Văn Tế Trương Định ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Ý Nghĩa ✅ Tuyển Tập Những Bài Văn Điếu Để Tưởng Nhớ, Tỏ Lòng Kính Trọng Đối Với Võ Tướng Trương Định Hay Nhất.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Văn Tế Trương Định
Văn tế Trương Định
Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu
Hỡi ơi!
Giặc cỏ bò lan;
Tướng-quân mắc hại.
Ngọn khói Tây-bang đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn-lâm;
Bóng sao Võ-khúc về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh-trại.
Nhớ tướng quân xưa:
Gặp thuở bình cư;
Làm người chí đại.
Từ thuở ở hàng viên lữ, pháp-binh trăm trận đã làu;
Đến khi ra quản đồn-điền, võ-nghệ mấy ban cũng trải.
Lối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên;
Lúc cuộc tan, về huyện Tân-hòa, đắp lũy đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái.
Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng-hòa những tưởng rằng xong;
Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần-tử há đâu dám cãi.
Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên-tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền;
Theo bụng dân phải chịu tướng-quân-phù, gánh-vác một vai khổn ngoại.
Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa, sĩ-phu lắm kẻ xui theo;
Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật-lệnh mấy ai dám trái.
Văn thì nhờ tham-biện, thương-biện, giúp các cơ bàn-bạc nhung-công;
Võ thì dùng tổng-binh, đốc-binh, coi các đạo sửa-sang khí-giái.
Khá thương ôi!
Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ-ràng;
An bạc mưu binh, nào từng trễ-nải.
Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố, chói sắc giữa trào;
Ai muốn đem gươm báu Can-tương chôn hơi ngoài ải.
Há chẳng thấy:
Sức giặc Lang-sa;
Nhiều phương quỷ-quái.
Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang;
Kéo trên bờ ma-ní, ma-tà, đạn bắn như mưa vãi.
Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân;
Huống chi cô lũy ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải.
Nhưng vậy mà:
Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam;
Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại.
Rạch-lá, Gò-công mấy trận, người thấy đã kinh;
Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi.
Nào nhọc sức họ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên;
Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giao thương đạo tải.
Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng lũy sắt các nơi;
Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.
Ôi!
Chí dốc đem về non nước cũ, ghe phen hoạn-nạn, cây thương phá lỗ chưa lìa;
Nào hay trở lại cảnh quê xưa, nhắm mắt lâm chung, tấm bảng phong thần vội quải.
Chạnh lòng tướng-sĩ, thương quan-tướng, nhắc quan-tướng, chiu-chít như gà;
Bậc trí, nhân dân, giận thằng tà, mắng thằng tà, om sòm như nhái.
Ôi!
Sự thế hỡi bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư?
Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng-soái.
Nào phải kẻ tán sư đầu giặc, mà để nhục miễu-đường;
Nào phải người kiểu chiếu đánh phiên, mà gây thù biên tái.
Hoặc là chuộng một lời hòa-nghị, giận Nam-phiên phải bắt Nhạc Phi về;
Hoặc là do trăm họ hoành la, hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.
Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang-san ba tỉnh luống thêm buồn;
Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.
Còn chi nữa! cõi cô-thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi, may rủi một trường không;
Thôi đã đành! bóng tà-dương gấm-ghé kẻ day đòng, quày gót lại, hơn thua trăm trận bãi.
Ôi!
Làm ra cớ ấy, tạo-hóa ghét nhau chi?
Nhắc tới đoạn nào, anh-hùng rơi lụy mãi.
Cuộc trung-nghĩa hai năm làm đại-tướng, nhọc-nhằn vì nước, nào hờn tiếng thị tiếng phi;
Cõi Yên-hà một chức chịu lãnh-binh, lây-lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại!.
Khóc là khóc nước nhà cơn bấn-loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc-nôi;
Than là than bờ-cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ-ngẩn một phương tớ dại.
Tướng-quân còn đó, các nơi đạo-tặc thảy kiêng dè;
Tướng-quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.
Nào đã đặng mấy hồi nơi thích-lý, màn hùm che mặt rằng xuê;
Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.
Ôi!
Trời Bến-nghé mây mưa sùi-sụt, thương đấng anh-hùng gặp lúc gian-truân;
Đất Gò-công cây cỏ ủ-ê, cám niềm thần-tử hết lòng trung-ái.
Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây;
Nay thác theo thần, nên dâng hộ một câu phúc thái.
Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Ý Nghĩa Bài Văn Tế Trương Định
Bài văn tế được viết để tưởng nhớ Trương Định, một anh hùng dân tộc đã dẫn đầu cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Gia Định từ năm 1859 đến năm 1864. Bài văn tế thể hiện sự kính trọng và biết ơn của Nguyễn Đình Chiểu đối với Trương Định, cũng như sự đau đớn và ái ngại trước sự hy sinh của ông trong cuộc kháng chiến.
Những Bài Thơ Điếu Trương Định Của Nguyễn Đình Chiểu Hay
Chia sẽ những bài thơ điếu Trương Định của Nguyễn Đình Chiểu hay nhất.
☛ Điếu Trương Định Bài I
Trong Nam tên nổi như cồn,
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn.
Dấu đạn bay rêm tàu bạch quỷ,
Hơi gươm thêm rạng thể hoàng môn.
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ,
Cái ấn Bình Tây đất vội chôn.
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt lụy,
Lâm tâm ba chữ điếu linh hồn.
☛ Điếu Trương Định Bài II
Linh-hồn nay đã tách theo thần
Sáu tỉnh còn roi dấu tướng-quân.
Mực sở lãnh-binh lờ mắt giặc
Son bằng ứng nghĩa thắm lòng dân.
Giúp đời dốc trọn ơn nam-tử
Ngay chúa nào lo tiếng nghịch-thần
Ốc ngỡ tướng tinh rày trổ mặt,
Giúp xong nhà nước buổi gian-truân
☛ Điếu Trương Định Bài III
Gian-truân kể xiết mấy nhiêu lần,
Vì nước đành trao một tấm thân.
Nghe chốn Lý-nhân người sảng sốt
Nhìn cồn Đa-phước kiểng bâng-khuâng.
Bát cơm Kê-lữ chi sờn buổi,
Mảnh áo Mông-nhung chẳng nệ phần.
Chí dốc ra tay nâng vạc ngã,
Trước sau cho trọn chữ quân-thần.
☛ Điếu Trương Định Bài IV
Quân-thần còn gánh nặng hai vai,
Lỡ dở công-trình hệ bởi ai?
Trăm đám mộ binh vầy lớn nhỏ,
Một gò cô-lũy chống hôm mai.
Lương-tiền nhà ruộng ba mùa trước,
Thuốc đạn ghe buôn bốn bể ngoài.
May rủi phải chăng trời cũng biết,
Một tay chống-chỏi mấy năm dài.
☛ Điếu Trương Định Bài V
Năm dài những mảng ngóng tin vua,
Nín nhục thầm toan lẽ được thua.
U kế năm hàng còn chỗ đoái,
Ngô Tôn trăm chước đợi ngày đua.
Bày lòng thần-tử vài lời sớ,
Giữ mối giang-san mấy điệu bùa.
Phải đặng tuổi trời cho mượn số
Cuộc nầy ngay-vạy có phân-bua.
☛ Điếu Trương Định Bài VI
Phân-bua trời đất biết cho lòng,
Công-việc đâu đâu cũng muốn xong.
Cám nỗi nhà nghiên lăm chống cột,
Nài bao bóng xế luống day đòng.
Đồng-nai, chợ Mỹ lo nhiều phía,
Bến-nghé, Sài-gòn kể mấy đông.
Dẫu biết dùng binh nhờ đất hiểm,
Chẳng đành xa bỏ cõi Gò-công.
☛ Điếu Trương Định Bài VII
Gò Công binh giáp ngó chàng ràng.
Đoái Bắc trông Nam luống thở than.
Trên trại đồn điền hoa khóc chủ,
Dưới vàm Bao Ngược sóng kêu quan.
Mây giăng Truông Cốc đường quân vắng,
Trăng xế Gò Rùa tiếng đẩu tan.
Mấy dặm non sông đều xững vững,
Nạn dân ách nước để ai toan?
Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Văn Tế Cá Sấu ❤️ Nội Dung Bài Văn, Ý Nghĩa