Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ (10+ Mẫu)

Thohay.vn giới thiệu những bài văn mẫu nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ nổi tiếng với các bài như: Mời trầu, Cảnh khuya,..

NỘI DUNG CHÍNH

Các Chủ Đề Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Lớp 8

Một số chủ đề thuyết trình về một tác phẩm thơ được Thohay.vn chia sẻ sau đây, mỗi chủ đề này có thể mở ra nhiều hướng tiếp cận và cung cấp cái nhìn sâu sắc về tác phẩm thơ mà bạn đang quan tâm đến.

  • Thuyết trình đánh giá về nội dung và nghệ thuật
    • Phân tích sâu sắc về cách tác giả diễn đạt ý nghĩa và thông điệp của tác phẩm thơ qua các phương tiện ngôn ngữ và hình ảnh.
    • Đánh giá về cấu trúc của tác phẩm thơ, bao gồm cách phân bố các đoạn, câu, và từ ngữ để tạo ra hiệu ứng nhất định.
  • Giá trị tác phẩm
    • Đánh giá về tầm quan trọng và giá trị của tác phẩm thơ trong văn hóa và văn học, cũng như ảnh hưởng của nó đến người đọc và các tác phẩm sau này.
    • Xem xét về cách mà tác phẩm thơ này thể hiện và phản ánh các giá trị văn hóa, xã hội và tinh thần của thời đại mà nó được viết.
  • Phong cách thơ
    • Phân tích cách tác giả sử dụng phong cách thơ cụ thể (ví dụ: thơ lục bát, thơ tự do, sonnet) để diễn đạt ý nghĩa và cảm xúc.
    • So sánh và đối chiếu các phong cách thơ khác nhau mà tác giả có thể sử dụng trong tác phẩm thơ này và cách mà chúng tạo ra hiệu ứng khác nhau.
  • Chủ đề và ý nghĩa thơ
    • Phân tích các chủ đề chính trong tác phẩm thơ và ý nghĩa sâu xa của chúng, bao gồm tình yêu, tự do, chính trị, hòa bình,…
    • Nghiên cứu về cách mà tác giả sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh để diễn đạt các chủ đề này và cách chúng tác động đến người đọc.

Hướng dẫn 👉 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học

Cách Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ

Hướng dẫn cho bạn cách nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ chi tiết nhất sau đây:

  • Xác định rõ vấn đề và thời gian người nói sẽ trình bày.
  • Tìm đọc trước bài thơ sẽ thuyết trình; tìm hiểu thêm thông tin về tác giả và một số ý kiến, bài viết xung quanh tác phẩm
  • Chuẩn bị các phương tiện để ghi chép và tóm tắt nội dung buổi thuyết trình như giấy, bút, sổ tay, máy tính cá nhân (nếu có).
  • Biết tóm tắt bài thuyết trình theo một trình tự ba phần: mở đầu, phát triển và kết thúc; ghi chép những chỗ cần lưu ý, ý kiến khác biệt, vấn đề còn chưa hiểu để đề nghị người nói giải thích, trình bày thêm hoặc tham gia ý kiến khi thảo luận.

Gợi ý 👉 Viết Bài Văn Giới Thiệu Một Cuốn Sách Yêu Thích

Dàn Ý Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ

Dưới đây là mẫu dàn ý để nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ, hãy cùng tham khảo để có thể triển khai bài văn của mình logic và đầy đủ ý nhất.

I. Mở bài: Giới thiệu được tác phẩm muốn thuyết trình.

II. Thân bài:

+ Xác định và trình bày được nội dung về tác giả và một số ý kiến về tác phẩm.

+ Lắng nghe đánh giá và phản hồi

III. Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đối với người nghe.

Soạn Bài Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Lớp 8 Cánh Diều

Xem ngay phần hướng dẫn soạn bài trang 51 SGK ngữ văn lớp 8 tập 2 dưới đây để giúp học sinh nắm được nội dung chính của bài và chuẩn bị bài tốt nhất trước khi đến lớp.

Đề tài (trang 51 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2)Chọn một trong hai đề bài sau:

(1) Nghe và tóm tắt nội dung bài thuyết trình về bối cảnh lịch sử, giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” (Trần Tế Xương).

(2) Nghe và tóm tắt nội dung của bài thuyết trình về một tập thơ tự chọn.

Đáp án:

Đề 1:

* Bối cảnh lịch sử: Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân lại tiếp tục bùng nổ dữ dội trong những năm cuối thế kỉ XIX.

* Giá trị nội dung:

– Vịnh khoa thi hương là bài thơ thuộc đề tài thi cử – một đề tài khá đậm nét trong sáng tác của Tú Xương. Qua việc tái hiện hình ảnh thảm hại của kì thi năm Đinh Dậu (1897) tại trường Hà Nam, nhà thơ bày tỏ sự xót xa, đau đớn của con người trước tình cảnh thảm hại của các nhà Nho vào thời kì mạt vận của Nho học.

– Một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu đã được tái hiện lại đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước

* Giá trị nghệ thuật:

– Nghệ thuật đối, đảo ngữ

– Ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm.

Đề 2:

Góc sân và khoảng trời là một tập thơ xuất sắc của Trần Đăng Khoa được xuất bản lần đầu tiên năm 1968. Thiên hướng văn chương của tác giả được bộc lộ sớm bởi khi đó nhà thơ chỉ mới 10 tuổi.

Đó là những vần thơ lưu lại ký ức, nhật ký của nhà thơ trong những năm tháng ấu thơ đầy hồn nhiên và vui tươi.

Trần Đăng Khoa bắt đầu sáng tác từ khi mới chỉ 8 tuổi. Thời điểm đó, ông đã đạt cho mình những thành tựu, với một số tác phẩm được in trên báo, một điều mà một đứa trẻ 8 tuổi khó có thể làm được. Đến năm 10 tuổi, ông đã cho xuất bản tập thơ đầu tiên của sự nghiệp, đánh dấu một thành công lớn trong con đường sự nghiệp của mình với nhan đề “Từ góc sân nhà em” vào năm 1968. Cùng thời điểm năm đó, ông đã cho ra mắt tập thơ thứ hai chính là “Góc sân và khoảng trời”. Tập thơ này đã được Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành.

Tập thơ bao gồm 52 bài thơ và sau này được bổ sung thêm lên 66 bài – bao gồm các bài thơ nổi tiếng đã được đăng báo của Trần Đăng Khoa. Tuyển tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của Trần Đăng Khoa chứa đựng nhiều tác phẩm thơ nổi bật, ý nghĩa, ngôn từ giữ được trọn vẹn sự trong sáng của trẻ thơ do ông sáng tác từ thời điểm 8 – 10 tuổi. Đó cũng là một điểm nhấn ấn tượng, với sự tưởng tượng đầy hình ảnh sống động, độc đáo của trẻ thơ đã tạo lên tập thơ tuyệt vời gây hứng thú không chỉ đối với những người trưởng thành mà còn tạo hứng thú cho cả các bé thiếu niên, nhi đồng.

Tập thơ là sự khắc họa độc đáo thế giới con người, vạn vật qua con mắt của một đứa trẻ, chính vì thế mà độc giả bao thế hệ không bao giờ có thể quên được những bài thơ. Tài năng tinh tế và sự liên tưởng phong phú của tác giả khiến cây cối, động vật, con người trong thơ ông trở nên gần gũi, thân thiện và giản dị. Những điều bình dị của miền quê như con bướm vàng, sân vườn, dòng sông Kinh Thầy, con chim, con gà, vườn cải, cây đa, con trâu, cây trầu đều được thể hiện rất đẹp trong các bài thơ.

Đặc biệt, nổi bật trong tập thơ là bài thơ “Hạt gạo làng ta” sáng tác vào năm 1968 là bài thơ nổi tiếng nhất của nhà thơ và được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ thành nhạc vào năm 1971. Bài hát nhanh chóng trở lên phổ biến và được đón nhận nồng nhiệt từ nhiều người ở nhiều lứa tuổi, đặc biệt được yêu thích bởi thiếu niên, nhi đồng.

Với tuổi thơ trong “Góc sân và Khoảng trời” của Trần Đăng Khoa, ông trăng cũng ngây thơ như trẻ con, cũng thích khoe khuôn mặt tròn, cũng nhoẻn miệng cười thích thú khi nhìn thấy chuối, thấy xôi; và thú vị nhất là cũng biết thập thò ngoài cửa khi rủ bạn đi chơi,… Những hình ảnh ngây thơ, câu thơ trong trẻo, sự tưởng tượng phong phú của một đứa trẻ đã tạo lên sự thành công vượt mong đợi cho tập thơ.

Bởi thế mọi thứ hiện lên thật sống động, nhiều màu sắc. Tuy đơn giản nhưng khiến người đọc cảm thấy thích thú. Các sự vật, hiện tượng được nhân cách hóa, ẩn dụ giúp phát triển trí tưởng tượng, sự sáng tạo trong các bé.

Tóm lại, “Góc sân và bầu trời” là một tập thơ xuất sắc lưu giữ những kỷ niệm những năm tháng tuổi thơ của tác giả. Đây là một cuốn sách phải đọc đối với những người yêu thích văn học và là một cách tuyệt vời để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ em.

Mời bạn tham khảo thêm 👉 Trình Bày Ý Kiến Về Một Vấn Đề Xã Hội Lớp 8

10+ Mẫu Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ

Sau đây là 10+ bài văn mẫu Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ chọn lọc hay nhất giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ – Cánh Diều

Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Và “Vịnh khoa thi hương” cũng là một tác phẩm như thế.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu kì thi Hương năm ấy:

“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”

Kì thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất thường của nó là, các thí sinh của trường Hà Nội cũng bị dồn về trường Nam Định để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp nham của khoa thi Hương năm ấy.

Và đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”

Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội.

Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi.

Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi. Thật là đáng buồn và đáng cười thay!

Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách hoành tráng:

“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”

Theo như lịch sử, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng toàn quyền Pháp và vợ chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong không khí trường thi căng thẳng, vậy mà quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy giờ – một xã hội mà thực dân nắm quyền và xã hội phong kiến chỉ làm bù nhìn.

Ở đây, Tú Xương dùng từ vô cùng đắt, gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại gọi vợ chúng là “mụ đầm”. “Mụ” là một từ để chỉ người đàn bà không ra gì, là cách gọi thô tục. Tú Xương “chửi” một cách vô cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó cũng vừa là nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.

Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Hai câu thơ vừa là lời tự vấn bản thân, cũng là tự vấn những người đồng cảnh ngộ. Có mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, mà cùng nhau đứng lên hành động? Có bao nhiêu người vẫn đang mù quáng tin vào nhà nước, tin vào chính quyền mà không chịu nhìn vào thực tế?

Thơ của Tú Xương, là sự kết hợp của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc tả lại kì thi Hương đã thoái hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị tù đày, đàn áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.

Xem thêm 👉 Giới Thiệu Về Một Cuốn Sách (Truyện) Lớp 8

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Mời Trầu Đặc Sắc

Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Ở giai đoạn lịch sử này, chế độ phong kiến suy tàn đã bộc lộ những hạn chế, bất công. Hồ Xuân Hương đã gửi gắm vào thơ những suy tư, trăn trở trước hiện thực của xã hội, trước thân phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ. Những tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của bà thời kì này không thể không kể đến bài thơ “Mời trầu”.

“Mời trầu” cũng như nhiều bài thơ khác của Hồ Xuân Hương thuộc thể tuyệt cú cổ điển. Đấy là một thể Đường luật thi, một thứ văn chương bác học. Nhưng đọc “Mời trầu” không ai có ý nghĩ đây là bài thơ Đường du nhập từ Trung Quốc vào qua những nhà trí thức Hán học. Có một cái gì thật là nôm na dân dã ở lời thơ hết sức bình dị và giọng điệu mộc mạc.

Hình ảnh miếng trầu đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao?. Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.

Trước hết hai câu thơ đầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Miếng trầu ấy có quả cau, có lá trầu. Hai thứ ấy đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu têm xanh ngắt cánh phượng mới đẹp làm sao. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp. Sự nhỏ bé ấy hay cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.

Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu có ngàn năm tuổi như thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm. Người sở hữu miếng trầu ấy chính là nhà thơ. Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quệt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm.

Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng miếng trầu ấy chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.

Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.

“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.

Hồ Xuân Hương đưa ra một câu hỏi vừa đưa ra một yêu cầu. “Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Từ “thắm” sử dụng rất đắt. “Duyên” theo quan niệm dân gian là sự ràng buộc lẫn nhau từ kiếp trước đến kiếp này, Hồ Xuân Hương muốn nói đến cái duyên ấy. Hai câu thơ đầu nói về chuyện ăn trầu, hai câu cuối chuyển sang chuyện duyên số, chuyện con người vậy mà ý thơ vẫn liền mạch, không gò bó chứng tỏ tài dùng ẩn dụ của nhà thơ đến mức tuyệt vời. Nhà thơ còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong câu kết làm cho ý thơ thật đặc sắc.

Bài thơ không chỉ đơn giản nói về duyên trầu mà Hồ Xuân Hương đã nói đến duyên phận của con người, của người phụ nữ thời phong kiến. Cái duyên ấy bấp bênh bạc bẽo như vôi. Như trong một số bài khác bà có nhắc nhiều đến duyên phận của người phụ nữ ‘thân em vừa trắng lại vừa tròn – bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước). Qua đó gợi lòng thương cảm tới những con người có niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi, một tình yêu son sắt thủy chung.

Với ngôn từ giản dị, giàu ý nghĩa, bài thơ “Mời trầu” như bao quát chuyện tình duyên lận đận của tác giả. Bà luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.

Đọc thêm 👉 Bài Thơ Mời Trầu 👉 của Hồ Xuân Hương

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Cảnh Khuya Hay Nhất

“Cảnh khuya” được Bác Hồ sáng tác khi còn ở chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). Bài thơ đã cho thấy tình yêu thiên nhiên, cũng như tấm lòng yêu nước sâu nặng của nhà thơ.

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

Trong bài “Côn Sơn ca”, Nguyễn Trãi cũng đã có hình ảnh so sánh độc đáo về tiếng suối:

“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”

Còn trong “Cảnh khuya”, Hồ Chí Minh đã so sánh “tiếng suối” với “tiếng hát xa”. Từ đó, âm thanh tiếng suối trở nên có tâm hồn. Âm thanh tiếng suối trong trẻo, vang vọng tựa như tiếng hát từ xa vọng lại. Cùng với tiếng suối, vẻ đẹp của thiên nhiên còn được khắc họa qua ánh trăng. Trăng vốn quen thuộc trong thơ của Bác. Mỗi bài thơ, ánh trăng đều được khắc họa độc đáo.

Câu thơ “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” gợi ra hai cách hiểu. Ánh sáng của vầng trăng chiếu xuống những bông hoa rừng tạo ra bóng hoa in xuống mặt đất. Hay ánh trăng sáng chiếu xuyên qua từng tán cây cổ thụ, phản chiếu xuống mặt đất tạo ra hình thù như những bông hoa. Mỗi cách hiểu đều có sự độc đáo riêng nhưng đều gợi ra vẻ đẹp đầy thơ mộng của thiên nhiên đêm trăng nơi chiến khu Việt Bắc.

Trong bức tranh thiên nhiên đó, con người đã xuất hiện với nỗi lòng suy tư:

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Nếu như trong thơ cổ, con người xuất hiện giữa thiên nhiên chỉ là một chấm buồn nhỏ bé:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

(Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan)

Thì trong thơ Bác, con người xuất hiện với tư cách là trung tâm trong bức tranh thiên nhiên đó. Nhân vật trữ tình trong “Cảnh khuya” hiện lên với trạng thái “chưa ngủ”. Có lẽ vì bức tranh thiên nhiên quá đỗi thơ mộng? Hay vì nỗi băn khoăn, lo lắng nào khác?

Câu thơ cuối cùng đã giải thích lí do – “vì lo nỗi nước nhà”. Bác một lòng lo cho nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Cụm từ “chưa ngủ” được điệp lại hai lần nhằm nhấn mạnh nỗi lo âu, trăn trở của Bác. Từ đó, hình ảnh Hồ Chí Minh hiện lên thật đẹp đẽ, vị đại – một con người luôn vì nước, vì dân.

“Cảnh khuya” miêu tả cảnh ánh trăng ở chiến khu Việt Bắc cũng như thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước của nhà thơ. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Hồ Chí Minh.

Cập nhật thêm 👉 Bài Thơ Cảnh Khuya 👉 của Hồ Chí Minh

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Vịnh Khoa Thi Hương Của Trần Tế Xương

Hôm nay, em xin được chia sẻ với cô giáo và các bạn về một bức tranh lịch sử và văn hóa của Việt Nam trong những năm 60 của thế kỉ XIX, thông qua bài thơ của Trần Tế Xương – “Vịnh khoa thi Hương”. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là một bức cổ điển thể hiện sự đau đớn và châm biếm của nhà thơ đối với thực tế xã hội thời kỳ đó.

Đầu tiên, chúng ta hãy nhìn vào bối cảnh lịch sử. Năm 60 của thế kỉ XIX, Việt Nam đang đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng, và cuộc khởi nghĩa của nông dân ngày càng bùng nổ. Trong “Vịnh khoa thi Hương” Trần Tế Xương đã tái hiện bức tranh thảm hại của kỳ thi năm Đinh Dậu (1897) tại trường Hà Nam. Nhà thơ không chỉ thể hiện sự xót xa trước tình cảnh thảm hại của các nhà Nho vào thời kì mạt vận của Nho học mà còn phản ánh hiện thực nhốn nháo và ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến.

Bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” đưa ta vào thế giới của đề tài thi cử, một đề tài mà Trần Tế Xương đã khéo léo tận dụng để phản ánh tình cảnh đau đớn của dân tộc và xã hội. Bức tranh về kỳ thi Hương với sĩ tử đeo lọ, quan trường ồn ào, và những nhân vật quan trọng như Long và Mụ đã được nhà thơ đặc sắc hóa thông qua nghệ thuật đối, đảo ngữ, và ngôn ngữ khẩu ngữ giàu sức biểu cảm.

Nghệ thuật đối, đảo ngữ, tạo nên những hình ảnh hài hước mà đầy ý nghĩa. Bằng cách mô tả sự hỗn loạn và tạp nham trong kỳ thi, nhà thơ đã làm cho độc giả cảm nhận được sự buồn cười nhưng đau lòng của thực tại xã hội. Ông còn sử dụng những từ ngữ như “lôi thôi,” “âm oẹ,” để tạo nên hình ảnh hỗn loạn và thảm hại của sĩ tử trong kỳ thi.

Qua những dòng thơ của “Vịnh khoa thi Hương” chúng ta không chỉ nhìn thấy sự phê phán và phản kháng đối với chế độ thi cử, mà còn đối mặt với một Trần Tế Xương hài hước và châm biếm trước bức tranh khốn khó của thời đại. Bài thơ này trở thành một tác phẩm đa chiều, mở cửa cho nhiều diễn đạt và nhận định khác nhau từ độc giả.

“Vịnh khoa thi Hương” không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc của Trần Tế Xương mà còn là một góc nhìn sâu sắc vào tâm hồn và tư duy của nhà thơ trong thời kỳ khó khăn. Bài thơ này là một tiếng hò reo, là lời kêu gọi tự do và công bằng, là tác phẩm nghệ thuật phản ánh tinh thần của một thời kỳ đau thương của đất nước Việt Nam.

Đón đọc thêm tác phẩm 👉 Vịnh Khoa Thi Hương

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Nổi Tiếng – Nam Quốc Sơn Hà

Chúng ta thường gọi “Nam Quốc Sơn Hà” là bài thơ “thần” không chỉ nêu cao tính độc lập chủ quyền lãnh thổ của dân tộc mà còn thể hiện tính thần lực, lòng tự tôn dân tộc của vị tướng tài ba Lí Thường Kiệt nói riêng và lớp lớp thế hệ người Việt nói chung. Cuộc chiến đấu chống quân Tống, từng câu chữ cất lên, trong không gian linh thiêng, vào khoảng thời gian vàng, lũ giặc đã khiếp sợ đến mất mật, hoảng loạn đến hỗn loạn, nghĩa khí của chúng cũng vì thế mà trượt dốc không phanh.

Mở đầu bài thơ không phải câu hỏi, không phải câu cảm thán mà là một lời khẳng định, một sự chắc nịch đến chặt chẽ về chủ quyền:

“Nam quốc sơn hà, nam đế cư”

Chúng ta đã và đang sống giữa một ranh giới nhất định. Điều này tuyệt nhiên không phải là bịa đặt mà được dẫn ra bởi luận chứng rất sắc sảo, thuyết phục:

“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

Tất cả đều quy củ, rõ ràng, được sách trời quy định. Điều này có nghĩa là chủ quyền của ta, lãnh thổ của ta không chỉ có ta mà còn có một bên thứ ba là trời, là đất chứng giám, xác nhận. Đây là sự thật hiển nhiên, là lí lẽ chặt chẽ đến tuyệt đối mà không ai có thể phản biện hay phủ nhận.

Những gì ở nước Nam bao gồm cỏ cây, hoa lá, động vật, con người… là thuộc sở hữu của người Nam và cả nước non này chắc chắn là của người Nam chứ không phải ai khác. Rõ ràng, lần đầu tiên ta thấy xuất hiện trong một tác phẩm văn chương mà tính độc lập, chủ quyền từ hình, từ chữ đã phát ra thành lời để sự khẳng định mạnh mẽ, quyết đoán và hào sảng như thế.

Không dừng lại ở chủ quyền dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ mà chúng ta – những người Nam còn nhất tâm, đồng lòng, chúng ta có vua Nam đứng đầu để vẽ đường mà lội, vẽ lối mà đi.

Đặc biệt hơn, nước non này đã từ lâu đời, một tay dân tộc ta gây dựng nhưng không vì thế ta vơ vét mà cho là của riêng mình bởi lẽ chủ quyền này là định phận, là sự an bài, sắp đặt từ “sách trời”. Đó là đấng linh thiêng, cao quý và vậy mà mọi chỉ dẫn đều trân quý, trân trọng đến vô cùng.

Như vậy qua hai câu thơ đầu, bằng ngôn từ đanh thép, giọng văn vừa hào hùng vừa tràn đầy niềm tự hào tác giả đã khẳng định rõ ràng ranh giới, chủ quyền lãnh thổ thuộc về nhân dân, quyền làm chủ dân tộc mình của nhân dân đồng thời tỉnh táo trong suy nghĩ để sắc sảo trong luận cứ với lí lẽ vừa cứng rắn, vừa thuyết phục để không thể lực nào có thể bóp méo hay phủ định sự thật.

Từ sự khẳng định chắc nịch, tác giả tiếp tục lên giọng cảnh cáo kẻ thù sẽ nhận kết cục thảm thương nếu vẫn chạy theo lối mòn, đi ngược lẽ đời khi xâm lăng lãnh thổ, để lại thương đau cho dân chúng Đại Việt:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”

Một khi lũ giặc bỏ ngoài sự răn đe, bất chấp quy định mang tính tất yếu ấy, cố tình phạm đến chủ quyền đại việt cũng là lúc đôi chân chúng bước vào lầm lỗi không chỉ với toàn thể người nam mà còn đắc tội, xúc phạm tới tôn nghiêm về luân lý, đạo trời. Chúng hành động ngông cuồng, chúng chọn cuộc chiến phi nghĩa cũng là chọn kết cục bi thảm của bản thân.

Ở đây, tác giả đanh thép khẳng định kết cục thảm hại, ê chề, nhục nhã, bi đát của kẻ cướp nước, dẫm đạp lên luật trời, coi thường đạo lý. Sức mạnh chính nghĩa, lòng tự tôn dân tộc sẽ là rào cản lớn nhất, là tấm áo giáp bền bỉ nhất để người Nam trừng phạt những kẻ xâm lăng.

Gửi đến bạn bài thơ 👉 Nam Quốc Sơn Hà

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Ấn Tượng – Mùa Xuân Chín

Không biết xuân đến như thế nào và thơ về xuân đẹp ra sao, chỉ biết con người sinh ra với một mùa xuân tươi đẹp tràn đầy nhựa sống và hơi thở trong hồn thơ, sống trong đời, nếu không có thơ xuân thì mùa xuân mất đi ý nghĩa với con người.

Mùa xuân có vẻ đẹp riêng, có khi là “mùa xuân nho nhỏ”, có khi là “mùa xuân xanh”… và ở đây là bài thơ “Mùa xuân chín” tiềng “chín” nghe mới mẻ, rạo rực, có sức sống dồn nén đang âm thầm trào dâng, nghe nỗi khát khao trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Mỗi dòng thơ đều hơi đàn hồi, thấm đượm vẻ đẹp tâm hồn thi nhân.

Mùa xuân bắt đầu với một mặt trời mới lạ thường:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang

Mở đầu bài thơ, nắng xuân không phải là tia nắng, tia nắng, cũng không phải là giọt nắng, mà là “mặt trời”. Từ “cách” như gợi lên một hơi thở nhè nhẹ, nắng mỏng mềm trải đều trong thơ và trong không gian. Mặt trời lại “sáng bừng” trong “khói mơ”, cảnh vật dịu dàng, đẹp đẽ và huyền ảo. Sương khói lẫn trong nắng; “ánh sáng” của mặt trời được tôn lên trong làn khói mơ màng mà “tan biến”.

Ở đoạn thơ này, ngòi bút của nhà thơ đã chuyển sang thể thơ truyền thống, cổ điển miêu tả nắng xuân vừa chuyển động vừa tràn đầy yêu thương. Khung cảnh rất bình dị, chỉ là những “mái nhà tranh” hiện ra dưới “cái nắng chan hòa” nhưng vẫn gợi lên một sức sống yên bình, mộc mạc rất quen thuộc với mọi người. Nắng như rắc lên những “mái nhà tranh” một chút sắc xuân và hương thơm: “Gió xào xạc trêu tà áo xanh”.

Tiếng gió “rung rinh” tà áo và màu “xanh” của lá là tình yêu của mùa xuân. Một từ “trêu” thật dễ thương, thật thân thương, như một chút gì đó mang hương vị đồng quê của những câu ca dao, câu hò xưa cứ văng vẳng trong lòng ta mãi. Gió cũng biết kén chọn, không phải áo nào cũng “trêu ngươi” mà phải chọn áo xanh mới cũng nên thơ và đẹp.

Tác giả miêu tả nắng, mái tranh, gió, rồi khái quát: “Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”. Câu thơ có sự ngưng đọng, ngưng đọng của những cảm xúc ngọt ngào, lưu luyến nhưng lại mang một nỗi xao xuyến nao nao như đón “Bóng xuân sang”. Mùa xuân bước đi nhẹ nhàng như có thể cầm, có thể thấy ngay trước mặt mỗi chúng ta. Mùa xuân hiện lên trong mắt Hàn Mặc Tử sao mà dịu ngọt đến thế! Sau sự cô đọng và rung rinh như một sợi dây căng ra trong tâm hồn thi nhân, ở những câu thơ sau, mùa xuân lại về:

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi.
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi

Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba từ “gợn tới trời,” gợi lên những ngọn cỏ xanh mướt đung đưa trong gió xuân nhè nhẹ. Cỏ như xanh mãi, luôn tươi trong không gian rộng lớn này. Gam màu “xanh” tràn đầy sức sống thanh bình trong thơ Hàn Mặc Tử cứ tiếp tục “gợn sóng tận trời”, nó trải dài miên man như thể vô tận, trải dài mãi, trải dài mãi, trải dài mãi rồi hòa mình vào hồn thơ.

“Mùa xuân xanh” là hình ảnh ẩn dụ về những cô thôn nữ hát và “thì thầm gọi ai ngồi dưới lũy tre” lúa chín cùng mùa xuân và “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Những cô gái trong làng dần lớn lên, dần “trưởng thành” và đến tuổi lấy chồng, theo chồng. Thiên nhiên và lòng người lưu luyến mùa xuân đã qua, mùa xuân hồn nhiên đang dần qua. Hàn Mặc Tử bỗng như chạnh lòng, hụt hẫng, buồn như đánh mất một điều gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… Mùa xuân chỉ thực sự “chín” khi có người và tiếng hát vang vọng. :

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây

Khúc hát giữa mùa xuân sao quen thuộc, đằm thắm quá. Tiếng hát “rớt mướt”, “ngây thơ” của những cô thôn nữ mùa xuân là một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, như hội xuân muôn thuở của xứ này. Câu thơ gợi lên sự “trưởng thành” trong tâm hồn của bao cô gái làng quê qua tiếng “vắt”, âm hưởng trong trẻo, tươi tắn của câu hát giao duyên trai gái quê mộc mạc mà trìu mến.

Cảm và yêu say đắm cuộc đời thi sĩ Hàn Mặc Tử, ông cũng vô cùng xúc động trước bài hát này. Hai câu thơ vừa tả cảnh vừa tả người, mùa xuân vạn vật đâm chồi nảy lộc, xanh tươi thì đến con người. Âm thanh đọng lại trong từng âm tiết, âm rung, tiếng “ca” hòa với tiếng “thở” trầm, thể hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế và tài tình. Tâm hồn thi nhân như hòa nhập hoàn toàn vào vũ trụ âm thanh mùa xuân này.

Tiếng hát như vút cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa “lưng chừng núi”. Âm vang của câu hát như rung lên “Thầm thĩ” gợi bao cảm xúc rộn ràng trong lòng nhà thơ. Từ “hổn hển” được so sánh “như lời nước mây”, lời của thiên nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như những hơi thở gấp gáp, gấp gáp đầy hương xuân, tình xuân và những cảm xúc mộng mơ chân thực đến lạ lùng.

Lời cô thôn nữ thật đẹp, như hút hồn người, lấp đầy cả khoảng trống, góp phần tạo nên một “mùa xuân chín”. “vắt vẻo”, “Hổn hển”, “Thầm thĩ” là ba thanh điệu của ba âm thanh chín mọng của mùa xuân, thấm sâu vào tâm hồn con người để lắng đọng lại một cách nhẹ nhàng, chan chứa yêu thương. Sự đa âm của những khúc hát đồng quê làm say đắm lòng người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: “Nghe ra ý vị và thơ ngây”.

Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:

Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

Hình ảnh kỉ niệm là nhân chứng cho một nỗi buồn đẹp và lan tỏa rộng rãi. Nhà thơ nhớ người như nhớ một tình người, một tình quê; Kỷ niệm nào cũng thật buồn, bồng bềnh. Nhà thơ nhớ từng chi tiết, nhớ từng công việc cụ thể: “gánh gạo” trong một không gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chan”.

Nhưng chỉ có “cô ấy” là người đọc không thể biết đó là ai, chỉ có tác giả biết “nhớ” mà thầm hỏi, mà lo sợ “mùa xuân chín” sẽ qua. Dường như với thơ Hàn Mặc Tử, tâm hồn Hàn Mặc Tử luôn khao khát được giao tiếp với cuộc đời, luôn có một cảm giác cô đơn, trống trải và thất vọng như vậy.

Mùa xuân chín là một bài thơ xuân rất hay, là hình ảnh của mùa xuân vừa qua rực rỡ, rực rỡ, nồng nàn, nên thơ nhưng có chút buồn. Hàn Mặc Tử với cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa kết hợp với chất mộc mạc, tươi trẻ, bình dị đã hé lộ một hình ảnh mùa xuân tươi mới, thơ mộng.

Thanh xuân thật đẹp với những con người trẻ trung, hồn nhiên và đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu quê, yêu nắng to, yêu mái tranh, yêu khung bầu trời, yêu tiếng hát của những cô gái xuân thì trên “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,”.

Xem thêm 👉 Mùa Xuân Chín 👉 của Hàn Mặc Tử

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Siêu Hay – Đêm Nay Bác Không Ngủ

Minh Huệ được biết đến là một trong số những nhà thơ hiện đại Việt Nam. Trong những năm tháng cầm bút của mình ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị như: Dòng máu Việt Hoa (1954); Tiếng hát quê hương (1959); Rừng xưa rừng nay (bút ký, 1962); Đất chiến hào (1970) … “Đêm nay Bác không ngủ” là một trong số những bài thơ nổi tiếng và làm nên tên tuổi của ông.

Bài thơ dựa trên sự kiện trong chiến dịch Biên giới cuối năm 1950, Bác Hồ trực tiếp ra mặt trận theo dõi và chỉ huy cuộc chiến đấu của bộ đội và nhân dân ta. Bài thơ đã thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc của Bác Hồ với nhân dân và bộ đội Việt Nam và tình cảm khâm phục, kính yêu của người chiến sĩ đối với vị lãnh tụ của dân tộc.

Trước hết, tác phẩm đã thể hiện vẻ đẹp của Bác qua tấm lòng yêu thương, sự chăm sóc mà Bác dành cho bộ đội, dành cho nhân dân. Ngay mở đầu bài thơ dáng vẻ giản dị ấy đã hiện ra:

“Lặng yên bên bếp lửa
Vẻ mặt Bác trầm ngâm”

Hai câu thơ vẽ ra hình ảnh bình yên hoà mình vào nhịp sống chung của những người chiến sĩ, của khổ cực, giá rét của vị lãnh tụ kính yêu. Nhưng khi đặt bài thơ vào hoàn cảnh bấy giờ của đất nước, dường như trong cái “lặng yên”, “trầm ngâm” đó còn ẩn chứa sự lo lắng về tương lai, vận mệnh của đất nước.

Chúng ta vẫn thường hay gọi Bác là vị cha già của dân tộc và Minh Huệ đã thể hiện rất rõ điều đó qua những câu thơ:

“Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
Rồi Bác đi dém chăn
Từng người từng người một
Sợ cháu mình giật thột.
Bác nhón chân nhẹ nhàng…”

Đêm khuya trong rừng lạnh và buốt, Bác không muốn các cháu của mình bị cảm nên đã cẩn trọng đắp lại chăn cho từng người. Lời thơ như lời kể chuyện vẽ ra trước mắt chúng ta hình ảnh một vị lãnh tụ âm thầm, quan tâm chăm sóc cho từng người. Chỉ bằng vài hành động nhỏ, vài cử chỉ quan tâm ta đã thấy được tình yêu thương mà Bác dành cho những người lính thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao.

Hình ảnh của Bác càng trở nên đẹp hơn qua cuộc đối thoại với anh bộ đội. Trước thái độ quan tâm của anh đội viên Bác tâm sự đầy chân thành và xúc động: “Bác thức thì mặc bác/ Bác ngủ không yên lòng/ Bác thương đoàn dân công… Càng thương càng nóng ruột/ Mong trời sáng mau mau”.

Làm sao chúng ta có thể không xúc động trước sự quan tâm, nỗi lo mà Bác dành cho dân tộc, cho đất nước? Bác thương lắm, thương vô cùng những người chiến sĩ thiếu thốn đủ thứ, chỉ có lá cây thay chiếu để nằm, manh áo dùng làm chăn trong những ngày buốt giá.

Tấm lòng, tình yêu thương của Bác đã gợi nên sự xúc động mạnh mẽ trong trái tim người chiến sĩ: “Đêm nay Bác ngồi đó/ Đêm nay Bác không ngủ/ Vì một lẽ thường tình/ Bác là Hồ Chí Minh”. Hai câu thơ cuối đã nói lên trọn vẹn tấm lòng bao la, tình yêu thương tha thiết mà cả cuộc đời này Bác dành cho dân tộc, cho đất nước.

Từng câu, từng chữ lướt qua trong đầu ta, lắng đọng lại trong đó là cả một nhân cách lớn, một tình cảm lớn. Vẻ đẹp của Bác chính là sự hòa quyện giữa cái phi thường và cái bình thường, giữa cái giản dị thanh cao với một nhân cách lớn.

Không chỉ vậy, vẻ đẹp của Bác còn được thể hiện ở tình cảm, tấm lòng biết ơn, cảm phục của anh đội viên dành cho Bác. Đây là nhân vật chứng kiến toàn bộ hành động của Bác và cũng là người tham gia vào câu chuyện.

Đầu tiên đó là cảm xúc băn khoăn, ngạc nhiên khi thấy trời đã khuya mà sao Bác vẫn còn thức. Nhưng chính anh đã tự giải đáp cho mình thắc mắc đó: “Đêm nay Bác không ngủ”, không phải là Bác chưa ngủ mà là Bác không ngủ. Không ngủ để lo việc nước, việc dân. Hiểu được tấm long Bác nên chúng ta mới bắt gặp hình ảnh: “Anh đội viên nhìn Bác/ Càng nhìn lại càng thương”. Sự quan tâm của anh đội viên đã được cất lên thành câu hỏi quan tâm ân cần:

“Bác ơi! Bác chưa ngủ?
Bác có lạnh lắm không?”

Qua hình ảnh anh đội viên cùng những suy nghĩ, tình cảm của anh về Bác, Minh Huệ đã khéo léo thể hiện được tình cảm, sự biết ơn của mình dành cho Người.

Thể thơ năm chữ được tác giả kết hợp khéo léo với các phương thức biểu đạt như tự sự, miêu tả, biểu cảm khiến cho hình ảnh Bác không chỉ hiện lên qua câu chuyện mà anh đội viên chứng kiến mà còn thể hiện được tình cảm của mình dành cho Bác.

Có thể nói bài thơ được viết bằng những tình cảm chân thành cùng cách viết giống như một câu chuyện đã khiến tác phẩm sống mãi trong lòng độc giả cùng với những tình cảm yêu mến, biết ơn dành cho Bác.

Đón đọc thêm bài 👉 Đêm Nay Bác Không Ngủ

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Chọn Lọc – Thu Điếu

Bài thơ Thu điếu thuộc chùm thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Qua bài thơ, người đọc thấy được một bức tranh thu của nơi làng quê Bắc bộ.

Tác giả đã sử dụng điểm nhìn một cách linh hoạt từ gần đến xa, từ xa đến gần để khắc họa bức tranh thu. Bức tranh hiện ra với không gian khá hẹp trong một chiếc ao nhỏ bé với một chiếc thuyền câu nhẹ tênh. Mùa thu trong tâm hồn nhà thơ với hình ảnh “ao thu lạnh lẽo” với làn nước “trong veo” giống như một chiếc gương khổng lồ có thể phản chiếu mọi cảnh vật. Chiếc thuyền câu ở đấy rồi nhưng vẫn chưa thấy con người xuất hiện:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Đến hai câu thơ tiếp theo, khung cảnh làng quê lúc này đã không còn tĩnh lặng nữa mà đã bắt đầu có chút âm thanh:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Sóng nhỏ vì ao vốn nhỏ, bởi vậy mới có “theo làn hơi gợn tí”. Kế tiếp là hình ảnh “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” – chỉ một động từ “vèo” thôi nhưng đã gợi ra một chuyển động thật tinh tế của chiếc lá.

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Tác giả mở rộng không gian lên tận trời xanh với hình ảnh những đám mây lơ lửng giữa trời. Dường như với hình ảnh này, bức tranh thu trở nên thật lãng mạn và trữ tình. Không gian mở rộng là thế, bỗng chốc lại trở về với cận cảnh. Hình ảnh “ngõ trúc quanh co” chính là con đường làng quen thuộc với bóng tre đã đứng đó từ bao đời. Trời thu lạnh lẽo khiến cho đường làng trở nên vắng vẻ hơn. Vần “eo” (veo – teo – vèo) thật độc đáo, góp phần khắc họa bức tranh mùa thu.

Bài thơ được kết thúc bởi hình ảnh của nhân vật trữ tình:

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Con người đã xuất hiện trong bức tranh thu. Nhân vật trữ tình trong bài thơ đang câu cá mà dường như chẳng hề chú tâm đến công việc của mình “tựa gối buông cần”.

Có lẽ vì đang chìm đắm trong dòng suy nghĩ miên man của bản thân để rồi chỉ một âm thanh nhỏ bé của cá đớp động dưới chân bèo lại làm nhà thơ giật mình sực tỉnh. Hai câu cuối đã khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình – hay cũng chính là nhà thơ trong một tâm thế nhàn nhã trước bức tranh thu nơi quê hương. Từ đó, bài thơ cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu sắc, cùng với nỗi lo lắng cho cảnh ngộ đất nước ngay cả khi đã cáo quan về ở ẩn.

Qua bài thơ “Câu cá mùa thu”, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp của mùa thu thật đặc trưng của vùng quê đồng bằng Bắc bộ, cũng như nỗi niềm tâm trạng của tác giả.

Chia sẻ cho bạn bài 👉Câu Cá Mùa Thu [Thu Điếu]

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Ngắn Gọn – Nhớ Đồng

Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.

“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực…” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.

Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con ngư­ời, mùi hư­ơng, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.

Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”, “hiền như đất”, “rất thật thà”:

Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?

Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phẩm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.

Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi”. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.

Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan.

Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên. Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời

Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.

Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng”. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.

Cùng tìm hiểu nội dung bài 🍀 Nhớ Đồng 🍀 của Tố Hữu

Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu – Qua Đèo Ngang

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà.

Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom – tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác – chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang.

Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo:

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng.

Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”

Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ – chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn – khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ.

Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.

Chia sẽ bạn bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan 👉 Qua Đèo Ngang

Viết một bình luận