị Tác Phẩm Thượng Kinh Kí Sự

Mời bạn đọc cùng khám phá ngay nội dung giá trị tác phẩm Thượng kinh kí sự trên 2 khía cạnh cụ thể là giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.

  • Giá trị nội dung: Thượng kinh ký sự của danh y Lê Hữu Trác là tác phẩm du ký trường thiên, phóng sự, ký sự chữ Hán mở đầu, tiêu biểu ở thế kỷ 18 – 19. Về cơ bản, tác phẩm kết hợp thỏa đáng tâm thế “du ký công vụ” với tiếng nói con người cá nhân.
    • Trong đó, độc thoại nội tâm, hồi ức, kỷ niệm, nói tận lòng sự yêu đương, thể hiện việc khảo tả địa lý – hành chính, phác thảo cảnh quan, chân dung con người và cuộc sống của thực tại. Từ điểm nhìn của thế kỷ 21, chúng ta có đủ cơ sở xác định tác phẩm Hải Thượng y tông tâm lĩnh, Thượng kinh ký sự là kết tinh các thành tựu và giá trị về nhiều lĩnh vực, phương diện mà danh y Lê Hữu Trác gửi lại cho hậu thế.
  • Giá trị nghệ thuật: Tác giả sử dụng thể tài bút ký, ghi chép người thật việc thật, tuân theo trật tự thời gian và mở rộng biên độ hình thức thể loại với sự xuất hiện hàng chục bài thơ Đường luật.

Tìm hiểu thêm tác phẩm 👉 Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca

Các Bài Thơ Trong Tập Thượng Kinh Ký Sự

Dưới đây là những bài thơ của Lê Hữu Trác trong tập Thượng kinh ký sự, bài được đánh số theo thứ tự xuất hiện trong tập.

首01

流水何太急,
行人意慾遲。
羣山分岸走,
一揁劈烟飛。
沙雁親如送,
遊魚急欲追。
雲間香嶺樹,
太半已斜暉。

Thủ 01
Lưu thuỷ hà thái cấp,
Hành nhân ý dục trì.
Quần sơn phân ngạn tẩu,
Nhất trạo phách yên phi.
Sa nhạn thân như tống,
Du ngư cấp dục truy.
Vân gian hương lĩnh thụ,
Thái bán dĩ tà huy.

Bản dịch
Nước chảy sao mà lẹ
Người đi những muốn thư
Non chia đôi ngạn chuyển
Mái rẽ đám sương mờ
Vịt bãi theo đưa tiễn
Cá sông dõi lững lờ
Mây che Huơng lĩnh khuất
Quá nửa đã chiều tà

首02

一江烟水靖,
客思满關河。
風重征帆急,
霜深去雁斜。
寒山來夜磬,
遠浦出漁歌。
今夕猶如此,
明朝且奈何。

Thủ 02
Nhất giang yên thuỷ tĩnh,
Khách tứ mãn quan hà.
Phong trọng chinh phàm cấp,
Sương thâm khứ nhạn tà.
Hàn san lai dạ khánh,
Viễn phố xuất ngư ca.
Kim tịch do như thử,
Minh triêu thả nại hà?

Bản dịch
Nước mây sông phẳng lặng
Nỗi khách chốn quan hà
Gió mạnh buồm đưa gấp
Sương dày nhạn lượn qua
Núi sâu vang tự khánh
Bến vắng vọng lời ca
Cảnh tối nay như thế
Mai đây biết chăng là?

首03

遯世從醫養一眞,
不知爲富豈知貧。
林泉欲了三生道,
綸綍難辭萬里身。
半擔烟霞勞驛馬,
满山猿鶴送征人。
虛名自揣無他秘,
只恐疎狂對聖君。

Thủ 03
Độn thế tòng y dưỡng nhất chân,
Bất tri vi phú khởi tri bần.
Lâm tuyền dục liễu tam sinh đạo,
Luân phất nan từ vạn lý thân.
Bán đảm yên hà lao dịch mã,
Mãn san viên hạc tống chinh nhân.
Hư danh tự suỷ vô tha bí,
Chỉ khủng sơ cuồng đối thánh quân.

Bản dịch
Học thuốc xa người để dưỡng chân
Phú không hay biết biết chi bần
Ba sinh rừng núi mong tròn đạo
Vạn lý khâm thừa dám tiếc thân
Nửa cõi khói mây chồn bước ngựa
Đầy non hạc vượn tiễn hành nhân
Hư danh đã bỏ không mơ ước
Sơ kháng còn lo đối thánh quân!

首04

依山崗作寺,
徬石架山鍾。
細雤描春草,
明霞落晚松。
人吟殘照裏,
鳥語亂林中。
奉詔趨行驛,
勤勢笑懶翁。

Thủ 04
Y sơn cương tác tự,
Bạng thạch giá sơn chung.
Tế vũ miêu xuân thảo,
Minh hà lạc vãn tùng.
Nhân ngâm tàn chiếu lý,
Điểu ngữ loạn lâm trung.
Phụng chiếu xu hành dịch,
Cần thế tiếu Lãn Ông.

Bản dịch
Chùa tựa sườn non dựng
Chuông kế vách đá treo
Mùa xuân tươi cỏ sớm
Ráng đỏ phủ thông chiều
Chim hót trong rừng rậm
Người ca buổi bóng xiêu
Ra đi vâng chiếu chỉ
Ông Lãn cũng cần lao!

首05

驩愛分彊地,
羣山互送迎。
樵歌雲路出,
鳥語谷風生。
伏石當途立,
遥天斷碧橫。
行人說鄉思,
惟我上神京。

Thủ 05
Hoan Ái phân cương địa,
Quần sơn hỗ tống nghinh.
Tiều ca vân lộ xuất,
Điểu ngữ cốc phong sinh.
Phục thạch đương đồ lập,
Dao thiên đoạn bích hoành.
Hành nhân thuyết hương tứ,
Duy ngã thượng thần kinh.

Bản dịch
Hoan Ái chia đôi vực
Nghênh tống núi bên đường
Tiều hát trong mây ngút
Chim ca đáy cốc vang
Trời xanh màu loé rạng
Lối nghẽn đá nằm ngang
Ai kể tình nhà đó?
Về kinh trải dặm trường.

首06

海岸驚行客,
蒼茫萬里秋。
波濤震鰲極,
雲霧起天樞。
浴日千重浪,
隨風一葉舟。
古人嗟宦海,
深意在沉浮。

Thủ 06
Hải ngạn kinh hành khách,
Thương mang vạn lý thu.
Ba đào chấn ngao cực,
Vân vụ khởi thiên xu.
Dục nhật thiên trùng lãng,
Tuỳ phong nhất diệp chu.
Cổ nhân ta hoạn hải,
Thâm ý tại trầm phù.

Bản dịch
Trông biển lòng ai sợ
Khí thu toả khắp miền
Ba đào xua cá vực
Vân vụ mấy tầng thiên
Trời tắm ngàn trùng sóng
Gió đưa một lá thuyền
Hoạn đồ người thuở trước
Thăng giáng ý lo phiền.

首07

一百六峯嵐霧迷,
人從三級上雲梯。
烟環沈綠橫天北,
螺髻浮青赴海西。
煮茗霜花傾粉汗,
吟詩幽鳥向人啼。
每逢勝景爲詩累,
繾绻辰餘始過溪。

Thủ 07
Nhất bách lục phong lam vụ mê,
Nhân tòng tam cấp thượng vân thê.
Yên hoàn trầm lục hoành thiên bắc,
Loa kế phù thanh phó hải tê.
Chử mính sương hoa khuynh phấn hãn,
Ngâm thi u điểu hướng nhân đề.
Mỗi phùng thắng cảnh vi thi luỵ,
Khiển quyển thời dư thuỷ quá khê.

Bản dịch
Tam cấp leo trèo đá với mây
Núi trăm lẻ sáu khí suơng đầy
Khói ngàn trầm lục dăng trời bắc
Đá núi phù thanh khuất bể tây
Nấu nước sương hoa lìa phấn rã
Nghe thơ chim núi hót ai hay
Chẳng qua ngâm vịnh vì yêu cảnh
Bịn rịn giờ lâu suối lội chầy.

Xem chi tiết hơn tác phẩm👉 Côn Sơn Ca (Nguyễn Trãi)

首08

落魄江湖三十年,
偶隨丹詔入長安。
衣冠文物生中土,
摟舘亭臺接遠天。
粗率染宬山野性,
趨陪羞對玉堂仙。
少辰歷歷嬉遊地,
今日重來半不然。

Thủ 08
Lạc phách giang hồ tam thập niên,
Ngẫu tuỳ đan chiếu nhập Trường Yên.
Y quan văn vật sinh trung thổ,
Lâu quán đình đài tiếp viễn thiên.
Thô suất nhiễm thành sơn dã tính,
Xu bồi tu đối ngọc đường tiên.
Thiếu thời lịch lịch hi du địa,
Kim nhật trùng lai bán bất nhiên!

Bản dịch
Phiêu bạt giang hồ mấy chục niên
Chiếu vời một sớm đến Trường Yên
Lâu đài đình quán bên trời ngất
Văn vật y quan giữa cõi truyền
Sơn dã buông tuồng quen tính tục
Ngọc đường lui tới thẹn cung tiên
Đất này thuở nhỏ từng du hí
Khác lạ ngày nay đã hiển nhiên!

首09

金戈衞士擁天門,
正是南天苐一尊。
畫閣重摟淩碧漢,
珠宮玉檻照朝蹾。
宮花每送清香陣,
御苑辰聞鸚鵡言。
山野未知歌管地,
恍如漁父入桃源。

Thủ 09
Kim qua vệ sĩ ủng thiên môn,
Chính thị Nam thiên đệ nhất tôn.
Hoạ các trùng lâu lăng bích Hán,
Châu cung ngọc hạm chiếu triêu đôn.
Cung hoa mỗi tống thanh hương trận,
Ngự uyển thời văn anh vũ ngôn.
Sơn dã vị tri ca quản địa,
Hoảng như ngư phủ nhập Đào Nguyên.

Bản dịch
Qua vàng ngàn cửa lính canh đền
Đây chính trời Nam chốn chí tôn
Nguy ngật lâu đài sông Hán khuất
Lung linh liêm mạc ánh vàng xuân
Cung hoa không dứt mùi hương thoảng
Ngự uyển đưa kêu tiếng vẹt dồn
Quê kệch chưa tường nơi vũ nhạc
Tưởng mình đâu lạc tới Đào Nguyên.

首10

玉笛聲悠悠,
清宵興轉幽。
吹來千里月,
散作滿城秋。
樂極谁家趣,
情多旅客愁。
蕭蕭天籟發,
禁鼓出哨樓。

Thủ 10
Ngọc địch thanh du du,
Thanh tiêu hứng chuyển u.
Xuy lai thiên lý nguyệt,
Tán tác mãn thành thu.
Lạc cực thuỳ gia thú,
Tình đa lữ khách sầu.
Tiêu tiêu thiên lại phát,
Cấm cổ xuất tiêu lâu.

Bản dịch
Sáo ngọc thanh nghe vẳng
Đêm trong hứng ngẫu nhiên
Thổi về ngàn dặm nguyệt
Tan nhập khắp thành môn
Vui ấy ai người hưởng
Tình này lữ khách buồn
Sáo trời dào dạt thổi
Trống điểm cấm cung đồn

首11

醒後未歸去,
階前月又生。
平湖起秋色,
獨鳥作離聲。
每事遊山夢,
依然在帝城。
若愚原且智,
何我弄虚名。

Thủ 11
Tỉnh hậu vị quy khứ,
Giai tiền nguyệt hựu sinh.
Bình hồ khởi thu sắc,
Độc điểu tác ly thanh.
Mỗi sự du sơn mộng,
Y nhiên tại đế thành.
Nhược ngu nguyên thả trí,
Hà ngã lộng hư danh.

Bản dịch
Tỉnh giấc quê đâu tá
Trước thềm nguyệt ló ra
Kêu đàn chim độc nọ
Ngắm cảnh hồ thu xa
Chơi núi thường nằm mộng
Ở Kinh vẫn thế mà
Dẫu khôn mà hoá dại
Danh nọ cứ ham a?

首12

夜座偏岑寂,
雲邊聽雁過。
湖明深得月,
樹古彊開花。
茶歇詩懷少,
琴餘客思多。
鄰鷄鳴失度,
星斗满關河。

Thủ 12
Dạ toạ thiên sầm tịch,
Vân biên thính nhạn qua.
Hồ minh thâm đắc nguyệt,
Thụ cổ cưỡng khai hoa.
Trà hiết thi hoài thiểu,
Cầm dư khách tứ đa.
Lân kê minh thất độ,
Tinh đẩu mãn quan hà.

Bản dịch
Cảnh tối ngồi nơi vắng
Từng mây lắng nhạn bay
Hồ trong trăng chiếu sáng
Cây cối hoa nở chầy
Trà cạn lòng thơ cạn
Đàn đây nỗi khách đây
Thương gà kêu nhớn nhác
Tinh tú quan hà đầy

首13

狂風驟雤忽然生,
客舍瀟瀟萬縷情。
遠樹含烟雲外暗,
平湖吹浪水中明。
歸巢暮鳥分羣去,
何處疎鐘報曉明。
不謂苦茶能却睡,
應知此夜夢難成。

Thủ 13 – Khách xá ngộ vũ cảm hoài
Cuồng phong sậu vũ hốt nhiên sinh,
Khách xá tiêu tiêu vạn lũ tình.
Viễn thụ hàm yên vân ngoại ám,
Bình hồ xuy lãng thuỷ trung minh.
Qui sào mộ điểu phân quần khứ,
Hà xứ sơ chung báo hiểu minh.
Bất vị khổ trà năng khước thuỵ,
Ưng tri thử dạ mộng nan thành.

Bản dịch
Bỗng đâu gió táp lại mưa sa
Trăm mối u tình kẻ trọ xa
Mây cách hàng cây làn khói ám
Nước rung đợt sóng mặt hồ đưa
Chim chiều tìm tổ chia bầy tẽ
Chuông sớm ngờ nơi báo sáng mà
Trà đắng ai rằng không chợp mắt ?
Đêm nay mộng mị dở dang a!

首14

認得香山一片月,
如何夜夜照神京。
倚樓歌管千囘醉,
近水亭臺萬色生。
但覺清添筵上曲,
應知淡逼旅中情。
頣眞堂上今宵會,
莫鼓瑤琴作怨聲。

Thủ 14 – Đối nguyệt thư hoài
Nhận đắc Hương sơn nhất phiến nguyệt,
Như hà dạ dạ chiếu thần kinh.
Ỷ lâu ca quản thiên hồi tuý,
Cận thuỷ đình đài vạn sắc sinh.
Đãn giác thanh thiêm diên thượng khúc,
Ưng tri đạm bức lữ trung tình.
Di chân đường thượng kim tiêu hội,
Mạc cổ dao cầm tác oán thanh.

Bản dịch
Hương sơn vẫn một mảnh trăng thanh
Tối tối thường soi khắp đế kinh
Cai quản tựa lầu say tuý luý
Đình đài gần nước ánh long lanh
Thanh cao khúc nhạc người trong tiệc
Lạnh nhạt tình ai buổi lữ hành
Nhà mát Di chân đêm tại đó
Đàn kia ai oán gẩy sao đành

首15

造物予人賦以全,
如何此輩得其偏。
可同豫讓忠君日,
何異韓侯引壽年。
萬里雷霆心自若,
百般世事意仍然。
此生一目無餘事,
手指頣傳秘旨宣。

Thủ 15
Tạo vật dư nhân phú dĩ tuyền (toàn),
Như hà thử bối đắc kỳ thiên.
Khả đồng Dự Nhượng trung quân nhật,
Hà dị Hàn hầu dẫn thọ niên.
Vạn lý lôi đình tâm tự nhược,
Bách ban thế sự ý nhưng nhiên.
Thử sinh nhất mục vô dư sự,
Thủ chỉ di truyền bí chỉ tuyên.

Bản dịch
Tạo vật sinh người vốn vẹn tuyền
Anh này tính khí cớ sao thiên ?
Khác chi Dự Nhượng toàn trung tiết
Cũng tựa Hàn hầu chúc thọ niên
Vạn dặm lôi đình chi đáng kể
Trăm chiều thế sự cũng không sờn
Mắt coi mọi việc không vương vấn
Tay chỉ đầu nghiêng mỗi lệnh truyền!

….

Cập nhật thêm tác phẩm🍃 Nam Quốc Sơn Hà 🍃 nổi tiếng

Viết một bình luận