Chia sẻ nội dung chính về tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu để giúp cho các em học sinh lớp 11 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức.
NỘI DUNG CHÍNH
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu
Tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu được trích trong Quan âm Thị Kính, NXB Khoa học Xã Hội năm 2000.
Đọc thêm tác phẩm 👉 Quan Âm Thị Kính
Nội Dung Truyện Thơ Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu
Đón đọc nội dung truyện thơ Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu sau đây trước khi đi phân tích, tìm hiểu kĩ hơn về tác phẩm.
[…]
Tiểu đương tụng niệm khấn nguyền,
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình.
Ngoảnh đi thì dạ chẳng đành,
Nhận ra thì hoá là tình chẳng ngay.
Góm thay mặt dạn mày dày,
Trân trận rằng giả con đây mà về.
Khéo xui ra đứa làm rễ riếu- mình.
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh,
Phúc thì làm phúc, do thì đành do.
Cá trong chậu nước sơn sơ,
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao.
Chẳng sinh cũng chịu cù lao,
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay.
Bữa sau sư phụ mới hay,
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi.
Phỏng như khác máu ru thì,
Con ai mặc nấy can gì đa mang”.
Bạch rằng: “Muôn đội thầy thương,
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to.
Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phúc cứu cho một người.
Vậy nên con phải vâng lời,
Mệnh người dám lấy làm choi mà liều”.
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm
Rõ là nước lã mà nhầm,
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Mẹ vò thì sữa khát khao,
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền.
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên,
Nhai cơm móm sữa để nên con người.
Đến dân ai cũng chê cười,
Tiểu kia tu có trót đời được đâu.
Biết chăng một đứa thương đâu,
Mình là hai với Thị Mầu là ba?
Ra công nuôi bộ’ thực là,
Nhưng buồn có trẻ hoá ra đỡ buồn.
Khi trống tàn, lúc chuông dồn,
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày.
Phù trì như thổi ra ngay,
Lợ phương hoạt ấu lọ thầy bảo anh.
Bùa thiêng đã sẵn kim kinh,
Ma vương kia cũng phải kiêng lọ là
Thoi đưa tháng trọn ngày qua,
Mấy thu mà đã lên ba tuổi rồi.
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tử khác nào bản sinh.
Mai ngày đến lúc trưởng thành,
Cơ cầu dễ rạng tiền trình hơn xưa.
[…]
Tìm hiểu thêm 👉 Sự Tích Quan Âm Thị Kính
Về Tác Giả Tác Phẩm Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu
Tham khảo một số thông tin về tác giả tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu được Thohay.vn biên soạn sau đây.
Tác Giả
- Chương Thâu (1935), sinh tại Nghệ An
- Học vị: Tiến sĩ / Chức danh: Phó Giáo sư
- Được giới chuyên môn đánh giá như một nhà Phan Bội Châu học hàng đầu hiện nay. Là tác giả của 20 cuốn chuyên đề dày hàng chục nghìn trang về Phan Bội Châu, trong đó tiêu biểu nhất là bộ “Phan Bội Châu toàn tập” gồm 10 cuốn và 2 tập Bổ di, nhưng PGS Chương Thâu chỉ tự nhận mình là “người nhặt của rơi, của vãi” của danh nhân thế kỷ
Tác Phẩm
1. Thị Kính bị đổ oan và nuôi con cho Thị Mầu
– Gia cảnh của Thị Kính:
+ Xuất thân là con gái nhà nghèo, lấy chồng tên Thiện Sỹ – con trai phú ông.
+ Sau một lần hiểu lầm rằng Thị Kính muốn sát gại chồng nên cha mẹ của Thiện Sỹ là Sùng ông, Sùng bà tức giận đuổi Thị Kính về quê. Ôm nỗi hận muốn quyên sinh nhưng thương cha mẹ già không ai báo hiếu nên cải trang nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi tên là Kính Tâm.
– Lí do bị Thị Mầu đổi oan:
Làng có nàng Thị Mầu vốn tính lẳng lơ, dám say mê cả phật tử là Kính Tâm. Nàng ta lỡ dỡ có chửa với đầy tớ. Khi bị hào lí trong làng tra hỏi, nàng ta đổi tội ngay cho Kính Tâm. Cứ thế người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu nỗi oan ức lần thứ hai. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đương tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.
+ Vốn là chú tiểu đi tu ngày đêm nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền” mà nay giật mình nghe tiếng khóc “tá” của trẻ em.
+ Là nhà sư chân chính nay vướng phải nghiệt duyệt = > Kính Tâm khó sử:
Bỏ rơi đứa bé thì “chẳng đành”
Nhận đứa bé về chăm sóc thì hóa “tình chẳng ngay”.
= > Kính Tâm quyết định nhận nuôi đứa trẻ:
Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dơ
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
= > Kính Tâm là người hiền lành, nhân hậu: từ cõi “cơ thiền” nay cũng trở nên khắt khe, dậy sóng.
= > Vốn để tâm thanh tịnh nay phải chịu oan Thị Mầu “khéo xui ra đứa” làm tổn hại đến thanh danh của mình. Thế nhưng vì quý trọng sinh mệnh “trong dạ hiếu sinh” mà Kính Tâm gạt bỏ đi hết lời gièm pha, cho dù người đời có bàn tán ra sao thì “phúc vẫn là làm phúc”.
2. Tình yêu mà Thị Kính dành cho đứa trẻ.
– Việc Kính Tâm nhận nuôi đứa trẻ khiến sư thầy sinh nghi:
Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang
+ Sư phụ hiểu và xót thương cho thân phận Kính Tâm, nhưng là người không rõ sự tình, là đứa con khác máu không phải do mình sinh ra thì hà cơ gì Kính Tâm lại nhận nuôi để làm nên nỗi oan ức tủi hổ.
= > Sau cùng sư phụ cũng bị cảm hóa bởi nghĩa tử cao đẹp, tấm lòng từ bi của Kính Tâm:
Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người
…
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
+ dù cho có xây chín tháp “phù đồ” cũng không thể bằng cứu một sinh mệnh.
= > Từ tình người nhân hậu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trọn tấm lòng để hòa vào “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa bé như là con đẻ của mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng
Mẹ vò thì sữa khát khao
/…/ Mình là hai với Thị Mầu là ba
+ “Mẹ vò” – dẫu biết không phải con mình nhưng Kính Tâm vẫn lo cho đứa trẻ không thiếu bữa nào.
+ Ngày đêm chăm ẵm, nâng niu, xin sữa nuôi con, mong con khôn lớn.
= > Nhưng sự thật không được phơi bày.
= > Miệng đời tàn ác, đồn thổi Kính Tâm không thể tu thành chính quả.
Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn…
+ Tình yêu, niềm hạnh phúc khi ngày ngày nghe tiếng trẻ thơ tíu tít bao nỗi lo âu, trăn trở hóa hư vô.
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày
+ Không gian tĩnh mịnh nơi chùa thiêng xen lẫn cả “tiếng ru”
= > Cảm nhận được tình mẫu tử không chỉ tồn tại ở chính cha mẹ sinh ra mình mà còn hòa vào nhau khi gặp tấm lòng từ bi giáng thế.
– Kính tâm làm tròn đạo làm cha, nuôi nấng con với đầy đủ điều kiện, có cả “lọ phương hoạt ấu”, “lọ thầy bảo anh”, hai thứ đó tượng trưng cho vị thầy thuốc bảo vệ sức khỏe của trẻ thơ.
Phù trì như thổi ra ngay
Lọ phương hoạt ấu lọ thầy bảo anh
Bùa thiêng đã sẵn kim kinh
Ma vương kia cũng phải kiêng họ là.
– Rồi thấm thoắt ba năm trôi đi, đứa bé đã lớn giống với “cha nuôi” của mình – Kính Tâm Giả trai đi tu trốn chùa Thanh Tịnh.
– Kính Tâm hi vọng con cái trưởng thành và có công danh rạng rỡ:
Thoi đưa tháng trọn qua ngày
Mấy thu mà đã lên ba tuổi rồi
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tứ khác nào bán sinh.
Mai ngày đến lúc trường thành,
Cơ cầu dễ rạng tiền trình hơn xưa.
= > Kính Tâm cũng như bao người cha mẹ khác mong ước con mình mai này trưởng thành “cơ cầu” giỏi giang để nối nghiệp ông cha, mong cho “tiến trình” tương lai dẫn bước con càng thành công rạng rỡ hơn lớp ông cha con bây giờ.
Cập nhật thêm tác phẩm 👉 Mộng Đắc Thái Liên
Ý Nghĩa Tác Phẩm Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu
Tác phẩm Thị Kính nuôi con Thị Mầu phản ánh sự bất công với phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy mâu thuẫn. Đó như một lời cảnh tỉnh cho những con người đang có suy nghĩ lui về cửa Phật. Để có thể chọn con đường đắc đạo, ta phải chịu được khổ hạnh, oan ức cũng giống như Thị Kính, dù có oan uổng đến mấy nhưng cái tâm từ bi, thiện lành đã quật ngã được cảnh ngộ.
Bố Cục Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu
Bố cục bài Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu gồm 2 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “Xót tình măng sữa nâng vào trong tay ” – Thị Kính bị đổ oan và nuôi con cho Thị Mầu
- Phần 2: Còn lại – Tình yêu mà Thị Kính dành cho đứa trẻ.
Đọc Hiểu Tác Phẩm Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu
Dưới đây là các câu hỏi phần đọc hiểu Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu, các em học sinh hãy đón đọc để hiểu hơn về tác phẩm.
👉 Câu 1: Thể loại của văn bản Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu là:
A. Truyện thơ
B. Truyện thơ Nôm
C. Thơ tự do
D. Thơ năm chữ
Đáp án: A
👉 Câu 2: Phương thức biểu đạt của văn bản là gì?
A. Tự sự
B. Trữ tình
C. Tự sự kết hợp với trữ tình
D. Nghị luận
Đáp án: C
👉 Câu 3: Văn bản được kể theo ngôi thứ mấy?
A. Ngôi thứ nhất
B. Ngôi thứ ba
C. Ngôi kể linh hoạt
D. Đáp án khác
Đáp án: B
👉 Câu 4: Tác phẩm được trích trong:
A. Lưu Bình Dương lễ
B. Từ Thức gặp tiên
C. Quan Âm Thị Kính
D. Thị Mầu ăn vạ
Đáp án: C
👉 Câu 5: Đâu là đặc điểm của thể loại truyện thơ được thể hiện qua văn bản?
A. Hình thức chèo – hát kịch, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu.
B. Các nhân vật trong câu truyện được chia thành hai tuyến rõ ràng.
C. Kết hợp ngôn từ tự sự và trữ tình.
D. Tất cả các đáp án trên
Đáp án: C
👉 Câu 6: Nhân vật Thị Kính hiện lên như thế nào qua văn bản?
A. Là người dịu dàng
B. Là người yêu thương chồng con
C. Là nhân vật giàu lòng bao dung, vị tha
D. Tất cả các đáp án trên
Đáp án: D
👉 Câu 7: Văn bản trên đã thể hiện những đặc điểm nào của ngôn ngữ văn học, đặc biệt là ngôn ngữ của truyện thơ Nôm?
A. Ngôn ngữ gần gũi, là lời ăn tiếng nói hàng ngày
B. Ngôn ngữ giàu chất trữ tình, mang âm hưởng của các làn điệu dân ca Việt Nam
C. A và B đúng
D. A và B sai
Đáp án: C
👉 Câu 8: Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm là:
A. Nghệ thuật khắc họa nhân vật điển hình
B. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự, trữ tình
C. Các kể dễ đi sâu vào tâm lý người đọc
D. Tất cả các đáp án trên
Đáp án: D
Xem thêm tác phẩm 👉 Lời Tiễn Dặn
Giá Trị Tác Phẩm Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu
Xem thêm thông tin về giá trị tác phẩm Thị Kính nuôi con cho thị Mầu được Thohay.vn biên soạn sau đây:
- Giá trị nội dung: Văn bản kể về việc Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng.
- Giá trị nghệ thuật: Nghệ thuật sáng tác của tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu thành công khi khắc họa nhân vật, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự, trữ tình, cách kể dễ hiểu dễ đi sâu vào tâm lí con người, giúp câu chuyện trở nên dễ nghe, dễ đọc và dễ hiểu hơn khi đến tay của các độc giả.
Sơ Đồ Tư Duy Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu
Hi vọng những mẫu sơ đồ tư duy Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu sau đây sẽ giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm,
Dàn Ý Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu
Thohay.vn mang đến dàn ý phân tích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu chi tiết, đầy đủ nhất, giúp các bạn nhanh chóng tìm và lựa chọn ý cho bài viết có nội dung toàn diện.
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh ra đời của đoạn trích “Thị Kính nuôi con Thị Mầu”
II. Thân bài
– Hoàn cảnh của Thị Kính: xuất thân từ một gia đình nghèo, bị hiểu lầm khi Thị Kính bị nhầm là muốn giết chồng
– Thị Kính đã cải trang thành một người đàn ông và đi tu tại chùa Vân Tự, đồng thời thay đổi tên thành Kính Tâm.
– Trong làng sống có nàng Thị Mầu, một người phụ nữ lười biếng, và cô đã đam mê phật tử Kính Tâm.
=> Điều này đã khiến cô lỡ dỡ và mang thai với đầy tớ.
– Tình yêu thương bao la của Thị Kính giành cho đứa trẻ
III. Kết bài
– Tác phẩm này đáng được đánh giá cao về cả nội dung và nghệ thuật. Nó mang lại những trải nghiệm tinh tế và sâu sắc cho người đọc.
– Đoạn trích trên truyền đạt thông điệp về sự hiểu lầm và oan trái trong xã hội, đồng thời làm nổi bật sự chịu đựng, lòng từ bi và tình yêu thương vô điều kiện của nhân vật Kính Tâm. Nó cũng nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của lòng hiếu thảo và đạo đức trong cuộc sống.
Đọc thêm truyện thơ 👉 Nàng Ờm Nhắn Nhủ
Soạn Bài Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Lớp 11
Hướng dẫn soạn bài Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu ngắn nhất mà vẫn đủ ý được Thohay.vn biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 11 Chân trời sáng tạo giúp học sinh chuẩn bị bài dễ dàng hơn.
👉 Câu 1 (trang 74 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Tóm tắt nội dung của văn bản trên. Theo bạn, những đặc điểm nào của thể loại truyện thơ đã được thể hiện qua văn bản?
Trả lời: Tóm tắt nội dung văn bản:
Đoạn trích kể về việc Thị Mầu lên chùa ve vãn tiểu Kính Tâm. Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ.
Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm. Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.
– Đặc điểm truyện thơ trong văn bản:
- Được thể hiện qua hình thức Chèo là loại kịch hát, kể chuyện, múa dân gian, diễn bằng hình thức sân khấu.
- Các nhân vật được chia thành hai tuyến rõ ràng.
- Sử dụng ngôn từ kết hợp tự sự và trữ tình.
👉 Câu 2 (trang 74 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Việc Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu đã được thuật lại theo ngôi kể nào, qua điểm nhìn của ai? Nhờ vào đâu mà bạn biết?
Trả lời:
– Việc Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu được thuật lại theo ngôi kể thứ 3, qua điểm nhìn của tác giả.
– Dựa vào nội dung văn bản, người kể giấu mình không xưng (tôi) chỉ kín đáo gọi sự vật theo ngôi thứ ba: gọi tên nhân vật theo nhận xét của mình và kể sao cho sự việc diễn ra theo trình tự.
👉 Câu 3 (trang 74 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Nhân vật Thị Kính hiện lên như thế nào qua đoạn trích trên? Từ đó, bạn có nhận xét gì về cách tác giả dân gian xây dựng nhân vật trong truyện thơ?
Trả lời:
– Nhân vật Thị Kính: Đẹp người, đẹp nết, hết lòng yêu thương gia đình nhưng bị gia đình chồng nghi oan.
– Cách tác giả dân gian xây dựng nhân vật: Chia theo hai tuyến: Một tuyến là nhân vật đầy tâm sự, gánh chịu nhiều bi kịch trong cuộc đời và một tuyến là nhân vật có đức hạnh, kiên định trong niềm tin và tôn trọng lễ nghi.
👉 Câu 4 (trang 74 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Văn bản trên đã thể hiện những đặc điểm nào của ngôn ngữ văn học, đặc biệt là ngôn ngữ của truyện thơ Nôm? Hãy phân tích để chứng minh điều đó.
Trả lời:
– Đoạn trích đã thể hiện ngôn ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày và giàu chất trữ tình, mang âm hưởng các làn điệu dân ca Việt Nam.
– Phân tích dẫn chứng:
+ Tiếng gọi “thầy tiểu ơi” lặp đi lặp lại nhiều lần đã bộc lộ nỗi lòng say mê, yêu thương tha thiết của Thị Mầu.
+ Lời tỏ tình của Thị Mầu:
“Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng
Ấy mấy thầy tiểu ơi!…
Mẫu đơn giồng cạnh nhà thờ
Đôi ta chỉ quyết đợi chờ lấy nhau”
👉 Câu 5 (trang 74 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Thông điệp bạn nhận được qua đoạn trích trên là gì? Dựa vào đâu bạn cho là như vậy?
Trả lời:
– Thông điệp: Ở hiền gặp lành (qua nhân vật Thị Kính)
– Dựa vào các tình huống truyện và lời thoại của nhân vật làm nổi bật lên điều này.
Đừng bỏ lỡ tác phẩm 🌻 Tú Uyên Gặp Giáng Kiều 🌻
Giáo Án Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Lớp 11
Chia sẻ đến các quý thầy cô giáo mẫu giáo án Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu chuẩn nhất theo chương trình ngữ văn 11 sau đây.
I. MỤC TIÊU
1. Mức độ/ yêu cầu cần đạt:
– Nhận diện và phân tích được cốt truyện trong văn bản Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu.
– Xác định và phân tích được nhân vật chính trong văn bản.
– Xác định được ngôn ngữ trong truyện thơ.
– Phân tích được tấm lòng nhân hậu, biết nhẫn nhịn và chịu đựng của Thị Kính.
– Phân tích được những khó khăn, thử thách và những bất công của cuộc đời đối với Thị Kính.
– Xác định và phân tích được sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình, cách thể hiện tâm trạng nhân vật.
2. Năng lực
a. Năng lực chung
– Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác…
b. Năng lực riêng biệt:
– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản.
– Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về văn bản.
– Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản.
3. Phẩm chất:
– Giúp học sinh rèn luyện bản thân phát triển các phẩm chất tốt đẹp: Biết trân trọng tình cảm và sự đoàn tụ gia đình.
II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
1. Chuẩn bị của giáo viên:
– Giáo án;
– Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi;
– Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh;
– Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp;
– Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà;
2. Chuẩn bị của học sinh: SGK, SBT Ngữ văn 11, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
a. Mục tiêu: Tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. HS khắc sâu kiến thức nội dung bài học.
b. Nội dung: GV đặt cho HS những câu hỏi gợi mở vấn đề.
c. Sản phẩm: Nhận thức và thái độ học tập của HS.
d. Tổ chức thực hiện:
– GV dẫn dắt vào bài học mới: Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu bài học Thị Kính nuôi con Thị Mầu.
B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt động 1: Đọc văn bản
a. Mục tiêu: Nắm được những thông tin về tác giả, tác phẩm.
b. Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi.
c. Sản phẩm học tập: HS tiếp thu kiến thức và câu trả lời của HS.
d. Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS | SẢN PHẨM DỰ KIẾN |
Nhiệm vụ 1: Củng cố kiến thức về thể loại truyện thơ Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập GV chuyển giao nhiệm vụ: Yêu cầu HS xem lại phần chuẩn bị về mục Tri thức ngữ văn và làm việc cá nhân, thực hiện nhiệm vụ sau:· Trình bày sự khác biệt giữa truyện thơ Nôm bình dân và truyện thơ Nôm bác học bằng bảng. Bước 2: HS tiếp nhận, thực hiện nhiệm vụ – HS vận dụng kiến thức đã học và trả lời câu hỏi. – GV quan sát, hướng dẫn, hỗ trợ HS (nếu cần thiết). Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận hoạt động và thảo luận – GV mời 1 – 2 HS trình bày kết quả chuẩn bị. + Dự kiến khó khăn: Học sinh chưa đọc phần Tri thức ngữ văn, gặp khó khăn trong việc tổng hợp + Tháo gỡ khó khăn: Câu hỏi gợi mở để HS trả lời; gọi HS khác giúp đỡ bạn. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ – GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức. Nhiệm vụ 2: Tìm hiểu chung về văn bản Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV yêu cầu HS thảo luận nhóm nhỏ (khoảng 4 HS), thực hiện yêu cầu:· Trình bày những hiểu biết của bạn văn bản “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu”.· Tóm tắt nội dung văn bản “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu”. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – HS thảo luận theo nhóm, vận dụng kiến thức đã học để thực hiện nhiệm vụ. – GV quan sát, hỗ trợ HS (nếu cần thiết). Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời đại diện 1 – 2 HS của nhóm trình bày kết quả thảo luận .- GV yêu cầu HS khác lắng nghe, nhận xét, đặt câu hỏi (nếu có). Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức. – GV chuyển sang nội dung mới. | I. Củng cố kiến thức về thể loại truyện thơ 1. Sự khác biệt giữa truyện thơ Nôm bình dân và truyện thơ Nôm bác học: – GV có thể gợi mở theo PHỤ LỤC 15. II. Tìm hiểu chung về văn bảna. Văn bản “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” – Xuất xứ: trích trong Quan Âm Thị Kính – truyện thơ khuyết danh Việt Nam viết bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát và được lưu truyền thông qua nhiều hình thức khác nhau. – Tác phẩm mang màu sắc của Phật giáo, xuất phát từ một tích truyện Quan Âm Thị Kính, nguồn gốc và tác giả cụ thể của tác phẩm vẫn còn là nghi vấn. b. Tóm tắt văn bản “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu”. Thị Kính giả trai lên chùa Vân Tự với pháp hiệu Kính Tâm. Trong khi đó, Thị Mầu có con với người khác và bị làng bắt phạt. Thị Mầu khai rõ ràng là con của Kính Tâm và đem con của mình bỏ cho Thị Kính nuôi. Kính Tâm ròng rã ba năm, mỗi ngày đi xin sữa để nuôi con của Thị Mầu bất chấp những nghi ngờ, dị nghị của những người xung quanh. |
Đón đọc phân tích tác phẩm 🔽 Dương Phụ Hành 🔽
5+ Mẫu Tóm Tắt Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Ngắn Hay
Tham khảo những mẫu tóm tắt Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu để giúp các em học sinh xác định những chi tiết nổi bật và nội dung chính của tác phẩm.
Tóm Tắt Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Ngắn Gọn
Đoạn trích “Thị Kính nuôi con Thị Mầu” phản ánh một cái nhìn chân thực về xã hội đầy oan trái và phê phán thói bất công với người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thị Kính, xuất thân trong gia đình nghèo khó, bị nghi oan cắt râu chồng và quyết định đi tu, đổi tên thành Kính Tâm.
Trong khi đó, Thị Mầu đem lòng yêu Kính Tâm nhưng không được đáp lại nên vu oan cho Kính Tâm làm mình có chửa. Kính Tâm, mặc dù bị sư thầy nghi ngờ nhưng vẫn quyết tâm nuôi nấng đứa trẻ và dành tình thương cho con “khác máu”. Tác giả muốn gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc rằng dù có khó khăn đến đâu chỉ cần ta sống với cái tâm thiện lành thì mọi chuyện sẽ được hóa giải.
Tóm Tắt Truyện Thơ Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Hay Nhất
“Thị Kính nuôi con Thị Mầu” là một trong những đoạn trích trong tác phẩm “Quan Âm Thị Kính”. Tác phẩm này phản ánh sự bất công với phụ nữ trong xã hội phong kiến, và điển hình ở nhân vật Thị Kính. Thị Kính là một cô gái xinh đẹp, xuất thân trong gia đình nghèo khó và chỉ biết nhún nhường sống trong nhà chồng Thiện Sỹ – con của phú ông.
Vì hiểu nhầm không đáng có mà Thị Kính định quyên sinh, nhưng nghĩ cha mẹ ở nhà không ai chăm sóc, Thị Kính quyết cạo đầu đi tu, giải làm chú tiểu, đổi tên thành Kính Tâm. Bấy giờ trong làng có nàng Thị Mầu lẳng lơ đem lòng mến chú tiểu Kính Tâm nhưng nhận lại được sự thờ ơ nên nàng ta đem lòng sinh ghét. Vì bản tính phóng khoáng quá mức, ngàn ta lỡ có chửa với đầy tớ, vì nỗi bực trong lòng, nàng bèn đổ vỏ cho Kính Tâm.
Đường đường là nhà sư trân chính, nhận đứa trẻ nuôi nấng thì chẳng rằng là thú nhận nôi oan ức này, nhưng bỏ rơi một sinh mệnh cũng “chẳng đành”, nên Kính Tâm nhận về nuôi dưỡng mặc cho lời đàm tiếu, dị nghị thì “phúc vẫn là làm phúc”. Quả thật quá đỗi xót thương cho phận người con gái đã bị dồn nén đến đường cùng nhưng vẫn chọn hi sinh vì người khác. Chính tấm lòng từ bi đó đã cảm hóa được người thầy của Kính Tâm. Kinh Tâm hết mực yêu thương con đứa con “khác máu” đó như “giọt máu tình thâm”.
Chịu cảnh “mẹ vò nuôi con nhện” nhưng Kính Tâm vẫn cầu mong cho con lớn lên được trưởng thành, cơ đồ sáng lạng. Qua đoạn trích, ta thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm rằng dù có là ai, có khốn khó đến nhường nào, thì cái tấm lòng từ bi sẽ quật ngã được cảnh ngộ đó.
Đọc thêm cách 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ
Tóm Tắt Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Ngắn Nhất
Thị Mầu mang thai nhưng khi bị bắt nên đã khai gian là của Thị Kính, đến khi Thị Mầu sinh, mang con đến chùa ăn vạ, Kính Tâm đã nuôi đứa trẻ ròng rã 3 năm trời, việc xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng.
Tóm Tắt Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Ngắn Hay
Tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu, Thiện Sĩ kết duyên với Thị Kính. Sau khi Thị Kính cầm dao xén râu của chồng và bị oan khi bố mẹ chồng đổ tội cho nàng, Thị Kính giả trai lên chùa Vân Tự với pháp hiệu Kính Tâm. Trong khi đó, Thị Mầu có con với người khác và bị làng bắt phạt. Thị Mầu khai rõ ràng là con của Kính Tâm và đem con của mình bỏ cho Thị Kính nuôi. Kính Tâm ròng rã ba năm, mỗi ngày đi xin sữa để nuôi con của Thị Mầu. Trước khi qua đời, Kính Tâm viết thư để lại cho cha mẹ và mọi người đã đồng lòng lập đàn giải oan cho nàng.
Tóm Tắt Đoạn Trích Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Đầy Đủ Ý
Văn bản Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu kể về câu chuyện của Thị Kính và Thị Mầu. Thị Kính bị oan khi cầm dao xén râu của chồng và bị đuổi về nhà bố đẻ. Để tránh bị truy sát, Thị Kính giả trai và vào tu ở chùa Vân Tự với pháp hiệu Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, mang thai với người ở nhà phú ông nhưng bị làng bắt phạt.
Thị Mầu khai rõ ràng là con của Kính Tâm, khiến cho Kính Tâm bị đuổi ra khỏi chùa. Thị Mầu đem con của mình bỏ cho Kính Tâm nuôi. Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày để nuôi con của Thị Mầu. Khi sức lực cạn kiệt, Kính Tâm viết thư để lại cho cha mẹ và qua đời. Sau khi biết được sự thật, mọi người lập đàn giải oan cho Kính Tâm và biết được tấm lòng từ bi, nhẫn nhục của nàng.
Hướng dẫn 👉 Viết Bài Văn Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Văn Học
3+ Mẫu Phân Tích Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Hay Nhất
Cập nhật những mẫu phân tích tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu hay nhất, bám sát đề để các em có thêm tài liệu ôn tập phong phú.
Bài Văn Phân Tích Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Đạt Điểm Cao
Thơ Nôm là kho báu văn hóa của dân tộc Việt Nam và có giá trị vô cùng cao. Kho tàng này bao gồm kinh nghiệm sống, phong tục tập quán cũng như những kiến thức lịch sử về cộng đồng địa phương. Sử dụng hình thức câu thơ 6-8 điển hình, Truyện thơ nôm truyền tải sự diễn đạt cảm xúc phong phú bằng những câu văn đơn giản và giọng điệu giàu cảm xúc.
Điều này mang lại cho thơ nôm một nét dân tộc độc đáo. Trong kho báu này ẩn chứa một câu chuyện kinh điển vẫn còn khắc sâu trong lòng độc giả, cùng với những suy nghĩ sâu sắc mà nó truyền tải. Đây là một đoạn trích trong tác phẩm ‘Quan âm Thị kính’ có nội dung: ‘Thị kính nuôi con cho Thị mầu’.
Trong đoạn trích trên, chúng ta thấy được tấm lòng nhân hậu của Thị kính khi bị buộc tội về một tội mà mình không phạm tội và bị buộc phải nuôi con cho Thị mầu. Dù rơi vào hoàn cảnh khó khăn nhưng Thị kính vẫn quyết định bảo vệ và chăm sóc mạng sống của đứa bé này như chính mạng sống của mình.
Ở một ngôi làng nọ, có một người phụ nữ tên là Thị mầu, vốn là một người hời hợt và ngu dại. Cô rất yêu chú tiểu Kính Tâm, thực ra là nàng Thị kính giả trai. Thị mầu vô tình có thai với người hầu trong nhà. Khi dân làng đưa cô ra xét xử, cô lập tức đổ lỗi cho Kính tâm. Thế là người phụ nữ tội nghiệp Thị Kính lại phải chịu đựng sự bất công Sau khi sinh con, Thị mầu “trả” đứa bé cho Kính tâm.
‘Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
…
Trân trân rằng giá con đây mà về.’
Kính tâm là một chú tiểu đi tu suốt đêm ngày, nhưng bây giờ lại sợ hãi trước tiếng trẻ khóc. Có vẻ như vị tu sĩ thực sự đã bị cuốn vào vòng xoáy của số phận. Kính tâm bối rối và gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định. Không thể bỏ rơi đứa bé nhưng việc chấp nhận và chăm sóc đứa bé cũng không hề dễ dàng. Nếu để đứa bé đi, sẽ không thể tự an ủi mình, nhưng nếu ôm nó và chăm sóc nó, mọi thứ sẽ biến thành một ”tình yêu bất lợi”. Điều đáng tiếc là Thị mầu không hề tỏ ra thương xót, “vô liêm sỉ” và không chịu trách nhiệm với đứa trẻ do mình sinh ra. Kính tâm biết rằng việc nhận nuôi đứa bé sẽ dẫn đến những lời đàm tiếu và chỉ trích nhưng cô vẫn quyết tâm nhận nuôi đứa bé.
‘Cơ thiển kể đã khắt khe
…
Xót tình măng sữa tăng vào trong tay’
Tâm hồn Kính tâm vốn xuất phát từ cõi ‘cơ thiển’ đã trở nên bồn chồn và nghiêm khắc. “Thiền” ở đây ám chỉ một trạng thái tâm trí trong đó người ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì và đã đạt đến một mức độ thanh tịnh nhất định. Nhưng giờ đây Kính tâm phải chịu oan ức dưới tay Thị mầu, kẻ đã xâm phạm danh dự của chàng. Tuy nhiên, Kính tâm coi trọng tầm quan trọng của cuộc sống và lòng hiếu thảo nên phớt lờ mọi lời chỉ trích, bàn tán. Cho dù người khác có nói xấu đến đâu, Kính tâm vẫn tin rằng “hạnh phúc nằm ở việc làm những điều tốt đẹp”. Tuy nhiên, hành vi của Kính tâm cũng không tránh khỏi làm dấy lên sự nghi ngờ ở sư thầy
‘Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
…
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào’
Thực tế, nhìn vào hoàn cảnh của Kính tâm, chúng ta có thể hiểu và đồng cảm với số phận của anh. Nhưng đối với những người không biết sự thật chính xác, rõ ràng là đứa trẻ “không có quan hệ huyết thống”, bản thân mình không sinh nó ra, tại sao Kính tâm lại đồng ý nhận con của người đã gây ra sự bất công và xấu hổ cho bản thân mình?
Tuy nhiên, sư thầy cảm động trước lòng hiếu thảo của Kính tâm và ý nghĩa cao quý trong hành động của chàng. Kính tâm cho biết ngay cả việc xây dựng một tòa tháp chín tầng cũng không sánh được với công ơn cứu mạng. Việc vị sư cụ ngưỡng mộ trái tim thánh thiện và cao thượng này chứng tỏ Kính tâm là người có lòng nhân hậu. Kính tâm bằng cả trái tim và tâm hồn, với sự tôn trọng và dịu dàng đã coi đứa bé là của mình, yêu thương và chăm sóc nó bằng cả trái tim, như một người mẹ nuôi con.
‘Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
…
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba’
Kính tâm dù biết “nuôi nhện” không phải là nuôi con của mình nhưng cô vẫn băn khoăn không biết con mình có thiếu thứ gì không. Kính tâm ngày đêm chăm sóc con, yêu thương và tìm mọi cách để nuôi dạy, mong đứa trẻ sẽ lớn lên thành người tốt. Cuộc sống quả nhiên là tàn khốc. Vẫn còn có tin đồn rằng việc làm này ở Kính tâm không thể đạt được quả báo. Nhưng hiện tại, sự thật vẫn bị chôn vùi, chỉ có đứa bé, Kính tâm và Thị Mầu là biết sự thật. Nuôi dạy một đứa trẻ không phải là điều dễ dàng nhưng khi được nghe tiếng cười trong trẻo của bé mỗi ngày, những lo lắng của Kính tâm dường như tan biến.
Đọc thêm mẫu 👉 Giới Thiệu Về Một Tác Phẩm Nghệ Thuật
Mẫu Phân Tích Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Siêu Hay
Đoạn trích “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” trích “Quan Âm Thị Kính”. nói về tấm lòng nhân từ của Thị Kính khi bị Thị Mầu vu oan và đùn đẩy đứa con cho mình nhưng vì sinh mạng nhỏ bé, Thị Kính vẫn giữ lại đứa bé để nuôi nấng.
Vậy hà cớ gì lại dẫn đến cơ sự nghiệp duyên đó, ta cùng bắt đầu xâu chuỗi lại từ đầu câu chuyện. Thị Kính xuất thân là con gái nhà nghèo, lấy chồng tên Thiện Sỹ, con của phú ông. Vào một đêm nọ, khi Thiện Sỹ ngồi đọc sách mà ngủ quên mất. Thị Kính thấy dưới cằm chồng mình có râu mọc ngược, nàng biết là điềm gở nên lấy kéo muốn cắt nó đi.
Đúng lúc Thiện Sỹ bừng tỉnh thì hiểu lầm rằng Thị Kính muốn sát hại mình nên hô hoán làm to chuyện. Cha mẹ Thiện sĩ là Sùng ông, Sùng bà nổi giận đuổi Thị Kính về quê với cha mẹ đẻ. Thị Kính ôm nỗi oan trong lòng mà buồn tủi định quyên sinh, nhưng lại thương cha mẹ già không ai báo hiếu, phụ dưỡng, nàng cải trang thành nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi cả tên thành Kính Tâm.
Làng có nàng Thị Mầu vốn tính lẳng lơ, dám say mê cả phật tử là Kính Tâm. Nàng ta lỡ dở có chửa với đầy tớ. Khi bị hào lí trong làng tra hỏi, nàng ta đổi tội ngay cho Kính Tâm. Cứ thế người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu nỗi oan ức lần thứ hai. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.
Vốn là chú tiểu đi tu ngày đêm nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền” mà nay lại giật mình nghe tiếng khóc “tá” lên của trẻ em. Đường đường là nhà sư chân chính nay vướng phải nghiệt duyên, Kính Tâm rối bời khó sử, bỏ rơi đứa bé thì cũng “chẳng đành”, mà nếu nhận đứa trẻ về chăm sóc thì lại hóa “tình chẳng ngay”. Thật gớm thay nàng Thị Mầu trơ trẽn, “trân trận” không biết hổ thẹn mà chối bỏ con mình. Biết rằng khi nhận đứa bé về nuôi sẽ bị lời đàm tiếu dị nghị nhưng thương cho trái tim nhỏ bé, Kính Tâm vẫn nhất quyết nhận nuôi:
Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dở
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
Tâm hồn Kính Tâm từ cõi “sơ thiền” nay cũng trở nên khắt khe, dậy sóng. “Cơ thiền” ở đây tức là chỉ tâm hồn đã đạt đến cảnh giới, tâm thanh tịnh không vướng bận chi. Vậy mà nay phải chịu oan Thị Mầu “khéo xui ra đứa” làm tổn hại đến thanh danh của mình. Thế nhưng vì quý trọng sinh mệnh “trong dạ hiếu sinh” mà Kính Tâm gạt bỏ đi hết lời gièm pha, cho dù người đời có bàn tán ra sao thì “phúc vẫn là làm phúc”. Dù chẳng mang công sinh thành như vẫn chịu “cù lao”, tức là chịu công ơn nuôi dưỡng. Thế nhưng việc làm đó của Kính Tâm cũng khiến Sư Cụ không khỏi sinh nghi:
Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang
Quả thật trong mắt nhìn của ta thì có hiểu và xót thương cho thân phận Kính Tâm, nhưng là người không rõ sự tình, là đứa con “khác máu” không phải do mình sinh ra thì hà cớ gì Kính Tâm lại nhận nuôi con của người đã làm nên nỗi oan ức tủi hổ cho mình suốt đời. Ấy thế mà sư phụ cũng bị cảm hóa với nghĩa tử cao đẹp, tấm lòng từ bi của Kính Tâm:
Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người
…
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Kính Tâm thưa rằng dù cho có xây chín tháp “phù đồ” cũng không thể bằng cứu một sinh mệnh. Tấm lòng thiêng liêng cao đẹp đó đã nhận được lời khen từ sư Cụ, quả thật là người có lòng từ bi. Từ tình người nhân hậu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trọn tấm lòng để hòa vào “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa bé như là con đẻ của mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng:
Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên
Nhai cơm mớm sữa để nên con người
Đến dân ai cũng chê cười
Tiểu bao tử có trót đời được đâu
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba
Ca dao xưa có câu nói ám chỉ việc tò vò nuôi con của người khác nhưng khi con lớn lên sẽ bỏ đi:
“Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào?”
“Mẹ vò” ở đây cũng vậy, dẫu biết “nuôi con nhện” không phải là con của mình, dù không có “sữa khát khao” nhưng Kính Tâm vẫn lo cho đứa nhỏ không thiếu bữa nào. Kính Tâm ngày đêm chăm ẵm, nâng niu, xin sữa để nuôi con, mong con khôn lớn thành người. Đúng là miệng đời thật tàn ác, họ vẫn không ngừng đồn thổi rằng Kính Tâm có tu thành chính quả được đâu. Nhưng đến lúc này thì sự thật vẫn bị chôn vùi, thực giả ra sao thì chỉ có đứa ở, mình và “Thị Mầu là ba” biết rõ. Nuôi dưỡng một đứa trẻ thật không dễ dàng, nhưng dường như ngày ngày nghe tiếng trẻ thơ tíu tít, bao nỗi lo âu, trăn trở hóa hư vô:
Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày
…
Không gian tĩnh mịch, thanh tịnh nơi chùa linh thiêng nay xen lẫn cả “tiếng ru” con của Kính Tâm. Ta có thể cảm nhận được, tình mẫu tử không chỉ tồn tại ở chính cha mẹ sinh ra mình, nó còn hòa tan vào nhau khi gặp tấm lòng từ bi giáng thế. Tuy không phải con mình nhưng Kính Tâm vẫn tròn đạo là cha mẹ, đứa trẻ được nuôi nấng có đầy đủ điều kiện, có cả “lọ phương hoạt ấu”, “lọ thầy bảo anh”, hai thứ đó tượng trưng cho vị thầy thuốc bảo vệ sức khỏe của trẻ thơ.
Thấm thoát đã ba năm trôi đi, đứa bé nay đã lớn, giống với “cha nuôi” của mình. “Cha nuôi” đó chính là Kính Tâm, người đã ỉa trai để đi tu trốn chùa thanh tịnh. Bậc cha mẹ ai mà không muốn con cái trưởng thành với công danh rạng rỡ. Kính Tâm cũng vậy, người mong ước con của mình mai này trưởng thành “cơ cầu” giỏi giang để nối nghiệp ông cha, người còn mong cho “tiến trình” tương lai dẫn bước con càng thành công rạng rỡ hơn lớp ông cha con bây giờ.
Đoạn trích “Thị Kính nuôi con Thị Mầu” với ca từ bình dị không kém phần sắc sảo của thể thơ lục bát cùng với lời thơ điêu luyện đã làm nổi bật nhân vật Thị Kính là một điển hình cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa phải gánh chịu bất công, oan nghiệt.
Tham khảo thêm mẫu 👉 Thuyết Minh Về Một Tác Phẩm Văn Học
Phân Tích Thị Kính Nuôi Con Cho Thị Mầu Đặc Sắc Nhất
Truyện thơ Nôm đóng vai trò như một kho báu văn hóa của dân tộc Việt Nam, có giá trị vô cùng quan trọng. Trong kho tàng này, chúng ta tìm thấy không chỉ những kinh nghiệm sống, phong tục tập quán, mà còn cả kiến thức lịch sử của cộng đồng. Bằng thể thơ lục bát đặc trưng, truyện thơ Nôm truyền tải được sự biểu đạt giàu cảm xúc, với những câu từ giản dị và âm điệu tình cảm.
Điều này khiến truyện thơ Nôm mang trong mình một sự đậm nét dân tộc đặc trưng. Trong kho tàng ấy, có một câu chuyện kinh điển, vẫn mãi còn ấn tượng trong tâm trí người đọc, với sự sâu sắc của tư tưởng mà tác phẩm truyền tải. Đó chính là đoạn trích “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” từ tác phẩm “Quan Âm Thị Kính”. Trong đoạn trích trên, chúng ta được khám phá tấm lòng nhân từ của Thị Kính khi bị vu oan và bị Thị Mầu ép buộc đón nhận đứa con. Mặc dù bị đẩy vào tình thế khó khăn, nhưng vì sự sống của đứa bé bé nhỏ, Thị Kính quyết định giữ lại và chăm sóc nó như con của mình.
Thị Kính sinh ra trong một gia đình nghèo khó, và cô lấy chồng là Thiện Sỹ, con trai của một người giàu có. Một đêm nọ, khi Thiện Sỹ đang ngủ quên trong lúc đọc sách, Thị Kính nhìn thấy một chút râu mọc ngược dưới cằm anh ta. Cô muốn cắt đi điểm không đẹp này, nhưng khi Thiện Sỹ tỉnh giấc, anh hiểu lầm rằng Thị Kính định sát hại mình. Anh gây sự và tố cáo Thị Kính trước cha mẹ của mình, Sùng ông và Sùng bà. Họ tức giận và đuổi Thị Kính về quê sống cùng cha mẹ ruột.
Thị Kính mang trong lòng nỗi oan trái mà cô muốn từ bỏ cuộc sống này, nhưng tình yêu và lòng hiếu thảo với cha mẹ già đã trói buộc cô. Thị Kính quyết định thay đổi danh tính và cải trang thành một người đàn ông, rồi đi tu tại chùa Vân Tự. Cô đổi tên thành Kính Tâm để bắt đầu một cuộc sống mới.
Ở một ngôi làng, tồn tại một người phụ nữ tên là Thị Mầu, nguyên bản là một người hời hợt và dại dột. Cô đã đắm chìm trong tình yêu với Kính Tâm, một người tu sĩ. Thị Mầu vô tình mang bầu với một người hầu của gia đình. Khi bị người dân trong làng đưa ra xét xử, cô đã ngay lập tức đổ tội cho Kính Tâm. Và như vậy, người phụ nữ đáng thương này đã phải chịu đựng một lần nữa sự oan trái. Sau khi sinh con, Thị Mầu “trả lại” đứa bé cho Kính Tâm:
Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
…
Trân trân rằng giá con đây mà về.
Kính Tâm, một chú tiểu từng đi tu suốt ngày đêm, nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền”, nhưng bây giờ lại giật mình với tiếng khóc của đứa trẻ. Dường như nhà sư chân chính đã bị mắc vào một sợi duyên trái ngang. Kính Tâm bối rối và khó quyết định, không thể bỏ rơi đứa bé, nhưng cũng không dễ dàng chấp nhận và chăm sóc nó. Nếu từ bỏ đứa bé, lòng an ủi cũng chẳng đành, nhưng nếu nhận nuôi và chăm sóc nó, mọi chuyện trở thành “mối tình không thuận lợi”.
Thật khốn khổ khi Thị Mầu không có lòng thương xót, “không biết xấu hổ” và từ chối chịu trách nhiệm với con của mình. Dù biết rằng việc nhận đứa bé về nuôi sẽ gây ra lời đàm tiếu và chỉ trích, nhưng Kính Tâm vẫn kiên quyết quyết định nhận nuôi nó:
Cơ thiển kể đã khắt khe
…
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
Tâm hồn của Kính Tâm, từ cõi “cơ thiển” đã trở nên nổi sóng, khắt khe. “Cơ thiền” ở đây ám chỉ trạng thái tâm hồn đã đạt đến mức thanh tịnh, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Nhưng bây giờ, anh phải chịu đựng oan ức từ Thị Mầu, người đã “mưu đồ ra đứa” và gây tổn thương cho danh dự của mình. Tuy nhiên, vì Kính Tâm quý trọng giá trị cuộc sống và lòng hiếu thảo, anh từ bỏ mọi lời chỉ trích và lời đàm tiếu.
Dù người khác có nói xấu như thế nào, anh tin rằng “hạnh phúc vẫn nằm trong việc làm điều tốt”. Mặc dù anh không được sinh ra và lớn lên như người thường, anh vẫn đáng nhận “cù lao”, tức là sự công ơn nuôi dưỡng. Tuy nhiên, hành động này của Kính Tâm cũng khiến Sư Cụ có sự nghi ngờ không thể tránh khỏi:
Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
…
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Thật sự, khi nhìn vào tình cảnh của Kính Tâm, ta có thể hiểu và thương cảm cho số phận anh. Nhưng đối với những người không biết chính xác sự thật, và là một đứa con “không cùng máu” sinh ra không do mình, tại sao Kính Tâm lại đồng ý nhận nuôi đứa bé của người đã gây ra nỗi oan ức và xấu hổ suốt đời? Tuy vậy, sư phụ đã bị cảm hóa bởi lòng hiếu thảo và ý nghĩa cao đẹp của việc làm này từ Kính Tâm.
Kính Tâm nói rằng dù có xây chín tầng tháp “phù đồ”, cũng không thể sánh bằng việc cứu một sinh mạng. Tấm lòng thiêng liêng và cao quý đó đã nhận được sự ca ngợi từ sư Cụ, chứng tỏ anh là người có tấm lòng từ bi. Từ lòng nhân ái đáng trân trọng như “nước lã”, Kính Tâm đã đem hết tấm lòng đó để hòa quyện với “giọt máu thâm tình”. Anh coi đứa bé như con của mình, yêu thương và chăm sóc nó hết mực, như một người mẹ nuôi con của mình:
Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
…
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba
Dẫu biết việc “nuôi con nhện” không phải là nuôi con của mình, dù không có “sữa khát khao” nhưng Kính Tâm vẫn lo lắng để đứa bé không bị thiếu điều gì. Anh ta dành cả ngày đêm để chăm sóc, nâng niu và tìm cách để nuôi con, hy vọng rằng đứa bé sẽ lớn lên thành người. Đúng là cuộc sống thật tàn nhẫn, mọi người vẫn không ngừng đồn đại rằng Kính Tâm không thể đạt được quả báo từ việc tu hành. Nhưng đến bây giờ, sự thật vẫn bị chôn vùi, chỉ có đứa bé, mình và “Thị Mầu là ba” mới biết rõ. Nuôi dưỡng một đứa trẻ không phải chuyện dễ dàng, nhưng mỗi ngày khi nghe tiếng cười trong trẻo của đứa bé, những lo lắng và mối trăn trở đều tan biến vào hư vô:
Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày
…
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tứ khác nào bán sinh.
Mai ngày đến lúc trường thành,
Cơ cầu dễ rạng tiền trình hơn xưa.
Trong không gian yên bình và thanh tịnh của ngôi chùa linh thiêng, âm thanh dịu dàng của “tiếng ru” của đứa con Kính Tâm truyền đến. Chúng ta có thể cảm nhận rằng tình mẫu tử không chỉ tồn tại giữa cha mẹ và con cái sinh ra mình, mà nó còn hòa hợp trong tâm hồn khi gặp tấm lòng từ bi cao thượng. Dù không phải là con ruột, Kính Tâm vẫn đầy đủ tròn vai làm cha mẹ, đảm bảo rằng đứa trẻ được nuôi dưỡng đầy đủ, có cả “lọ phương hoạt ấu” và “lọ thầy bảo anh”, hai biểu tượng cho việc chăm sóc sức khỏe của trẻ nhỏ.
Thấm thoát đã ba năm trôi qua, đứa bé đã lớn lên, trở thành một người giống hệt “cha nuôi” của mình. “Cha nuôi” ấy chính là Kính Tâm, người đã từ bỏ cuộc sống thế tục để tu hành trong ngôi chùa thanh tịnh. Bất kể là cha mẹ nào, ai cũng mong muốn con cái của mình trưởng thành với thành công lẫy lừng. Kính Tâm cũng không ngoại lệ, anh ước mong rằng con của mình sẽ trở thành một “cơ cầu” xuất sắc, tiếp nối sự nghiệp của tổ tiên. Anh cũng hy vọng rằng tương lai sẽ dẫn bước con đi đến thành công vượt bậc, hơn cả những gì ông cha đời trước đã đạt được.
Trích đoạn “Thị Kính nuôi con Thị Mầu” với vần thơ lục bát và cách diễn đạt tinh tế, là một ví dụ đặc trưng cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa, phải đối mặt với bất công và oan trái. Từ câu chuyện cuộc đời Thị Kính, tác giả tạo ra một bức tranh xã hội phong kiến rối ren và đầy mâu thuẫn.
Điều này như một lời cảnh tỉnh cho những người đang suy nghĩ về việc tu hành và tìm đường đắc đạo. Để chọn con đường đích thực, ta phải chịu khó đối mặt với khổ đau và oan trái, giống như Thị Kính đã trải qua. Dù có gắng đối diện với mọi oan uổng, nhưng tâm hồn từ bi và thiện lương của Thị Kính đã giúp cô vượt qua mọi khó khăn.
Xem thêm 👉 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học