Ai Ở Xa Về (Nội Dung, Đọc Hiểu, Cảm Nhận, Phân Tích)

Thohay.vn chia sẻ cho bạn nội dung và những mẫu cảm nhận, phân tích của nhân vật Mị trong đoạn trích Ai ở xa về tại bài viết sau đây.

Giới Thiệu Đoạn Trích Ai Ở Xa Về

Bài viết dưới đây Thohay.vn sẽ giới thiệu đoạn trích Ai ở xa về cho những bạn nào đang cần nhé.

Đoạn văn được mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Cách giới thiệu của nhà văn đã tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri. Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”.

Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Để cứu mạng cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.

Cuộc sống làm dâu của Mị là cuộc sống của một kiếp súc nô. Bề ngoài là con dâu vì Mị là vợ A Sử, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ, bắt nợ để bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lý Pá Tra nhưng chưa trả được. Ở nhà thống lí, Mị bị bóc lột đến tận cùng sức lao động.

Tô Hoài đã bằng nghệ thuật liệt kê diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.

Không chỉ bị bóc lột về thể xác, nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.

Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ.Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn.

Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.

Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên.

Nhà văn Tô Hoài đã phân tích nhân vật Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.

Qua đoạn trích tác giả bày tỏ sự đồng cảm với nỗi khổ đau mà con người phải gánh chịu, đồng cảm với thân phận làm dâu gạt nợ của Mị khi nhớ lại bị A Sử chà đạp, với nỗi đau của A Phủ khi bị trói vào cây cọc để thế mạng con hổ.

Nhà văn phát hiện ra tinh thần phản kháng của con người bị áp bức: Từ vô cảm, Mị đã đồng cảm với người đồng cảnh ngộ.

Tấm lòng nhà văn dành cho đồng bào miền núi sâu nặng, đó cũng chính là tấm lòng nhân đạo của người nghệ sĩ dành cho đất và người Tây Bắc.

Tổng hợp 💕 100 Bài Thơ Hay Nhất Thế Kỷ 20 💕 Chùm Thơ Hay Nhất Mọi Thời Đại

Nội Dung Đoạn Trích Ai Ở Xa Về … Đến Bao Giờ Chết Thì Thôi

Thohay.vn chia sẻ cho bạn nội dung đoạn trích Ai ở xa về … đến bao giờ chết thì thôi tại bài viết sau đây. Bạn xem thêm nhé.

Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.

[…] Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.

Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp,và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước thành sợi.

Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.

Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.

Gửi đến bạn ❤️️ Thơ Tố Hữu ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Đọc Hiểu Đoạn Trích Ai Ở Xa Về, Có Việc Vào Nhà Thống Lí Pá Tra

Chia sẻ cho bạn đọc đọc hiểu đoạn trích Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra mà chúng tôi cập nhật sau đây.

👉 Câu 1: Đoạn trích trên thuộc tác phẩm nào? Hãy nêu hoàn cảnh sáng tác tác phẩm đó.

Đáp án:

Đoạn trích trên được trích trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

Hoàn cảnh sáng tác: là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Tô Hoài thu hoạc được sau chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài suốt 8 tháng, thuộc tập truyện tên “Truyện Tây Bắc”, là nỗi nhớ niềm thương, bồi hồi xúc động, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho mảnh đất con người Tây Bắc đau thương mà anh dũng, đẫm nước mắt tủi hờn mà vời vợi chất thơ

👉 Câu 2: Cách giới thiệu nhân vật Mị của tác giả có điểm gì đáng chú ý.

Đáp án:

Mở đầu, Tô Hoài đã phác họa chân dung Mị bằng những giọng văn đượm buồn khi Mị làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Lời văn vừa cụ thể, vừa gợi cảm rất ám ảnh.

=> Mị được giới thiệu từ đầu tác phẩm với một chân dung ấn tượng, khơi dậy sự hứng thú, khám phá nơi người đọc.

👉 Câu 3: Câu nói “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp gì ở Mị

Đáp án:

Câu nói chất chứa tinh thần phản kháng, quyết liệt, niềm khát khao tự do của Mị. Mị thà chấp nhận làm nương, làm rẫy cực nhọc để được tự do còn hơn làm dâu con nhà giàu mà phải buộc mình vào kiếp nô lệ

👉 Câu 4: Vì sao Mị phải làm dâu cho nhà thống lí Pá Tra? Câu chuyện đau buồn của Mị nói lên điều gì trong thân phận của những người dân nghèo miền núi?

Đáp án:

 Lí do: Mị phải làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra bởi món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ để lại.

– Câu chuyện của Mị nói lên cuộc sống tối tăm, cùng cực của những con người lao động vùng Tây Bắc. Từ một chi tiết của cuộc sống thường nhật, Tô Hoài dã khát quát bức tranh rộng lớn của Tây Bắc với những gam màu đen tối, đau thương. Ở nơi đó, lũ chúa đất, thực dân luôn đè đầu cưỡi cổ, đọa đày cả thể xác và tinh thần của những người lao động nghèo. Dưới ách áp bức tầng tầng lớp lớp đó, những người nghèo chỉ biết cúi đầu cam chịu nhẫn nhục thân phận đau đớn.

Tổng hợp cho bạn những bài 👉 Thơ Trào Phúng Của Tú Xương 

Dàn Ý Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Qua Đoạn Trích Ai Ở Xa Về

Bạn chưa biết cách lập dàn ý cảm nhận về nhân vật Mị qua đoạn trích Ai ở xa về như thế nào thì hãy xem ngay bài viết sau đây để biết rõ hơn nào.

A. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm

– Khái quát nội dung đoạn trích: đây là đoạn mở đầu giới thiệu về cuộc sống của Mị khi được gả vào nhà thống lý Pá Tra.

B. Thân bài

– Giới thiệu về nhân vật

+ Mị là một cô gái xinh đẹp, giỏi giang. 

+ Mị còn có tài thổi sáo rất hay

+ Nhưng cuộc sống không như Mị mong muốn, vì nợ nhà thống lí Pá Tra nên cha đã gả MỊ làm con dâu cho nhà thống lí.

+ Từ đó cuộc sống của Mị đã thay đổi.

– Phân tích

+ Mở đầu là hình ảnh thường thấy của người con dâu gạt nợ. Mị làm việc vất vả từ sáng đến đêm. Công việc chồng chất, quanh năm suốt tháng không lúc nào hết việc. Mị coi mình là ” thân trâu nhựa” chỉ có làm và ăn. Trái ngược hoàn toàn với cuộc sống trước đây của Mị – xinh đẹp, giỏi giang nhưng được tự do. Nhà thống lí đã bóc lột sức lao động của Mị, trên danh nghĩa là làm con dâu gán nợ nhưng thực chất chỉ là một nô lệ được mua về để làm việc.

+ Mị không chỉ mệt mỏi về thể xác mà con mệt mỏi cả về tinh thần. Lúc nào Mị cũng ” lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” không còn những rạo rực yêu đương, hay những thú vui như thổi sáo nữa. Mà bây giờ MỊ chị biết im lặng để làm việc cho qua ngày. 

+ Sức sống của Mị dường như đã không còn nữa, không còn khát vọng hạnh phúc.

+ Qua đây tác giả Tô Hoài đã lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến nơi đây. Nhưng qua đó cũng cảm thông sâu sắc cho số phận của Mị

C. Kết bài

– Đánh giá chung

– Nêu cảm nghĩ

Chia sẻ bạn những bài 💛 Thơ Về Hoa Ngọc Lan 💛 Hay Nhất

4+ Mẫu Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Qua Đoạn Trích Ai Ở Xa Về

Tổng hợp cho bạn 4+ mẫu cảm nhận về nhân vật Mị qua đoạn trích Ai ở xa về hay nhất mà chúng tôi đã chọn lọc dưới đây.

Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Qua Đoạn Trích Ai Ở Xa Về Nâng Cao

Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là một hình ảnh điển hình của người dân tộc miền núi Tây Bắc khi phải chịu sự áp bức bóc lột tàn ác của giai cấp phong kiến.

Đặc biệt trong đoạn văn mở đầu hình ảnh này được khắc họa rõ nét nhất: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa… Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi.”

Giọng văn đượm buồn mở đầu tác phẩm đã miêu tả rõ nét chân dung người con dâu gắn nợ – Mị của nhà thống lí Pá Tra. Mị xuất hiện với sự u uất và cô đơn giữa đông vui nhộn nhịp của nhà thống lí.

Mị chỉ ngồi lặng im “Quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Việc quay sợi của cô gái không có gì à quá nặng nề nhưng lại mang lại cảm giác rất nặng nề, u tối và không có sức sống. Nhà văn tiếp tục nhìn nhân vật cận cảnh: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” 

Nhân vật Mị được miêu tả với vẻ mặt “cúi” xuống và “buồn rười rượi”. Trên khuôn mặt là sự buồn tủi, lạnh lẽo, thậm chí là sự vô cảm của tâm hồn.

Trong những câu văn tiếp theo: “nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải là con gái nhà Pá Tra: Cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra“, Như vậy có thể thấy tác giả giả sử dụng hình ảnh đối lập để làm nổi bật lên hình ảnh của nhân vật Mị.

Trái ngược với sự giàu có, tấp nập trong nhà thống lí là sự cô độc, lẻ loi của Mị. Cách giới thiệu nhân vật của tác giả khiến cho người đọc muốn biết vì sao Mị lại có khuôn mặt u uất ấy

Từ đó tác giả dẫn dắt người đọc về quá khứ của Mị. Mị lấy A Sử vì món nợ truyền kiếp từ đời bố mẹ Mị. Thâm chí kể cả mẹ Mị chết, nợ thì vẫn còn. Và cái nợ ấy đã đè lên vai Mị kiến Mị về làm dâu gạt nợ.

Và đứng trước tình cảnh ấyMị đã phản kháng: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Có phải Mị phần nào thấu hiểu cảnh cơ cực của kiếp làm dâu nhà giàu chăng?.

Câu nói ấy của nhân vật Mị thể hiện tinh thần phản kháng và niềm khát khao cuộc sống tự do. Mị chấp nhận làm nương cực nhọc còn hơn làm dâu con, buộc mình vào kiếp nô lệ. Đó là lựa chọn đúng đắn của con người ý thức được giá trị của tình yêu, cuộc sống.

Tuy nhiên, sự phản kháng của nhân vật Mị là vô ích. Trong không khí khung cảnh mùa xuân tưng bừng thì tai họa ập đến với Mị. Đêm hôm ấy, Mị nghe “tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón tay thấy có đeo nhẫn.

Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra.” Đoạn văn cho thấy, trái tim Mị cũng bồi hồi nhịp đập của tình yêu.Tuy nhiên đó lại là cái bẫy của những kẻ muốn bắt nàng về ngựa trâu cho chúng. Mị buộc phải làm dâu nhà thống lí “không thể nào khác được”.

Nhân vật Mị không chỉ là nạn nhân của vấn nạn cho vay lãi, mà còn là nạn nhân của hủ tục “cướp vợ” tồn tại bao đời ở miền núi Tây Bắc. Mị trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống lí nhưng thân phận chắc khác gì kẻ ở. Mị bị bóc lột về thể xác lẫn tinh thần, từ một cô gái yêu đời, trở thành một người đàn bà vô hồn.

Đoạn trích được tác giả sử dụng nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ kể chuyện mang phong vị miền núi. Nhân vật Mị không chỉ được miêu tả qua dáng vẻ, hành động mà còn được khắc nét bởi những đồ vật, sự vật đầy sức gợi. Điểm nhìn của câu chuyện từ xa đến tiến gần sau đó đi sâu vào bên trong nhân vật.

Đây không chỉ là câu chuyện của riêng Mị mà còn là câu chuyện của những con người lao động vùng Tây Bắc. Ở nơi đó, giai cấp thống trị luôn đọa đày thể xác lẫn tinh thần của những con người ấy.

Không những vậy, người đọc còn cảm nhận sự cảm thông của nhà văn dành cho Mị và những người dân Tây Bắc nói chung. Đó là tiền đề để nhà văn ca ngợi, khẳng định sức sống, sự phản kháng dữ dội của họ ở phần sau của truyện.

Bạn xem thêm 💚 Bài Thơ Đi Đường 💚 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Qua Đoạn Trích Ai Ở Xa Về Ngắn Gọn

Trong các tác phẩm văn học Việt Nam cũng như văn học thế giới, hình tượng người phụ nữ trong mỗi tác phẩm lại mang một câu chuyện riêng và những giá trị khác biệt. Nếu như số phận của nàng Kiều là sự tài hoa và bạc mệnh thì Hồ Xuân Hương tuy sắc sảo mặn mà nhưng vẫn cô đơn lạnh lẽo còn cuộc đời chị Dậu là một đêm tối dày đặc không tìm thấy lối thoát.

Nhưng đến với Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài ta gặp được nhân vật Mị mang một sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.

Mị trong “Vợ chồng A Phủ” là cô gái vừa xinh đẹp như bông hoa rừng lại vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những phẩm chất tốt đẹp mà Mị có, nếu sống trong một xã hội bình thường chắc chắn Mị sẽ được sống những tháng ngày an yên, hạnh phúc.

Nhưng không, vì nghèo, vì món nợ ngày xưa bố mẹ Mị vay nhà thống lí Pá Tra cùng với phong tục hôn nhân kì lạ của người Mông mà Mị trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống lí, vợ của A Sử. Trên danh nghĩa là dâu, nhưng thực tế Mị lại là con ở không công nhà thống lí.

Tại ngôi nhà quyền lực mà u ám này, Mị bị bóc lột sức lao động, bị đầu độc tâm hồn bởi thần quyền và cường quyền, dần dần Mị đã đánh mất chính mình, cô gái xinh đẹp yêu đời năm nào phải ngậm ngùi sống kiếp người đội lốt “con rùa nuôi trong xó cửa”.

Về làm vợ A Sử, con dâu thống lí Pá Tra ít lâu, Mị đã quen dần với cái khổ, từ một cô gái tràn đầy sức sống, khao khát yêu thương bỗng chai sạn tâm hồn, mất nhận thức về thời gian, không gian, cả nỗi khổ mà mình đang gánh chịu.

Ở đoạn văn thứ nhất, Tô Hoài đưa người đọc vào không gian mà cô Mị đang sống: khổ cực, tăm tối. Ngay từ những dòng văn đầu, nhà văn đã để lại ấn tượng về khoảng thời gian mà Mị đã sống trong nhà thống lí: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”, chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Đó là quãng thời gian mà Mị nếm trải khổ đau, nếm trải sự xói mòn trong tâm hồn của mình.

“Mấy năm” là bao nhiêu năm? Bao nhiêu năm đã chầm chậm trôi qua mà Mị không hề nhớ rõ bởi bấy giờ Mị có còn biết khổ đau, bất hạnh, cơ cực là gì nữa đâu? Cái khoảng thời gian không xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi mà ngẫm lại đớn đau khó tả.

Hóa ra Mị đã về làm dâu nhà thống lí “Mấy năm” rồi, “bố Mị” – người thân duy nhất của Mị cũng đã bỏ Mị mà đi, còn Mị thì đương sống trong tình trạng sống không ra sống mà chết thì Mị chưa nghĩ đến. Nếu ngày trước Mị đã từng có ý định ăn lá ngón tự tử vì không chịu đựng được nỗi khổ đau thì giờ phút này “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”.

Lá ngón – một loài lá độc mọc dại ở miền núi cao Tây Bắc – khi đi vào văn chương lại trở thành một chi tiết nghệ thuật nói lên thật nhiều thân phận con người.

Phải khổ đau, uất ức lắm người ta mới tìm đến lá ngón để mưu sinh. Lúc trước Mị định ăn lá ngón để chết, để khỏi phải đối mặt với những cơ khổ và bạo tàn nhà thống lí Pá Tra. Khi Mị muốn chết là lúc khát vọng được sống đúng nghĩa dâng trào. Còn bây giờ… “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”, nghĩa là Mị chấp nhận khổ đau, cam chịu cảnh sống cực hơn là chết nhà thống lí. Mị không muốn chết bởi Mị đã chai lì, bởi Mị đã “quen khổ rồi”.

Môi trường độc địa ấy đã ngấm vào trong Mị, cái khổ đã đồng hóa Mị, khiến Mị quen dần và không một biểu hiện phản kháng. Ngay cả Mị cũng “tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, câu văn chất chứa nỗi xót xa cùng cực của Tô Hoài dành cho nhân vật của mình. Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận “trâu ngựa”.

Con trâu con ngựa suốt tháng suốt năm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Mị cũng thế, từ hồi về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương “bẻ bắp”, “hái củi”, “bung ngô”, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.

Vậy có khác nào con ngựa, con trâu? Con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm” chứ đâu than khổ than cực?! Cô Mị cũng vậy, Mị tất bật với bao nhiêu công việc không lúc nào ngơi tay mà Mị đâu có lời nào vãn than. “Quen khổ”, cái thói quen ấy mới thật khắc khoải làm sao.

Đoạn văn thứ nhất đã mở ra thân phận cam chịu, tủi nhục của Mị. Người đàn bà ấy đã gồng gánh gian lao đi qua cơ cực mỏi mòn mà chẳng biết nặng là gì. Rõ là cái xã hội ấy thật bất nhơn, nó tước đoạt đi quyền hạnh phúc, đồng thời cắt đứt mạch sống của người con gái đương phơi phới xuân thì.

Bằng giọng văn mềm mại cùng lối kể chuyện hấp dẫn, Tô Hoài đã đưa người đọc vào thế giới Hồng Ngài xinh đẹp mà u buồn, ở đó có bóng dáng cô Mị sống lầm lũi, bĩ cực đang lao đao đi tìm lẽ sống cho riêng mình.

Nhà văn đã phát huy biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế để từ đó nhân vật của ông sống dậy, vùng vẫy, run rẩy phập phồng trên trang văn dày đặt ngôn từ. Trên hết vẫn là tư tưởng nhân đạo cao quý mà Tô Hoài đã gửi gắm.

Đón đọc thêm ❤️️ Thơ Xuân Quỳnh ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay Nhất

Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Qua Đoạn Trích Ai Ở Xa Về Chi Tiết

Tô Hoài có rất nhiều tác phẩm viết về con người và vùng đất Tây Bắc, trong đó Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất. Vợ chồng A Phủ viết về đôi vợ chồng người H’Mông, về cuộc sống và số phận con người đất Hồng Ngài dưới ách thống trị của cường quyền và thần quyền. Trong tác phẩm này, nhà văn Tô Hoài đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị- người phụ nữ bất hạnh bị buộc trở thành người con dâu trừ nợ nhà thống lí.

Theo chân nhà văn bước vào tác phẩm, ta bước vào cuộc sống của Mi – một người con gái của dân tộc H’Mông nơi đây. Mị trước khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra có một cuộc sống rất yên bình như những người con gái khác. Mị xinh đẹp, có tài thổi sáo được nhiều chàng trai ngưỡng mộ. Mị còn là một người con hiếu thảo, một cô gái giỏi lao động.

Đến tuổi cập kê, Mị được rất nhiều chàng trai theo đuổi, không chỉ vì cô rất xinh đẹp, chăm chỉ làm lụng mà còn thổi sáo rất hay “Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo… Bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”.

Nhà Mị nghèo, cha mẹ ngày xưa lấy nhau phải vay bạc của nhà thống lý Pá Tra. Đến khi mẹ cô chết, nợ vẫn chưa trả được, vậy nên, Mị đã thay cha mẹ gánh việc nương rẫy để trả nợ cho nhà thống lý. Cô quả là một người con rất hiếu thảo!

Thế nhưng, mỗi năm “phải trả một nương ngô cho người ta” mà bao nhiêu năm vẫn chưa hết nợ, thống lí Pá Tra đã bảo với cha Mị rằng:”cho tao đứa con gái này về làm dâu, thì tao xoá hết nợ cho” và rồi xảy ra sự việc A Sử đến giả làm người yêu Mị bắt Mị về nhà hắn. Mị trở thành “con dâu gạt nợ” của nhà thống lí và bắt đầu những chuỗi ngày khổ cực, đày đọa cả thể xác và tinh thần.

Sau đêm hôm ấy, Mị chính thức trở thành con dâu nhà thống lý Pá Tra. Mang danh là con dâu nhà giàu thế nhưng cuộc sống của Mị lại chẳng khác gì kẻ tôi tớ, cả năm cả tháng Mị phải làm quần quật như con trâu con ngựa trong nhà. Mị phải làm việc không ngơi tay “Tết xong lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tưới sợi”, “con ngựa con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả ngày lẫn đêm”.

Cuộc sống đày đọa về thể xác quanh năm suốt tháng khiến Mị trở nên lầm lũi “mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “ở lâu trong khổ, Mị quen khổ rồi”. Cùng với sự áp bức về tinh thần đã biến Mị từ một cô gái xinh đẹp, yêu đời trở nên chai lì về cảm xúc. Từ ngày bị A Sử bắt về “cúng trình ma”, Mị đã cay đắng nghĩ rằng mình đã trở thành người nhà thống lí “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Chế độ thần quyền tại Hồng Ngài đã gián tiếp đẩy một cô gái như Mị trở nên tê liệt, trở thành một người không còn suy nghĩ, sức sống hay cảm xúc.

Không chỉ thế, Mị còn là nạn nhân của chế độ cường quyền tàn ác mà đại diện ở đây là cha con thống lí Pá Tra, chúng đã cướp đi tất cả hạnh phúc, tình yêu của cuộc đời Mị, biến Mị trở thành một kẻ nô lệ không công cho nhà hắn.

Còn A Sử, Mị mang danh là vợ của hắn, thế nhưng, hắn đối xử với cô chẳng khác gì một kẻ người ở, một người nô lệ, bởi hắn chưa từng cho Mị đi chơi dù là mùa xuân lễ hội “chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết”. Trong đêm tình mùa xuân, khi tiếng sáo réo rắt cất lên ở nẻo xa, tâm hồn Mị chợt dạt dào những kỉ niệm về ngày trước, khi cô còn được sống trong tự do và hạnh phúc. Mị uống rượu và muốn được đi chơi Tết “Mị còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, thế nhưng, A Sử khi biết được ý định của Mị, đã tàn nhẫn “xách một thúng sợi đay ra trói Mị vào cột nhà”, “quấn luôn tóc Mị lên cột, Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”.

Mị sống trong nhà thống lý bị tước đoạt sự tự do, tước đoạt của niềm vui, tình yêu và hạnh phúc của đời Mị. Nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần đã khiến Mị trở nên tê liệt, trở nên chai lì cảm xúc, trở thành một cái xác không hồn “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”, “Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi”.

Năm tháng ở nhà thống lí, Mị không còn thấy khổ, không còn biết đau nữa, cũng không còn biết tự do là gì, yêu thương là gì. Và cái buồng nơi Mị nằm trở thành cái địa ngục trần gian giam giữ không chỉ thể xác mà còn là tâm hồn của Mị, mà Mị nghĩ phải đến lúc chết, cô mới được giải thoát.

Cực khổ là thế, bị đàn áp, áp bức đến tê liệt là thế, những tưởng tất cả khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Mị đã bị vùi dập, dập tắt hết. Nhưng không, cái sức sống ấy nó ẩn mình tiềm tàng trong con người Mị và chợt bùng cháy lên thật mạnh mẽ trong đêm tình mùa xuân và trong đêm Mị giải cứu A Phủ.

Khi tiếng sáo gọi bạn trong đêm hội mùa xuân Hồng Ngài cất lên cùng với tiếng người cười nói, tiếng kèn, tiếng pao, lòng Mị đã dập dìu. Mị uống rượu để được say, để được quên đi nhưng “lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo ấy như đánh thức cái khát khao tự do đang ngủ vùi trong sâu thẳm Mị sống dậy để Mị chợt thấy “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra rằng “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.

Đây là khát vọng sống và sự phản kháng đầu tiên của Mị từ khi bước chân vào nhà thống lý. Mị muốn được tự do, muốn được giải thoát “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.

Khát vọng sống, khát vọng tự do cứ theo tiếng sáo dập dìu bay đến bên Mị “trong đầu Mị đang dập dờn tiếng sáo”, và Mị muốn được ra ngoài, muốn được đi chơi như “bao nhiêu người có chồng” khác. Vậy nên, “Mị quấn tóc lại. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách” để chuẩn bị đi chơi.

Ý thức cuộc sống đã trở về với Mị rồi! Khao khát sống, tự do, vui tươi bùng cháy mạnh mẽ trong lòng Mị. Dù bị A Sử bắt đứng trói cột không cho đi chơi, nhưng tâm hồn cô đã thoát lên, đi theo những tiếng sáo gọi bạn rồi “Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, mị nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”.

Tiếng sáo ngày xuân đã đánh thức khát vọng sống tiềm tàng trong con người Mị. Tiếng sáo đã làm nó bùng cháy lên thật mãnh liệt, đã thôi thúc Mị có những phản kháng đầu tiên của một con người có xúc cảm. Tiếng sáo ấy cũng đã thổi bùng lên khát vọng tự do trong cô, đánh thức cảm xúc, ý thức về cuộc sống trong con người cô “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Thế nhưng, sau đêm tình đó, Mị lại trở về những ngày trước, lại sống vô hồn, lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”. Liệu có ai nghĩ rằng Mị sẽ có ngày vùng lên mà thoát khỏi sự áp bức, thoát khỏi địa ngục trần gian này chăng?

Sự kiện A Phủ đánh mất bò, bị đánh rồi bị trói đứng vào cột làm xôn xao cả bản. Thế nhưng, điều đó dường như chẳng làm ảnh hưởng gì tới Mi và cuộc sống của cô. Cô vẫn lầm lũi như thế, “thản nhiên thổi lửa, hơ tay” như mọi ngày. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết ở đấy, cũng thế thôi”. Mị không có xúc cảm, không còn thương xót cho một con người đau khổ, đáng thương như thế bởi cảm xúc trong cô đã chai lì, đã tê liệt rồi!

Thế nhưng, cảm xúc trong Mị chợt ùa về chỉ khi Mị nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ. Mị chợt nhớ về đêm tình năm trước, khi cô cũng bị A Sử bắt trói đứng như thế “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Một cảm giác thương xót chợt len lỏi cháy lên trong lòng cô. Mị thương cảm cho số phận của A Phủ, cô đồng cảm bởi cô biết sự đau đớn mà A Phủ đang phải trải qua “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. … chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người kia phải chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia việc gì phải chết”.

Mị thương cảm cho A Phủ, cô miên man trong dòng nghĩ ngợi, cô nghĩ A Phủ biết đâu có thể trốn được và thống lí Pá Tra sẽ cho rằng cô là người thả A Phủ đi rồi “Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy”. Nỗi sợ hãi bùng lên trong lòng cô, thế nhưng, sự thương xót và đồng cảm đã chiến thắng sự sợ hãi, cô “rón rén bước lại”, “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”, “gỡ hết dây trói trên người A Phủ” và “thì thào được một tiếng: Đi đi”. Mị đã giải thoát cho A Phủ, cho một con người bị áp bức như Mị được trở lại với tự do.

Thế nhưng, khi nghe tiếng bước chân của A Phủ “quật sức vùng lên, chạy”, “mị đứng lặng trong bóng tối”. Khát vọng sống chợt bùng lên mạnh mẽ trong lòng cô, thôi thúc bước chân cô chạy “băng đi” theo A Phủ. Mị sợ cái chết, Mị muốn được sống, Mị muốn được tự do và hạnh phúc, vậy nên Mị đã băng theo A Phủ và “thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: A Phủ cho … ở đây chết mất”.

Mị đã chạy thoát khỏi địa ngục trần gian giam cầm thể xác và tâm hồn Mị, thoát khỏi những áp bức nô lệ của những kẻ cầm quyền. Hai con người đau khổ dìu nhau bước đi trong bóng tối, băng qua rừng trong đêm lạnh. Hành động cắt dây trói giải thoát cho A Phủ của Mị, cũng là hành động cắt dây trói giải thoát cho chính bản thân mình của cô, thoát khỏi kiếp sống đày đọa, khổ cực. Chính khát vọng sống, tự do đã giúp cô làm được điều đó.

Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Mị, đặc biệt là khi miêu tả những diễn biến tâm lý phức tạp của cô. Ông đã dẫn dắt cho người đọc thấy tâm lý của Mị từ những ngày cô còn được tự do đến khi bị đày đọa trong nhà thống lý rồi đến khi vùng lên giải thoát cho bản thân. Tất cả đều được miêu tả rất xuất sắc. Ông còn tái hiện được những phong tục của con người ở vùng núi Tây Bắc rất chân thực.

Tình huống truyện được xây dựng rất đặc sắc, là bức tranh sống động về chế độ cầm quyền tàn bạo, độc ác của vùng núi Tây Bắc. Nhưng qua đó, làm hiện lên khát vọng sống mạnh mẽ, tiềm tàng của những con người nơi đây.

Nhà văn đã xây dựng hình tượng nhân vật Mị vô cùng xuất sắc. Không chỉ mang tới bức tranh về cuộc sống bị áp bức của những số phận con người nhỏ bé vùng Tây Bắc mà còn vạch trần bộ mặt ác độc của bọn cầm quyền ở đó. Đồng thời Tô Hoài cũng phát hiện ra những phẩm chất cao đẹp và sức sống tiềm tàng của những con người nơi đây. Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực đều được tái hiện rất xuất sắc thông qua hình tượng nhân vật Mị.

Tuyển tập ❤️️ Thơ Hồ Chí Minh ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Phân Tích Đoạn Trích Ai Ở Xa Về Hay Nhất

Trong văn xuôi hiện đại Việt Nam ở thế kỷ XX thì đề tài miền núi khá là được chú ý. Dù chủ đề cũ nhưng nhà văn luôn có cách khai thác vấn đề rất sâu, làm bật lên hình ảnh nhân vật. Mỗi nhà văn sẽ có những cái nhìn khác nhau và Tô Hoài đã thể hiện sự đồng cảm trước thân phận khổ đau của người dân miền núi, đặc biệt là phụ nữ. Điển hình trong tác phẩm này là Mị của Tô Hoài sẽ khác với những nhà văn khác, đó là một điểm riêng ở Tô Hoài.

Trong Vợ Chồng A Phủ, nhân vật Mị được khắc họa lên là một cô gái có số phận éo le, tủi phận nhưng phẩm chất đẹp vô cùng. Cô gái đẹp người Mèo này sống trong thời đại phong kiến đầy rẫy những phong tục vô lí, áp bức. Bố mẹ Mị khất nợ nên Mị chính là người bị bắt để trả món nợ này, chủ nợ là Thống lí Pá Tra đòi bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây bao đau thương, tủi nhục của cô gái này bắt đầu xảy ra, mang danh là về làm dâu nhưng thực chất là nô lệ cho nhà thống lí. Mị trở thành một cô gái vô cảm trước mọi thứ, tê liệt ý thức, sống mà như không sống chính vì những thói áp đặt, vũ phu đánh đập, tra tấn tàn bạo khiến Mị đau khổ không nói nên lời, cuộc sống từng phút giây như đày đọa.

Từ khi cuộc sống của Mị bị cuồng chân trong nhà Thống Lí thì những giấc mơ của Mị tan biến, phai mờ dần trong tâm trí và cô ngày ngày phục vụ không công còn bị đối xử tàn ác. Khi làm dâu nhà giàu những tưởng Mị sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy nhưng không phải, tất cả chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Mị ngày qua ngày lầm lũi trong bếp, nơi xó cửa làm việc quần quật từ sáng đến khuya. Năm này qua năm khác Mị chỉ quanh quẩn trong căn phòng mờ tối, một chút ánh sáng lọt qua khe cửa sổ bé tí chẳng biết là sương hay khói.

Dù rằng bên ngoài thấy Mị mặc kệ trước mọi thứ nhưng sâu thẳm trong tâm hồn của cô gái trẻ này vẫn luôn âm ỉ một khát khao cháy bỏng được tự do, được sống là chính mình, cuộc sống của riêng cô. Lòng ước muốn ấy nó như lớp lửa nhỏ âm ỉ trong lớp tro tàn kia, chỉ cần một làn gió thổi qua sẽ khiến nó bùng thật mạnh mẽ. Chính vì bị ép vào đường cùng, thương và hiếu thảo với cha mẹ nên Mị phải hi sinh bản thân để cứu gia đình nên cô đành sống khiếp người đen tối, đau khổ.

Đêm mùa xuân năm ấy lại đến rộn ràng, náo nức khắp đất trời với tiếng nhảy múa, ca hát, thổi sáo hòa trong bản giao hưởng thiên nhiên. Lúc này ở trong nhà nghe vọng vào, Mị không còn lầm lì trong cảm xúc chai sạn nữa, cảm xúc được đánh thức trở lại. Tiếng sáo vang lên trong đầu Mị những giai điệu vui tươi, Mị nhẩm bài hát nhớ về những tháng ngày đẹp đẽ đã từng có. Không chịu đựng Mị lấy rượu uống ừng ực để quên đi bao sầu đau, tủi hờn.

Khi đó Mị như thấy mình trẻ lại, Mị vui lắm hừng hực sức sống trở lại và Mị vùng lên sửa soạn đi chơi. Thế nhưng mọi thứ đang dang dở thì A Sử phát hiện và trói Mị vào cột. Lúc này cơn đau từ tâm hồn đến thể xác trỗi dậy. Mị khao khát được đi chơi nhưng A Sử đã dập tắt, bóp chết khát khao mong manh kia.

Một lần nữa sức sống trong Mị trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thấy A Phủ – một tôi tớ cho Thống Lí đang bị trói. Nước mắt của A Phủ rơi xuống thức tỉnh Mị phải vùng dậy đòi lấy quyền được sống, được yêu thương, tự do cho chính mình. Thế là Mị đã cùng A Phủ trốn thoát tìm lấy cuộc sống tự do của riêng họ.

Tô Hoài đã rất tài tình trong nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Mị. Chính ngòi bút tinh tường ấy đã dẫn lối người đọc len lỏi vào trong tâm hồn, cảm xúc của Mị, nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của cô gái này.

Cập nhật thêm cho bạn bài thơ 💛 Dục Thúy Sơn Nguyễn Trãi 💛 Nội Dung, Đọc Hiểu, Phân Tích

Viết một bình luận