Dương Phụ Hành: Nội Dung Bài Thơ, Soạn Bài, Phân Tích, Giáo Án

Đón đọc nội dung chính bài thơ Dương phụ hành của Cao Bá Quát, đây là một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Dương Phụ Hành

Tác phẩm ”Dương phụ hành” được viết vào thời gian từ 1842 – 1843, khi Cao Bá Quát đi “dương trình hiệu lực” sang Indonesia.

Giới thiệu tác phẩm👉 Lời Tiễn Dặn

Nội Dung Bài Thơ Dương Phụ Hành

Chia sẻ đến bạn đọc nội dung bài thơ Dương phụ hành với đầy đủ bản chữ Hán, dịch nghĩa,..

洋婦行
西洋少婦衣如雪,
獨憑郎肩坐清月。
卻望南船燈火明,
把袂喃喃向郎說。
一碗醍醐手懶持,
夜寒無那海風吹。
翻身更倩郎扶起,
豈識南人有別離。

Dương phụ hành

Tây Dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ thanh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly!

Dịch nghĩa

Người thiếu phụ phương Tây áo như tuyết
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng
Kéo áo chồng thì thầm nói
Tay cầm uể oải một chén sữa
Đêm lạnh à đây gió biển thổi
Nghiêng mình đòi chồng đỡ dậy
Biết chăng có người Nam đang chịu cảnh biệt ly.

Đón đọc phân tích 🔽 Gió Thanh Lay Động Cành Cô Trúc 🔽

Ý Nghĩa Bài Thơ Dương Phụ Hành

Bài thơ “Dương Phụ Hành” tạo ra sự tương phản giữa vẻ đẹp và tình cảm của cuộc sống gia đình Tây phương và nỗi buồn và sự khát khao trong cuộc sống của tác giả. Bài thơ thể hiện sự đa dạng và phong phú của cuộc sống con người và tầm nhìn văn hóa của Cao Bá Quát.

Đọc Hiểu Bài Thơ Dương Phụ Hành

Để hiểu rõ hơn về bài thơ Dương phụ hành hãy đón đọc những câu hỏi kèm đáp án dưới đây để có thể nắm được nội dung chi tiết.

👉 Câu 1: Tác giả của Dương phụ hành là?

A. Cao Bá Quát

B. Tản Đà

C. Chu Văn An

D. Nguyễn Khuyến

Đáp án: A

👉 Câu 2: Khung cảnh của bài thơ là?

A. Một đêm trăng trên đại dương, bốn bề thổi lạnh

B. Một đêm trăng trong túp lều nhỏ, bốn bề thổi lạnh

C. Một đêm gió to trên đại dương

D. Một đêm gió to trong túp lều nhỏ

Đáp án: A

👉 Câu 3: Chi tiết nào dưới đây miêu tả người thiếu phụ phương Tây?

A. Áo trắng phau

B. Tựa vai chồng

C. Kéo áo, rì rầm nói chuyện

D. Tất cả các đáp án trên

Đáp án: D

👉 Câu 4: Người thiếu phụ phương Tây có hành động gì với nhân vật trữ tình?

A. Hành động chào hỏi lịch sự

B. Hành động âu yếm

C. Hành động quan tâm ấm áp

D. Tất cả các đáp án trên

Đáp án: B

👉Câu 5: Thời gian câu chuyện được kể trong bài thơ là?

A. Buổi chiều

B.  Buổi sáng

C. Buổi tối

D. Buổi đêm

Đáp án: C

👉 Câu 6:  Không gian câu chuyện được kể trong bài thơ là?

A. Trên một chiếc thuyền sang trọng

B. Trong một ngôi nhà tranh

C. Trong một khu biệt thự

D. Trên một chiếc ghe 

Đáp án: A

👉 Câu 7: Tâm trạng nhân vật trữ tình trong câu thơ kết là?

A. Yêu đời

B. Than trách, bất lực

C. Tự hào

D. Đau khổ

Đáp án: B

👉 Câu 8: Qua bài thơ, tâm hồn tác giả hiện lên như thế nào?

A. Tâm hồn đa sầu, đa cảm

B. Tâm hồn suy tàn, héo úa

C. Tâm hồn yêu đời 

D. Tất cả các phương án trên

Đáp án: A

👉 Câu 9: Qua bài thơ, tác giả hiện lên là một người có tâm hồn đa sầu, đa cảm với cái nhìn cởi mở, suy nghĩ tiến bộ.

A. Viết đơn giản nhưng dễ hiểu

B. Lời thơ mộc mạc chứa ý nghĩa sâu sắc

C. Thể thơ tự do phóng túng

D. A và C đúng

Đáp án: D

Đọc thêm tác phẩm ✨ Kiêu Binh Nổi Loạn ✨ nội dung + nghệ thuật

Giá Trị Bài Thơ Dương Phụ Hành

Chia sẻ thông tin phần giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ Dương phụ hành sau đây:

  • Giá trị nội dung: Dương phụ hành là một bài thơ hay khi tác giả khắc họa chân dung người thiếu phụ Tây Dương, qua đó nhà thơ nghĩ về giai nhân và tài tử, về hạnh phúc trong sum họp và nỗi đau trong li biệt. Trong chuyến đi này, ông có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, thấy nhiều điều mới lạ.
  • Giá trị nghệ thuật: Bài thơ được viết theo thể “hành” thất ngôn. Ý tại ngôn ngoại. Một cái nhìn mới mẻ. Ý thơ mới lạ. Lời thơ mộc mạc chứa ý nghĩa sâu sắc

Bố Cục Bài Thơ Dương Phụ Hành

Về phần bố cục, bài thơ Dương phụ hành được chia thành 2 phần cụ thể:

  • Phần 1: 7 câu đầu: Hình ảnh người thiếu phụ Tây dương
  • Phần 2: câu thơ cuối: Tâm trạng của nhà thơ

Có thể bạn sẽ quan tâm tác phẩm 🌼 Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh 🌼 

Dàn Ý Dương Phụ Hành

Hi vọng với mẫu dàn ý phân tích tác phẩm Dương phụ hành ngắn gọn sau đây sẽ giúp các em định hướng được cách viết bài văn của mình sao cho thật hay.

I. Mở bài: Giới thiệu sơ lược các thông tin về tác giả, tác phẩm.

II. Thân bài

1. Tác giả

– Là một trong các nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam những năm nửa đầu thế kỉ XIX.

– Nhân cách: cứng rắn, ngang tàn.

– Phong cách nghệ thuật: phong phú trong nội dung, cảm hứng sáng tác.

2. Tác phẩm

– Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm Dương Phụ Hành được Cao Bá Quát sáng tác trong lần ông có dịp theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán bên Indonesia.

– Nội dung: nói về người đàn bà Phương Tây đã gợi cho tác giả suy nghĩ về hạnh phúc và nỗi sầu chia li.

3. Tổng kết giá trị nghệ thuật mà tác phẩm mang tới

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của bản thân.

Cập nhật thêm bài👉 Một Đời Như Kẻ Tìm Đường

Sơ Đồ Tư Duy Dương Phụ Hành

Tham khảo thêm mẫu sơ đồ tư duy tác phẩm Dương phụ hành sau đây để có thể nắm được nội dung chính của bài.

Sơ Đồ Tư Duy Dương Phụ Hành
Sơ Đồ Tư Duy Dương Phụ Hành
Mẫu Sơ Đồ Tư Duy Dương Phụ Hành
Mẫu Sơ Đồ Tư Duy Dương Phụ Hành

Soạn Bài Dương Phụ Hành Lớp 11

Tiếp theo sau đây là phần hướng dẫn soạn bài Dương phụ hành SGK trang 109 sách ngữ văn 11 tập 1.

👉 Câu 1 (trang 109 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): So sánh và chỉ ra những chỗ khác biệt giữa bản dịch thơ với nguyên tác.

Trả lời:

– Giống nhau: Đều là thể thơ tự do, đều truyền tải thông điệp về sự khác nhau về văn hóa phương Đông và phương Tây của một con người xa xứ.

– Khác nhau:

+ Bản dịch thơ: Ngữ điệu mang tính nhạc điệu hơn, chưa truyền tải được hết ý nghĩa so với bản nguyên tác.

+ Bản nguyên tác: Ngữ điệu thơ mang tính chất của một câu chuyện kể, từ ngữ đa phần là từ Hán Việt nên nhiều từ ngữ còn gây khó hiểu.

👉 Câu 2 (trang 109 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Xác định thời gian, không gian, sự việc của câu chuyện được kể trong bài thơ.

Trả lời:

– Thời gian: buổi tối

– Không gian: dưới bóng trăng thanh

– Sự việc: Người phụ nữ Tây phương tựa vai người chồng trong đêm trăng thâu tíu tít trò chuyện, thân mật. 

👉 Câu 3 (trang 109 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chỉ ra những chi tiết miêu tả người thiếu phụ phương Tây, qua đó, nêu các đặc điểm nổi bật của hình tượng này.

Trả lời:

– Các chi tiết miêu tả người thiếu phụ phương Tây: áo trắng phau, tựa vào vai chồng, kéo chồng thì thầm nói, tay cầm một cốc sữa, nũng nịu đòi chồng đỡ dậy.

– Các đặc điểm nổi bật của hình tượng nhân vật này: Tất cả những chi tiết đó làm nổi bật lên hình ảnh một người phụ nữ đang làm nũng với chồng của mình. Nàng muốn được chồng yêu mến, chiều chuộng và cảm thấy hạnh phúc khi làm những hành động đấy. Đây cũng là cách tác giả muốn nói đến người phương Tây, họ luôn cởi mở, phóng khoáng và không e ngại khi làm những hành động như vậy ở nơi công cộng bởi theo họ vợ chồng yêu nhau là việc hết sức bình thường. 

👉Câu 4 (trang 109 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Hình tượng người thiếu phụ phương Tây trong bài thơ được tái hiện qua cái nhìn của một nhà Nho đồng thời cũng là một nhà thơ phương Đông. Hãy phân tích những cảm xúc, thái độ được tác giả bộc lộ từ các điểm nhìn đó.

Trả lời: Cảm xúc, thái độ của tác giả khi nhìn thấy cảnh tượng:

– “Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau”

→ Câu thơ phần nào cho thấy sự phóng túng, sa hoa trong cách ăn mặc của người phương Tây khiến tác giả có phần lạ lẫm

– “Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu/ Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói/ Kéo áo, rì rầm nói với nhau”

→ Hình ảnh người thiếu phụ tựa vai chồng một cách âu yếm, hạnh phúc khiến tác giả có chút ghen tị khi nhìn lại hoàn cảnh của mình. 

– “Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay/ Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!”

 Khung cảnh ban đêm tĩnh lặng, gió lạnh khiến nỗi buồn của tác giả càng dâng trào 

– “Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,”

→ Người thiếu phụ tiếp tục làm nũng chồng khiến tác giả càng thêm buồn vì tình cảnh lẻ loi, cô độc nơi đất khách quê người của mình

– “Biết đâu nỗi khách biệt ly này.”

→ Nỗi buồn, cô đơn của tác giả được đẩy lên cao trào và thốt ra thành lời, tác giả thương thay cho thân phận đất khách quê hương và tình cảnh lẻ loi, cô độc của mình. 

👉 Câu 5 (trang 109 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong câu thơ kết và những ý tứ được mở ra từ câu thơ này?

Trả lời: Tâm trạng của nhân trạng nhân vật trữ tình trong câu thơ kết chính là nỗi nhớ khi xa quê, xa gia đình. Bên cạnh đó, câu thơ còn thể hiện tính nhân văn, một góc nhìn mới rất hiện đại, ông như được mở mang đầu óc sau chuyến đi đó.

👉 Câu 6 (trang 109 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Đọc bài thơ, bạn cảm nhận được điều gì về tư tưởng, tâm hồn tác giả?

Trả lời: Qua bài thơ, người đọc thấy được cái nhìn đa sầu, đa cảm và tư tưởng tiến bộ của nhà thơ. Người phụ nữ trong xã hội này cần được yêu thương, chăm sóc, có quyền nũng nịu người chồng của mình chứ không phải như người phụ nữ phương Đông vất vả, khổ cực, muốn chồng san sẻ một chút cũng khó. Qua đó, cũng thể hiện tâm hồn phóng khoáng, đầy nhân văn của tác giả, tác giả cũng mong muốn có một gia đình ấm no, hạnh phúc, tác giả cũng được khai sáng hơn sau chuyến đi này, mở ra một góc nhìn thoáng hơn, mới hơn, hiện đại hơn. 

Gợi ý bài thơ 👉 Con Đường Mùa Đông

Giáo Án Dương Phụ Hành Lớp 11

Thohay.vn cập nhật thêm cho các quý thầy cô giáo mẫu giáo án bài Dương phụ hành được biên soạn chuẩn nhất theo chương trình học lớp 11, hi vọng sẽ giúp giáo viên chuẩn bị tiết dạy tốt nhất trước khi đến lớp.

I. Mục tiêu

1. Về mức độ/ yêu cầu cần đạt

– Thấy được cái nhìn tinh tế, phóng khoáng của một vị quan phương Đông đối với cảnh tình tự, âu yếm của đôi vợ chồng trẻ Tây dương.

– Cảm thông với khát vọng hạnh phúc trong sum họp và nỗi đau trong li biệt của nhà thơ.

– Thấy được đặc điểm nghệ thuật của bài thơ: ý tại ngôn ngoại.

2. Về năng lực

a. Năng lực chung

– Hình thành năng lực làm việc nhóm, năng lực gợi mở,…

– Phát triển khả năng tự chủ, tự học qua việc đọc và hoàn thiện phiếu học tập ở nhà.

– Giải quyết vấn đề và tư duy sáng tạo trong việc chủ động tạo lập văn bản.

b. Năng lực đặc thù

– Năng lực cảm thụ phân tích văn bản văn học.

– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến tác giả Cao Bá Quát.

– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản Dương phụ hành.

3. Về phẩm chất

– Biết đồng cảm, yêu thương con người; biết trân trọng vẻ đẹp thủy chung trong tình yêu.

– Chăm chỉ, tự giác học tập, tìm tòi và sáng tạo.

II. Thiết bị dạy học và học liệu

1. Chuẩn bị của giáo viên

– Giáo án, tài liệu tham khảo, kế hoạch bài dạy

– Phiếu học tập, trả lời câu hỏi

– Bảng giao nhiệm vụ cho HS hoạt động trên lớp

– Bảng giao nhiệm vụ học tập cho HS ở nhà

2. Chuẩn bị của học sinh

– SGK, SBT Ngữ văn 11, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG

a. Mục đích: HS biết được các nội dung cơ bản của bài học cần đạt được, tạo tâm thế cho học sinh đi vào tìm hiểu bài mới.

b. Nội dung: HS dựa vào hiểu biết để trả lời câu hỏi.

c. Sản phẩm: HS vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi GV đưa ra.

d. Tổ chức thực hiện:

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ

– GV đặt câu hỏi gợi dẫn: Em đã biết câu chuyện thú vị nào về cuộc tiếp xúc văn hóa giữa những người đến từ hai thế giới: phương Đông và phương Tây? Hãy chia sẻ câu chuyện đó.

– HS tiếp nhận nhiệm vụ.

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ

– HS thảo luận và trả lời câu hỏi.

Bước 3: Trao đổi thảo luận, báo cáo sản phẩm

– HS trình bày sản phẩm thảo luận.

– GV gọi HS khác nhận xét, bổ sung câu trả lời của bạn.

Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện

– GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức.

– GV gợi dẫn vào bài học: Văn hóa phương Tây và phương Đông vốn rất khác biệt. Có rất nhiều tác giả đã cho người đọc thấy được những nét khác biệt đó trong tác phẩm của mình. Cao Bá Quát cũng vậy, đặc biệt hơn, ông biết du nhập và làm mới thơ văn của mình bằng những nét văn hóa, cái đẹp vượt xa ngoài lễ giáo phong kiến phương Đông. Và một minh chứng cụ thể cho quan điểm trên chính là bài Dương phụ hành.

B. Hoạt động hình thành kiến thức

Hoạt động 1: Đọc – hiểu văn bản

I. Trải nghiệm cùng văn bản
a. Mục tiêu: Giúp HS chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đọc hiểu văn bản, hướng dẫn đọc và rèn luyện các chiến thuật đọc.
b. Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi liên quan đến tác giả Cao Bá Quát và văn bản Dương phụ hành.
c. Sản phẩm: HS tiếp thu kiến thức và câu trả lời của HS
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
NV1:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
– GV tổ chức cho HS tìm hiểu tác giả dựa vào nội dung đã đọc ở nhà, trả lời câu hỏi sau:
+ Hãy trình bày hiểu biết của em về tác giả Cao Bá Quát.
– HS tiếp nhận nhiệm vụ.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ- HS thảo luận và trả lời câu hỏi
.Bước 3: Trao đổi thảo luận, báo cáo sản phẩm
– HS trình bày sản phẩm thảo luận.
– GV gọi HS khác nhận xét, bổ sung câu trả lời của bạn.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện
– GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức.
NV2:Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
– GV gọi HS đọc văn bản: đọc giọng to, rõ ràng và lưu loát.
– GV yêu cầu HS quan sát và trả lời:
+ Nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ?
+ Bài thơ được sáng tác theo thể thơ nào?
– HS tiếp nhận nhiệm vụ.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
– HS thảo luận và trả lời từng câu hỏi.
Bước 3: Trao đổi thảo luận, báo cáo sản phẩm
– HS trình bày sản phẩm thảo luận.
– GV gọi HS khác nhận xét, bổ sung câu trả lời của bạn.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện
– GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức.
1. Tác giả
– Cao Bá Quát (1808 – 1855) nổi tiếng học rộng, tài cao, đỗ cử nhân sớm (1831) những lận đận trên con đường làm quan
.- Năm 1841, khi làm quan sơ khảo tại trường thi Thừa Thiên, vì vi phạm quy định nghiêm ngặt của việc chấm bài, ông phục dịch phái bộ đi công tác một số nước vùng Hạ Châu. Chuyến đi này tác động lớn đến nhận thức, tư tưởng của ông khi được tiếp xúc với nền văn minh khác, với những màu sắc mới của cuộc sống nơi xứ lạ, phương xa.
– Cao Bá Quát sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Thơ văn Cao Bá Quát rất phong phú về đề tài, thể hiện tình cảm tha thiết gắn bó với gia đình, quê hương; đồng cảm với những thân phận cùng khổ.  Ông mang đến cái nhìn nhân văn, tinh thần dân chủ của một nghệ sĩ có tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, sẵn sàng đón nhận và trân trọng những nét đẹp mới mẻ, xa lạ với truyền thống.
2. Văn bản
– Hoàn cảnh sáng tác: Dương phụ hành được Cao Bá Quát sáng tác trong chuyến xuất dương hiệu lực năm 1844.
– Bài thơ được viết theo thể hành, một thể của thơ cổ phong.(Thơ cổ phong là thể thơ ra đời ở Trung Quốc trước thơ Đường luật, với câu thơ phổ biến là ngũ ngôn hoặc thất ngôn, mỗi bài thơ từ bôn câu trở lên, không hạn định về độ dài, chỉ cần có vần điệu mà không cần đối nhau, cũng không cần t

Xem thêm tác phẩm 👉 Cải Ơi (Nguyễn Ngọc Tư)

5+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Dương Phụ Hành Hay Nhất

Đón đọc những mẫu văn phân tích bài thơ Dương phụ hành hay, xuất sắc nhất dưới đây để có thêm nhiều tư liệu ôn tập hữu ích.

Cảm Nhận Về Bài Thơ Dương Phụ Hành Sinh Động

Thông qua bài thơ ta thấy Cao Bá Quát có cái nhìn sắc sảo, tinh tế, nhạy cảm bắt nguồn từ tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương, nhớ thương người thân, không chịu đựng được những nghịch cảnh, trớ trêu đầu trên quê hương hay những nơi khác lạ. Sau khi được định tội, triều đình tạm tha cho Cao Bá Quát và cho đi xuất dương hiệu lực trong phái đoàn do Đào Phú Trí là trưởng đoàn, Trần

Tú Dĩnh là phó đoàn. Ở triều Nguyễn, đối với một người có thể sử dụng mà không may mắc tội thì nhà vua thường tạm tha và phân phối đi đến một đồn quân nào đó phục dịch để chuộc tội. Đó là hình thức “quân tiền hiệu lực”. Hoặc khi có một phái bộ nào xuất dương đi giao thiệp với nước ngoài thì những phạm nhân ấy cũng được đi theo phục dịch để lấy công chuộc tội gọi là “dương trình hiệu lực”, Cao Bá Quát cũng được xử trí theo những “đặc ân” đó.

Ngồi trên thuyền, giữa trùng dương rộng lớn, ông lại cảm thấy trong lòng đầy hào hứng, hùng khí lại ngùn ngụt như xưa:

Gió Bắc đưa thuyền qua muôn trùng biển cả,
Ta ngâm câu thơ dưới cánh buồm mát dịu,
Có ai thử đem câu thơ kinh người của chàng Tiểu Tạ.
Mà đề lên khắp cái núi ở chân trời kia!

Khi cánh buồm lộng gió đi vào trời nước bao la, ông tự hỏi: “Có ai học được nét vẽ của Tôn Vị ngày xưa để thử vẽ cái cảnh hùng vĩ này của một chàng ngâm thơ trên đầu ngọn sóng!”.

Ông ví mình như con hạc bị ốm, con chim hồng bị đau, đã bao lâu không con hi vọng, nên lại chắp cánh bay trên đường bay rộng lớn của chim bằng. Giận cho mình bao lâu chỉ làm một tài tử khốn cùng trong bút mực, anh trượng phu tầm thường giữa núi mây! Ra nước ngoài, tầm con mắt ngài thêm mở rộng. “Cuộc ngoạn du, mới biết cá lớn nghìn dặm. Kiến thức hẹp hòi, khác nào nhìn con báo qua một chiếc ống chỉ thấy nó có một vằn”.

Ông nghĩ tới lối học từ chương, thái độ đóng cửa không chịu tìm hiểu  nước ngoài thật là nguy hiểm. Ý nghĩ này cọn được nêu lên trong bài ông đề cập Yên Đài Anh Ngữ của Bùi Ngọc Quỹ. Ông này đã đi sứ nước ngoài học được nhiều điều mới lạ. Cao tự trách mình: “Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt giũa câu văn, lải nhải nhai từng câu từng chữ. Có khác gì con sâu đo, muốn đo cả trời đất”.

Phái đoàn của ông đi Inđônêxia và Campuchia mục đích chủ yếu là đem  đường  bán cho nước ngoài để mua sắm những hàng xa xỉ cho triều đình. Ra nước ngoài, ông đã thấy đời sống của người Tây phương, lại thấy cảnh người da đen kéo xe cho người da trắng, ông cũng phần nào nhận thức được sự phát triển của các Tây phương và nguy cơ bị xâm lược của các nước Á Đông. Lòng yêu nước được kích thích, ông càng nhìn rõ hơn sự nhu nhược và bất lực của triều đình, tin tưởng vào sức mạnh phản kháng của nhân dân trước nạn ngoại xâm”.

Trở lại bài thơ Dương phụ hành, Cao Bá Quát như cầm bút viết ngay một cảnh tượng về cuộc sống của người phụ nữ Tây phương lướt qua con mắt quan sát của nhà thơ. Đây là một cuộc sống đối lập với người phụ nữ Việt Nam: Giữa cái thùy mị, kín đáo với cái nũng nịu phô trương từ cách ăn mặc đến cử chỉ:

Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu

Và, nhiều khi họ có cái nhìn tò mò đối với người lạ rồi bình phẩm, bàn tán – một thói xấu, một cử chỉ đến khó chịu:

Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói
Kéo áo rầm rì nói với nhau…

Ta hiểu người đàn bà Tây dương “níu áo chồng” ròi nói những gì đó với nhau, ẩn sau câu thơ là sự căm ghét của nhà thơ đối với lối sống đó. Tiếp đó, Cao Bá Quát miêu tả bằng những lời thơ mộc mạc nhưng nói lên đầy đủ lối sống khác lạ, phè phỡn, no đầy của họ:

Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay
Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay…

Cảnh tiếp theo đối lập ngay với chính tâm trạng của nhà thơ:

Uốn éo đòi chồng năng đỡ dậy
Biết đâu nỗi khách biệt li này…

Nghĩa là ở đây thì “bà đầm” uốn éo với chồng, nằm xuống được nhưng khi ngồi dậy phải có chồng nâng! Trong khi đó thì chính nhà thơ đang ở trong cảnh biệt li!

Thông qua bài thơ ta thấy Cao Bá Quát có cái nhìn sắc sảo, tinh tế, nhạy cảm bắt nguồn từ tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương, nhớ thương người thân, không chịu được những nghịch cảnh, trớ trêu dầu trên quê hương hay những nơi khác lạ! Như vậy ở bài thơ này, nhà thơ vừa nhìn thấy cái khác lạ trong đời thường, lại vừa thấm thía với bản thân mình.

Hướng dẫn 👉 Viết Bài Văn Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Văn Học

Phân Tích Bài Thơ Dương Phụ Hành Xuất Sắc

Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX. Ông là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát. Bài thơ “Dương phụ hành” là tác phẩm mang những giai điệu lãng mạn và tâm trạng sâu sắc với cuộc đời và tình cảm của nhà thơ. Cao Bá Quát đã đưa vào bài hành nội dung phong phú cùng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc mang đến cho người đọc cái nhìn mới lạ.

Tác phẩm thuộc thể loại hành, một thể thơ cổ truyền. “Dương phụ hành” được sáng tác trong chuyến du lịch nước ngoài năm 1844, là những lời thơ vẽ lên nét chân dung người thiếu phụ Tây Dương từ đó gửi gắm đến người đọc những suy nghĩ về tình cảm gia đình, niềm vui và nỗi đau trong tình yêu. Bài thơ “Dương phụ hành” kể về chuyến công tác của Cao Bá Quát khi ông được cử theo phái bộ của Đào Phú Trí.

Đến vùng trời Tây xa xôi, ông được chứng kiến những vẻ đẹp mới lạ của người phụ nữ Tây Dương trong bộ váy trắng, điều này khiến ông ngạc nhiên và thấy đẹp đến lạ lùng. Cuộc đời nhiều thăng trầm và bôn ba đã rèn cho ông năng lực quan sát nhạy bén và sắc sảo. Nhà thơ không dùng những lời văn hoa mỹ mà chỉ qua vài chi tiết tả thực đã khắc họa lên hình ảnh đầy ấn tượng.

Mở đầu tác phẩm là màu áo trắng phau của người thiếu phụ Tây Dương. Qua con mắt cảm nhận sâu sắc của Cao Bá Quát, người thiếu phụ Tây Dương hiện lên với vẻ đẹp dịu dàng và tình cảm tự nhiên. Nếu như đối với người phương Đông, màu trắng vẫn coi là màu không đẹp thì qua con mắt cảm nhận mới mẻ của nhà thơ, màu trắng phau lại là biểu tượng cái đẹp của người phương Tây. “Cuộc ngoại du, mới biết cá lớn nghìn dặm. Kiến thức hẹp hòi, khác nào nhìn con báo qua một chiếc ống chỉ thấy nó có một vằn”.

Cao Bá Quát đã vượt lên khỏi lối sáng tác của các nhà văn cùng thời, bằng trí tuệ và lòng nhân ái sâu sắc ông đã cảm nhận những vẻ đẹp mới mẻ nơi xứ xa phương Tây. Qua cảnh vợ chồng thân mật, âu yếm của họ khiến lòng ông không khỏi nghẹn ngào xót xa, ông khao khát có một gia đình hạnh phúc, một tình cảm mà trước giờ ông chưa từng được cảm nhận. Trong thời kỳ phong kiến, khi mà xã hội Việt Nam có những ràng buộc trong quan điểm bảo thủ thì Cao Bá Quát lại miêu tả vẻ đẹp xa lạ mang đến một hiện tượng mới lạ với phong cách hiện đại.

Qua những lời thơ miêu tả người thiếu phụ Tây Dương, Cao Bá Quát thể hiện những cảm xúc và tư tưởng lòng người, đó là khao khát về hạnh phúc gia đình, về vai trò và quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội. Bài thơ được bộc lộ được vẻ đẹp nhân văn cao đẹp trong tâm hồn trí thức nhưng đầy phóng khoáng của tác giả. Bài thơ tuy ngắn nhưng đã thể hiện được khao khát hạnh phúc, về tình yêu thương gia đình.

Niềm hạnh phúc đấy không phân biệt giới tính, màu da, tôn giáo. Là lời khích lệ, động viên mọi người hãy dành cho nhau những tình cảm chân quý nhất. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của những người thiếu phụ Tây dương, qua đó cho ta thấy được vẻ đẹp của phái nữ tên luôn được bảo vệ và yêu chiều.

Tác phẩm sử dụng thể hành được viết bằng lối ngôn ngữ đơn giản và dễ hiểu, đây là thể thơ thể hiện những sự kiện mới lạ, bất ngờ hay những đồng cảm tạo nên ấn tượng mạnh mẽ khiến cho chủ thể trữ tình có thể bộc lộ hết tâm tư, thái độ của mình. Thể thơ thường sử dụng lối biểu đạt không bị gò bó, ràng buộc từ đó mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc nhất, khiến cho nhà thơ có thể thoải mái bộc lộ những cảm nhận mới mẻ của mình.

Cao Bá Quát còn đưa những lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Ngôn ngữ được tác giả chọn lọc rất linh hoạt, mang cá tính mạnh mẽ thể hiện được các sắc thái tình cảm của Cao Bá Quát. Cùng với việc lựa chọn nhân vật điển hình, miêu tả những chi tiết về người thiếu phụ cả tính cách và ngoại hình, từ đó làm nổi bật lên hình ảnh người phụ nữ với những vẻ đẹp yêu kiều.

Thể hiện những điểm khác biệt giữa hai nền văn hóa. Nếu như nền văn hóa phương Đông là hình ảnh người phụ nữ kín đáo thì đối với phương Tây họ có thể thể hiện tình cảm của mình ở khắp mọi nơi.

Chỉ bằng vài nét nghệ thuật cùng nội dung phong phú nhưng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, Cao Bá Quát đã thể hiện được phong cách sáng tác riêng của mình, mang màu sắc mới lạ vượt qua những phong tục tầm thường của xã hội.

Xem thêm 👉 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học 

Phân Tích Bài Thơ Dương Phụ Hành Hay Nhất

Cao Bá Quát là một nhà thơ sinh sống dưới triều Nguyễn nước ta, ông là người có tài năng, học vấn, thơ văn của ông mang nhiều màu sắc phong phú và chủ đề đa dạng, bộc lộ được lòng yêu nước thương dân, tấm lòng đồng cảm sâu sắc với những số phận khổ đau, bất hạnh, đồng thời cũng lên án mạnh mẽ chế độ phong kiến mục rỗng.

Và đặc biệt so vớ nhiều nhà thơ cùng thời, thơ của Cao Bá Quát lại mang một phong thái khác lạ, bởi ông biết du nhập và làm mới thơ văn của mình bằng những nét văn hóa, cái đẹp vượt xa ngoài lễ giáo phong kiến phương Đông. Và một minh chứng cụ thể cho quan điểm trên chính là bài Dương phụ hành.

Dương phụ hành có nghĩa là Bài hành về người thiếu phụ phương Tây, được viết khi ông bị cử theo phái bộ của Đào Phú Trí sang Inđônexia làm công cán, thực chất chuyến đi này là hành trình đi phục dịch “lấy công chuộc tội”. Nhưng cũng chính chuyến đi này đã làm cho Cao Bá Quát được mở rộng tầm mắt, tiếp thu những vẻ đẹp mới từ trời Âu xa xôi, mà có thể theo nhiều nhà nho nhà văn cho ấy là vô phép tắc. Trong đôi mắt nhà thơ người thiếu phụ Tây phương duyên dáng, xinh đẹp hiện lên thật khác lạ trong màu áo trắng tinh khôi như sau:

“Thiếu phụ Tây Dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,”

Có lẽ với đa phần người phương Đông, màu “trắng phau” không phải là một màu gì đẹp đẽ, mà mang nhiều không khí tang tóc, buồn bã, cũng không ai dám mặc tự tin diện chúng ra bên ngoài cả, có chăng là lớp áo lót bên trong, được che đậy bằng thứ quần áo có màu khác bên ngoài. Thế mà người phụ nữ Tây phương ấy lại vượt ra khỏi tầm suy nghĩ khi diện một bộ váy trắng phau, và càng bất ngờ hơn bộ váy áo ấy dường như càng tôn lên cái vẻ đẹp dịu dàng, e ấp của người thiếu phụ.

Hơn thế nữa, người phụ nữ ấy công khai tựa vào vai chồng thật hạnh phúc để ngắm “bóng trăng thâu”, một hình ảnh mà đối với chúng ta bây giờ thực lãng mạn biết mấy, nhưng trong đôi mắt ngập tràn lễ giáo xưa thì có cái lý nào lại như vậy. Tuy nhiên bằng tầm mắt và suy nghĩ rộng mở của mình Cao Bá Quát lại thấy hình ảnh ấy thật đẹp thật duy mỹ, thật ngọt ngào tình cảm quá, khéo mơ ước cả đời cũng chẳng có dịp vậy.

Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên và cảm giác như bắt được một cái thứ gì đó mới lạ thú vị lắm, ông tiếp tục đưa đôi mắt tinh tế của mình để quan sát thì càng ngạc nhiên hơn trước những cử chỉ thân mật, âu yến mà người thiếu phụ dành cho chồng mình thật tự nhiên, ấm áp:

“Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo rì rầm nói với nhau.”

Người thiếu phụ ấy thấy điều thú vị nơi chiếc thuyền, thì tay khẽ giật áo chồng ríu rít tâm sự, kể chuyện nhau nghe, trông thật dễ thương, gần gũi biết bao. Hành động này tuy đã đủ ngạc nhiên nhưng vẫn chưa bằng ba câu sau đây:

“Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể đêm sương thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,”

Vợ chồng tựa vai nhau, tâm sự cũng đã đủ gió đêm đã lạnh, cả hai cùng có ý về nhà, và cô vợ đã có một cử chỉ thật yêu kiều, thể hiện sự yếu đuối cần chở che bao bọc của người phụ nữ ấy là “Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy”. Ôi nghe cái cử chỉ nũng nịu ấy sao thấy xao xuyến và dễ thương đến lạ lùng, bỗng thấy phụ nữ phương Đông thật khổ hạnh, chắc chẳng bao giờ nghĩ tới việc được chồng đỡ đàn cho tí chút, chỉ chăm chăm cơm nước hầu hạ, chẳng khác con ở là mấy.

Tất cả cũng chỉ tại cái lễ giáo cứng nhắc, bảo thủ một cách hài hước đã vùi dập làm cho cái đẹp đẽ trong tình cảm vợ chồng, cái yếu đuối, mong ước được chiều chuộng của người phụ nữ không có cơ hội ngóc đầu. Lời thơ của Cao Bá Quát cũng như tiếng thở dài và lòng ngưỡng mộ trước một thứ văn hóa xa lạ, nhưng tất cả những điều ông hằng quan sát từ vợ chồng người thiếu phụ nọ chỉ là cái cớ, cái bệ phóng cho hàng vạn những cảm xúc dồn nén từ đáy lòng bấy lâu. Chỉ một câu thơ cuối ta mới vỡ lẽ ra nhưng tâm tư kín đáo ấy của nhà thơ:

“Biết đâu nỗi khách biệt ly này!”

Hóa ra, nhà thơ đang nhìn cảnh vợ chồng họ tình cảm mà tự thấy xót xa cho thân phận xa quê, xa gia đình của mình đấy ư, qủa thật đắng cay trăm ngàn. Chính tình cảm lứa đôi ấm nồng, khiến người ta phải thổn thức ghen tị đến đỏ mắt đã khiến ông mường tượng về người vợ nơi quê nhà, nỗi khát khao về một gia đình hạnh phúc, chồng vợ thuận hòa, hai bên đỡ đần mà lại tình cảm như thế kia thì tốt biết mấy. Câu thơ cuối là lời than của sự thiếu vắng nơi đất khách, đồng thời cũng thể hiện cái bản tính phóng khoáng , vẻ đẹp thật nhân văn, mới mẻ nơi tâm hồn người thi sĩ.

Dành tặng bạn những mẫu văn 👉 Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ 👉 hay nhất

Phân Tích Dương Phụ Hành Ngắn Gọn

Cao Bá Quát, một nhà thơ nổi tiếng thời kỳ triều Nguyễn, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam. Thơ của ông không chỉ phản ánh lòng yêu nước và lòng nhân ái mà còn thể hiện sự sáng tạo và độc đáo trong cách viết. Bài thơ ‘Dương Phụ Hành’ là một minh chứng rõ ràng cho điều này.

Dương phụ hành là một tác phẩm được Cao Bá Quát viết khi ông đang phục vụ ở Inđônexia. Mặc dù là một hành trình đi phục vụ nhưng nó cũng là cơ hội để ông tiếp xúc với vẻ đẹp mới và tiếp thu những trải nghiệm mới. Trong bài thơ, ông miêu tả hình ảnh một người phụ nữ Tây phương duyên dáng và xinh đẹp trong áo trắng tinh khôi.

‘Thiếu phụ Tây Dương, mặc áo trắng tinh khôi,
Tựa vai chồng dưới ánh trăng vắng.’

Dường như với phần lớn người dân phương Đông, màu trắng pha không được xem là một màu sắc đẹp, mà thường mang theo một cảm giác tang thương, buồn bã. Ít ai dám mặc tự tin diện trang phục trắng ra ngoài, thường chỉ sử dụng như là lớp áo lót được che giấu bên trong, được che phủ bởi những mảnh trang phục khác màu.

Tuy nhiên, người phụ nữ phương Tây lại vượt ra khỏi những quan niệm đó khi mặc một bộ váy trắng pha. Đáng ngạc nhiên hơn, trang phục ấy càng làm tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế của người phụ nữ. Hơn nữa, cô ấy công khai tỏ ra hạnh phúc khi tựa vào vai chồng để ngắm nhìn ‘bóng trăng thâu’, một hình ảnh mà đối với ngày nay có thể coi là lãng mạn, nhưng trong mắt của những người đã trải qua thời kỳ lễ giáo xưa thì lại có một sức hút đặc biệt.

Tuy nhiên, với tầm nhìn và suy tư rộng lớn của mình, Cao Bá Quát lại cảm thấy hình ảnh ấy thật đẹp, thật duyên dáng và thật ngọt ngào, làm ông mơ ước rằng mình cũng có thể trải qua điều đó trong cuộc đời. Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên và hứng thú như khi phát hiện ra điều gì đó mới lạ và thú vị, ông tiếp tục nhìn những cử chỉ thân mật, âu yếm mà người phụ nữ dành cho chồng mình, một cách tự nhiên và ấm áp.

‘Nhìn thuyền Nam, đèn le lói,
Kéo áo rì rầm nói cùng nhau.’

Người phụ nữ kia thấy điều thú vị trên con thuyền, vì vậy cô nhẹ nhàng giật áo chồng để trò chuyện, chia sẻ, nhìn cô thật dễ thương và gần gũi. Hành động này đã đủ khiến người ta ngạc nhiên, nhưng nó vẫn chưa bằng ba câu sau đây:

‘Cốc sữa đưa tay lười biếng,
Trời đêm gió sương lạnh thay!
Uốn éo muốn chồng dỗ dành dậy,’

Vợ chồng dựa vào nhau, cùng trải qua gió đêm lạnh lẽo, họ có ý định quay về nhà. Cô vợ thể hiện sự yếu đuối của mình bằng cử chỉ ‘Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy’. Cái cử chỉ đó khiến người ta cảm thấy xao xuyến và đáng yêu đến lạ thường, đồng thời thấy lòng thương cho phụ nữ phương Đông, mà đôi khi không nghĩ tới việc được chồng quan tâm.

Lời thơ của Cao Bá Quát như hơi thở dài và lòng ngưỡng mộ trước một nền văn hóa xa lạ. Tất cả những điều ông nhìn thấy từ vợ chồng người thiếu phụ chỉ là lý do, là động lực cho hàng ngàn cảm xúc dồn nén từ bấy lâu. Chỉ một câu thơ cuối mới tiết lộ tâm tư sâu kín của nhà thơ:

‘Ai biết đâu nỗi xa lìa này!’

Nhà thơ nhìn thấy tình cảm ấm áp của vợ chồng và cảm thấy xót xa cho sự xa quê, xa nhà của mình. Tình cảm ấy khiến ông mường tượng về người vợ ở quê nhà, về một gia đình hạnh phúc, một mối quan hệ hòa thuận giữa chồng vợ, một tình cảm mà tốt biết mấy. Câu thơ cuối là lời than vãn của sự thiếu vắng nơi đất khách, đồng thời thể hiện cái tính cách phóng khoáng, cái vẻ đẹp nhân văn, mới lạ trong tâm hồn của nhà thơ.

Dương phụ hành là một tác phẩm nhân văn sâu sắc, phản ánh khát khao sâu thẳm trong con người, không kể đến màu da hay tôn giáo, mà là khao khát về một gia đình hạnh phúc, ấm áp. Bài thơ cũng thể hiện quan điểm về quyền của phụ nữ trong gia đình, họ có quyền được chăm sóc, được âu yếm và được yêu thương sau tất cả những gì họ đóng góp cho gia đình.

Đọc thêm cách 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ

Phân Tích Bài Thơ Dương Phụ Hành Lớp 11 Đặc Sắc

Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, một tên tuổi sáng chói của văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX. Ông nổi tiếng bởi nhân cách cứng cỏi, ngang tàng và văn tài sắc sảo, mới mẻ. Thơ ông có thể ví là cây đàn điệu hết sức phong phú về nội dung cảm hứng.

Đó là những tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, là sự đồng cảm sâu sắc với bao người khổ đau, bất hạnh, là niềm tự hào về quá khứ lịch sử của dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến đương thời.

Ở Bài hành về người, thiếu phụ phương Tây được sáng tác trong dịp Cao Bá Quát theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán ở Inđônêxia. Tiếng là được “dương trình hiệu lực” nhưng thực chất là điều đi phục dịch để “lấy công chuộc tội”.

Tuy thế “có cuộc hoạn du mới biết cá lớn nghìn dặm”, trên hải trình công cán, nhà thơ mới có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, với một nền văn minh xa lạ, từ đó mở rộng tầm mắt và tâm hồn. Đặc biệt, chuyến đi đã giúp tác giả phát hiện ra những nét mới đáng yêu của người đàn bà Tây phương và trong mắt Cao Bá Quát, người đàn bà Tây Phương hiện lên thật sinh động, hấp dẫn:

Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,

Cuộc đời nhiều thăng trầm và bôn ba đã rèn cho Cao Bá Quát năng lực quan sát nhạy bén, sắc sảo. Chỉ vài chi tiết cụ thể theo lối tả thực, nhà thơ đã khắc họa được một hình ảnh đầy ấn tượng. Đó là màu áo trắng – “ tuyết” của người thiếu phụ Tây dương. Người phương Đông vốn vẫn coi màu trắng là màu của tang tóc. Ở đây, tác giả kín đáo cảm nhận màu áo đó như một vẻ đẹp.

Tinh ý, ta có thể nhận thấy điều đó qua lối so sánh. Nhưng lạ hơn là hành vi của nàng “Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu”. Người đàn bà Phương Đông mẫu mực, hiền thục là ke lo phận sự “nàng không sửa túi” cho chồng và cũng chỉ quen với việc “cử án tề mi” đâu có dám “tựa vai chồng” để cùng ngồi ngắm trăng một cách vừa “thiếu ý tứ“ vừa “vô lè’” như vậy? ơ đây, thậm chí, còn ngồi ngay trước sự quan sát của tất cả mọi người.

Nhưng không thể phủ nhận đó là một cảnh rất đẹp. Màu trắng của áo, ánh sáng cua vầng trăng và cử chỉ tựa vai chồng thật trữ tình, lãng mạn. Chắc chắn, đăng sau những nét bút miêu tả đó là cái nhìn ngạc nhiên, thú vị. Thú vị hơn vẫn là những cử chỉ thân mật, tự nhiên của nàng:

Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo rầm rì nói với nhau

Nhưng tất cả những điều đó chưa gây ngạc nhiên bằng những hình ảnh tiếp theo sau này:

Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy.

Chỉ thấy ở người thiếu phụ ấy vẻ kiều mị, duyên dáng. Cả cái nghiêng mình nũng nịu đòi sự chăm sóc chiều chuộng của chồng vẫn thật dễ thương. Tất cả đều được quan sát bằng một đôi mắt thật tinh tế và một ngòi bút miêu tả thật khách quan. Sự đồng cảm, tán thưởng chỉ được bộc lộ một cách kín đáo. Chính vì vậy mà hình tượng người đàn bà Tây dương trong bài thơ mới mang những nét riêng đặc sắc.

Ngày nay, những lời nói, cử chỉ hồn nhiên kia đối với con người Việt Nam hiện đại là quá đỗi bình thường, thậm chí chẳng có mấy ý nghĩa đặc biệt. Nhưng với thời bấy giờ, khi mà xã hội phong kiến Việt Nam còn bó buộc trong những quan điểm bảo thủ, thiển cận trong những lối tự tôn lố bịch, mù quáng thì việc tán thưởng, đồng tình với một vẻ dẹp xa lạ như thế là hành vi nghệ thuật thể hiện một quan niệm mới mẻ, hiện đại.

Những mạch cảm xúc trữ tình của tác giả không dừng lại ở đó. Toàn bộ bức tranh đầy gợi cảm về hình ảnh người thiếu phụ Tây dương, về cặp vợ chồng người Phương Tây dù được miêu ta rất thực, rất sinh động vẫn có vẻ như đóng vai trò của những chi tiết nhằm dồn nén cảm xúc để đến dòng thơ cuối cùng, con người ôm nỗi thống khố rối bời và đặc biệt kín đáo ấy không thể kìm giữ được nữa, phải thốt lên lời tự than:

Biết đâu nỗi khách biệt li này!

Tưởng đâu là nỗi sầu xa xứ. Không phải, nỗi biệt li được gợi lên từ cảnh hạnh phúc, trìu mến của lứa đôi. Và ta có thể đoán được dòng chảy ngầm của tâm trạng tác giả: nỗi khát khao hạnh phúc gia đình, nỗi nhớ nhung tình chồng vợ. Sự giãi bày này lại cũng là một phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc trong tâm hồn người trí thức ngang tàng, phóng túng.

Tham khảo mẫu 👉 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ

Viết một bình luận